ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN BÍCH NGỌC

PH¸P LUËT §ÇU T¦ RA N¦íC NGOµI TRONG LÜNH VùC VIÔN TH¤NG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN BÍCH NGỌC

PH¸P LUËT §ÇU T¦ RA N¦íC NGOµI TRONG LÜNH VùC VIÔN TH¤NG

Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN TIẾN VINH

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong

bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã

hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để

tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Bích Ngọc

MỤC LỤC

Trang

Trang bìa phụ Lời cam đoan Mục lục

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU

TƯ RA NƯỚC NGOÀI TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG ..... 6

1.1. Đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông ............................. 6

1.1.1. Khái niệm đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông ................. 6

1.1.2. Đặc điểm của đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông .......... 10

1.1.3. Vai trò của đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông .............. 14

1.2. Pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông .......... 16

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung pháp luật đầu tư ra nước ngoài

trong lĩnh vực viễn thông ................................................................... 16

1.2.2. Vai trò của pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông ... 22

1.2.3. Khái quát sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư ra

nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông ................................................ 24

Kết luận Chương 1 ........................................................................................ 30

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ RA NƯỚC

NGOÀI TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG ............................ 31

2.1. Thực trạng quy định pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong

lĩnh vực viễn thông ........................................................................... 31

2.1.1. Quy định chuẩn bị dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực

viễn thông ........................................................................................... 32

2.1.2. Quy định về thủ tục đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông ..... 41

2.1.3. Quy định về triển khai dự án đầu tư đầu tư ra nước ngoài trong

lĩnh vực viễn thông ............................................................................. 48

2.1.4. Quy định về quản lý nhà nước về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh

vực viễn thông .................................................................................... 53

2.2. Quy định về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

trong hiệp định quốc tế .................................................................... 55

2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh

vực viễn thông ................................................................................... 63

Kết luận Chương 2 ........................................................................................ 71

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN VÀ GIẢI PHÁP KIẾN

NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ RA NƯỚC

NGOÀI TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG .............................. 72

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong

lĩnh vực viễn thông ........................................................................... 72

3.1.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật ............................................................. 72

3.1.2. Một số định hướng hoàn thiện pháp luật ............................................ 83

3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong

lĩnh vực viễn thông ........................................................................... 86

3.2.1. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật ......................... 86

3.2.2. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật ..................... 91

Kết luận Chương 3 ........................................................................................ 99

KẾT LUẬN .................................................................................................. 100

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 102

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay, các quốc gia trên thế giới đang không ngừng tăng cường tiềm

lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước để chủ động tích cực hội nhập

quốc tế sâu, rộng và hiệu quả. Trong bối cảnh đó, đầu tư ra nước ngoài được

xem là vấn đề mang tính chất toàn cầu. Đầu tư ra nước ngoài đang là xu thế

chung của các quốc gia nhằm mở rộng thị trường đầu tư, nâng cao hiệu quả

đầu tư kinh doanh, góp phần bảo đảm sự phát triển của nền kinh tế, tăng

cường vị thế kinh tế ở nước ngoài.

Với xu hướng hội nhập đó, hoạt động đầu tư ra nước ngoài tại Việt

Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ trong những thập kỷ trở lại đây và thực sự

trở thành một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế hiện đại. Theo Cục Ðầu tư

nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Ðầu tư), sau hơn 30 năm hội nhập và phát triển,

đến nay, Việt Nam không chỉ là một quốc gia tiếp nhận đầu tư hàng đầu trong

khu vực mà còn vươn lên trở thành quốc gia có nhiều doanh nghiệp, dự án

đầu tư ra nước ngoài. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam ngày

càng đa dạng, thể hiện rõ nét qua thị trường, ngành nghề đầu tư, quy mô, hình

thức đầu tư, các loại hình kinh tế và doanh nghiệp tham gia đầu tư.

Trong các lĩnh vực Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, lĩnh vực viễn thông

là một trong những lĩnh vực có thành công nổi bật. Viễn thông là một trong

những ngành cơ bản và có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã

hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nước. Trong những năm gần đây

Việt Nam liên tục được Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) xếp vào nhóm

những quốc gia có tốc độ phát triển viễn thông nhanh nhất thế giới. Tuy

nhiên, thị trường viễn thông trong nước cũng đang bước vào giai đoạn bão

hòa. Do đó, việc đầu tư ra nước ngoài được coi là chiến lược quan trọng giúp

1

nhà đầu tư viễn thông Việt Nam tìm kiếm cơ hội thị trường, cơ hội doanh thu

mới, mở rộng vị thế, danh tiếng không chỉ tại Việt Nam mà còn vươn ra các

quốc gia khác trên thị trường quốc tế.

Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động đầu tư ra nước ngoài đặc

biệt trong lĩnh vực viễn thông, pháp luật điều chỉnh hoạt động này cũng

không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài

trong lĩnh vực viễn thông về bản chất là hoạt động đầu tư xuyên quốc gia nên

pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông chịu sự điều chỉnh

của pháp luật quốc gia nhà đầu tư, pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư và các

Điều ước quốc tế đa phương, song phương giữa nước đầu tư và nước tiếp

nhận đầu tư. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn, tác giá chỉ tập trung nghiên

cứu pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông theo quy định

của pháp luật Việt Nam.

Những năm qua hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động

đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông ở nước ta không ngừng được

phát triển và hoàn thiện phù hợp với đường lối chính sách của Đảng và Nhà

nước. Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật

điều chỉnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Hệ

thống văn bản pháp luật này đã tạo khung pháp lý quan trọng cho các nhà đầu

tư khi đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên, pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong

lĩnh vực viễn thông của nước ta vẫn còn một số bất cập, hạn chế. Bên cạnh

đó, trong thực tiễn thực thi nhà đầu tư Việt Nam cũng gặp những khó khăn,

thách thức, đe dọa lợi ích khi hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh

vực viễn thông để từ đó đưa ra một số biện pháp, phương hướng giải quyết

góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong

lĩnh vực viễn thông trở thành một yêu cầu cần thiết và có ý nghĩa quan trọng

2

đối với nước ta trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

Từ những lý do trên, học viên lựa chọn nghiên cứu đề tài “Pháp luật

đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông” làm đề tài luận văn tốt

nghiệp thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trước khi có Luật Đầu tư 2005 và các văn bản hướng dẫn liên quan thì

hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung và trong lĩnh vực viễn thông nói

riêng chưa thực sự được quan tâm đúng mức tại Việt Nam. Trước năm 2005,

liên quan đến vấn đề này, có rất ít các công trình nghiên cứu, sách báo đi sâu

vào phân tích. Những năm gần đây cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền

kinh tế, hội nhập quốc tế, pháp luật về đầu tư ra nước ngoài đã nhận được

nhiều sự quan tâm và đã có nhiều công trình nghiên cứu về đề tài này ở những

khía cạnh và góc độ khác nhau như: “Pháp luật về hình thức đầu tư ra nước

ngoài của doanh nghiệp Việt Nam”, luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả

Quách Mạnh Hồng năm 2006; “Pháp luật về thủ tục đầu tư ra nước ngoài của

Việt Nam”, luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Phan Thị Ngân Hà năm

2011; “Pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt

Nam- Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, luận văn Thạc sĩ luật học của tác

giả Đỗ Thị Phương năm 2013; “Chính sách đầu tư ra nước ngoài của Trung

Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, bài viết trên Tạp chí Khoa học

Đại học Quốc gia Hà Nội của tác giả Đỗ Xuân Thưởng năm 2015; “Địa vị

pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài” Luận án

Tiến sĩ luật quốc tế của tác giả Trần Thanh Hải năm 2019;...

Các công trình nghiên cứu trên, tuy có đề cập đến hoạt động đầu tư ra

nước ngoài nhưng một số công trình nghiên cứu pháp luật đầu tư ra nước

ngoài theo quy định của Luật đầu tư 2005 đã hết hiệu lực pháp lý; chưa có

công trình nào nghiên cứu về pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực

viễn thông cũng như đưa ra những bất cập, vướng mắc trong quá trình thực

3

thi pháp luật trong lĩnh vực này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Mục đích của luận văn là nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề lý luận và

thực trạng pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông của Việt

Nam và đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định này cũng như những khó

khăn, hạn chế trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Từ đó đề ra những giải

pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật

đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông trong bối cảnh hiện nay nhằm

đảm bảo phù hợp với sự phát triển chung của nền kinh tế thị trường.

Để đạt được những mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

cần phải làm rõ những vấn đề như sau:

- Phân tích những vấn đề lý luận về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực

viễn thông và pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Với nhiệm

vụ này, luận văn phân tích, lý giải và làm rõ khái niệm, đặc điểm và vai trò của

đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông và khái quát pháp luật Việt Nam về

đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông qua giai đoạn khác nhau.

- Phân tích thực trạng các quy định của pháp luật hiện hành về đầu tư ra

nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông và thực tiễn áp dụng. Với nhiệm vụ này,

luận văn tập trung phân tích các quy định của pháp luật đầu tư ra nước ngoài

trong lĩnh vực viễn thông và thực tiễn áp dụng pháp luật đầu tư ra nước ngoài

trong lĩnh vực viễn thông.

- Đề xuất một số kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như các

giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định hiện hành của

pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông và thực tiễn áp dụng

các hoạt động này.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn

của pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông theo quy định

4

của pháp luật Việt Nam. Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản

của pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam theo

quy định tại Luật Đầu tư 2014, trong đó tập trung nghiên cứu các quy định

của pháp luật Việt Nam về điều kiện, thủ tục thực hiện dự án đầu tư ra nước

ngoài trong lĩnh vực viễn thông đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp

luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam. Từ đó đưa ra

một số giải pháp kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật

đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông.

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa

Mác-Lênin đồng thời kết hợp một số phương pháp nghiên cứu như: Phương

pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp

thống kê, phương pháp phân loại…để làm rõ các luận điểm trong luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về ý nghĩa lý luận, luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận

về pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông và hệ thống hóa các

quy định pháp luật hiện hành về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông.

Về ý nghĩa thực tiễn, luận văn là công trình nghiên cứu có giá trị tham

khảo đóng góp vào việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về

đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông cũng như nâng cao hơn hiệu

quả áp dụng của pháp luật trong lĩnh vực này.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1. Một số vấn đề lý luận về pháp luật đầu tư ra nước ngoài

trong lĩnh vực viễn thông.

Chương 2. Thực trạng pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực

viễn thông.

Chương 3. Định hướng hoàn thiện và giải pháp kiến nghị hoàn thiện

5

pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ

RA NƯỚC NGOÀI TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG

1.1. Đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

1.1.1. Khái niệm đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

1.1.1.1. Khái niệm đầu tư ra nước ngoài

Trong xu hướng phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, hoạt động

đầu tư ra nước ngoài là xu thế tất yếu, đồng thời là lựa chọn phù hợp với điều

kiện phát triển kinh tế hiện nay nhằm tận dụng nguồn tài nguyên của địa bàn

tiếp nhận vốn đầu tư, mở rộng thị trường, đẩy mạnh quảng bá, tiếp thị hình

ảnh của nước đầu tư đến các nước khác nhau trên thế giới.

Để làm rõ khái niệm đầu tư ra nước ngoài trước hết cần tìm hiểu một số

cách hiểu về đầu tư.

Theo cách hiểu phổ thông, đầu tư là việc “bỏ nhân lực, vật lực, tài lực vào

công việc gì, trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế, xã hội” [42, tr.301]. Trong

khoa học kinh tế, đầu tư được quan niệm là hoạt động sử dụng các nguồn lực

hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế, xã hội những kết quả trong tương lai lớn

hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó [39, tr.16]. Các nguồn

lực được chủ thể đầu tư (cá nhân, tổ chức) sử dụng để đầu tư có thể là tiền, tài

nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ. Mục đích của hoạt động đầu tư

không những mang lại những lợi ích trực tiếp cho nhà đầu tư như tăng thêm

tài sản vật chất, tài sản trí tuệ… mà còn mang lại lợi ích chung cho nền kinh

tế và cho toàn xã hội.

Khái niệm đầu tư được quy định trong Luật Đầu tư 2005 như sau:

Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các tài sản hữu hình và vô

hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy

6

định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Luật Đầu tư 2014 đưa ra khái niệm đầu tư kinh doanh như sau:

Đầu tư kinh doanh là việc mà nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện

hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu

tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn của của tổ chức kinh tế; đầu tư

theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư.

Do đó, có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư như sau: “Đầu tư là

việc nhà đầu tư bỏ vốn để tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm mục đích

thu về cho nhà đầu tư các kết quả nhất định lớn hơn nguồn vốn đã bỏ ra”.

Xuất phát từ khái niệm đầu tư nêu trên, đầu tư ra nước ngoài cũng được

hiểu theo nhiều phương diện khác nhau.

Theo từ điển luật học của Viện khoa học pháp lý, khái niệm đầu tư ra

nước ngoài là việc tổ chức cá nhân của một quốc gia đưa vốn dưới các hình

thức khác nhau vào một quốc gia khác để tiến hành các hoạt động kinh doanh

tìm kiếm lợi nhuận. Đầu tư nước ngoài được thực hiện dưới hình thức đầu tư

trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp [41].

Theo các nhà kinh tế học, dòng đầu tư quốc tế vận động dựa trên

nguyên tắc lợi thế so sánh các yếu tố vốn, lao động, thị trường giữa các quốc

gia, đặc biệt giữa các nước phát triển và đang phát triển. Đầu tư quốc tế là sự

di chuyển tài sản vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý… từ quốc gia này sang

quốc gia khác để kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận cao trên phạm vi

toàn cầu cho các bên tham gia [29, tr.50].

Theo lý luận Mác- Lênin, hiện tượng xuất khẩu tư bản (đầu tư ra nước

ngoài) có nguyên nhân là vì một số nước có hiện tượng “thừa tư bản”, nhưng

lại thiếu địa bàn đầu tư có lợi. Hiện tượng “thừa tư bản” được hiểu là thừa

tương đối khi đầu tư trong nước có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn so với tỷ suất

lợi nhuận đầu tư ở nước ngoài. Các nền kinh tế lạc hậu có tỷ suất lợi nhuận

7

nhưng rất thiếu tư bản để đầu tư phát triển kinh tế, đổi mới kỹ thuật và công

nghệ. Sự gặp nhau giữa các nước xuất khẩu và nước tiếp nhận tư bản đã hình

thành đầu tư ra nước ngoài. Nếu thương mại quốc tế là sự di chuyển kết quả

của quá trình sản xuất trên quy mô quốc tế để thu lợi nhuận thì đầu tư trực

tiếp ra nước ngoài là sự di chuyển chính điều kiện sản xuất giữa các quốc gia

để thu lợi nhuận [1, tr.207].

Trên phương diện pháp lý, đầu tư ra nước ngoài từ khi xuất hiện ở Việt

Nam cho đến nay, đã có nhiều định nghĩa khác nhau.

Tại Khoản 1 Điều 1 Nghị định số 22/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày

14/4/1999 quy định về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam quy

định: Đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam là việc doanh nghiệp

Việt Nam đưa vốn bằng tiền, tài sản khác ra nước ngoài để đầu tư trực tiếp ở

nước ngoài theo quy định của pháp luật. Luật Đầu tư 2005 quy định tại Khoản

14 Điều 3: “Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các

tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu

tư”. Mới đây nhất, tại Nghị định số 83/2015/NĐ-CP ngày 25/9/2015 của

Chính phủ Quy định về đầu tư ra nước ngoài đã đưa ra định nghĩa, cụ thể:

“Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn; hoặc thanh toán mua

một phần hoặc toàn bộ cơ sở kinh doanh; hoặc xác lập quyền sở hữu để thực

hiện hoạt động đầu tư kinh doanh ngoài lãnh thổ Việt Nam; đồng thời trực

tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó”.

Như vậy, các khái niệm trên đều bàn đến việc chuyển vốn từ một nền

kinh tế này sang một nền kinh tế khác để thực hiện hoạt động kinh doanh.

Trên cơ sở đó, có thể hiểu một cách khái quát đầu tư ra nước ngoài là việc nhà

đầu tư đưa vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác để tiến hành các hoạt động

đầu tư nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận, mục tiêu kinh tế xã hội khác.

1.1.1.2. Khái niệm đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

8

Trong những năm qua, ngành viễn thông đã liên tục phát triển, trở thành

ngành kinh tế mũi nhọn, ngành công nghệ cao đóng vai trò động lực cho việc

thúc đẩy các ngành khác trong nước. Bên cạnh đó, viễn thông là một trong

những lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài điển hình. Xuất phát từ tầm quan trọng

của viễn thông, việc phát triển viễn thông trong nước và quốc tế là nhu cầu

thiết yếu của quốc gia.

Theo tổ chức Thương mại thế giới (WTO), viễn thông là việc truyền

dẫn thông tin giao tiếp qua khoảng cách địa lý [22, tr.5].

Theo tổ chức Liên minh Viễn thông thế giới (ITU), viễn thông là tất cả

sự chuyển tải, truyền dẫn hoặc thu phát các ký hiệu, tín hiệu, chữ viết, âm

thanh, hình ảnh, giọng nói, dữ liệu qua các dây dẫn, sóng vô tuyến, cáp

quang, các phương tiện vật lý hoặc các hệ thống điện từ khác [22, tr.6].

Theo Luật Viễn thông năm 2009 tại Khoản 1 Điều 3 có quy định: Viễn

thông là việc gửi, truyền, nhận và xử lý ký hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết,

hình ảnh, âm thanh hoặc dạng thông tin khác bằng đường cáp, sóng vô tuyến

điện, phương tiện quang học và phương tiện điện từ khác.

Từ những khái niệm trên, có thể hiểu khái quát viễn thông là việc gửi,

truyền, tiếp nhận, xử lý thông tin bằng các phương tiện khác nhau. Hoạt động

viễn thông là hoạt động cung cấp các dịch vụ viễn thông như gửi, truyền,

nhận và xử lý thông tin.

Xuất phát từ những khái quát trên về viễn thông và khái niệm về đầu tư

ra nước ngoài, mặc dù các văn bản pháp luật đầu tư không đưa ra định nghĩa

đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông nhưng có thể hiểu đầu tư ra

nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông là việc nhà đầu tư đưa vốn từ quốc gia

này sang quốc gia khác để tiến hành các hoạt động đầu tư dịch vụ viễn thông

như gửi, truyền, nhận và xử lý thông tin nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận,

9

mục tiêu kinh tế xã hội khác.

