
Lời mở: Trong cuốn hồi ký mang tên “Giữ trong nguồn sáng” xuất bản năm 2008 tại
Mỹ viết về ông Morrison và chuyến thăm “để đời” của gia đình đến Việt Nam, bà Ann
Welsh Morrison đã ghi lại những cảm xúc về cuộc gặp với nhà thơ Tố Hữu, trong đó
có chi tiết "nhà thơ Tố Hữu rất xúc động, lấy một trang giấy gấp tư trong túi ngực,
trong đó ghi một bài thơ viết tay và đọc tặng gia đình Morrison:
Tạm biệt
Xin tạm biệt đời yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ một nắm tro
Thơ gửi bạn đường, tro gửi đất,
Sống là cho và chết cũng là cho
Phải chăng, đó cũng là tâm nguyện của một người trọn đời đã hiến dâng cho tổ quốc,
cho Đảng và nhân dân? Từ những vần thơ đầu tiên của Tố Hữu các em được đọc thời
tiểu học- bài tập đọc lớp 3 tiếng ru: Con ong làm mật yêu hoa… đến hình ảnh đáng
yêu của chú bé Lượm (lớp 6); cảm giác ngột ngạt của người chiến sĩ khi bị giam cầm:
Khi con tu hú (lớp 8); rồi đến giây phút cảm động trong Từ ấy, nỗi cô đơn và khao
khát trong Nhớ đồng (lớp 11) (5 bài)…ta vẫn gặp một điệu tâm hồn ấy với những ngọt
ngào thương mến, những tha thiết ân tình với đất nước nhân dân, những hờn căm nóng
bỏng trước quân thù. Ngày 9-12-2002, con người mà cuộc đời là sống cũng là cho và
chết cũng là cho đã ra đi trong niềm tiếc thương của đất nước. Chỉ vài ngày sau khi Tố
Hữu mất, trên báo Văn nghệ số 50 (2239) Nguyễn Đình Thi đã nhận định về thơ anh:
"Trọn đời, Tố Hữu là một chiến sĩ cách mạng làm thơ và là nhà thơ của cách mạng
{...}. Và trong lửa của thơ anh, có biết bao thương yêu dịu dàng đối với đất nước quê
hương và những con người của đất nước quê hương. Từ cuộc sống hiện đại, thơ anh
ngày càng bắt nguồn trở lại vào tâm hồn thơ cổ điển của dân tộc".
I-Tìm hiểu chung
1. Tác giả:
- 1920-2002
- Trong suốt nhiều thập kỉ từ những năm 1930 – 1970, Tố Hữu luôn được coi là lá cờ
đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Tố Hữu sáng tác đều đặn, rất thành công và có
thể coi là bám sát nhất những nhiệm vụ cách mạng của dân tộc ta và cũng là nhà thơ
được đón đợi, mến mộ nhất trong thời gian ấy. Với 5 tập thơ tương ứng với những giai
VIỆT BẮC
Tố Hữu

2
Thuvientoan.net
đoạn cách mạng quan trọng của dân tộc ta: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và
hoa, thơ
2. Tác phẩm
2.1. Thể thơ: truyền thống của dân tộc: lục bát
2.2. Hoàn cảnh sáng tác
- Việt Bắc là khu căn cứ của cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
- Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7/1954, hiệp định Giơ-ne-vơ về
Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc được giải phóng và đi lên xây
dựng CNXH một trang sử mới của đất nước mở ra.
- Tháng 10/1954, TW Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về Hà Nội, những người kháng
chiến (trong đó có Tác giả Tố Hữu) từ căn cứ miền núi về miền xuôi chia tay Việt Bắc,
chia tay khu căn cứ Cách mạng trong kháng chiến. Nhân sự kiện có tính lịch sử này Tố
Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc” Bài thơ “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ ca kháng
chiến chống Pháp.
2.3. Nội dung chính
- Tái hiện những kỉ niệm Cách mạng, kháng chiến. Khẳng định, ca ngợi vẻ đẹp của
thiên nhiên, con người Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp.
