
Lời mở: Chúng ta từng biết đến người con của dòng sông Tô, phủ Hoài Ðức qua
những trang văn nổi tiếng trong Dế mèn phiêu lưu kí hay những bức tranh hiền
lành vùng dệt lĩnh ven đô - không gian nghệ thuật quen thuộc trong sáng tác của
nhà văn Tô Hoài. Nếu như trước cách mạng, ông nổi tiếng với những tác phẩm viết
cho thiếu nhi, thì sau Cách mạng tháng Tám, người ta lại biết đến Tô Hoài nhiều
hơn qua những tác phẩm đặc sắc viết về vùng cao trong tập Truyện Tây Bắc mà nổi
tiếng nhất có lẽ phải kể đến tác phẩm: Vợ chồng A Phủ - tác phẩm đuợc giải Nhất
về văn xuôi (1954-1955).
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
1.1. Cuộc đời
Nhà văn Tô Hoài (1920 - 2014) tên thật là Nguyễn Sen, sinh tại quê nội Thanh Oai,
Q. Hà Ðông, Hà Nội, và lớn lên tại quê ngoại thị trấn Nghĩa Ðô, Từ Liêm, Hà Nội.
- Tô Hoài là một trong những nhà văn sáng lập ra Hội Nhà văn Việt Nam, là chủ
tịch đầu tiên của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Nội.
- Các giải thuởng tiêu biểu của ông: Giải nhất tiểu thuyết với tác phẩm Truyện Tây
Bắc của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1956, giải A với tiểu thuyết Quê nhà giải
thuởng Hội Văn nghệ Hà Nội năm 1967, giải thuởng Hoa Sen của Hội Nhà văn Á
Phi với tiểu thuyết Miền Tây năm 1970... Ông được trao Giải thuởng Hồ Chí Minh
về văn học - nghệ thuật đợt 1 năm 1996.
- Chỉ được học hết bậc Tiểu học, phải làm nhiều nghề để kiếm sống trước khi cầm
bút (liên hệ các tác giả: Macxim Gorki (Nga), Nguyên Hồng, Kim Lân (Việt Nam)
để thấy vai trò của “truờng đời” và tự học đối với sự thành công của các nghệ sĩ)
• Gắn bó sâu sắc với lứa tuổi thiếu nhi - cơ sở của những tác phẩm viết cho trẻ em.
• Ði nhiều, vốn sống phong phú, đặc biệt trong lĩnh vực phong tục và sinh hoạt đời
thuờng – có những trang viết chân xác, đằm thắm về đất và người nhiều vùng đất,
nhất là đất và người Tây Bắc.
• Có cái nhìn hồn nhiên, trong trẻo mà sắc sảo, hóm hỉnh, thông minh về các sự
vật, hiện tượng, con người trong cuộc sống.
Ông từ trần trưa 6.7.2014 tại Hà Nội.
1.2. Sự nghiệp
- Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất của nền văn học Việt Nam hiện
đại. Hơn 60 năm cầm bút, ông để lại gần hai trăm tác phẩm thuộc đủ các thể loại.
VỢ CHỒNG A PHỦ
Tô Hoài

2
Thuvientoan.net
- Thể loại: đa dạng,
- Ðề tài: hai đề tài
* Ðồng thoại về thế giới loài vật
* Cuộc sống, số phận và vẻ đẹp người lao động nghèo ở miền xuôi và miền nguợc.
- Nội dung:
* Cái nhìn trìu mến, bao dung, nhân ái, độ luợng với trẻ thơ.
* Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo mới mẻ, độc đáo.
• Nghệ thuật:
* Khả năng miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật chân xác, sâu sắc, tinh tế.
* Cách kể chuyện sống động, hóm hỉnh, có duyên.
* Lời văn: giàu tính tạo hình và chất thơ.
- Tác phẩm tiêu biểu: Dế mèn phiêu lưu kí (đồng thoại, 1941), O chuột (tập
truyện ngắn về loài vật, 1942), Nhà nghèo (tập truyện ngắn, 1944), Truyện Tây Bắc
(tập truyện, 1953), Muời năm (tiểu thuyết, 1967)…
2. Tác phẩm
2.1. Hoàn cảnh ra đời
- 1952: Tô Hoài theo đơn vị bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, sống gắn bó với đồng
bào tám tháng. “Năm 1952, tôi theo bộ đội chủ lực, tiến quân vào miền Tây, tham
dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc… Cái kết quả lớn nhất và trước mắt của chuyến
đi tám tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi
nhiều quá, không thể bao giờ quên”
- Chia tay, Tô Hoài viết tập truyện bằng sự am hiểu tuờng tận cuộc sống, phong
tục, nhất là tâm hồn phóng khoáng, tự do phảng chút hoang dại của đồng bằng
miền núi; nỗi ám ảnh về những kỉ niệm gắn bó và món nợ ân tình với người Tây
Bắc.
- “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm xuất sắc được in trong tập “Truyện Tây Bắc”
(1953).
2.2. Kết cấu: 2 phần
• Phần 1: Bức tranh thiên nhiên và cuộc sống của người dân lao động miền núi
Tây Bắc trước cách mạng.