1.1.2. Đặc điểm của đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

Đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông mang những đặc điểm

của đầu tư ra nước ngoài nói chung, được thể hiện ở một số điểm như sau:

Thứ nhất, đầu tư ra nước ngoài có sự di chuyển tài sản giữa các quốc

gia, làm tăng lượng tài sản của nền kinh tế tiếp nhận và làm giảm lượng tài

sản của nước đầu tư. Nguồn vốn đầu tư có sự chuyển dịch qua biên giới của

nước đầu tư để chuyển sang nước tiếp nhận đầu tư. Nguồn vốn này được xuất

phát từ nước đầu tư và được chuyển dịch sang nước tiếp nhận đầu tư để thực

hiện hoạt động đầu tư.

Thứ hai, mục đích đầu tư ra nước ngoài nhằm tìm kiếm doanh thu, lợi

nhuận, mở rộng, chiếm lĩnh thị trường. Đầu tư ra nước ngoài là hoạt động nhà

đầu tư tìm kiếm cơ hội tại các thị trường khác ngoài thị trường trong nước,

đưa các sản phẩm, dịch vụ của mình vào thị trường thế giới. Mục đích hàng

đầu khi các nhà đầu tư thực hiện đầu tư ra nước ngoài chính là tìm kiếm

doanh thu, lợi nhuận. Bên cạnh đó, khi đầu tư ra nước ngoài nhà đầu tư còn

có các mục đích khác như mở rộng thị trường, phát triển thương hiệu, quảng

bá hình ảnh sản phẩm dịch vụ của mình, tận dụng những nguồn tài nguyên

thiên nhiên hoặc nhân công tại nước tiếp nhận đầu tư.

Thứ ba, hoạt động đầu tư ra nước ngoài được thực hiện bằng nguồn vốn

của chính nhà đầu tư, nhà đầu tư chịu trách nhiệm về nguồn vốn của mình.

Nguồn vốn của nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài có thể là

tiền, công nghệ hoặc tài sản khác.

Thứ tư, hình thức đầu tư ra nước ngoài có thể được thực hiện dưới hình

thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đầu tư gián tiếp ra nước ngoài.

Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là hình thức đầu tư mà nhà đầu tư mang

vốn của mình vào nước tiếp nhận đầu tư để hình thành các dự án đầu tư tại

10

nước tiếp nhận đầu tư và trực tiếp quản lý dự án đầu tư tại nước tiếp nhận đầu

tư. Với hình thức này, người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá

trình sử dụng các nguồn lực (vốn) đầu tư. Trong hoạt động đầu tư trực tiếp sẽ

không có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý của nhà đầu tư với

vốn đầu tư. Đầu tư gián tiếp ra nước ngoài là hình thức đầu tư ra nước ngoài

mà theo đó nhà đầu tư thông qua thị trường tài chính mua bán cổ phần, chứng

khoán, các giấy tờ có giá khác của các công ty ở nước tiếp nhận đầu tư để

thực hiện hoạt động đầu tư. Qua đó, nhà đầu tư thu lại lợi nhuận dưới các hình

thức như cổ tức, thu nhập chứng khoán mà không trực tiếp tham gia điều hành

đối với đối tượng mà họ bỏ vốn ra đầu tư.

Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đầu tư gián tiếp ra nước ngoài có sự

giống nhau về mục đích kinh doanh nhưng cơ bản hai hình thức trên có những

sự khác nhau như sau:

Về phương thức quản lý vốn. Với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, nhà

đầu tư và vốn gắn bó chặt chẽ với nhau. Các nhà đầu tư trực tiếp quản lý

nguồn vốn này, trực tiếp điều hành hoặc tham gia điều hành dự án đầu tư, thu

lợi nhuận và cũng trực tiếp gánh chịu rủi ro từ hoạt động đầu tư. Trong khi

đó, các nhà đầu tư gián tiếp ra nước ngoài không trực tiếp điều hành quản lý

hoạt động kinh doanh của dự án mà họ bỏ vốn, việc quản lý điều hành này do

các doanh nghiệp tiếp nhận vốn đầu tư thực hiện do mục đích của dự án. Về

nguồn vốn đầu tư, đối với đầu tư gián tiếp ra nước ngoài, vốn chỉ có thể là

tiền, không thể là tài sản khác như bằng hiện vật và công nghệ. Trong khi đó,

vốn của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có thể là tiền, công nghệ hoặc tài sản

khác. Đối với đầu tư gián tiếp, doanh nghiệp nhận vốn không có cơ hội tiếp

nhận công nghệ hiện đại, kinh nghiệm, trình độ quản lý của các nhà đầu tư

nước ngoài nhưng họ lại tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi và biết cách chia

sẻ rủi ro kinh doanh cho những nhà đầu tư nước ngoài. Ngược lại, đối với đầu

tư trực tiếp, nước tiếp nhận đầu tư có cơ hội được tiếp thu công nghệ tiến tiến,

11

kinh nghiệm và trình độ quản lý… của nhà đầu tư.

Bên cạnh những đặc điểm chung của đầu tư ra nước ngoài, đầu tư ra nước

ngoài trong lĩnh vực viễn thông có một số những đặc điểm riêng như sau:

Thứ nhất, đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông thường sử

dụng nguồn vốn đầu tư lớn, đòi hỏi sử dụng công nghệ, kỹ thuật và thường có

sự hợp tác giữa quốc gia trong các dự án đầu tư. Chi phí cho mỗi dự án đầu tư

thường khá lớn với các hệ thống cơ sở hạ tầng, trang thiết bị được lắp đặt và

đầu tư đồng thời thời gian cho mỗi dự án thường khá dài từ bước đầu tư đến

giai đoạn hoạt động và mang lại doanh thu lợi nhuận. Chính vì điều này,

không phải bất kỳ nhà đầu tư nào cũng có đủ khả năng về vốn, năng lực, kinh

nghiệm để tiến hành đầu tư ra nước ngoài.

Thứ hai, sự cạnh tranh lĩnh vực viễn thông là rất khốc liệt. Hiện nay

trên thế giới, đối với các nước phát triển và đang phát triển, nền viễn thông

gần như đã bước vào giai đoạn bão hòa, sự ổn định của các nhà viễn thông

trong nước đã được thiết lập, rất khó để một doanh nghiệp mới bước chân vào

thị trường. Các lợi thế về hạ tầng, giá, và chất lượng dịch vụ không còn là lợi

thế nhiều đối với các doanh nghiệp mới. Từ đó cách doanh nghiệp viễn thông

muốn tìm kiếm một cơ hội đầu tư tiềm năng đều hướng tới các nước bắt đầu

bước sang giai đoạn đang phát triển hoặc chậm phát triển, nơi mà nền tảng về

viễn thông vẫn còn ít, sự cạnh tranh cũng như dung lượng của thị trường còn

lớn và tiềm năng. Ở các thị trường đó, mạng viễn thông chỉ tập trung nhiều ở

thành thị. Mạng viễn thông ở nông thôn vẫn còn kém phát triển, thậm chí còn

không phát triển do tính chất chung về hạ tầng cần đầu tư lớn, mật độ dân số

và thu nhập thấp. Vì những tính chất này, không phải doanh nghiệp nào cũng

sẵn sàng bỏ một khoản đầu tư lớn mà tốc độ thu lại nguồn vốn chậm như vậy.

Thứ ba, trong lĩnh vực viễn thông nhà đầu tư phải đối mặt với những

rủi ro cao. Các rủi ro cơ bản mà nhà đầu tư viễn thông khi đầu tư ra nước

ngoài gặp phải có thể kể đến như môi trường văn hóa, chính trị, pháp luật, đối

12

thủ cạnh tranh, môi trường tự nhiên.

- Đối với môi trường văn hóa, người dân ở mỗi nước khác nhau có

những nền văn hóa, tôn giáo, niềm tin khác nhau, điều này ảnh hưởng trực

tiếp đến thói quen tiêu dùng của họ.

- Đối với chính trị và pháp luật, do tính chất bất ổn chính trị tại các

nước chậm hoặc các nước bắt đầu bước vào giai đoạn đang phát triển sẽ ảnh

hưởng rất lớn đến chính sách cũng như luật pháp tại nước sở tại. Việc thay đổi

thể chế hoặc thay đổi đảng cầm quyền có thể gây ảnh hưởng rất lớn đối với

doanh nghiệp viễn thông, nhất là do tính chất đặc thù là nhạy cảm của ngành

này. Với việc đầu tư rất lớn trong giai đoạn ban đầu, việc thay đổi thể chế có

thể dẫn tới doanh nghiệp mất trắng nguồn vốn đầu tư.

- Các đối thủ cạnh tranh có tiềm lực lớn đều đã có nhiều kinh nghiệm

đầu tư triển khai mạng hạ tầng ở nước ngoài. Việc một doanh nghiệp đơn

thương độc mã gia nhập thị trường là rất khó để cạnh tranh được, trừ khi

doanh nghiệp có những chiến lược kinh doanh khác biệt và đánh được vào thị

trường chưa được khai mở. Ngoài ra việc liên doanh cũng tiềm ẩn nguy cơ về

việc doanh nghiệp gặp bất lợi và có thể bị thôn tính nếu không có hiểu biết rõ

ràng về chính sách luật pháp cũng như hiểu biết rõ ràng về liên doanh.

- Môi trường tự nhiên cũng ảnh hưởng rất lớn đến đầu tư viễn thông.

Do đặc điểm của đầu tư viễn thông là hạ tầng đi trước, dịch vụ theo sau nên vị

trí địa lý, khí hậu, thiên tai, động đất ảnh hưởng rất lớn đến hạ tầng viễn

thông. Đối với các nước có địa lý, địa hình phức tạp nhiều sông ngòi kênh

rạch hoặc địa hình đồi núi chia cắt, việc đầu tư, triển khai và bảo trì hạ tầng là

vô cùng khó khăn và mất rất nhiều chi phí. Đối với đất nước có khí hậu không

ổn định hoặc thiên tai thất thường như bão, lũ lụt thì hạ tầng viễn thông có thể

bị ảnh hưởng hư hại lớn và rất khó khắc phục, ngoài ra chi phí khắc phục

13

cũng vô cùng tốn kém.

1.1.3. Vai trò của đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

Đầu tư ra nước ngoài nói chung và đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực

viễn thông nói riêng là một xu thế tất yếu, khách quan trong quá trình toàn

cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Trong bối cảnh đó, bên cạnh việc

đầu tư phát triển nền kinh tế trong nước thì các nhà đầu tư phải không ngừng

tìm kiếm thêm những cơ hội phát triển, cạnh tranh với các nền kinh tế khác

trên thế giới. Đặc biệt trong lĩnh vực viễn thông, những năm gần đây việc

phát triển viễn thông trong nước đã ở tình trạng bão hòa thì nhu cầu đầu tư ra

nước ngoài một cách hiệu quả đóng vai trò quan trọng.

1.1.3.1. Đối với nhà đầu tư

Trước hết, đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông có ý nghĩa,

vai trò trực tiếp đối với nhà đầu tư trên nhiều phương diện khác nhau như sau:

Thứ nhất, giúp nhà đầu tư mở rộng thị trường. Với sự cạnh tranh nội

địa ngày càng khốc liệt, thị trường trong nước có xu hướng bão hòa, việc trao

đổi sản phẩm dịch vụ giữa các nước với nhau, gia nhập thị trường chung là

yếu tố tất yếu trong giai đoạn hiện nay. Các nhà đầu tư phải không ngừng tìm

kiếm thị trường, cơ hội để đưa sản phẩm dịch vụ của mình phát triển sâu rộng.

Thứ hai, thông qua hoạt động đầu tư nhà đầu tư tăng doanh thu, lợi

nhuận. Mục đích đầu tiên của bất kỳ nhà đầu tư nào hướng tới khi đầu tư

cũng là tìm kiếm doanh thu và lợi nhuận cho chính mình. Thông qua hoạt

động đầu tư, nhà đầu tư mở rộng thị trường, phạm vi hoạt động và làm tăng

doanh thu, lợi nhuận.

Thứ ba, nâng cao vị thế của nhà đầu tư trên thị trường thế giới. Các nhà

đầu tư thông qua hoạt động đầu tư, tận dụng được lợi thế của một số nước để

kinh doanh, mở rộng thị trường, từng bước tạo dựng thương hiệu của mình,

tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, thúc đẩy nhanh tiến

14

trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ tư, nhà đầu tư tăng thêm kinh nghiệm, nâng cao năng lực cạnh

tranh. Các nhà đầu tư khi tham gia vào môi trường đầu tư mới, muốn đứng

vững, phát triển mang lại hiệu quả phải không ngừng tìm hiểu, học hỏi,

nghiên cứu và thích nghi, đáp ứng với những yêu cầu đặt ra từ thị trường. Bên

cạnh những kinh nghiệm thích nghi từ hoạt động kinh doanh, nhà đầu tư còn

có cơ hội giao lưu, học hỏi, khám phá những nền văn hóa khác nhau trên thế

giới. Đây là những kiến thức được kiểm nghiệm từ thực tiễn và là tri thức cần

thiết nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của nhà đầu tư.

1.1.3.2. Đối với nước đầu tư

Bên cạnh vai trò đối với nhà đầu tư, hoạt động đầu tư ra nước ngoài

trong lĩnh vực viễn thông còn mang lại nhiều lợi ích đối với nước đầu tư.

Thứ nhất, tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế, bảo đảm an ninh quốc

phòng. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông tạo điều

kiện mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế theo hướng đa phương hóa, đa

dạng hóa, góp phần thúc đẩy nước đầu tư chủ động hội nhập kinh tế khu vực

và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hóa thương mại và đầu tư.

Thứ hai, mở rộng hoạt động kinh doanh tạo công ăn việc làm cho người

lao động. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông tạo cơ hội

việc làm cho người lao động của nước đầu tư làm việc tại thị trường nước tiếp

nhận đầu tư.

Thứ ba, đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông nếu thành công

cũng sẽ có tác động ngược lại đối với nền kinh tế của nước đầu tư theo hướng

thúc đẩy công cuộc cải tổ nền kinh tế, chính sách, thuế, thủ tục hành chính và

hệ thống công nghệ thông tin hay cả về chính sách quản lý, điều hành vĩ mô.

Ngoài ra, các quốc gia còn có thêm một lượng lớn ngoại tệ nhờ việc đóng

15

thuế hoặc hoạt động tái đầu tư của nhà đầu tư.

1.1.3.3. Đối với nước tiếp nhận đầu tư

Đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông không chỉ có ý nghĩa

với nhà đầu tư, nước đầu tư mà còn có tác động tích cực đối với nước tiếp

nhận đầu tư.

Thứ nhất, thông qua hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn

thông, ngân sách của nước tiếp nhận đầu tư tăng lên đáng kể từ hoạt động nộp

thuế của nhà đầu tư. Từ đó, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu

ngân sách, nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực của nước tiếp

nhận đầu tư.

Thứ hai, chính sách lao động, an sinh xã hội của các nhà đầu tư giúp

nước tiếp nhận đầu tư giải quyết vấn đề việc làm cho số lượng lớn người lao

động. Các dự án viễn thông thường là những dự án có quy mô lớn và sử dụng

nhiều lao động đặc biệt là lao động tại nước tiếp nhận đầu tư, qua đó góp phần

tạo công ăn, việc làm cho số lượng lớn người lao động.

Thứ ba, thông qua hoạt động đầu tư, hệ thống viễn thông của quốc gia

tiếp nhận đầu tư được cải thiện, phát triển hơn, thúc đẩy nền kinh tế quốc gia

cũng như các hoạt động dịch vụ khác, góp phần thu hút đầu tư nước ngoài vào

các lĩnh vực khác nhau.

1.2. Pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung pháp luật đầu tư ra nước ngoài

trong lĩnh vực viễn thông

1.2.1.1. Khái niệm pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

Hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung cũng như hoạt động đầu tư

ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông nói riêng về bản chất là hoạt động

đầu tư xuyên quốc gia, do đó chịu sự điều chỉnh của cả hai hệ thống pháp luật,

đó là hệ thống pháp luật của nước đầu tư và pháp luật của nước tiếp nhận đầu

16

tư. Cả hai hệ thống pháp luật này đều điều chỉnh hoạt động đầu tư của nhà

đầu tư đảm bảo quyền lợi của quốc gia và quyền lợi của nhà đầu tư. Pháp luật

đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư thường quy định các điều kiện, trình tự cho

phép nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các hoạt động đầu tư trên quốc gia

mình. Trong khi đó, pháp luật của nước đầu tư thường hướng tới điều chỉnh

và quản lý sự chuyển dịch ra ngoài quốc gia và việc quản lý hoạt động của

nhà đầu tư tại nước ngoài thông qua việc quy định các thủ tục đăng ký, thẩm

định và cấp phép đầu tư cũng như các quy định về quản lý ngoại hối.

Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc tế là các hiệp định, thỏa thuận, cam

kết giữa nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Có rất nhiều hiệp định, thỏa

thuận, cam kết quốc tế về đầu tư quốc tế có thể kể đến như: (1) Trong khuôn

khổ Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) với các hiệp định có liên quan đến

đầu tư quốc tế như: Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương

mại (Hiệp định TRIMs); Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (Hiệp định

GATS); Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Hiệp định SCM);

Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (Hiệp định

TRIPS). (2) Trong khuôn khổ khu vực: Hiệp định của Hiệp hội các quốc gia

Đông Nam Á (ASEAN). (3) Trong khuôn khổ các hiệp định đa phương, song

phương khác, một số hiệp định cơ bản như sau: Hiệp định Đối tác Toàn diện và

Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định CPTPP) và Hiệp định thương mại

tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (Hiệp định EVFTA)... Có thể thấy,

trong các hiệp định về đầu tư quốc tế dù là đa phương hay song phương cơ

bản thường bao gồm các nguyên tắc bảo hộ đầu tư, thúc đẩy đầu tư, đảm bảo

tự do hóa đầu tư; cam kết về khuyến khích đầu tư và mở cửa thị trường đầu

tư; các quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư giữa nhà đầu tư nước

ngoài và quốc gia tiếp nhận đầu tư. Các hiệp định quốc tế này có giá trị pháp

17

lý quan trọng không những ràng buộc các bên ký kết là các quốc gia, các

vùng lãnh thổ có quy chế thuế quan độc lập mà còn là cơ sở pháp lý xác định

quyền, nghĩa vụ pháp lý cho các nhà đầu tư. Trong nhiều trường hợp, các thỏa

thuận này là căn cứ để các nhà đầu tư nước ngoài khởi kiện, yêu cầu trách

nhiệm của quốc gia bên ký kết là nước tiếp nhận đầu tư.