+ Thiên nhiên Việt Bắc vừa nên thơ, trữ tình vừa hùng vĩ, tráng lệ.
+ Con người Việt Bắc hăng say lao động, sâu nặng ân tình với cách mạng, kháng
chiến.
- Gợi viễn cảnh tươi sáng của đất nước, ca ngợi công lao của Đảng và Bác Hồ trong
kháng chiến chống Pháp.
- Thể hiện tình cảm của Tố Hữu đối với quê hương Cách mạng Việt Bắc: yêu mến,
gắn bó, tự hào về truyền thống cao đẹp của dân tộc, đất nước. Việt Bắc là khúc hùng
ca, tình ca về Cách mạng, về kháng chiến, về những con người trong kháng chiến
chống Pháp.
2.3. Kết cấu bài thơ: theo khuôn mẫu của lối đối đáp trong ca dao.
II. Đọc hiểu văn bản
Đoạn 1: Cảnh chia tay giữa “mình” và “ta”
“Mình và Ta không phải dùng cho ngôi thứ nhất hay thứ hai, không phải một từ chỉ
chủ thể, một từ chỉ khách thể, mà cả hai đều chỉ chủ thể. Tôi nhắc lại: mình và ta đều
chỉ chủ thể. Mình ấy ta ấy là một phần đời sống mà thi sĩ đã trải qua bao nhiêu năm ở
Việt Bắc. Phần đời này trò chuyện quyến luyến với phần đời kia. Cho nên cuộc chia
tay không diễn ra bình thường mà diễn ra trong máu thịt, trong tâm hồn nhà thơ. Sự
chia li bản thân mình là một sự chia li khó khăn nhất và tha thiết nhất, đắm đuối nhất”
(Tác giả nói về tác phẩm - NXB Trẻ - 2000, tr.147)

3
Thuvientoan.net
- Bài thơ mở ra cảnh chia tay với tâm trạng bịn rịn, bâng khuâng, lưu luyến của hai
người từng gắn bó sâu nặng, bền lâu. Người ở lại lên tiếng trước…
- Lời hỏi của người ở lại đã khơi dậy cả quá khứ đầy ắp nhớ thương gắn liền với
những kỉ niệm…Người ra đi cũng có tâm trạng như người ở lại nên nỗi nhớ không chỉ
hướng về người ở lại mà còn là nỗi nhớ về chính mình. Bằng việc sáng tạo một tình
huống trữ tình đặc biệt để bộc lộ cảm xúc, tình cảm dạt dào, bằng kết cấu theo lối quen
thuộc của ca dao, dân ca, Tố Hữu đã dẫn người đọc vào không khí của ân tình ân
nghĩa, của hồi tưởng và hoài niệm, của ước vọng và tin tưởng.
Mình về mình có nhớ ta...............Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
* Bốn câu thơ mở đầu là lời người ở lại
- Đoạn thơ thể hiện rõ tình cảm của “ta” khi đưa tiễn. Người ở lại hỏi người cách mạng
về xuôi: Mình về mình có nhớ ta .....Mình về mình có nhớ không
- Trong “Ta” (người ở lại) ở đây như có ảnh hình người Việt Bắc, một cô gái Việt Bắc,
có thể là đồng bào Việt Bắc’; “mình” ở đây là người cán bộ Cách mạng, là anh bộ đội
Cụ Hồ.
- Bốn câu thơ mở đầu cất lên thật tha thiết bồi hồi, cảm xúc được nén lại trong lòng
bỗng ùa dậy và trào lên. “Ta” hỏi “mình” hay ta đang hỏi lòng ta trong buổi phân li ấy.
Lời hỏi da diết của người ở lại gợi lại trong lòng người ở, người đi kỉ niệm 15 năm gắn
bó. Tình nghĩa giữa “ta” với “ mình” không phải là ngày một ngày hai mà đã giao hòa,
gắn kết “ thiết tha”, “mặn nồng” trong suốt 15 năm trời kể từ ngày khởi nghĩa Bắc Sơn
(năm 1940 ) đến ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng (năm 1954).