Phần thể hiện bút lực Tô Hoài trong tác phẩm này là những trang viết tài hoa về
hương sắc vùng cao, thể hiện giá trị hiện thực, nhân đạo mới mẻ, cảm động và
khả năng miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo (Ba ý lớn)
• Phần 2: Quá trình vận động từ tự phát tới tự giác của người lao động.
2.3. Thành công và hạn chế

3
Thuvientoan.net
2.3.1. Thành công
“Ý bao quát trong khi tôi viết Truyện Tây Bắc là: Nông dân các dân tộc ở Tây Bắc
bao năm gian khổ chống đế quốc và bọn chúa đất. Cuộc đấu tranh giai cấp, riêng
ở Tây Bắc, mang một sắc thái đặc biệt. Nhìn luớt qua, nơi thế lực phong kiến còn
đương kéo lùi đất nước lại hàng trăm năm trước, chúng ta dễ tuởng những cảnh
những người ở đấy cứ muôn thuở lặng lẽ. Không, ở nơi rừng núi mơ màng ấy, các
dân tộc đã không lặng lẽ chịu đựng. Họ đã thức tỉnh. Cán bộ của Ðảng tới đâu thì
các dân tộc đứng lên tới đấy, trước nhất là những người trẻ tuổi. Họ thật đẹp và
yêu đời”
* Ðem vào tác phẩm không khí thời đại.
* Thấy được quá trình vận động trong tư tuởng, cuộc sống người lao động: từ cam
chịu, khổ nhục đến chủ động giành lấy tự do, hạnh phúc, từ hành động phản kháng
tự phát đến hoạt động cách mạng tự giác.
* “Một vấn đề khác nữa là chất thơ trong văn xuôi. Ở mỗi nhân vật và trùm lên tất
cả miền Tây, tôi đã đưa vào một không khí vời vợi, làm cho đất nước và con người
bay bổng hơn lên”
2.3.2. Hạn chế: Hình tượng nhân vật trung tâm hành động theo sự dàn xếp của tác
giả nhằm chứng minh cho một luận đề: sự giác ngộ đến với cách mạng của quần
chúng bị áp bức, đôi chỗ viết dễ dãi.
II. Ðọc hiểu văn bản
1. Tóm tắt: Mị, một cô gái xinh đẹp, yêu đời, có khát vọng tự do, hạnh phúc, bị
bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra. Lúc đầu Mị phản kháng nhưng
dần dần trở nên tê liệt, chỉ "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Ðêm tình mùa
xuân đến, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử (chồng Mị) trói đứng vào cột nhà. A
Phủ vì bất bình trước A Sử nên đã đánh nhau và bị bắt, bị phạt vạ và trở thành kẻ ở
trừ nợ cho nhà Thống lí. Không may hổ vồ mất một con bò, A Phủ đã bị đánh, bị
trói đứng vào cọc đến gần chết. Mị đã cắt dây trói cho A Phủ, hai người chạy trốn
đến Phiềng Sa. Mị và A Phủ được giác ngộ, trở thành du kích.
2. Chủ đề: Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã làm
sống lại quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi duới ách thống trị dã
man của bọn chúa đất phong kiến, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh
liệt không gì hủy diệt được của những kiếp nô lệ, khẳng định chỉ có sự vùng dậy
của chính họ, được ánh sáng cách mạng soi đường sẽ dẫn tới cuộc đời tươi sáng.
3. Hình tượng nhân vật
3.1. Nhân vật Mị
3.1.1. Sự xuất hiện của Mị

4
Thuvientoan.net
“Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra…”: giọng kể thoảng hương cổ tích ca
dao, chuẩn bị không khí cho mẫu nhân vật cổ tích xuất hiện, tạo tâm thế cho người
đọc tiếp nhận một motip quen thuộc.
• Không gian: “ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”, xuất hiện
cùng thế giới đồ vật câm lặng.
* Vị trí của nhân vật.
* Hình ảnh tảng đá câm nín, u uất, bất động, không sinh khí, không sẻ chia (liên hệ
với sự hóa thân của người em trong Sự tích Trầu cau)
• Tu thế: “cúi mặt, mặt buồn ruời ruợi” với nhịp điệu mòn mỏi, thuờng xuyên, lặp
lại vô hồn – “lúc nào cũng vậy”.
• Ðối lập: hình ảnh một cô gái lẻ loi, đơn độc, u trầm, buồn khổ – cảnh tấp nập,
giàu sang nhà thống lí.
Nhận xét: tác giả đã phác hoạ hình ảnh người con gái câm lặng như chìm lẫn vào
thế giới đồ vật vô tri, không cảm giác. Từ đó hé lộ cuộc sống tủi cực, cảnh ngộ éo
le của nhân vật. Cách dẫn dắt khéo léo theo điểm nhìn từ xa, bên ngoài tiến gần
hơn vào bên trong để thâm nhập nhân vật; tạo ra mâu thuẫn ở lời kể để vén bức
màn bí mật về một phận người (hỏi ra mới rõ,… cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí
Pá Tra).