Như vậy, có thể hiểu rằng, hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh

vực viễn thông chịu sự điều chỉnh của ba cấu phần gồm: Pháp luật nước nhà

đầu tư, pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư và pháp luật quốc tế (hiệp định,

thỏa thuận, cam kết giữa nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư). Tuy nhiên,

do phạm vi luận văn đã giới hạn là chỉ tập trung nghiên cứu các pháp luật đầu

tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông theo quy định của pháp luật Việt

Nam nên tác giả không tìm hiểu hệ thống pháp luật nước tiếp nhận đầu tư,

pháp luật quốc tế (hiệp định song phương, đa phương, cam kết quốc tế giữa

quốc gia đầu tư và quốc gia tiếp nhận đầu tư).

Là nhà đầu tư Việt Nam, nhà đầu tư chịu sự điều chỉnh của pháp luật

Việt Nam khi tiến hành dự án đầu tư từ các chính sách, điều kiện đầu tư, quá

trình thực hiện đầu tư, kết thúc đầu tư… do hoạt động đầu ra nước ngoài liên

quan đến những vấn đề mà pháp luật Việt Nam phải điều chỉnh như chuyển

dịch tài sản qua biên giới, xuất nhập cảnh, yêu cầu bảo hộ công dân khi ở

nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài, nghĩa vụ về thuế... Ở Việt Nam,

hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông được quy định tại

các văn bản quy phạm pháp luật. Văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp là

Luật Đầu tư. Bên cạnh đó, các luật khác điều chỉnh như Luật Doanh nghiệp,

Luật Thương mại, Luật Chứng khoán, Luật các tổ chức tín dụng, Luật chuyển

giao công nghệ và các văn bản khác có liên quan.

Trên cơ sở giới hạn phạm vi trên, có thể khái quát rằng pháp luật

Việt Nam về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông là tổng thể

18

những quy định pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để điều

chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh của quá trình đầu tư ra nước ngoài

trong lĩnh vực viễn thông.

1.2.1.2. Đặc điểm pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

Thứ nhất, pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt

Nam. Hệ thống pháp luật về đầu tư ra nước ngoài nói chung cũng như trong

lĩnh vực viễn thông nói riêng của Việt Nam chỉ thực sự được quan tâm và chú

trọng trong giai đoạn thực hiện công cuộc phát triển, hội nhập kinh tế thế giới.

Pháp luật đầu tư ra nước ngoài đã từng bước được xây dựng, phát triển và

hoàn thiện theo hướng ngày càng đảm bảo hành lang pháp lý cho nhà đầu tư

trên nguyên tắc đảm bảo tự do, bình đẳng trong đầu tư kinh doanh, mở rộng

quyền đầu tư cho mọi chủ thể.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, pháp luật đầu tư ra nước ngoài

trong lĩnh vực viễn thông đã có một quá trình phát triển không ngừng, phù

hợp với các giai đoạn khác nhau của nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam đã từng

bước hoàn thiện hệ thống pháp luật đầu tư trong nước và đầu tư ra nước

ngoài, trong đó phải kế đến việc ban hành Luật Đầu tư 2005, Luật Đầu tư

2014 cùng với hệ thống các văn bản liên quan hướng dẫn thi hành.

Thứ hai, pháp luật về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông có

mối liên hệ chặt chẽ với nhiều chế định pháp luật về thuế, ngoại hối, lao

động,… Luật Đầu tư là văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động đầu

tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông, theo đó, pháp luật đầu tư quy định

các điều kiện, thủ tục đầu tư, các quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư,…Bên

cạnh đó, hoạt động đầu tư này còn chịu sự điều chỉnh của rất nhiều các luật

khác như Luật Doanh nghiệp, Luật các tổ chức tín dụng,…Hệ thống các quy

định của pháp luật trên đều là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo quyền và

nghĩa vụ của nhà đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong

19

lĩnh vực viễn thông.

Thứ ba, pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông được

xây dựng và hoàn thiện trên cơ sở phù hợp, tương thích với pháp luật quốc tế,

tạo cơ chế thông thoáng, cởi mở, thúc đẩy hoạt động đầu tư. Trước yêu cầu

tăng cường hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, pháp luật đầu tư ra nước

ngoài trong lĩnh vực viễn thông của Việt Nam phải luôn vận hành theo xu

hướng hội nhập, phù hợp với pháp luật quốc tế và pháp luật đầu tư của các

nước thế giới.

Thứ tư, pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông có

mối liên quan chặt chẽ đến chính sách an ninh quốc phòng của quốc gia. Xuất

phát từ những đặc trưng của lĩnh vực viễn thông, pháp luật đầu tư ra nước

ngoài trong lĩnh vực viễn thông được xây dựng phải đảm bảo phù hợp với

chính sách an ninh quốc phòng quốc gia bên cạnh chính sách kinh tế.

1.2.1.3. Nội dung pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn

thôngXét tổng thể, pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong

lĩnh vực viễn thông theo quy định của pháp luật Việt Nam tại Luật Đầu tư bao

gồm những nội dung cơ bản như sau: Quy định về chủ thể đầu tư; Quy định

về điều kiện đầu tư; Quy định về hình thức đầu tư; Quy định về thủ tục đầu

tư; Quy định về triển khai dự án đầu tư; Quy định về quản lý nhà nước.

- Quy định về chủ thể đầu tư: Đây là các quy định về các cá nhân tổ

chức thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh

vực viễn thông. Theo đó, để thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong

lĩnh vực viễn thông, nhà đầu tư phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về mặt chủ

thể theo quy định của pháp luật.

- Quy định về điều kiện đầu tư: Để được đầu tư ra nước ngoài trong

lĩnh vực viễn thông, điều kiện đầu tư đóng vai trò quan trọng, nhà đầu tư phải

đáp ứng các điều kiện cụ thể do nhà nước đưa ra để đảm bảo tính khả thi của

20

dự án đầu tư, đảm bảo các lợi ích của quốc gia. Về cơ bản, theo xu hướng hội

nhập kinh tế thế giới hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới ngày càng mở

rộng điều kiện đầu tư, nâng cao sức hút đối với hoạt động đầu tư này cũng

như đảm bảo quyền tự do hóa đầu tư của các nhà đầu tư.

- Quy định về hình thức đầu tư: Các hình thức đầu tư ra nước ngoài

trong lĩnh vực viễn thông rất đa dạng và phụ thuộc vào quy định của nước tiếp

nhận đầu tư. Về cơ bản, theo thông lệ quốc tế, pháp luật của các nước đều quy

định các hình thức đầu tư như liên doanh, mua lại, sáp nhập,…Các nhà đầu tư

có thể lựa chọn một trong các hình thức đầu tư phù hợp để thực hiện hoạt

động đầu tư của mình.

- Quy định về thủ tục đầu tư: Pháp luật đưa ra các quy định về trình tự,

thủ tục để nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài, các thủ tục cơ

bản như thủ tục chấp nhận chủ trương, thủ tục xin cấp, điều chỉnh, chấm dứt

hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài. Quy định về thủ

tục đầu tư đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của hoạt động đầu tư

ra nước ngoài. Nếu thủ tục đơn giản sẽ góp phần khuyến khích cho các nhà

đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư, còn nếu thủ tục đầu tư rườm rà sẽ tạo tâm

lý nản lòng các nhà đầu tư. Do đó để thúc đẩy hoạt động đầu tư, quy định về

thủ tục đầu tư cần đảm bảo đơn giản, hiệu quả.

- Quy định về triển khai dự án đầu tư: Pháp luật đầu tư ra nước ngoài

trong lĩnh vực viễn thông quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư

khi triển khai dự án đầu tư. Dù là nhà đầu tư ra nước ngoài hay nhà đầu tư

nước ngoài vào Việt Nam thì đều phải đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ

theo quy định của pháp luật.

- Quy định về quản lý nhà nước: Quy định về trách nhiệm quản lý nhà

nước trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Đây là

quy định quan trọng thể hiện vai trò của nhà nước trong việc quản lý hoạt

động đầu tư cũng như hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động đầu tư nhằm nâng cao hiệu

21

quả của hoạt động đầu tư.

1.2.2. Vai trò của pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

Thứ nhất, pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông là

cơ sở pháp lý đảm bảo thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh

vực viễn thông.

Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hoạt động đầu tư ra

nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông đã và đang là một trong những hoạt động

đầu tư ra nước ngoài thường xuyên và quan trọng. Cũng như các hoạt động đầu

tư khác, đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông có những khung pháp

lý để điều chỉnh và từng bước phát triển, hoàn thiện không ngừng theo từng

giai đoạn khác nhau. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

chỉ có thể được thực thi hiệu quả khi các quy định của pháp luật được quy định

rõ ràng và phù hợp. Pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

nếu được xây dựng một cách hiệu quả sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để thúc

đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông, góp phần xây

dựng môi trường pháp lý đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

Thứ hai, pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông là

công cụ để nhà nước quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực

viễn thông.

Pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông được áp dụng

bắt buộc đối với các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư này. Các nhà đầu tư

khi thực hiện hoạt động đầu tư phải đảm bảo tuân thủ đúng quy định của hệ

thống pháp luật điều chỉnh. Đầu tư ra nước ngoài giúp bổ sung vốn cho nền

kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư, do đó đặt ra yêu cầu quan trọng trong việc

quản lý và điều tiết việc kiểm soát dòng tiền chuyển ra nước ngoài của nhà

nước. Thông qua hệ thống pháp luật, việc quản lý nhà nước được dễ dàng và

hiệu quả hơn trên các phương diện như quản lý quá trình hoạt động của nhà

22

đầu tư, quá trình chuyển dịch vốn,... Do đó, đây là công cụ hữu hiệu và đắc

lực để nhà nước định hướng, giám sát cũng như quản lý hoạt động của các

chủ thể đầu tư.

Thứ ba, pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông là

công cụ để khuyến khích, hỗ trợ, đảm bảo quyền và lợi ích của nhà đầu tư khi

thực hiện hoạt động đầu tư.

Pháp luật cho phép các chủ thể có quyền đầu tư ra nước ngoài và bảo

đảm các lợi ích của chủ thể khi thực hiện hoạt động đầu tư. Bên cạnh đó, pháp

luật cũng đưa ra những nghĩa vụ đối với các chủ thể đầu tư khi thực hiện đầu

tư ra nước ngoài. Từ việc quy định này, các chủ thể dễ dàng tiếp cận, nắm bắt

và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, đảm bảo hoạt động đầu tư ra

nước ngoài tuân thủ đúng đường lối, chính sách của nhà nước cũng như các

quy định của pháp luật. Trên cơ sở được pháp luật bảo vệ, ghi nhận quyền lợi,

các nhà đầu tư sẽ có cơ sở mở rộng thị trường kinh doanh ra các nước khác

trên thế giới. Cùng với đó, các nước tiếp nhận đầu tư cũng không ngừng thu

hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Từ đó, tạo

cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư phù hợp

với bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay.

Thứ tư, pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông góp

phần đảm bảo việc thể chế hóa và thực thi các cam kết quốc tế về đầu tư, đảm

bảo hội nhập kinh tế thế giới.

Pháp luật đầu tư ra nước ngoài là lĩnh vực pháp luật chịu sự ảnh hưởng

và tác động của quá trình hội nhập kinh tế thế giới của các quốc gia. Khi các

quốc gia tham gia, ký kết các hiệp định song phương, đa phương về đầu tư thì

vấn đề đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư cũng như tạo lập môi trường

hợp tác đầu tư quốc tế luôn được quan tâm, chú trọng. Trên cơ sở đó, pháp

luật của mỗi quốc gia phải được xây dựng và hoàn thiện đảm bảo tính tương

23

thích với các hiệp định, điều ước quốc tế mà quốc gia đã cam kết tham gia.

Chính vì lẽ đó, vấn đề hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài nói chung

cũng như đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông nói riêng sẽ góp

phần đảm bảo việc thể chế hóa và thực thi các cam kết quốc tế về đầu tư, đảm

bảo hội nhập kinh tế thế giới.

Như vậy, pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông có

ý nghĩa quan trọng không những đối với những nhà đầu tư Việt Nam mà

còn có vai trò thiết yếu đối với sự phát triển, hội nhập kinh tế thế giới của

nước ta. Hệ thống pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

của Việt Nam cần được đảm bảo tính thống nhất, hiệu quả, góp phần hoàn

thiện môi trường pháp lý của hoạt động đầu tư ra nước ngoài, phù hợp với

thông lệ quốc tế về hoạt động đầu tư cũng như thúc đẩy quá trình hội kinh

tế quốc tế của Việt Nam.

1.2.3. Khái quát sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư ra

nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

Sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh

vực viễn thông gắn liền với sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư ra

nước ngoài. Pháp luật đầu tư ra nước ngoài ở Việt Nam từ khi hình thành và phát

triển đã trải qua một quá trình với những lần sửa đổi, bổ sung trên cơ sở phù hợp

với tình hình thực tế của đất nước và xu hướng phát triển chung của thế giới. Kể

từ khi được hình thành cho đến nay, có thể chia pháp luật đầu tư ra nước ngoài

thành 03 giai đoạn lớn như sau: Giai đoạn trước năm 2005; Giai đoạn từ năm

2005 đến năm 2014 và Giai đoạn từ năm 2014 đến nay.

1.2.3.1. Giai đoạn trước năm 2005

Việt Nam tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài đầu tiên năm 1989

với số vốn đăng ký là 563.000 USD [23, tr.145]. Đây được coi là dự án mở

đường cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài của nước ta. Trong một thời gian

24

dài sau đó, nước ta chưa có quy định pháp luật nào điều chỉnh bởi trong giai

đoạn này, đất nước còn nhiều khó khăn, hạn chế về nguồn vốn, trình độ khoa

học công nghệ...

Tuy nhiên, trước thực trạng một số doanh nghiệp Việt Nam đã tiến hành

hoạt động đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là một số doanh nghiệp đầu tư sang

Campuchia, Lào, Chính phủ đã ban hành văn bản dưới luật để hướng dẫn hoạt

động đầu tư ra nước ngoài. Sau 10 năm kể từ ngày dự án đầu tiên của doanh

nghiệp Việt Nam được cấp phép, Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14 tháng

4 năm 1999 của Chính phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp

Việt Nam (Nghị định số 22/1999/NĐ-CP) đã được ban hành chính thức điều

chỉnh vấn đề này. Nhằm triển khai Nghị định nêu trên, các bộ, ngành liên quan

đã ban hành các văn bản hướng dẫn hoạt động đầu tư ra nước ngoài như:

Thông tư số 01/2001/TT-NHNN ngày 19 tháng 01 năm 2001 của Ngân hàng

Nhà nước về việc hướng dẫn quản lý ngoại hối đối với đầu tư trực tiếp ra nước

ngoài của doanh nghiệp Việt Nam; Thông tư số 05/2001/TT-BKH ngày 30

tháng 8 năm 2001 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc hướng dẫn hoạt động

đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam; Thông tư số 97/2002/TT-

BTC ngày 24 tháng 10 năm 2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện nghĩa

vụ thuế đối với doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài,…

Nghị định số 22/1999/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn liên quan khác

được xem là khung pháp lý đầu tiên cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài của

doanh nghiệp Việt Nam, tạo điều kiện cho sự phát triển của các dự án đầu tư

ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam, ghi nhận sự trưởng thành của

doanh nghiệp Việt Nam trong xu hướng hội nhập nền kinh thế thế giới. Tuy

nhiên, sau 06 năm thực hiện, Nghị định này đã phát sinh những điểm không

phù hợp với tình hình hội nhập kinh tế thế giới như:

- Nhiều quy định trong Nghị định số 22/1999/NĐ-CP còn thiếu cụ thể,

đồng bộ và nhất quán; nhiều điều khoản không còn phù hợp; không bao quát

25

hết được sự đa dạng của các hình thức đầu tư ra nước ngoài.

- Thủ tục đầu tư phức tạp, rườm rà; thủ tục điều chỉnh giấy phép đầu tư

chưa rõ ràng; không ít quy định can thiệp quá sâu vào quá trình hoạt động sản

xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

- Thiếu các quy định về lĩnh vực khuyến khích đầu tư ra nước ngoài.

- Các quy định về chế độ báo cáo thông tin không phù hợp khiến thông

tin về tình hình đầu tư ra nước ngoài hầu như không được đề cập.

- Các văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư ra nước ngoài còn hạn

chế, chưa lường hết được những vấn đề phát sinh trong quá trình hình thành,

thẩm định, cấp phép và triển khai dự án.

- Các văn bản có liên quan đến đầu tư ra nước ngoài cũng chưa có các

quy định để tạo ra được cơ chế phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa cơ quan

chức năng của chính phủ như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước,

Bộ Tài chính với doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là trong khâu

triển khai dự án đầu tư… [23, tr.148].

- Các văn bản pháp lý được ban hành mới dừng lại ở cấp Nghị định của

Chính phủ do đó hiệu lực pháp lý chưa cao.

Trong giai đoạn này, dù đã có hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động

đầu tư ra nước ngoài, tuy nhiên trong lĩnh vực viễn thông chưa có dự án đầu

tư ra nước ngoài nào. Tuy nhiên, đây là hành lang pháp lý quan trọng để

phát triển hoạt động đầu tư ra nước ngoài đối với lĩnh vực viễn thông trong

giai đoạn sau.

1.2.3.2. Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2014

Trước yêu cầu hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài tại Nghị định

số 22/1999/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan, hoạt

động đầu tư ra nước ngoài đã được Quốc hội luật hóa tại Chương VIII Luật

Đầu tư 2005 (hiệu lực thi hành từ tháng 7 năm 2006). Sau một thời gian ngắn,

26

các văn bản khác có liên quan cũng đã được ban hành như: Nghị định số

108/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 22 tháng 9 năm 2006 hướng

dẫn thi hành quy định Luật Đầu tư 2005; Nghị định số 78/2006/NĐ-CP của

Chính phủ ban hành ngày 09 tháng 8 năm 2006 quy định về đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài; Thông tư số 10/2006/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt

Nam hướng dẫn các tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để đầu tư trực

tiếp ra nước ngoài; Quyết định số 1175/2007/QĐ-BKH ngày 10 tháng 10 năm

2007 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc ban hành mẫu các văn bản thực hiện

thủ tục đầu tư ra nước ngoài; Thông tư số 11/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính

ban hành ngày 19 tháng 01 năm 2010 hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế đối

với nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài; Thông tư số 104/2011/TT-

BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày 12 tháng 7 năm 2011 sửa đổi, bổ sung

Thông tư số 11/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày 19 tháng 01

năm 2010 hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà đầu tư Việt Nam

đầu tư ra nước ngoài;… Đặc biệt, trong giai đoạn này Thủ tướng Chính phủ

Nguyễn Tấn Dũng đã phê duyệt đề án “Thúc đẩy đầu tư của Việt nam ra nước

ngoài” theo Quyết định số 236/QĐ-TTg ngày 20 tháng 02 năm 2009. Đề án

đã tạo cơ sở cho các nhà đầu tư Việt Nam mạnh dạn hơn trong hoạt động đầu

tư ra nước ngoài và đặt ra những mục tiêu thúc đẩy hơn hoạt động đầu tư ra

nước ngoài, tăng cường các biện pháp, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động đầu

tư của doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài.