- Lời hỏi tha thiết của người ở lại cũng chính là lời gợi nhớ những kỉ niệm giữa Việt
Bắc và người Cách mạng trong 15 năm qua. 15 năm trong kháng chiến nhiều gian lao,
vất vả càng sâu nặng ân tình.
Cảnh còn đấy nhưng người đã đi xa, người cách mạng phải về xuôi theo yêu cầu của
nhiệm vụ, người ở lại nhớ nhung tha thiết,... Câu hỏi tu từ của người ở khi đưa tiễn
người đi mở ra một chân trời thương nhớ. Suy cho cùng, cảm xúc nhớ nhung da diết
ấy chính là biểu hiện của tình cảm sâu nặng mà người Việt Bắc dành cho người Cách
mạng.
* Bốn câu thơ tiếp theo gợi tả không gian nghệ thuật, tâm trạng của người đi kẻ ở
trong buổi chia tay.
- Tiếng hát của ai tha thiết cất lên bên cồn hay chính tiếng lòng tha thiết của người
Việt Bắc làm cho người ra đi thật sự xúc động.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Tố Hữu thật tài tình, khéo léo khi sử dụng hai từ láy diễn tả tâm trạng trong một câu
thơ: bâng khuâng, bồn chồn. Tình cảm của người Cách mạng và người Việt Bắc trong

4
Thuvientoan.net
15 năm kháng chiến thật sâu sắc, vì thế khi chia tay càng bịn rịn, luyến lưu. Người
cách mạng phải về xuôi vì nhiệm vụ mới khi cuộc chiến kết thúc, nhưng chia tay Việt
Bắc sao mà khó đến thế! Chân bước đi mà lòng không muốn đi.
- Cảnh chia tay giữa người Việt Bắc và người Cách mạng được tác giả tái hiện lại thật
xúc động qua hai câu:
Áo chàm đưa buổi phân li...
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Áo chàm là hình ảnh hoán dụ, chỉ người Việt Bắc. “Áo chàm đưa buổi phân li” là
người Việt Bắc đi đưa tiễn người cách mạng. Trong giờ khắc chia ta đầy lưu luyến, bịn
rịn, tấm chân tình của kẻ ở người đi gửi qua cái bắt tay, bắt tay để chia tay. Họ “Cầm
tay nhau biết nói gì hôm nay...”, họ không biết nói gì không phải không có gì để nói,
phải chăng điều muốn nói quá nhiều, kỉ niệm quá nhiều, ân tình sâu sắc quá nên không
thể nào nói hết, diễn tả hết. Vì thế mà họ chỉ biết gửi tất cả qua cái bắt tay mà lòng
nghẹn ngào.
Cảnh chia tay thật bịn rịn, lưu luyến thể hiện tình cảm sâu nặng giữa người cách mạng
và người Việt Bắc.
- Đoạn thơ còn là thành công của tác giả ở nghệ thuật thể hiện:
+ Thể thơ lục bát của dân tộc rất phù hợp với việc diễn tả tình cảm.
+ Lời thơ là lời hỏi – gợi nhớ với giọng điệu tha thiết, tâm tình.
+ Cách xưng hô ta – mình thân thiết, gần gũi, đậm phong vị ca dao.
+ Điệp từ “nhớ” nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ thể hiện tình cảm sâu nặng.
Đoạn thơ mở đầu đã diễn tả thành công cảnh chia tay thật bịn rịn, lưu luyến giữa người
Việt Bắc và người cách mạng. Cái tài của Tố Hữu là chuyện ân tình cách mạng được
tác giả khéo léo thể hiện như chuyện tình cảm lứa đôi. Chính vì thế mà thơ Tố Hữu là
thơ chính trị nhưng rất đỗi trữ tình, đi sâu vào lòng người.
Đoạn thơ chỉ có tám câu ngắn gọn nhưng mở ra một trời thương nhớ, một ân tình sâu
nặng giữa những người Cách mạng và quê hương cách mạng trong kháng chiến chống
Pháp.