3.1.2. Vẻ đẹp
- Mị vốn là đóa hoa đẹp của núi rừng:
+ Nhan sắc rực rỡ tươi thắm tỏa ra sức cuốn hút: Ngày tết, trai làng đến đứng nhẵn
cả chân vách đầu buồng Mị
+ Tâm hồn phong phú, bay bổng, tài hoa: khẽ uốn chiếc lá trên môi là cả thế giới
xa xăm kì diệu sẽ mở ra, Mị thổi sáo giỏi, bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo
đi theo Mị.
+ Chăm làm
+ Hiếu thảo
+ Tràn đầy khát vọng tự do
+ Xứng đáng được yêu, và cũng đã từng được yêu, say mê trong những đêm tình
hò hẹn, hồi hộp lặng lẽ đợi chờ…
- Thế nhưng, hạnh phúc ngắn ngủi và quá đỗi mong manh, bởi Mị sinh ra đã phải
đội trên đầu món nợ truyền kiếp…
3.1.3. Số phận bất hạnh: Con dâu gạt nợ.
Câu chuyện Mị về làm dâu:
• Lý do: bố lấy mẹ không đủ tiền cuới, phải vay nhà thống lí, tận khi già mà chưa
trả hết nợ. Mẹ chết, thống lí đòi lấy Mị làm con dâu để xoá nợ, mối nợ truyền kiếp,

5
Thuvientoan.net
dai dẳng, khó thoát, bóng của kiếp sống nô lệ, cùng khổ đổ lên người dân nghèo
qua thế hệ này đến thế hệ khác. Câu nói từ bên trong của bố Mị “không thể nào
khác được con ơi” giống như một dấu triện đóng lên thân phận nô lệ của Mị.
• Phản ứng: đề nghị bố lao động trả nợ chứ quyết không muốn bị bán cho nhà
giàu: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương trả nợ thay cho
bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Ta chợt đau lòng nhớ đến câu nói của cái Tí
ngày nào “con van thầy, con van u, thầy u đừng bán con tội nghiệp, để con ở nhà
chơi với em con” (Tắt đèn- Ngô Tất Tố). Ðiều đó cho thấy Mị thà sống vất vả,
nghèo khổ mà tự do còn hơn sống trong giàu sang mà chịu đoạ đày nô lệ. Ðó cũng
là khát vọng tự do mãnh liệt và niềm tin trong sáng, hồn nhiên của tuổi trẻ.
• Bị nhà thống lí lừa bắt đi, ban đầu “hàng mấy tháng, đêm nào cũng khóc”, nhận
thức sâu sắc tình cảnh quẫn bách của bản thân: sống cũng như chết, Mị đã tìm đến
lá ngón để tự tử. Ðây là phản ứng tiêu cực của lòng yêu sống và khát vọng tự do.
• Dần dần, cha chết, Mị không còn nghĩ tới cái chết, Mị đã mất đi khả năng phản
ứng với cuộc sống phi nhân tính, thực chất, cô chỉ còn sống đời sống vật chất, còn
tinh thần và tâm hồn đã chết, nhẫn nhục, cam chịu, vô hồn.
* Cùng với thời gian, “lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau”, khi được chết thì Mị
lại không buồn chết nữa. Cách sử dụng phép đối, cách đếm thời gian chậm rãi, đều
đặn cho ta thấy khoảng thời gian đủ để vô hồn hoá con người, nhấn con người vào
câm lặng, “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Mị tuởng: mình cũng là con
trâu, con ngựa. Nhưng không chỉ thế, “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó
còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm
cả đêm cả ngày”- bị bóc lột sức lao động tàn nhẫn. Càng ngày, Mị càng lùi lũi như
con rùa nuôi trong xó cửa. Mị đã bị tê liệt khả năng phản ứng với cuộc sống vô
nghĩa, phản ứng của con người không còn cảm thấy ý nghĩa cuộc đời, cam chịu
sống mảnh đời khuất lấp, quên lãng, như cái cây, tảng đá, đồ vật trong không gian
nhà thống lí. Từ vị trí con dâu (quyền thế, đáng trọng) đến thân thế: con nợ, người
ở (rẻ rúng, coi thuờng), ta đã đủ thấy cái tàn nhẫn bất công với Mị.
• Căn buồng, không gian sống của Mị là một nơi kín mít, chỉ có một chiếc cửa sổ
bé, đúng hơn là chỉ có một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy
mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng, Mị đã mất hết ý niệm về thời
gian. Ðó là một không gian tối tăm, bức bối, lạnh lẽo, đầy âm khí- biểu tượng ám
gợi về địa ngục trần gian, nơi cầm tù tuổi thanh xuân của con người, biến Mị từ
một cô gái trẻ trung phơi phới thành một con người vô cảm, cam chịu.
Tóm lại: Mị là hiện thân những đau khổ của người phụ nữ nói riêng, của người
dân miền núi trước Cách mạng nói chung.
- Bị bóc lột sức lao động tàn nhẫn, phải làm quần quật như một thứ lao động khổ
sai: Tết đến thì lên núi hái thuốc phiện, giữa mùa thì giặt đay, se đay, đến mùa thì