Các văn bản pháp luật được ban hành trong giai đoạn này mang ý nghĩa,

vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư ra

nước ngoài nói chung cũng như đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

nói riêng. Điều này thể hiện qua số lượng các dự án đầu tư ra nước ngoài trong

lĩnh vực viễn thông trong giai đoạn này có sự phát triển mạnh mẽ. Nội dung

các văn bản trên đã ghi nhận quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với hoạt

27

động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư; giảm các quy định không cần

thiết, trái với nguyên tắc tự do kinh doanh; quy định cụ thể hơn về quyền và

nghĩa vụ của nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, mối quan hệ giữa cơ

quan nhà nước và nhà đầu tư,… Đây cũng là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của

các dự án viễn thông đầu tư ra nước ngoài. Bên cạnh những kết quả đạt được,

sau gần 10 năm áp dụng thực hiện, hoạt động đầu tư ra nước ngoài cũng đã gặp

phải những tồn tại về mặt pháp lý, đặt ra yêu cầu phải sửa đổi bổ sung.

1.2.3.3. Giai đoạn từ năm 2014 đến nay

Hệ thống pháp luật đầu tư ra nước ngoài ngày càng được định hình và

tiếp tục được hoàn thiện rõ nét hơn trong giai đoạn này. Năm 2014, Quốc hội

đã thông qua Luật Đầu tư mới thay thế Luật Đầu tư 2005. Việc ban hành hệ

thống văn bản pháp luật về đầu tư ra nước ngoài về cơ bản đáp ứng được tính

cấp thiết, kịp thời và phù hợp với tình hình thực tiễn phát triển của Việt Nam.

Hệ thống pháp luật về đầu tư ra nước ngoài gồm các văn bản quy phạm pháp

luật điều chỉnh trực tiếp sau: Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ngày 26 tháng 11

năm 2014 của Quốc Hội; Luật số 03/2016/QH14 ngày 26 tháng 11 năm 2016

sửa đổi bổ sung Điều 6 và Phụ lục 4 về danh mục ngành, nghề đầu tư kinh

doanh có điều kiện của Luật Đầu tư 2014; Nghị định số 83/2015/NĐ-CP ngày

25 tháng 9 năm 2015 quy định về đầu tư ra nước ngoài; Nghị định số

135/2015/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2015 quy định về đầu tư gián tiếp ra

nước ngoài; Thông tư số 03/2018/TT-BKHĐT ngày 17/10/2018 Hướng dẫn

và ban hành mẫu văn bản thực hiện thủ tục đầu tư ra nước ngoài; Thông tư số

09/2019/TT-BKHĐT ngày 29/7/2019 sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều

khoản của các thông tư liên quan đến chế độ báo cáo định kỳ thuộc phạm vi

quản lý nhà nước và hệ thống thông tin báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư;

Thông tư số 12/2016/TT-NHNN ngày 29 tháng 6 năm 2016 của Ngân hàng

Nhà nước hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước

28

ngoài; và các văn bản liên quan khác.

Luật Đầu tư 2014 đã đánh dấu một sự phát triển mới, thuận lợi hơn

trong hoạt động kinh doanh. Nhiều quy định không phù hợp với thị trường ở

Việt Nam cũng như pháp luật quốc tế cũng được bãi bỏ, thủ tục thực hiện đơn

giản hơn, thời hạn xem xét hồ sơ dự án để được cấp phép cũng được rút ngắn

hơn. Luật cũng đã tạo ra môi trường pháp lý rộng rãi hơn đối với các nhà đầu

tư, tăng cường hơn quyền tự do kinh doanh. Đây được xem là sự hoàn thiện

đáng ghi nhận, tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho các nhà đầu tư viễn thông thực

hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

Hệ thống pháp luật đầu tư nói chung cũng ngày càng được hoàn thiện

hơn đặc biệt trong giai đoạn tiếp theo khi Quốc hội đã ban hành Dự thảo Luật

Đầu tư năm 2020 ngày 17/6/2020 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2021.

Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài được quy định cụ thể tại Chương V cũng

một số sự thay đổi đáng kể nhằm phù hợp hơn với thực tiễn hoạt động hoạt

29

động đầu tư hiện nay của nhà đầu tư.

Kết luận Chương 1

Qua việc nghiên cứu tìm hiểu tại Chương này, luận văn đã khái quát

một số vấn đề lý luận về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông và

pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông, cụ thể như sau:

Đối với các vấn đề lý luận về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn

thông, luận văn đã chỉ ra những khái niệm và đặc điểm và vai trò của đầu tư

ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Đối với các vấn đề lý luận của pháp

luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông, luận văn đã phân tích

khái niệm, vai trò và khái quát sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu

tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông.

Từ những nội dung trên có thể nhận thấy rằng hoạt động đầu tư ra nước

ngoài nói chung và trong lĩnh vực viễn thông nói riêng đã có sự phát triển và

đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Từ đó, đặt ra những yêu cầu điều

30

chỉnh của pháp luật trong hoạt động này.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI

TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG

2.1. Thực trạng quy định pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh

vực viễn thông

Khi thực hiện dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông,

nhà đầu tư phải tuân thủ các quy định của pháp luật đầu tư, trực tiếp là Luật

Đầu tư 2014. Về cơ bản, Luật Đầu tư 2014 quy định về hoạt động đầu tư ra

nước ngoài nói chung và được áp dụng cho các lĩnh vực khác nhau. Trên cơ

sở quy định của Luật Đầu tư 2014, có thể khái quát quy trình thực hiện dự án

đầu tư ra nước ngoài nói chung cũng như lĩnh vực viễn thông nói riêng gồm:

(1) Chuẩn bị dự án; (2) Thực hiện thủ tục đầu tư; (3) Triển khai dự án. Bên

cạnh đó, Luật Đầu tư 2014 cũng quy định cụ thể trách nhiệm quản lý nhà

nước đối với hoạt động đầu tư này. Như vậy, khi thực hiện bất kỳ dự án đầu

tư ra nước ngoài nào, nhà đầu tư cũng phải tuân thủ đúng các quy định của

pháp luật về đầu tư ra nước ngoài nói chung.

Bên cạnh những quy định chung áp dụng cho các dự án đầu tư ra nước

ngoài trong các lĩnh vực khác nhau, Luật Đầu tư 2014 cũng có những quy

định riêng cụ thể trong từng lĩnh vực để đảm bảo phù hợp với đặc thù của

từng lĩnh vực đó. Đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông (ngoài ra

còn có lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, báo chí, phát thanh,

truyền hình) có điểm riêng so với các lĩnh vực khác về thẩm quyền quyết định

chủ trương đầu tư ra nước ngoài. Theo đó, đối với những dự án đầu tư trong

lĩnh vực viễn thông (ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, báo chí, phát thanh,

truyền hình) có vốn đầu tư từ 400 tỷ trở nên do Thủ tướng Chính phủ quyết

31

định chủ trương đầu tư và dự án dưới 400 tỷ không cần thực hiện thủ tục

quyết định chủ trương. Trong khi đó, đối với các lĩnh vực khác, Thủ tướng

Chính phủ quyết định chủ trương khi dự án có vốn đầu tư ra nước ngoài từ

800 tỷ đồng trở lên, dự án dưới 800 tỷ không cần thực hiện thủ tục quyết định

chủ trương. Đây là điểm riêng của đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn

thông so với hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung bởi đặc điểm, tính chất

đặc thù của lĩnh vực này.

Như vậy, dù có đặc điểm riêng điều chỉnh nêu trên, nhưng về cơ bản

hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông tuân thủ đúng các

quy định của hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung.

2.1.1. Quy định chuẩn bị dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực

viễn thông

2.1.1.1. Quy định về điều kiện đầu tư

Điều kiện đầu tư là một trong những yếu tố quan trọng khi chuẩn bị

thực hiện dự án đầu tư trong bất kỳ hoạt động đầu tư ra nước ngoài nào của

nhà đầu tư. Điều kiện đầu tư ra nước ngoài do nhà nước đặt ra nhằm điều

chỉnh những mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài. Do

đó, theo từng giai đoạn các điều kiện này có thể có sự thay đổi để phù hợp với

thực tế và quan điểm quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài của cơ quan có

thẩm quyền. Trên cơ sở những nội dung điều kiện đầu tư ra nước ngoài, cơ

quan nhà nước có thẩm quyền sẽ hướng dẫn nhà đầu tư phải chấp hành, cam

kết thực hiện đúng và đầy đủ các điều kiện khi thực hiện hoạt động đầu tư ra

nước ngoài, đồng thời đây là cơ sở để cơ quan nhà nước thực hiện chức năng

quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài, tạo ra sự ổn định và phát triển cho

nền kinh tế. Việc đưa ra những điều kiện đầu tư thống nhất này đối với nhà

đầu tư sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh

vực viễn thông của nhà đầu tư.

32

Pháp luật không quy định cụ thể về điều kiện đầu tư ra nước ngoài

trong lĩnh vực viễn thông. Tuy nhiên có thể thấy, đầu tư ra nước ngoài trong

lĩnh vực này cũng phải tuân theo đúng các quy định về điều kiện đầu tư nói

chung của một dự án đầu tư ra nước ngoài. Theo đó, tất cả các dự án đầu tư

đều phải đáp ứng điều kiện để được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra

nước ngoài. Luật Đầu tư 2014 có quy định về điều kiện cấp giấy chứng nhận

đăng ký đầu tư ra nước ngoài tại Điều 58, bao gồm:

Thứ nhất, hoạt động đầu tư ra nước ngoài phù hợp với nguyên tắc. Cụ

thể, các nguyên tắc thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài như sau:

- Nhà nước khuyến khích nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra

nước ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng xuất

khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao

năng lực quản lý và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

- Nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài phải tuân thủ quy

định của Luật Đầu tư 2014, quy định khác của pháp luật có liên quan, pháp

luật của quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư và điều ước quốc tế mà

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; tự chịu trách nhiệm về

hiệu quả hoạt động đầu tư ở nước ngoài.

Thứ hai, hoạt động đầu tư ra nước ngoài không thuộc ngành, nghề cấm

đầu tư kinh doanh. Các ngành nghề cấm đầu tư này được quy định thống nhất

theo những ngành nghề cấm kinh doanh tại Việt Nam để đảm bảo thống nhất

với quy định của pháp luật Việt Nam. Trong các ngành nghề cấm kinh doanh

này, viễn thông không thuộc danh mục ngành nghề cấm theo quy định.

Thứ ba, nhà đầu tư có cam kết tự thu xếp ngoại tệ hoặc được tổ chức tín

dụng được phép cam kết thu xếp ngoại tệ để thực hiện hoạt động đầu tư ra

nước ngoài; trường hợp khoản vốn bằng ngoại tệ chuyển ra nước ngoài tương

đương 20 tỷ đồng trở lên và không thuộc dự án phải có quyết định chủ trương

đầu tư ra nước ngoài thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư lấy ý kiến bằng văn bản của

33

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Thứ tư, có quyết định đầu tư ra nước ngoài. Theo đó, thẩm quyền quyết

định đầu tư ra nước ngoài đối với doanh nghiệp nhà nước thực hiện theo quy

định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất,

kinh doanh tại doanh nghiệp; thẩm quyền quyết định đầu tư ra nước ngoài đối

với các trường hợp khác do nhà đầu tư quyết định.

Thứ năm, Có văn bản của cơ quan thuế xác nhận việc thực hiện nghĩa

vụ nộp thuế của nhà đầu tư tính đến thời điểm nộp hồ sơ dự án đầu tư.

Như vậy, để thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực

viễn thông, nhà đầu tư phải đáp ứng toàn bộ các điều kiện trên. Đây là những

điều kiện cơ bản thể hiện trách nhiệm, cam kết của nhà đầu tư khi thực hiện

hoạt động đầu tư của mình.

Từ quy định trên, có thể nhận thấy rằng, quy định về điều kiện đầu tư ra

nước ngoài của Luật Đầu tư 2014 so với quy định tại Luật Đầu tư 2005 đã

khắc phục được một số hạn chế nhất định. Luật Đầu tư 2005 quy định để

được đầu tư ra nước ngoài theo hình thức đầu tư trực tiếp nhà đầu tư phải có

các điều kiện sau đây: Có dự án đầu tư ra nước ngoài; Thực hiện đầy đủ các

nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam; Được cơ quan nhà nước quản

lý đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Quy định này có một số điểm hạn chế

như: Điều kiện “Có dự án đầu tư ra nước ngoài” là quy định không cần thiết,

do trên thực tế nhà đầu tư phải có dự án đầu tư ra nước ngoài thì nhà đầu tư

mới thực hiện xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Như vậy, quy định về điều

kiện đầu tư ra nước ngoài của Luật Đầu tư 2014 đã cơ bản tạo điều kiện thông

thoáng cho cho đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh

vực viễn thông.

Dự thảo Luật Đầu tư 2020, đã có một số sửa đổi bổ sung đối với điều

kiện được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài. Theo đó, nhà

34

đầu tư phải đảm bảo điều kiện không thuộc ngành, nghề cấm đầu tư ra nước

ngoài và đáp ứng điều kiện đầu tư ra nước ngoài đối với ngành, nghề đầu tư ra

nước ngoài có điều kiện. Dự thảo Luật Đầu tư 2020 bổ sung thêm quy định về

ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh, bao gồm: ngành nghề cấm đầu tư kinh

doanh theo quy định của pháp luật; ngành, nghề có công nghệ, sản phẩm

thuộc đối tượng cấm xuất khẩu; ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh theo quy

định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư) và ngành nghề kinh doanh có điều

kiện gồm: ngân hàng; bảo hiểm; chứng khoán; báo chí, phát thanh, truyền

hình; kinh doanh bất động sản. Đây là một điểm mới cơ bản của dự thảo Luật

Đầu tư 2020 về đầu tư ra nước ngoài, tuy nhiên, đối với lĩnh vực viễn thông do

không thuộc ngành nghề cấm đầu tư và ngành nghề kinh doanh có điều kiện

nên các điều kiện đầu tư cơ bản không có sự thay đổi so với Luật Đầu tư 2014.

2.1.1.2. Quy định về chủ thể đầu tư

Pháp luật không đưa ra những điều kiện, quy định cụ thể nào về chủ thể

đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Do đó, chủ

thể đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông tuân thủ đúng các quy định

của pháp luật về chủ thể đầu tư ra nước ngoài. Qua từng giai đoạn khác nhau,

pháp luật về chủ thể đầu tư ra nước ngoài cũng được quy định khác nhau.

Nghị định số 22/1999/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành chỉ cho

phép nhà đầu tư là doanh nghiệp Việt Nam (không bao gồm doanh nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài), cụ thể gồm: Doanh nghiệp được thành lập theo Luật

Doanh nghiệp nhà nước; Hợp tác xã được thành lập theo Luật hợp tác xã;

Doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp. Đây được xem là quy

định không những làm hạn chế các nhà đầu tư muốn đầu tư ra nước ngoài mà

còn tạo sự bất bình đẳng giữa các nhà đầu tư. Tuy nhiên, Luật đầu tư 2005 và

các văn bản đầu tư có liên quan quy định chủ thể của quan hệ đầu tư ra nước

ngoài đã mở rộng cho tất cả các nhà đầu tư tại Việt Nam thuộc mọi thành

35

phần kinh tế, không phân biệt nhà đầu tư là doanh nghiệp hay nhà đầu tư

không là doanh nghiệp, không phân biệt nhà đầu tư có nguồn gốc vốn đầu tư

trong nước hay nhà đầu tư có nguồn gốc vốn đầu tư nước ngoài. Tất cả các

nhà đầu tư tại Việt Nam đều có quyền đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp

pháp từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư. Theo quy

định tại khoản 4 Điều 3 Luật Đầu tư 2005 nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực

hiện hoạt động đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp ra nước ngoài theo bao gồm:

Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo Luật doanh nghiệp;

Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập theo Luật hợp tác xã; Doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập trước khi Luật Đầu tư 2005 có hiệu

lực; Hộ kinh doanh, cá nhân; Tổ chức, cá nhân nước ngoài; người Việt Nam

định cư ở nước ngoài; người nước ngoài thường trú ở Việt Nam; Các tổ chức

khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Hiện nay, chủ thể đầu tư ra nước ngoài được quy định tại Luật Đầu tư

2014, cụ thể tại Khoản 13 Điều 13 có quy định “Nhà đầu tư là tổ chức, cá

nhân thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh, gồm nhà đầu tư trong nước, nhà

đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”. Nghị định

83/2015/NĐ-CP quy định về đầu tư ra nước ngoài, quy định chi tiết tại Khoản

1 Điều 2 về chủ thể đầu tư ra nước ngoài, theo đó nhà đầu tư Việt Nam đầu tư

trực tiếp ra nước ngoài (theo hình thức đầu tư: Thành lập tổ chức kinh tế theo

quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư; Thực hiện hợp đồng BCC ở

nước ngoài; Mua lại một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của tổ chức kinh tế ở

nước ngoài để tham gia quản lý và thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại

nước ngoài; Các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật nước tiếp

nhận đầu tư) bao gồm:

- Tổ chức kinh tế được thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.

- Hợp tác xã, liên hợp hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy

36

định của Luật Hợp tác xã.

- Tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật các Tổ chức

tín dụng.

- Hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật, cá nhân mang quốc tịch

Việt Nam.

- Các tổ chức khác thực hiện đầu tư kinh doanh theo quy định của pháp

luật Việt Nam.

Đối với hình thức đầu tư gián tiếp (Mua, bán chứng khoán, giấy tờ có

giá khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán, các định chế tài

chính trung gian khác ở nước ngoài) thì chủ thể đầu tư được quy định chi tiết

tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 135/2015/NĐ-CP quy định về đầu tư gián

tiếp ra nước ngoài, theo đó, nhà đầu tư gồm các đối tượng sau:

- Tổ chức kinh tế theo quy định tại Khoản 16 Điều 3 Luật Đầu tư 2014

(là tổ chức được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt

Nam, gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và các tổ chức khác

thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh).