Thực ra, đối đáp chỉ là một thủ pháp khơi gợi, bộc lộ tâm trạng, tạo ra sự đồng vọng
của tình cảm, còn thực chất là sự thống nhất của tình cảm, cảm xúc trong một tiếng nói
chung. Hai nhân vật mình - ta là sự phân thân của cái tôi trữ tình thống nhất của chính
nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến. Lời đáp không chỉ nhằm trả lời cho
những điều người hỏi đặt ra mà còn là sự tán đồng, mở rộng, đồng tình với những ý
tình trong lời người hỏi. Tất cả ngân vang những tình cảm chung. Chuyện ân tình cách
mạng được khéo léo thể hiện như tình yêu đôi lứa.
Cuộc chia tay cũng đầy bịn rịn nhớ thương nhưng không buồn, không đẫm lệ như
những cuộc chia tay trong văn học cổ. Bởi lẽ đây là cuộc chia tay của những con

5
Thuvientoan.net
người vừa làm nên chiến thắng. Đó là cuộc chia tay trong nhớ thương và cả trong niềm
vui, niềm tin tưởng của ngày gặp lại.
2. Vẻ đẹp của cảnh và người Việt Bắc qua hồi tưởng của chủ thể trữ tình
2.1. Vẻ đẹp của cảnh thiên nhiên Việt Bắc
- Thiên nhiên hiện ra trong nhiều thời điểm (sương sớm, mây chiều, đêm trăng, ngày
nắng…) và mang vẻ đẹp phong phú, sống động, thay đổi qua mỗi mùa: vừa hoang sơ,
hùng vĩ (những mây cùng mù, hắt hiu lau xám); vừa rực rỡ, thắm tình (bức tranh tứ
bình); vừa mang nét đặc trưng của núi rừng Việt Bắc (ngòi, suối, khe, rừng), đọng lại
thật sâu trong nỗi nhớ của người đi (nhớ gì…nhớ từng…) nên đường nét cụ thể, màu
sắc tươi sáng, ấm áp như ở ngay trước mắt…; có lúc làm nền tôn lên hình ảnh con
người, có lúc lại quyện hòa gắn bó; có lúc thật cụ thể rõ nét, có lúc lại huyền ảo mơ
màng…
- Nhớ mùa đông Việt Bắc:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
- Nhớ mùa đông là nhớ màu xanh của núi rừng Việt Bắc, nhớ màu đỏ của hoa chuối
như những ngọn lửa thắp sáng rừng xanh, sắc đỏ tươi của hoa chuối giữa sắc xanh của
núi rừng làm cho núi rừng Việt Bắc mùa đông không lạnh lẽo, không úa tàn mà ấm áp,
tươi tắn vô cùng. Cái tài của Tố Hữu là sử dụng gam màu nóng để vẽ bức tranh thiên
nhiên Việt Bắc mùa đông thật đẹp và không thể quên.
- Nhớ mùa đông Việt Bắc còn nhớ người đi nương rẫy “dao gài thắt lưng” trong tư thế
mạnh mẽ hào hùng đứng trên đèo cao “nắng ánh”, con dao của người đi nương rẫy
phản quang rất gợi cảm. Màu “xanh” của rừng, màu “đỏ” của hoa chuối, màu sáng lấp
lánh của “nắng ánh” từ con dao, màu sắc hòa hợp làm bật sức sống tiềm tàng, mãnh
liệt của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Con người Việt Bắc trong tư thế làm chủ
thiên nhiên, làm chủ cuộc đời trong kháng chiến.
- Nhớ ngày xuân Việt Bắc:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
- Nhớ ngày xuân Việt Bắc là nhớ hoa mơ “nở trắng rừng”, câu thơ miêu tả độc đáo của
tác giả gợi một thế giới hoa mơ bao phủ mọi cánh rừng Việt Bắc, sắc trắng tinh khiết
của hoa mơ mở ra một không gian bao la, thoáng mát và tràn đầy sức sống. Cách dùng
từ tài hoa của Tố Hữu gợi nhớ câu thơ tả mùa xuân khá độc đáo của đại thi hào
Nguyễn Du:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