- Cá nhân có quốc tịch Việt Nam thuộc đối tượng được tham gia chương

trình thưởng cổ phiếu phát hành ở nước ngoài.

Như vậy, chủ thể của quan hệ đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn

thông hiện nay được quy định cụ thể tại các văn bản pháp luật. Có thể nhận thấy

sự đa dạng về các chủ thể đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông, bao

gồm tất cả các nhà đầu tư tại Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, không

phân biệt nhà đầu tư là doanh nghiệp hay không phải doanh nghiệp, không phân

biệt nhà đầu tư nước ngoài hay trong nước. Đây là một trong những quy định mở

rộng của pháp luật Việt Nam, thể hiện tinh thần khuyến khích hoạt động đầu tư

ra nước ngoài phát triển, đặc biệt trong nền kinh tế hiện nay. Dự thảo Luật Đầu

tư 2020, về cơ bản các quy định về chủ thể đầu tư không có sự thay đổi so với

37

các quy định tại Luật Đầu tư 2014.

Tuy nhiên, với những đặc điểm cơ bản của đầu tư ra nước ngoài trong

lĩnh vực viễn thông thì cơ bản bên cạnh đáp ứng các điều kiện chủ thể theo

quy định của pháp luật, nhà đầu tư cần có tiềm lực về tài chính, khoa học

công nghệ, bí quyết kinh doanh, nguồn nhân lực... để đảm bảo thực hiện hoạt

động đầu tư của mình. Trên thực tế, các nhà đầu tư thực hiện đầu tư ra nước

ngoài trong lĩnh vực viễn thông tập trung chủ yếu là các doanh nghiệp, tập

đoàn viễn thông có kinh nghiệm, năng lực, nguồn lực tài chính,… tận dụng

những thế mạnh sẵn có của mình để đầu tư vào lĩnh vực này.

2.1.1.3. Quy định về hình thức đầu tư

Do đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông là hoạt động đầu tư

ra nước ngoài nên ngoài việc được quy định tại pháp luật Việt Nam, hình thức

đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông còn phụ thuộc rất nhiều vào

pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư quy định cho các nhà đầu tư nước ngoài

được đầu tư vào quốc gia họ theo hình thức đầu tư nào. Trên cơ sở đó, khi các

nhà đầu tư Việt Nam muốn tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong

lĩnh vực viễn thông thì bên cạnh việc tìm hiểu các quy định của Việt Nam nhà

đầu tư còn phải nghiên cứu và tìm hiểu kỹ các quy định về hình thức đầu tư

tại quốc gia mà nhà đầu tư muốn tiến hành và thực hiện hoạt động đầu tư này

để chuẩn bị và lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp với điều kiện thực tế của

nhà đầu tư.

Tuy mỗi quốc gia có quy định khác nhau nhưng nhìn chung, trên thế

giới tồn tại một số hình thức đầu tư cơ bản như sau:

- Doanh nghiệp liên doanh.

- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.

- Đầu tư theo hình thức hợp tác kinh doanh mà không thành lập pháp nhân.

- Đầu tư theo Hợp đồng BOT, BTO, BT.

38

- Hình thức chi nhánh Công ty ở nước ngoài.

- Đầu tư thông qua mua cổ phần, góp vốn.

Pháp luật Việt Nam cũng có những quy định cơ bản về hình thức đầu tư ra

nước ngoài tại Khoản 1 Điều 52 Luật Đầu tư 2014. Nhà đầu tư được đầu tư ra

nước ngoài không chỉ dưới hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mà còn hình

thức đầu tư gián tiếp nhằm mục đích thu lợi nhuận. Theo đó, nhà đầu tư thực hiện

hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài theo các hình thức sau đây như sau:

- Thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận

đầu tư.

- Thực hiện hợp đồng BCC ở nước ngoài.

- Mua lại một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của tổ chức kinh tế ở nước

ngoài để tham gia quản lý và thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại nước ngoài.

Nhà đầu tư cũng có thể đầu tư theo hình thức đầu tư gián tiếp: Mua,

bán chứng khoán, giấy tờ có giá khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư

chứng khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài.

Bên cạnh đó, do tính chất đa dạng của các hình thức đầu tư ra nước

ngoài theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư mà pháp luật đầu tư

Việt Nam cũng quy định theo hướng mở, ngoài các hình thức nêu trên thì nhà

đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo các hình thức đầu tư

khác theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.

So với quy định của Luật Đầu tư năm 2005 và Nghị định số 78/2006/NĐ-

CP của Chính phủ ban hành ngày 09/8/2006 quy định về đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài (Nghị định số 78/2006/NĐ-CP) thì về cơ bản các quy định đối với

hình thức đầu tư tại Luật Đầu tư 2014 không có sự thay đổi. Tuy nhiên, có thể

thấy rằng Luật Đầu tư 2014 đã có bước tiến đáng kể về việc quy định rõ các

hình thức đầu tư ra nước ngoài. Hình thức đầu tư ra nước ngoài tại Luật Đầu

tư 2005 và Nghị định số 78/2006/NĐ-CP không được quy định một cách

39

trực tiếp tại Chương quy định về đầu tư ra nước ngoài mà thông qua quy

định tại Điều 21 Luật Đầu tư 2005 để nhận thấy các hình thức đầu tư ra nước

ngoài. Luật Đầu tư 2014 đã quy định trực tiếp hình thức đầu tư ra nước

ngoài tại Điều 52 Chương V (Hoạt động đầu tư ra nước ngoài). Như vậy, có

thể thấy rằng, pháp luật đầu tư hiện hành đã được xây dựng trên tinh thần

coi trọng hơn vị trí, vai trò của hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong sự phát

triển kinh tế đất nước. Quy định về hình thức đầu tư ra nước ngoài tiếp tục

có sự hoàn thiện hơn tại dự thảo Luật Đầu tư 2020, theo đó, tại Điều 52 của Dự

thảo đã quy định một trong các hình thức đầu tư ra nước ngoài là “Đầu tư theo

hình thức hợp đồng ở nước ngoài” thay vì quy định đầu tư theo hình thức “Thực

hiện hợp đồng BCC ở nước ngoài” tại Luật Đầu tư 2014. Quy định này được

xem có tính khái quát, mở rộng và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế của các

nước trên thế giới.

Việc các nhà đầu tư lựa chọn hình thức đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh

vực viễn thông là rất quan trọng đối với dự án đầu tư do tính chất đặc thù của

ngành viễn thông đòi hỏi yêu cầu cao về năng lực, kinh nghiệm, tài chính bên

cạnh đó có rất nhiều vấn đề có thể ảnh hưởng, gây rủi ro đến hoạt động đầu tư

viễn thông. Trên thực tế, nhà đầu tư Việt Nam thường lựa chọn hợp tác với

các công ty viễn thông tại nước tiếp nhận đầu tư để thành lập tổ chức kinh tế

tại nước tiếp nhận đầu tư hoặc mua lại một phần vốn của tổ chức kinh tế ở

nước ngoài để tham gia quản lý và thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại

nước ngoài. Đối với những hình thức này, nhà đầu tư Việt Nam có thể tận

dụng được cơ sở hạ tầng, thương hiệu, kinh nghiệm,… của nhà đầu tư tại

nước tiếp nhận đầu tư, từ đó hạn chế được một số rủi ro có thể phát sinh trong

quá trình đầu tư. Bên cạnh đó, hình thức thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn

nhà đầu tư cũng được nhà đầu tư lựa chọn để đảm bảo quyền quản lý không bị

40

chi phối bởi bên thứ ba khác.

2.1.2. Quy định về thủ tục đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

Để tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông,

sau khi đảm bảo các điều kiện chuẩn bị dự án về điều kiện đầu tư, chủ thể đầu

tư, hình thức đầu tư,… thì nhà đầu tư phải được cơ quan nhà nước có thẩm

quyền cho phép theo quy định của pháp luật. Quy định của pháp luật về thủ

tục đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông là một trong những quy

định quan trọng đối với nhà đầu tư và đối với nhà nước. Thông qua đó, nhà

nước thể hiện ý chí của mình trong việc quản lý hoạt động đầu tư ra nước

ngoài trong lĩnh vực viễn thông.

Tùy theo từng dự án, tính chất, quy mô mà thủ tục đầu tư có những sự

khác nhau nhất định. Tuy nhiên, có thể phân thành hai thủ tục chính như sau:

- Thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài đối với dự

án thuộc diện phải có quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài: Trường

hợp này phân thành hai thủ tục khác nhau là thủ tục đối với dự án thuộc diện

Quốc hội quyết định chủ trương và thủ tục đối với dự án thuộc diện Chính

phủ quyết định chủ trương.

Theo đó, Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài đối với

các dự án đầu tư sau đây:

+ Dự án có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 20.000 tỷ đồng trở lên.

+ Dự án yêu cầu áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt cần được Quốc

hội quyết định.

Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài trong

lĩnh vực viễn thông đối với: Dự án có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 400 tỷ

đồng trở lên. Quy định này được quy định riêng đối với lĩnh vực viễn thông

cùng với các lĩnh vực như ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, báo chí, phát

thanh, truyền hình. Ngoài các lĩnh vực nêu trên thì các dự án khác chỉ thực

hiện xin Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài khi

41

dự án có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 800 tỷ đồng trở lên.

- Thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài đối với dự

án không thuộc diện phải có quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài: Áp

dụng đối với các dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông không

phải chấp nhận chủ trương đầu tư ra nước ngoài.

2.1.2.1. Quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra

nước ngoài đối với dự án thuộc diện phải có quyết định chủ trương đầu tư ra

nước ngoài

Thủ tục quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài là bước đầu tiên và

là tiền đề đối với các dự án thuộc diện phải xin quyết định chủ trương để thực

hiện các thủ tục tiếp theo đối với các dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh

vực viễn thông.

Hồ sơ, trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư được quy định

như sau:

Thứ nhất, về thành phần hồ sơ: Nhà đầu tư nộp hồ sơ dự án đầu tư cho

Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hồ sơ gồm có:

- Văn bản đăng ký đầu tư ra nước ngoài.

- Bản sao chứng minh nhân dân, thẻ căn cước hoặc hộ chiếu đối với

nhà đầu tư là cá nhân; bản sao Giấy chứng nhận thành lập hoặc tài liệu tương

đương khác xác nhận tư cách pháp lý đối với nhà đầu tư là tổ chức.

- Đề xuất dự án đầu tư gồm: Mục tiêu, quy mô, hình thức, địa điểm đầu

tư; xác định sơ bộ vốn đầu tư, phương án huy động vốn, cơ cấu nguồn vốn;

tiến độ thực hiện dự án, các giai đoạn đầu tư (nếu có); phân tích sơ bộ hiệu

quả đầu tư của dự án.

- Bản sao một trong các tài liệu chứng minh năng lực tài chính của nhà

đầu tư: Báo cáo tài chính 02 năm gần nhất của nhà đầu tư; cam kết hỗ trợ tài

chính của công ty mẹ; cam kết hỗ trợ tài chính của tổ chức tài chính; bảo lãnh

về năng lực tài chính của nhà đầu tư; tài liệu khác chứng minh năng lực tài

42

chính của nhà đầu tư.

- Cam kết tự cân đối nguồn ngoại tệ hoặc văn bản của tổ chức tín dụng

được phép cam kết thu xếp ngoại tệ cho nhà đầu tư.

- Quyết định đầu tư ra nước ngoài theo quy định.

Thứ hai, về trình tự thủ tục:

 Đối với các dự án thuộc diện Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương:

- Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án

đầu tư, Bộ Kế hoạch và Đầu tư gửi hồ sơ lấy ý kiến thẩm định của cơ quan

nhà nước có liên quan.

- Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đầu tư, cơ

quan được lấy ý kiến có ý kiến thẩm định về những nội dung thuộc thẩm

quyền quản lý.

- Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đầu tư, Bộ

Kế hoạch và Đầu tư tổ chức thẩm định và lập báo cáo thẩm định trình Thủ

tướng Chính phủ. Báo cáo thẩm định gồm các nội dung:

+ Điều kiện cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài quy định.

+ Tư cách pháp lý của nhà đầu tư; Sự cần thiết thực hiện hoạt động đầu

tư ở nước ngoài.

+ Sự phù hợp của dự án với nguyên tắc thực hiện hoạt động đầu tư

(nguyên tắc khuyến khích nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước

ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng xuất khẩu

hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng

lực quản lý và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội đất nước).

+ Những nội dung cơ bản của dự án: Quy mô, hình thức đầu tư, địa

điểm, thời hạn và tiến độ thực hiện dự án, vốn đầu tư, nguồn vốn.

+ Đánh giá mức độ rủi ro tại quốc gia đầu tư.

- Trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo thẩm định của Bộ

Kế hoạch và Đầu tư, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định chủ trương

43

đầu tư ra nước ngoài, gồm các nội dung:

+ Nhà đầu tư thực hiện dự án.

+ Mục tiêu, địa điểm đầu tư.

+ Vốn đầu tư, nguồn vốn đầu tư; tiến độ góp vốn, huy động vốn và tiến

độ thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài.

+ Ưu đãi và hỗ trợ đầu tư (nếu có).

 Đối với dự án Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư

- Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đủ hồ sơ dự án

đầu tư, Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo Thủ tướng Chính phủ thành lập Hội

đồng thẩm định nhà nước.

- Trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày thành lập, Hội đồng thẩm định nhà

nước tổ chức thẩm định và lập báo cáo thẩm định (gồm các nội dung quy

định: Điều kiện cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài quy định;

Tư cách pháp lý của nhà đầu tư; Sự cần thiết thực hiện hoạt động đầu tư ở

nước ngoài; Sự phù hợp của dự án với nguyên tắc thực hiện hoạt động đầu tư;

Những nội dung cơ bản của dự án: quy mô, hình thức đầu tư, địa điểm, thời

hạn và tiến độ thực hiện dự án, vốn đầu tư, nguồn vốn; Đánh giá mức độ rủi

ro tại quốc gia đầu tư).

- Chậm nhất 60 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội, Chính phủ

gửi Hồ sơ quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài đến cơ quan chủ trì

thẩm tra của Quốc hội. Hồ sơ gồm:

+ Tờ trình của Chính phủ.

+ Hồ sơ dự án đầu tư theo quy định.

+ Báo cáo thẩm định của Hội đồng thẩm định nhà nước.

+ Tài liệu khác có liên quan.

Quốc hội xem xét, thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư ra nước

ngoài, bao gồm các nội dung như sau: Nhà đầu tư thực hiện dự án; Mục tiêu,

44

địa điểm đầu tư; Vốn đầu tư, nguồn vốn đầu tư; tiến độ góp vốn, huy động

vốn và tiến độ thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài; Ưu đãi và hỗ trợ đầu

tư (nếu có). Nội dung trình tự, thủ tục và nội dung thẩm định chủ trương đầu

tư dự án đầu tư ra nước ngoài do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư được

hướng dẫn chi tiết bởi Mục 4 Chương IV Nghị định 131/2015/NĐ-CP của

Chính phủ ngày 25/12/2015 hướng dẫn về dự án trọng điểm quốc gia.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản quyết

định chủ trương đầu tư đối với các dự án đầu tư thuộc diện phải quyết định

chủ trương đầu tư ra nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng

nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài cho nhà đầu tư.

2.1.2.2. Quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra

nước ngoài đối với dự án không thuộc diện phải có quyết định chủ trương đầu

tư ra nước ngoài

Các dự án không thuộc trường hợp diện phải quyết định chủ trương đầu

tư ra nước ngoài, nhà đầu tư nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đăng ký

đầu tư cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Hồ sơ bao gồm:

- Văn bản đăng ký đầu tư ra nước ngoài.

- Bản sao chứng minh nhân dân, thẻ căn cước hoặc hộ chiếu đối với

nhà đầu tư là cá nhân; bản sao Giấy chứng nhận thành lập hoặc tài liệu tương

đương khác xác nhận tư cách pháp lý đối với nhà đầu tư là tổ chức.

- Quyết định đầu tư ra nước ngoài.

- Văn bản cam kết tự cân đối nguồn ngoại tệ hoặc văn bản của tổ chức

tín dụng được phép cam kết thu xếp ngoại tệ cho nhà đầu tư.

Trường hợp dự án có vốn đăng ký chuyển ra nước ngoài bằng ngoại tệ

tương đương 20 tỷ đồng trở lên thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư lấy ý kiến bằng

văn bản của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong thời hạn 07 ngày làm việc

kể từ ngày nhận được văn bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam có ý kiến bằng văn bản gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Quá thời

45

hạn trên mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư không nhận được văn bản trả lời, thì

được hiểu là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chấp thuận hồ sơ dự án đầu tư

đối với những nội dung thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước được phân công.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước

ngoài trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định. Trường

hợp từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài thì phải thông

báo cho nhà đầu tư bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Bên cạnh việc quy định thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra

nước ngoài, Luật Đầu tư 2014 (Điều 62) quy định về việc chấm dứt dự án đầu

tư ra nước ngoài trong các trường hợp như sau: Nhà đầu tư quyết định chấm

dứt hoạt động của dự án; Hết thời hạn hoạt động của dự án đầu tư; Theo các

điều kiện chấm dứt hoạt động được quy định trong hợp đồng, điều lệ doanh

nghiệp; Nhà đầu tư chuyển nhượng toàn bộ vốn đầu tư ở nước ngoài cho nhà

đầu tư nước ngoài; Quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày được cấp Giấy chứng

nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài mà dự án đầu tư không được nước tiếp

nhận đầu tư chấp thuận, hoặc quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày dự án đầu tư

được cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư chấp thuận mà dự án

đầu tư không được triển khai; Quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày được cấp

Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mà nhà đầu tư không thực hiện hoặc không

có khả năng thực hiện dự án theo tiến độ đăng ký với cơ quan quản lý nhà

nước và không thực hiện thủ tục điều chỉnh tiến độ đầu tư; Quá thời hạn 12

tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý

tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư mà nhà đầu

tư không có văn bản báo cáo về tình hình hoạt động của dự án đầu tư; Tổ

chức kinh tế ở nước ngoài bị giải thể hoặc phá sản theo quy định của pháp

luật nước tiếp nhận đầu tư; Theo bản án, quyết định của Tòa án, Trọng tài.

Trong trường hợp dự án đầu tư chấm dứt hoạt động do nhà đầu tư chủ

46

động chấm dứt hoặc do các tình huống khác, nhà đầu tư phải thực hiện đầy đủ

các thủ tục chấm dứt dự án tại nước ngoài theo quy định của pháp luật nước

tiếp nhận đầu tư, thực hiện thanh lý dự án đầu tư và nộp hồ sơ đăng ký chấm

dứt hiệu lực giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài tại Bộ Kế hoạch và

Đầu tư. Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định chấm dứt hiệu lực và thu hồi giấy

chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài để chấm dứt toàn bộ quyền và nghĩa

vụ của nhà đầu tư. Nội dung cụ thể được quy định tại Điều 25 Nghị định

83/2015/NĐ-CP, đây là bước tiến mới so với nghị định số 78/2006/NĐ-CP về

thủ tục chấm dứt dự án, nêu rõ trường hợp hết thời hạn hoạt động của dự án

theo quy định của pháp luật quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư mà nhà

đầu tư không làm thủ tục gia hạn hoặc không được gia hạn hoạt động đầu tư.

Như vậy, trong việc thực hiện các thủ tục đầu tư ra nước ngoài, pháp

luật hiện hành đã có sự thay đổi tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư ra nước

ngoài. Theo đó, doanh nghiệp không cần làm thủ tục để được cấp Giấy chứng

nhận đầu tư mà thay vào đó là thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.

Đây là quy định thể hiện sự tôn trọng quyền tự do kinh doanh, đầu tư của nhà

đầu tư theo hướng nhà nước chỉ xác nhận các hoạt động đầu tư kinh doanh ra

nước ngoài của nhà đầu tư thông qua việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu

tư ra nước ngoài thay thế cho Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài đã từng

được sử dụng theo quy định Luật Đầu tư 2005 và các văn bản hướng dẫn thi

hành. Thủ tục thẩm tra đối với dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn

thông có vốn đầu tư dưới 400 tỷ cũng được miễn. Quy định này được xem là

thông thoáng, đơn giản, minh bạch hơn rất nhiều và tạo điều kiện cho nhà đầu

tư trong việc đăng ký đầu tư ra nước ngoài. Thủ tục chấm dứt dự án cũng có

những sự thay đổi tạo điều kiện đảm bảo việc thực hiện dự án của nhà đầu tư.

Tại Dự thảo Luật Đầu tư 2020, về cơ bản các quy định về trình tự, thủ tục

xin giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài không có sự thay đổi so với

47

các quy định tại Luật Đầu tư 2014. Tuy nhiên, dự thảo Luật Đầu tư 2020 thu hẹp

hơn các trường hợp nhà đầu tư phải thực hiện điều chỉnh giấy chứng nhận đăng

ký đầu tư ra nước ngoài. Đây được xem là một trong những quy định thông

thoáng hơn cho nhà đầu tư trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư.

2.1.3. Quy định về triển khai dự án đầu tư đầu tư ra nước ngoài

trong lĩnh vực viễn thông

Pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông bên cạnh quy

định những quyền lợi của nhà đầu tư thì cũng đặt ra những nghĩa vụ của nhà

đầu tư khi triển khai dự án đầu tư. Đây là những nội dung quan trọng trong quá

trình triển khai dự án đầu tư thể hiện quyền và nghĩa vụ đặc thù của nhà đầu tư

trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài. So với các quy định của Luật Đầu tư

2005 và các văn bản khác có liên quan thì pháp luật đầu tư hiện hành quy định

về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư trong từng quy định của quá trình triển

khai dự án đầu tư thay vì quy định trực tiếp quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư.

2.1.3.1. Quyền của nhà đầu tư

Để đảm bảo việc thực hiện dự án đầu tư thì việc ghi nhận các quyền

của nhà đầu tư là tất yếu. Luật Đầu tư 2014 cùng các văn bản pháp luật khác

có liên quan ra đời đã không ngừng khuyến khích hoạt động đầu tư ra nước

ngoài, mở rộng thị trường kinh doanh ra các nước khác trên thế giới.

Một trong những quyền quan trọng của nhà đầu tư khi thực hiện triển

khai dự án đầu tư đó là quyền chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài.

Theo quy định của Điều 64 Luật Đầu tư 2014, để có thể thực hiện việc

chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư thì nhà đầu tư

phải đáp ứng các điều kiện sau:

- Đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài, trừ

trường hợp chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài dưới dạng chuyển ngoại tệ, hoặc

thiết bị, máy móc, hàng hóa ra nước ngoài để đáp ứng các chi phí cho hoạt

động hình thành dự án đầu tư (phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu, khảo

48

sát, thăm dò thị trường và thực hiện hoạt động chuẩn bị đầu tư khác).

- Nhà đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư

chấp thuận hoặc cấp phép hoạt động đầu tư. Trường hợp chưa được cấp phép

hoặc chấp nhận đầu tư do hạn chế của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư không

quy định cụ thể về hoạt động đầu tư này thì nhà đầu tư cũng cần cung cấp tài

liệu chứng minh quyền hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư này.

- Nhà đầu tư đã có tài khoản vốn đầu tư theo quy định để thực hiện

chuyển tiền từ Việt Nam ra nước ngoài.

Về nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài, theo Điều 53 Luật Đầu tư 2014:

(1) Nhà đầu tư chịu trách nhiệm góp vốn và huy động các nguồn

vốn để thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài. Việc vay vốn bằng

ngoại tệ, chuyển vốn đầu tư bằng ngoại tệ phải tuân thủ điều kiện

và thủ tục theo quy định của pháp luật về ngân hàng, về các tổ chức

tín dụng, về quản lý ngoại hối; (2) Căn cứ mục tiêu của chính sách

tiền tệ, chính sách quản lý ngoại hối trong từng thời kỳ, Ngân hàng

Nhà nước Việt Nam quy định việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân

hàng nước ngoài tại Việt Nam cho nhà đầu tư vay vốn bằng ngoại tệ

theo quy định nêu trên để thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

Như vậy có thể thấy, việc chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài tại Luật

Đầu tư 2014 vẫn mang tính chất chung chung, chỉ nêu những nguyên tắc của

việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài trước khi có Giấy chứng nhận đăng ký đầu

tư ra nước ngoài để nghiên cứu, chuẩn bị dự án đầu tư theo quy định của pháp

luật về quản lý ngoại hối và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Tuy nhiên, để cụ thể hóa nội dung này, Nghị định 83/2015/NĐ-CP đã quy

định cụ thể các trường hợp được phép chuyển vốn ra nước ngoài, việc tuân

thủ các quy định của pháp luật chuyên ngành, hạn mức chuyển ngoại tệ.

Riêng đối với việc chuyển ngoại hối, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ban

49

hành Thông tư 12/2016/TT-NHNN, ngày 29/6/2016 về quản lý ngoại hối đối

với hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Thông tư này quy định cụ thể về việc mở,

sử dụng tài khoản vốn đầu tư bằng ngoại tệ, bằng tiền Việt Nam; đăng ký,

đăng ký thay đổi giao dịch ngoại hối liên quan hoạt đầu tư ra nước ngoài; việc

chuyển ngoại tệ ra nước ngoài trước khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký

đầu tư ra nước ngoài...

Cùng với việc quy định để nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài

thì pháp luật hiện hành cũng quy định cụ thể việc sử dụng phần lợi nhuận thu

được từ hoạt động đầu tư ở nước ngoài. Theo đó, nhà đầu tư có quyền sử

dụng lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư ở nước ngoài để tăng vốn, mở

rộng hoạt động đầu tư ở nước ngoài hoặc dùng lợi nhuận thu được từ dự án

đầu tư ở nước ngoài để thực hiện dự án đầu tư khác ở nước ngoài.

Bên cạnh đó, Nghị định 83/2015/NĐ-CP cũng quy định về quyền của

nhà đầu tư trong việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại dự án đầu

tư ở nước ngoài. Theo đó, nhà đầu tư được tuyển dụng lao động Việt Nam đi

làm việc cho dự án đầu tư của mình ở nước ngoài theo quy định của pháp luật

lao động của Việt Nam và của quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư. Nhà

nước không giới hạn cụ thể mà phụ thuộc vào quy định của quốc gia tiếp nhận

đầu tư. Chẳng hạn, nhiều quốc gia như Haiti, Lào có quy định về việc giới

hạn người lao động của Việt Nam sang làm việc tại nước đó, đồng thời quy

định rõ tỷ lệ người lao động Việt Nam và người lao động tại nước tiếp nhận

đầu tư. Như đối với quy định của pháp luật Haiti, người lao động Việt Nam

làm việc tại doanh nghiệp của Haiti không vượt quá 05% tổng số lao động.

Với những quy định như trên thì nhà đầu tư Việt Nam phải đảm bảo tuân thủ

đầy đủ quy định của nước tiếp nhận đầu tư trong việc sử dụng lao động này.

2.1.3.2. Nghĩa vụ của nhà đầu tư

Cùng với việc ghi nhận quyền của nhà đầu tư thì nghĩa vụ của nhà đầu

50

tư cũng được đặt ra, các nghĩa vụ của nhà đầu tư như sau:

- Nhà đầu tư phải mở tài khoản vốn riêng để thực hiện giao dịch chuyển

tiền từ Việt Nam ra nước ngoài và từ nước ngoài vào Việt Nam liên quan đến

hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Tài khoản vốn riêng được mở tại một tổ chức

tín dụng được phép tại Việt Nam và phải đăng ký tại Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối.

- Trừ trường hợp sử dụng lợi nhuận để đầu tư ở nước ngoài, trong thời

hạn 06 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị

pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà

đầu tư phải chuyển toàn bộ lợi nhuận thu được và các khoản thu nhập khác từ

đầu tư ở nước ngoài về Việt Nam. Trong thời hạn quy định tại này mà nhà

đầu tư chưa chuyển lợi nhuận và các khoản thu nhập khác về Việt Nam, nhà

đầu tư phải có văn bản báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam. Thời hạn chuyển lợi nhuận về nước được gia hạn không quá

hai lần, mỗi lần không quá 06 tháng và phải được Bộ Kế hoạch và Đầu tư

chấp thuận bằng văn bản.

- Bên cạnh đó, Nhà đầu tư phải thực hiện nghĩa vụ báo cáo bằng văn

bản và thông qua Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư theo quy định sau:

+ Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày dự án đầu tư được chấp thuận

hoặc cấp phép theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư

phải gửi thông báo bằng văn bản về việc thực hiện hoạt động đầu tư ở nước

ngoài kèm theo bản sao văn bản chấp thuận dự án đầu tư hoặc tài liệu chứng

minh quyền hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư cho Bộ Kế hoạch và

Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Cơ quan đại diện Việt Nam tại nước

tiếp nhận đầu tư;

+ Định kỳ hàng quý, hàng năm, nhà đầu tư gửi báo cáo tình hình hoạt

động của dự án đầu tư cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt

51

Nam, Cơ quan đại diện Việt Nam tại nước tiếp nhận đầu tư;

+ Trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc

văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp

nhận đầu tư, nhà đầu tư báo cáo tình hình hoạt động của dự án đầu tư kèm theo

báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương

đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư gửi Bộ Kế hoạch và

Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính, Cơ quan đại diện Việt

Nam tại nước tiếp nhận đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền

theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.

+ Đối với dự án đầu tư ra nước ngoài có sử dụng vốn nhà nước, ngoài

việc thực hiện chế độ báo cáo định kỳ nêu trên, nhà đầu tư phải thực hiện chế

độ báo cáo đầu tư theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà

nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp.

Ngoài những nghĩa vụ trên, Nghị định 83/2015/NĐ-CP cũng quy định

một số nghĩa vụ của nhà đầu tư như sau:

- Nghĩa vụ tài chính: Nhà đầu tư có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các

nghĩa vụ tài chính phát sinh liên quan đến dự án đầu tư ra nước ngoài đối với

nhà nước Việt Nam theo quy định của pháp luật về thuế.

- Nghĩa vụ liên quan đến người lao động khi làm việc tại dự án đầu tư ở

nước ngoài: Nhà đầu tư phải thực hiện đầy đủ các thủ tục theo quy định của

pháp luật về việc đưa lao động Việt Nam làm việc cho dự án đầu tư tại nước

ngoài; đồng thời bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người lao động Việt Nam ở

nước ngoài; chịu trách nhiệm giải quyết các vấn đề phát sinh trong việc đưa

lao động Việt Nam làm việc cho dự án đầu tư tại nước ngoài và quy định khác

của pháp luật có liên quan.

Như vậy, có thể thấy rằng, trong quá trình triển khai dự án đầu tư thì

quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư luôn song song với nhau. Đây là một trong

những cách thức để nhà nước đảm bảo hoạt động đầu tư, quản lý hoạt động

52

của doanh nghiệp đầu tư. Các quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư tiếp tục được

ghi nhận và đảm bảo tại dự thảo Luật Đầu tư 2020, về cơ bản các quyền và

nghĩa vụ của nhà đầu tư tại dự thảo thực hiện theo đúng các quy định tại Luật

Đầu tư 2014. Tuy nhiên, dự thảo đã bổ sung và quy định rõ hơn về quyền của

nhà đầu tư trong việc sử dụng lợi nhuận để đầu tư ở nước ngoài, theo đó, nhà

đầu tư sẽ được giữ lại lợi nhuận từ đầu tư ở nước ngoài để tái đầu tư trong

trường hợp (1) tiếp tục góp vốn đầu tư ở nước ngoài trong trường hợp chưa

góp đủ vốn theo đăng ký; (2) tăng vốn đầu tư ra nước ngoài; (3) thực hiện dự

án đầu tư mới ở nước ngoài. Quy định này nhằm quy định cụ thể và đảm bảo

quyền lợi của nhà đầu tư hơn trong việc sử dụng lợi nhuận ở nước ngoài.

2.1.4. Quy định về quản lý nhà nước về đầu tư ra nước ngoài trong

lĩnh vực viễn thông

Quản lý nhà nước về đầu tư ra nước ngoài nói chung và đầu tư ra nước

ngoài trong lĩnh vực viễn thông nói riêng đóng vai trò quan trọng đối với bất

cứ quốc gia nào và pháp luật là một công cụ đắc lực để đảm bảo công tác

quản lý của nhà nước. Sự quản lý chặt chẽ và thống nhất cũng góp phần thúc

đẩy hoạt động này phát triển. Quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư ra

nước ngoài đã có những sự thay đổi, chuyển biến so với giai đoạn trước. Các

chính sách, hành lang pháp lý đang có sự chuyển đổi theo hướng tạo môi

trường đầu tư mở rộng, khuyến khích các nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu

tư trong khuôn khổ pháp luật.

Trách nhiệm quản lý nhà nước về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh viễn

thông theo quy định của pháp luật Việt Nam, Chính phủ thống nhất quản lý

nhà nước về hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong phạm vi cả nước. Bộ Kế

hoạch và Đầu tư giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đầu tư từ

Việt Nam ra nước ngoài, trong đó có đầu tư viễn thông. Trách nhiệm của Bộ

Kế hoạch và Đầu tư trong quản lý nhà nước về đầu tư ra nước ngoài trong

53

lĩnh vực viễn thông thể hiện rõ nét nhất ở việc tổ chức thẩm định, đăng ký,

thẩm tra, cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; Kiểm tra,

thanh tra, giám sát theo thẩm quyền việc thực hiện các quy định của pháp luật

về đầu tư ra nước ngoài; giải quyết khiếu nại, tố cáo nếu có phát sinh...

Pháp luật cũng quy định trách nhiệm của các cơ quan có liên quan khác

như: Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương. Các cơ quan này tùy thuộc vào phạm vi thẩm quyền mà có trách

nhiệm cụ thể về quản lý dự án đầu tư viễn thông ở nước ngoài.

Trong việc hỗ trợ nhà đầu tư ở nước ngoài, cơ quan đại diện Việt Nam

ở nước ngoài là đầu mối phối hợp với các cơ quan của Việt Nam ở nước

ngoài theo dõi và hỗ trợ các nhà đầu tư trong việc chấp hành các quy định

pháp luật của quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư; bảo vệ quyền lợi hợp

pháp của nhà đầu tư ở nước ngoài; thông qua đường ngoại giao, đề xuất và

kiến nghị chính quyền nước sở tại hỗ trợ, tạo điều kiện và tháo gỡ khó khăn

cho các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện dự án đầu tư ở nước ngoài phù

hợp với các quy định tại Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; hỗ trợ Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc xác

minh thông tin liên quan đến hoạt động đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam trên

địa bàn quản lý khi có yêu cầu.

Bên cạnh các hoạt động quản lý nhà nước trên, việc thanh tra, kiểm tra,

giám sát, đánh giá dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông thực

hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra, kiểm tra, giám sát và đánh giá

đầu tư. Tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định của pháp luật đầu tư ra nước

ngoài thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý hành

chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường

theo quy định của pháp luật.

Các quy định của pháp luật hiện hành về quản lý nhà nước về đầu tư ra

54

nước ngoài đối với đầu tư viễn thông so với Luật Đầu tư 2005 và các văn bản

hướng dẫn thi hành liên quan thì việc quy định trách nhiệm của cơ quan đại

diện Việt Nam ở nước ngoài là một điểm mới. Cơ quan đại diện Việt Nam ở

nước ngoài là một trong những cơ quan đầu mối có khả năng nắm bắt thông

tin, hỗ trợ và bảo vệ nhà đầu tư tại nước sở tại kịp thời nhất. Thông qua việc

quy định trách nhiệm của cơ quan này, các nhà đầu tư có cơ chế đầu mối hỗ

trợ hiệu quả đồng thời phát huy được vai trò của quản lý nhà nước đối với

hoạt động đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài. Các quy định về quản lý nhà

nước tiếp tục được quy định tại dự thảo Luật Đầu tư 2020, về cơ bản các quy

định này không có sự thay đổi so với các quy định tại Luật Đầu tư 2014.

Sự phân công trách nhiệm và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước

trong việc quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn

thông sẽ tạo nên một cơ chế quản lý chặt chẽ, tránh sự chồng chéo trong

quản lý và tránh tình trạng đầu tư tự do không có sự kiểm soát, gây thất

thoát cho nền kinh tế.

2.2. Quy định về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

trong hiệp định quốc tế

Do phạm vi luận văn đã giới hạn chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật đầu

tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông theo quy định của pháp luật Việt

Nam nên tác giả không tìm hiểu hệ thống pháp luật nước tiếp nhận đầu tư,

pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, xuất phát từ tầm quan trọng của các hiệp định,

thỏa thuận, cam kết giữa Việt Nam với nước tiếp nhận đầu tư mà khi thực

hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung cũng như trong lĩnh vực viễn

thông nói riêng không thể không đề cập tới các văn bản quốc tế nêu trên. Việc

áp dụng các hiệp định quốc tế cũng đã được ghi nhận tại Luật Điều ước quốc

tế 2016, theo đó, trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế

mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác

55

nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ

Hiến pháp. Do đó, bên cạnh việc nghiên cứu các quy định pháp luật đầu tư ra

nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam cần tìm hiểu một cách khái

quát một số hiệp định quốc tế để từ đó đánh giá sự tương thích của pháp luật

trong nước với quy định của các văn bản quốc tế.

Hiện nay, Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều hiệp định quốc tế trong

khuôn khổ WTO, ASEAN, đa phương và song phương khác. Một số hiệp

định quốc tế cơ bản có thể kể đến như sau:

 Trong khuôn khổ WTO

Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) ngày

07/11/2006. Đây được xem là một bước ngoặt đánh dấu sự hội nhập của nền

kinh tế Việt Nam. Các chính sách, pháp luật về đầu tư nước ngoài của Việt

Nam đã có nhiều biến chuyển tích cực và đóng vai trò lớn trong việc thu hút

đầu tư trong nước và mở cửa đầu tư ra nước ngoài. Trong khuôn khổ WTO,

Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định liên quan đến hoạt động đầu tư quốc tế,

có thể kể đến một số hiệp định như: Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên

quan đến thương mại (Hiệp định TRIMs); Hiệp định chung về thương mại và

dịch vụ (Hiệp định GATS);...

 Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (Hiệp

định TRIMs)

Tại Điều 1 Hiệp định TRIMs quy định phạm vi áp dụng như sau: “Hiệp

định này chỉ áp dụng đối với các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại

hàng hoá”. Theo đó, Hiệp định TRIMs chỉ quy định về các biện pháp đầu tư

liên quan đến thương mại bị cấm áp dụng chứ không bao trùm tất cả vấn đề

về đầu tư nước ngoài. Hiệp định TRIMs cấm các nước thành viên WTO ban

hành hoặc thực thi các biện pháp vi phạm nguyên tắc của WTO (nêu trong

Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT 1994) sau:

56

- Đối xử quốc gia

- Các hạn chế số lượng xuất khẩu, nhập khẩu trong WTO

Phụ lục của Hiệp định TRIMs liệt kê các ví dụ minh họa về các biện

pháp đầu tư có thể coi là vi phạm hai nhóm nguyên tắc nêu trên.

Như vậy, Hiệp định TRIMs cơ bản chỉ đề cập đến nghĩa vụ của các

nước không được ban hành các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại mà

không đề cập trực tiếp đến quyền của nhà đầu tư. Tuy nhiên, việc các nước

tuân thủ đầy đủ các quy định tại Hiệp định TRIMs sẽ mang lại lợi ích cho nhà

đầu tư. Đối với các nhà đầu tư Việt Nam, khi đầu tư ra nước ngoài cần lưu ý

đến các biện pháp bị cấm đã nêu hoặc minh họa trong Hiệp định TRIMs để có

cách thức bảo vệ lợi ích của mình khi bị vi phạm (Ví dụ như khiếu nại với

chính phủ nước nhận đầu tư hoặc thông tin cho chính phủ Việt Nam để có thể

tham vấn với nước nhận đầu tư nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu

tư Việt Nam).

 Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (Hiệp định GATS)

Hiệp định GATS quy định về các vấn đề liên quan đến thương mại và

dịch vụ, chủ yếu điều chỉnh phương thức cung ứng dịch vụ. Các nguyên tắc

và các điều khoản cơ bản của Hiệp định GATS được áp dụng để điều chỉnh

quyền tiếp cận thị trường, việc thành lập, quản lý hoạt động các hiện diện

thương mại của các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài…

Hiệp định GATS quy định một số nội dung như sau:

- Quy định việc thực hiện nguyên tắc đối xử quốc gia, nguyên tắc đối

xử tối huệ quốc (Hiệp định GATS yêu cầu các nước thành viên tuân thủ cam

kết của mình trong việc thực hiện tiếp cận thị trường, đối xử quốc gia, đối xử

tối huệ quốc).

- Quy định về loại bỏ các biện pháp hạn chế đầu tư.

- Điều chỉnh loại hình doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Theo đó, các

57

thành viên WTO không được đưa ra yêu cầu bắt buộc hình thức pháp nhân cụ

thể đối với nhà đầu tư (quốc gia thành viên không được gây trở ngại đối với

mong muốn của nhà đầu tư trong việc thành lập hiện diện thương mại bằng

một trong các hình thức như chi nhánh, liên doanh,…).

- Quy định về tự do trong việc di chuyển dòng vốn đầu tư.

 Trong khuôn khổ Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)

Cộng đồng kinh tế ASEAN được chính thức thành lập vào ngày

31/12/2015 và giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế khu vực.

Trong khuôn khổ cộng đồng kinh tế ASEAN, các vấn đề liên quan đến hoạt

đồng đầu tư nói chung được quy định tại Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN

(Hiệp định ACIA). Hiệp định ACIA được ký kết tháng 2/2009 và có hiệu lực

từ 29/3/2012 thay thế cho Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư ASEAN

(IGA) 1987 và Hiệp định Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) 1998. Mục tiêu của

Hiệp định ACIA là thiết lập chế độ đầu tư thông thoáng và cởi mở trong khu

vực ASEAN nhằm đạt mục tiêu sau cùng là hội nhập kinh tế. Theo đó, Hiệp

định ACIA có 49 điều và 02 phụ lục, bao gồm 04 nội dung chính là: Tự do

hóa đầu tư; Bảo hộ đầu tư; Thuận lợi hóa đầu tư; Xúc tiến đầu tư. Trong đó

một số nội dung cơ bản của ACIA như sau:

- Hiệp định ACIA đưa ra bảy nguyên tắc hướng dẫn chung cho các

thành viên, trong đó yêu cầu các nước thành viên cần không ngừng tự do hóa

nhằm đạt được môi trường tự do và mở cửa khu vực. Từ các nguyên tắc này,

đặt ra yêu cầu các nước thành viên có chính sách mở cửa nhằm hướng tới

mục tiêu tự do hóa của cộng đồng ASEAN.

- Quy định cho phép tự do hóa đối với bất kỳ lĩnh vực nào được các

nước thành viên nhất trí, nhằm cho phép tự do hóa một số lĩnh vực, dịch vụ

khác sẽ phát sinh trong tương lai.

58

- Hiệp định ACIA không quy định cụ thể về định nghĩa hay liệt kê các

biện pháp hạn chế đầu tư nhưng thay vào đó Hiệp định quy định việc loại bỏ

các biện pháp hạn chế đầu tư được thực hiện thông qua các quy định về áp

dụng nguyên tắc đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc.

- Hiệp định ACIA quy định cơ chế giải quyết tranh chấp trực tiếp giữa

nhà nước và nhà đầu tư.

Như vậy, có thể thấy rằng, Hiệp định ACIA được xem là hiệp định đầu

tư toàn diện với các quy tắc cải thiện môi trường đầu tư trở nên cạnh tranh,

minh bạch và thông thoáng hơn. Hiệp định ACIA được kỳ vọng sẽ thúc đẩy

tiến trình xây dựng một khu vực đầu tư tự do, mở cửa và hội nhập trong

ASEAN, qua đó góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng Cộng đồng kinh tế

chung ASEAN.

 Trong khuôn khổ các hiệp định đa phương và song phương khác.

 Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

(Hiệp định CPTPP)

Hiệp định CPTPP là một hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới,

gồm 11 nước thành viên là: Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản,

Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam. Đối với Việt

Nam, hiệp định này có hiệu lực từ ngày 14 tháng 01 năm 2019.

Các nội dung liên quan đến đầu tư được quy định tại Chương 9 của

hiệp định. Theo đó, hiệp định quy định khá toàn diện những nội dung liên

quan đến đầu tư qua biên giới, trong đó có nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, đối

xử quốc gia, quyền của nhà đầu tư, của nước tiếp nhận đầu tư, giải quyết tranh

chấp,… Hiệp định CPTPP đòi hỏi cao hơn về đầu tư trên các phương diện

như: Công khai, minh bạch; Quyền sở hữu trí tuệ; Lao động và quyền của

người lao động;…

Hiệp định CPTPP với mức độ tự do hóa cao cùng với những quy định

59

mở cửa thị trường, cắt giảm thuế quan và chú trọng hoạt động đầu tư sẽ có tác

động đến nền kinh tế của các nước thành viên. Với Việt Nam, việc ký kết hiệp

định này góp phần mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài, thu hút đầu tư từ các

nước khác vào Việt Nam đồng thời là cơ hội để các nhà đầu tư Việt Nam tìm

kiếm các thị trường đầu tư, phát triển hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

 Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam- EU (EVFTA)

Hiệp định EVFTA có hiệu lực vào ngày 01/8/2020 sau khi được Quốc

hội Việt Nam phê chuẩn. Sau Hiệp định CPTPP, việc Việt Nam tham gia ký

kết Hiệp định EVFTA góp phần thiết lập quan hệ đối tác bình đẳng, trên cơ sở

đôi bên cùng có lợi với một số nền kinh tế phát triển nhất thế giới.

Hiệp định EVFTA với 17 Chương, 8 Phụ lục, 02 Nghị định thư, 02

Biên bản ghi nhớ và 04 Tuyên bố chung điều chỉnh nhiều vấn đề bao gồm:

Thương mại hàng hóa (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị

trường), quy tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại, các biện pháp

kiểm dịch và vệ sinh an toàn thực phẩm, các hàng rào kỹ thuật trong thương

mại, thương mại dịch vụ (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị

trường), đầu tư, phòng vệ thương mại, cạnh tranh, doanh nghiệp nhà nước,

mua sắm của Chính phủ, sở hữu trí tuệ, thương mại và phát triển bền vững,

hợp tác và xây dựng năng lực, pháp lý - thể chế.

Các vấn đề về đầu tư được quy định tại chương 8 của hiệp định bao

gồm các cam kết về đầu tư nhằm đảm bảo môi trường đầu tư kinh doanh minh

bạch, thuận lợi. Hiệp định EVFTA quy định một số nội dung như sau:

- Quy định cụ thể về các cam kết về tự do hóa và mở cửa thị trường.

- Đưa ra nguyên tắc đối xử tối huệ quốc và nguyên tắc đối xử quốc gia.

Việt Nam và EU cam kết không phân biệt đối xử với các nhà đầu tư của bên

kia khi tìm kiếm cơ hội ở lãnh thổ của mình trên cơ sở dành cho nhà đầu tư đó

sự đối xử không kém thuận lợi hơn nhà đầu tư của nước mình hoặc nhà đầu tư

60

của nước thứ ba khác.

- Đưa ra cam kết không áp dụng các hạn chế về tiếp cận thị trường, các

yêu cầu hoạt động hay các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại hay

điều kiện hưởng ưu đãi…

- Quy định về việc giải quyết tranh chấp. Trong đó, hiệp định cho phép

nhà đầu tư nước ngoài có thể khởi kiện nhà nước, chính phủ kể cả khi chưa

cấp phép đầu tư.

EVFTA là một hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, mang lại

nhiều tác động tích cực đến nhiều mặt của nền kinh tế Việt Nam, tác động đến

tăng trưởng xuất nhập khẩu của Việt Nam sang thị trường Liên minh châu Âu

(EU) như: Mở cửa thị trường EU cho Việt Nam; thu hút đầu tư, chuyển dịch

cơ cấu sản xuất, xuất khẩu;…

Từ những nội dung khái quát về một số hiệp định quốc tế trên, có thể

nhận thấy rằng, có rất nhiều các hiệp định trong các khuôn khổ khu vực, đa

phương, song phương liên quan đến hoạt động đầu tư được ký kết và cơ bản

điều chỉnh một số vấn đề chung, có tác động đến khả năng nhà đầu tư nước

ngoài tham gia đầu tư vào một quốc gia như: Các quy định về đảm bảo đối xử

tối huệ quốc, đối xử quốc gia đối với nước thành viên; loại bỏ các rào cản

trong hoạt động đầu tư… Các quy định này đã có những tác động không nhỏ

trong việc thiết lập những tiêu chuẩn chung cho việc mở cửa thị trường, thực

hiện tự do hóa đầu tư. Các nước thành viên, khi tham gia hiệp định trên đều

phải thực hiện theo đúng cam kết của mình, đảm bảo các nguyên tắc đối xử

quốc gia, đối xử tối huệ quốc, xóa bỏ những biện pháp hạn chế đầu tư…

Những quy định quốc tế trên là cơ sở pháp lý quan trọng bảo vệ quyền

lợi của nhà đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung,

bởi lẽ trong rất nhiều trường hợp nhà đầu tư có thể kiện chính phủ nước tiếp

nhận đầu tư về việc vi phạm các cam kết quốc tế nêu trên. Một ví dụ đối với

61

trường hợp của Việt Nam bị nhà đầu tư nước ngoài khởi kiện trong quá trình

nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Công ty

DialAsie của Pháp đã khởi kiện Chính phủ Việt Nam ra trọng tài thường trực

tại La Haye, Hà Lan trên cơ sở Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư

Việt Nam- Pháp năm 1992. Theo đó, công ty này cho rằng Việt Nam đã vi

phạm nghĩa vụ đối xử công bằng và bình đẳng đối với dự án đầu tư theo quy

định tại hiệp định. Có thể thấy trong vụ án này Việt Nam đã bị nhà đầu tư

nước ngoài khởi kiện do vi phạm nghĩa vụ đối xử công bằng, một trong

những nội dung thường được quy định tại các hiệp định. Như vậy, các nhà

đầu tư Việt Nam khi thực hiện đầu tư ra nước ngoài cần nắm và vận dụng

hiệu quả các quy định trong các hiệp định quốc tế để bảo vệ quyền lợi ích của

mình khi thực hiện hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư.

Bên cạnh đó, các hiệp định này là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc

xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của các nước thành viên đảm bảo

tính tương thích với những cam kết quốc tế, từ đó thúc đẩy hoạt động đầu tư

giữa các nước thành viên, thúc đẩy hội nhập kinh tế thế giới. Đối với Việt

Nam, có thể thấy rằng trong những năm qua, Việt Nam đã nỗ lực trong việc

xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình, đảm bảo việc thực hiện

các cam kết về mở cửa thị trường tuân thủ các hiệp định, đồng thời cũng tạo

thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tại Việt Nam cũng như các nhà

đầu tư tại Việt Nam thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Theo đó, hệ thống pháp

luật đầu tư nói chung cũng như đầu tư ra nước ngoài nói riêng được hoàn

thiện không ngừng qua các giai đoạn, cụ thể là Luật Đầu tư 2014. So với Luật

Đầu tư 2005 và các văn bản pháp luật trước đó thì Luật Đầu tư 2014 đã có

những quy định mở rộng phạm vi, khuyến khích hoạt động đầu tư ra nước

ngoài, các quy định về việc chuyển tiền đầu tư ra nước ngoài cũng được quy

định cụ thể hơn, tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho nhà đầu tư thực hiện hoạt

62

động đầu tư nước ngoài, thủ tục đầu tư cũng có những thay đổi theo hướng tự

do hóa đầu tư, ví dụ như thay vì việc nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư ra nước

ngoài phải thực hiện thủ tục xin cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài

theo Luật Đầu tư 2005 thì Luật Đầu tư 2014 yêu cầu nhà đầu tư thực hiện thủ

tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài…Như vậy có thể thấy

rằng về cơ bản pháp luật đầu tư ra nước ngoài được quy định tại Luật Đầu tư

2014 ngày càng được hoàn thiện hơn để đảm bảo tính tương thích đối với các

hiệp định quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết và từ đó đặt ra yêu cầu không

ngừng hoàn thiện để đảm bảo sự phù hợp này. Bên cạnh hoàn thiện pháp luật

đầu tư ra nước ngoài thì cũng đặt ra yêu cầu hoàn thiện tổng thể đối với hệ

thống pháp luật liên quan. Đặc biệt, trong các hiệp định Thương mại tự do thế

hệ mới như Hiệp định CPTPP, Hiệp định EVFTA bên cạnh những cơ hội đầu

tư thì cũng có đặt ra những yêu cầu cần đáp ứng về các điều kiện, tiêu chuẩn

về lao động, môi trường, phát triển bền vững, sở hữu trí tuệ…khi thực hiện

hoạt động đầu tư.

2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh

vực viễn thông

Pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông kể từ khi ra đời

và phát triển đã trải qua quá trình với sự thay đổi và hoàn thiện không ngừng để

đảm bảo phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế hiện nay. Về cơ bản, hệ

thống văn bản điều chỉnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn

thông tương đối hoàn chỉnh. Luật Đầu tư 2014 đã đánh dấu mốc mới cho sự

phát triển của hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Bên cạnh đó là nghị định

83/2015/NĐ-CP và các văn bản liên quan trực tiếp đã có những hướng dẫn

mang tính cập nhật và có sự điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn đầu tư. Ngoài

ra các văn bản pháp luật có liên quan khác về hoạt động quản lý ngoại hối của

Ngân hàng Nhà nước,... cũng đã góp phần tạo nên một khung pháp lý ổn định

63

cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung cũng như đối với lĩnh vực viễn

thông nói riêng. Hệ thống pháp luật về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn

thông đã tạo các điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư; mở rộng và đảm

bảo quyền tự do kinh doanh hơn cho các nhà đầu tư; các thủ tục hành chính

đơn giản hóa hơn;... góp phần khuyến khích hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn phát sinh những tồn tại, hạn

chế, khó khăn cho hoạt động đầu tư của nhà đầu tư, cụ thể như sau:

 Về việc xây dựng chiến lược, chính sách đầu tư ra nước ngoài

Hiện nay ở nước ta chưa có những chính sách chiến lược tổng thể dài

hạn định hướng hoạt động đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư Việt Nam nói

chung cũng như đối với lĩnh vực viễn thông.

Năm 2009 có đề án “Thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài”

trong đó một số lĩnh vực được ưu tiên đầu tư như năng lượng, sản xuất điện

năng, khai thác tài nguyên thiên nhiên, thăm dò khai thác dầu khí, khoáng sản.

Đến Luật Đầu tư 2014 đã đưa ra nguyên tắc của hoạt động đầu tư ra nước

ngoài, theo đó nhà nước khuyến khích nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư

ra nước ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng

xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng

cao năng lực quản lý và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội đất

nước. Những sự thay đổi này phần nào khiến nhà đầu tư thiếu sự yên tâm khi

đầu tư bởi sự lo ngại những chính sách có thể tác động đến hoạt động đầu tư

của họ. Trong lĩnh vực viễn thông, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết

định số 32/2012/QĐ-TTg ngày 27/7/2012 về việc phê duyệt Quy hoạch phát

triển viễn thông quốc gia đến năm 2020. Cũng theo Quyết định này, Chính

phủ cũng đã có những quy định liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài

như: Tạo điều kiện về cơ chế, chính sách cho các tập đoàn, doanh nghiệp viễn

thông của Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, bên cạnh đó quy định trách nhiệm

64

của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc chủ trì, phối hợp với Bộ Thông tin và

Truyền thông, Bộ Tài chính trong việc xây dựng các cơ chế, chính sách thông

thoáng và thuận lợi cho việc đầu tư ra nước ngoài của các tập đoàn, doanh

nghiệp viễn thông của Việt Nam. Việc quy định này cũng phần nào thể hiện

sự khuyến khích của nhà nước trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài đối với

lĩnh vực viễn thông, tuy nhiên quy định cũng mới dừng lại ở việc khuyến

khích các tập đoàn, doanh nghiệp viễn thông mà chưa có tính khái quát và

chưa có định hướng giải pháp cụ thể để đảm bảo các nhà đầu tư có cơ sở định

hướng thực hiện rõ ràng đặc biệt trong những giai đoạn tiếp theo.

 Về hình thức đầu tư ra nước ngoài

Theo quy định của Luật Đầu tư 2014, các hình thức đầu tư được liệt kê

cụ thể. Bên cạnh việc liệt kê các hình thức đầu tư thì Luật Đầu tư cũng quy

định nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo “Các hình thức

đầu tư khác theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư”. Tại Khoản 1

Điều 46 Luật Doanh nghiệp 2014 cũng có quy định “Doanh nghiệp có quyền

lập chi nhánh, văn phòng đại diện ở trong nước và nước ngoài”. Đồng thời,

nội dung này được hướng dẫn tại Khoản 5 Điều 33 Nghị định 78/2015/NĐ-

CP ngày 14/9/2015 về đăng ký thành lập doanh nghiệp như sau: “Việc lập chi

nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp ở nước ngoài thực hiện theo quy

định của pháp luật nước đó. Trong thời hạn 30 ngày làm việc, kể từ ngày

chính thức mở chi nhánh, văn phòng đại diện ở nước ngoài, doanh nghiệp

phải thông báo bằng văn bản đến Phòng Đăng ký kinh doanh nơi doanh

nghiệp đã đăng ký. Kèm theo thông báo phải có bản sao hợp lệ Giấy chứng

nhận đăng ký hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc giấy tờ tương

đương để bổ sung thông tin về chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh

nghiệp trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp”. Ngoài ra, liên

quan đến việc thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, trên thực tế Nghị định

65

số 48/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 7 năm 1999 của Chính phủ quy định về

Văn phòng đại diện, Chi nhánh của thương nhân và của doanh nghiệp du lịch

Việt Nam ở trong nước, ở nước ngoài cũng điều chỉnh vấn đề này đã hết hiệu

lực, tuy nhiên trong suốt thời gian dài không có bất kỳ văn bản pháp luật nào

bãi bỏ hiệu lực của Nghị định này. Thực tế, phải đến tận ngày 01 tháng 02

năm 2019 Chính phủ mới ban hành Nghị định bãi bỏ một số văn bản quy

phạm pháp luật trong đó có Nghị định số 48/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 7

năm 1999. Trong suốt thời gian chưa có văn bản bãi bỏ của Chính phủ đã gây

khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện.

Như vậy, cùng về nội dung đầu tư ra nước ngoài, nhưng cả Luật Đầu tư

2014 và Luật Doanh nghiệp 2014 cùng đề cập đến vấn đề này, đã dẫn đến tình

trạng quy định pháp luật đầu tư ra nước ngoài thiếu sự chặt chẽ, thống nhất.

Bên cạnh hệ thống văn bản hướng dẫn cũng chưa có sự nhất quán cũng đã gây

những khó khăn nhất định đối với nhà đầu tư.

Ngoài ra, hình thức đầu tư được quy định tại Điều 52 Luật Đầu tư 2014

chưa thật sự phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn hoạt động đầu tư ra

nước ngoài của nhà đầu tư Việt Nam.

 Về điều kiện đầu tư: Đối với quy định về văn bản xác nhận của cơ

quan thuế về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của nhà đầu tư. Để thực hiện

thủ tục đầu tư ra nước ngoài nhà đầu tư cần nộp hồ sơ theo quy định. Trong

đó, có quy định về việc nhà đầu tư cần có văn bản xác nhận của cơ quan thuế

về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của nhà đầu tư. Đây cũng là một trong

những điều kiện để nhà đầu tư được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra

nước ngoài. Trên thực tế, do không có quy định về thời điểm xác nhận văn

bản này đã gây khó khăn cho nhà đầu tư, nhiều trường hợp nhà đầu tư phải

xác nhận lại nhiều lần khi thực hiện nộp hồ sơ dự án.

 Về thủ tục đầu tư

66

Thứ nhất, về thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước

ngoài: Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc cấp Giấy chứng nhận

đăng ký đầu tư ra nước ngoài chưa được phân cấp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư là

cơ quan duy nhất cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài cho tất

cả các dự án cũng là một trong những hạn chế đối với các doanh nghiệp ở địa

phương tốn thời gian chờ Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp phép.

Thứ hai, thủ tục xin cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài

gây một số khó khăn, vướng mắc cho nhà đầu tư do thời gian cấp vẫn còn dài

và qua nhiều các cơ quan, bộ ngành.

Thủ tục hành chính đối với các dự án cần quyết định chủ trương vẫn

chưa thật sự đơn giản và tốn nhiều thời gian. Dự án thuộc thẩm quyền quyết

định chủ trương của Quốc hội mất khoảng 160 ngày, dự án thuộc thẩm

quyền quyết định chủ trương của Chính phủ khoảng trên 60 ngày, dự án

không thuộc diện phải xin chủ trương thì ngắn hơn và mất khoảng 15 ngày.

Dự án có thời gian càng ngắn thì việc thẩm định qua các cơ quan cũng ít

hơn. Như đối với dự án không thuộc diện phải xin chủ trương thì hồ sơ qua

thẩm định của Bộ Kế hoạch Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước. Đối với Dự án

thuộc thẩm quyền quyết định của Chính phủ thì hồ sơ qua thẩm định của Bộ

Kế hoạch Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Lao động Thương

binh và Xã hội, Bộ quản lý ngành, Ủy ban nhân dân thành phố trực thuộc

trung ương nơi nhà đầu tư đặt trụ sở.

Nghị định 83/2015/NĐ-CP quy định cụ thể các trường hợp dự án đầu

tư cần phải qua thẩm định của các cơ quan nêu trên đồng thời quy định rõ thời

hạn trả lời của các cơ quan này. Tuy nhiên, tại Khoản 5 Điều 12 quy định:

Quá thời hạn trên mà cơ quan được lấy ý kiến không có ý kiến bằng

văn bản thì được coi là đã chấp thuận hồ sơ dự án đầu tư đối với

những nội dung thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước được phân công

67

Tại Khoản 4 Điều 15 của Nghị định này có quy định như sau:

Quá thời hạn trên mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư không nhận được văn

bản trả lời, thì được hiểu là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chấp

thuận hồ sơ dự án đầu tư đối với những nội dung thuộc lĩnh vực

quản lý nhà nước được phân công.

Như vậy có thể thấy rằng, Luật Đầu tư 2014, Nghị định 83/2015/NĐ-

CP bên cạnh quy định thời gian và trách nhiệm thẩm định của các cơ quan

liên quan khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư lấy ý kiến cũng quy định luôn các

trường hợp quá hạn không trả lời được coi như chấp nhận với nội dung lấy ý

kiến này. Việc quy định này, trên phương diện của nhà đầu tư thì cơ bản sẽ

làm hạn chế trường hợp kéo dài thời gian cấp phép do các cơ quan liên quan

kéo dài thời gian thẩm định; tuy nhiên trên phương diện quản lý nhà nước,

chức năng nhiệm vụ của các cơ quan liên quan, mục đích của việc lấy ý

kiến thì nội dung quy định này dường như không mang nhiều giá trị, bởi lẽ

trong trường hợp nếu việc thẩm định là thiết yếu quan trọng thì việc trả lời

cụ thể của các cơ quan được lấy ý kiến là rất quan trọng trước khi Bộ Kế

hoạch và Đầu tư thực hiện các thủ tục; việc quy định như trên chưa thực sự

thể hiện được sự rõ ràng của việc thẩm định, vai trò của các cơ quan được

lấy ý kiến thẩm định.

Bên cạnh đó, về cách thức thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng

ký đầu tư ra nước ngoài, hiện tại, công tác cấp phép và quản lý hoạt động đầu

tư ra nước ngoài được thực hiện trên bản cứng, nhà đầu tư phải trực tiếp đến

Bộ Kế hoạch và Đầu tư nộp hồ sơ bản cứng đồng thời phải kê khai trên mạng.

Điều này phần nào gây ra một số bất tiện cho các nhà đầu tư về thời gian, thủ

tục thực hiện trong quá trình xin cấp phép cũng như trong quá trình thực hiện

hoạt động đầu tư.

Thứ ba, thủ tục đối với dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn

68

thông có sử dụng vốn nhà nước. Các dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh

vực viễn thông có quy mô lớn tập trung cơ bản tại các doanh nghiệp nhà

nước. Tuy nhiên, hành lang pháp lý cho các dự án có sử dụng vốn nhà nước

chưa thực sự chặt chẽ, rõ ràng làm giảm hiệu quả của việc sử dụng nguồn vốn

nhà nước. Theo quy định của Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào

sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp 2014, việc sử dụng vốn, tài sản của

doanh nghiệp để đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ quy định của Luật này,

quy định của pháp luật về đầu tư, pháp luật về quản lý ngoại hối và quy định

khác của pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, một số quy định của Luật quản lý,

sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp 2014

và Luật Đầu tư 2014 có sự không đồng bộ, thống nhất như trong việc quy

định về quy trình chấp nhận chủ trương đầu tư đối với dự án đầu tư ra nước

ngoài có sử dụng vốn nhà nước. Theo quy định của Luật Đầu tư 2014, trong

hồ sơ xin chấp nhận chủ trương hay hồ sơ đăng ký đầu tư ra nước ngoài phải

có quyết định đầu tư ra nước ngoài của chủ đầu tư. Theo Luật quản lý, sử

dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp 2014 tại

Khoản 2 Điều 29 quy định như sau:

Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty báo cáo cơ quan đại

diện chủ sở hữu xem xét, quyết định chủ trương dự án đầu tư ra

nước ngoài. Trường hợp dự án đầu tư ra nước ngoài thuộc thẩm

quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội thì Thủ tướng

Chính phủ quyết định đầu tư sau khi Quốc hội quyết định chủ

trương đầu tư; trường hợp dự án đầu tư ra nước ngoài thuộc thẩm

quyền quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ thì

cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định đầu tư sau khi Thủ tướng

Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư.

Như vậy có sự mâu thuẫn giữa Luật Đầu tư 2014 và Luật quản lý, sử

69

dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp 2014 về

thành phần hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư ra nước ngoài

đối với doanh nghiệp nhà nước.

 Về việc triển khai dự án đầu tư ra nước ngoài

Thứ nhất, vấn đề chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để thực hiện dự án.

Hiện nay, quy định hiện hành của pháp luật đã đưa ra những nguyên tắc

chung về việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài trước khi có giấy chứng nhận

đăng ký đầu tư để nghiên cứu, chuẩn bị dự án đầu tư phải thực hiện theo quy

định của pháp luật về ngoại hối và các quy định khác của pháp luật có liên

quan. Thời gian qua, ngoại trừ lĩnh vực dầu khí thực hiện theo quy định tại

Nghị định riêng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cơ bản chưa ghi nhận dự án nào thực

hiện chuyển vốn để đầu tư ra nước ngoài trước khi được cấp phép do pháp

luật chưa có quy định cụ thể về việc báo cáo đồng thời hoạt động chuyển tiền

này cũng không thuộc phạm vi quản lý của cơ quan cấp đăng ký đầu tư. Tuy

nhiên, trên thực tế đây là hoạt động rất cần thiết đối với nhà đầu tư viễn thông

khi thực hiện dự án của mình.

Thứ hai, tại Nghị định 83/2015/NĐ-CP quy định hạn mức chuyển ngoại

tệ trong các trường hợp được chuyển ngoại tệ ra nước ngoài trước khi được

cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư không vượt quá 5% tổng vốn đầu tư ra

nước ngoài và không quá 300.000 đô la Mỹ, được tính vào tổng vốn đầu tư ra

nước ngoài chưa thực sự phù hợp với nhà đầu tư và nhiều trường hợp trở

70

thành một rào cản đối với nhà đầu tư.

Kết luận Chương 2

Pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông được thể hiện

khá cụ thể tại Luật Đầu tư 2014 và ngày càng hoàn thiện hơn, góp phần tạo

điều kiện và môi trường kinh doanh thuận lợi, khuyến khích hoạt động đầu tư

của nhà đầu tư. Pháp luật Việt Nam về đầu tư ra nước ngoài đã có những quy

định cụ thể trong việc chuẩn bị dự án đầu tư; thủ tục cấp giấy chứng nhận

đăng ký đầu tư ra nước ngoài; triển khai dự án… Về cơ bản, các quy định

pháp luật này đã có những điểm tiến bộ hơn so với Luật Đầu tư 2005 đồng

thời tạo nhiều cơ chế khuyến khích nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra

nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Bên cạnh quy định của pháp luật Việt

Nam về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông, luận văn cũng nêu

khái quát một số hiệp định quốc tế về đầu tư bởi giá trị pháp lý quan trọng của

các hiệp định này. Hệ thống pháp luật Việt Nam về đầu tư ra nước ngoài đã

ngày càng hoàn thiện, đảm bảo tính tương thích với pháp luật quốc tế. Tuy

nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì cũng tồn tại những hạn chế, khó

khăn, vướng mắc xuất phát từ hệ thống pháp luật Việt Nam và đặt ra những

yêu cầu cần hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư ra

71

nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông.

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN VÀ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI

TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong

lĩnh vực viễn thông

3.1.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật

Thứ nhất, xuất phát từ thực tiễn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của

các nhà đầu tư Việt Nam nói chung và trong lĩnh vực viễn thông nói riêng

 Thực tiễn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư Việt

Nam nói chung

Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư Việt Nam được ghi

nhận bắt đầu từ năm 1989 và có sự phát triển không ngừng qua các năm sau

đó. Kể từ năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày

14/4/1999 quy định về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam đã

tạo khung cơ sở pháp lý riêng cho hoạt động đầu tư này.Trên cơ sở đó, số

lượng và quy mô của các dự án đầu tư ra nước ngoài không ngừng tăng. Tuy

nhiên, sự khởi sắc của hoạt động đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư Việt

Nam thực sự bắt đầu nhờ nỗ lực chuẩn hóa thủ tục đầu tư gắn với hoàn thiện

hành lang pháp lý phù hợp với bối cảnh mới. Thực tế cho thấy, kể từ khi Nghị

định số 83/2015/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn về đầu tư ra nước ngoài

được ban hành, việc mở rộng phạm vi đầu tư, kinh doanh ở nước ngoài của

nhà đầu tư đã được tạo điều kiện thuận lợi hơn.

Thống kê cho thấy, lũy kế từ năm 1989 đến nay, Việt Nam đã đầu tư ra

nước ngoài hơn 22 tỷ USD với các lĩnh vực thế mạnh của Việt Nam là nông

72

nghiệp, lâm nghiệp, năng lượng,..Trong đó, các nước như Lào, Campuchia và

Myanmar chiếm gần 40% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư Việt

Nam [43]. Theo Báo cáo tình hình đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài, riêng

năm 2019, tổng vốn đầu tư Việt Nam ra nước ngoài cấp mới và tăng thêm đạt

508,14 triệu USD. Trong đó có 164 dự án được cấp giấy chứng nhận đăng ký

đầu tư mới, với tổng vốn đầu tư bên Việt Nam đạt 403,15 triệu USD. Có 29

lượt dự án điều chỉnh vốn đầu tư với vốn đầu tư Việt Nam tăng thêm gần 105

triệu USD. Ngoài ra, lĩnh vực đầu tư cũng không ngừng được mở rộng và

phát triển đa dạng. Nhà đầu tư không chỉ tập trung đầu tư vào những lĩnh vực

đầu tư mà Việt Nam có thế mạnh như ngành nông, lâm, ngư nghiệp mà còn

mở rộng sang nhiều lĩnh vực ngành nghề khác như viễn thông, ngân hàng,...

Bên cạnh đó, địa bàn đầu tư cũng ngày càng đa dạng. Xét theo địa bàn, tính

đến hết năm 2019, Việt Nam đã đầu tư sang 32 quốc gia, vùng lãnh thổ.

Australia là địa bàn dẫn đầu về vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài với

154,6 triệu USD, chiếm 30,4% tổng vốn đầu tư. Hoa Kỳ xếp thứ 2 với 26 dự

án, tổng vốn đầu tư là 93,4 triệu USD, chiếm 18,4% tổng vốn đầu tư. Tiếp

theo là Campuchia, Tây Ban Nha, Singapore, Canada [3]. Tuy nhiên, hoạt

động đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam tại một số địa bàn và lĩnh vực đã

xuất hiện một số rủi ro về mặt pháp lý, có nguy cơ dẫn đến các vụ kiện, tranh

chấp quốc tế. Vì vậy, yêu cầu được đặt ra là cần có giải pháp để đảm bảo an

toàn cho các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư tại các

địa bàn và lĩnh vực này để đảm bảo hoạt động đầu tư ra nước ngoài hiệu quả,

hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư và nhà nước Việt Nam.

 Thực tiễn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư Việt

Nam trong lĩnh vực viễn thông

Đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông trong thời gian qua đã

có những đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế nói chung cũng như

73

sự phát triển trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói riêng của Việt Nam.

Bắt đầu từ cuối năm 2006, các dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn

thông được triển khai và đã đạt được những hiệu quả nhất định. Trong những

năm gần đây, nhiều dự án đầu tư đã được mở rộng quy mô vốn. Các dự án

này đã góp phần không nhỏ trong việc mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư

cũng như khẳng định vị trí của nhà đầu tư trong lĩnh vực viễn thông.

Tính đến giai đoạn hiện nay, trong lĩnh vực viễn thông đã có 11 dự án

đầu tư tại các nước: Campuchia, Lào, Mozambique, Đông Timor, Cameroon,

Burundi, Tanzania, Haiti, Myanmar, Peru. Các doanh nghiệp đầu tư vào

ngành này gồm có Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel),

Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT).

Viettel là một doanh nghiệp điển hình trong hoạt động đầu tư ra nước

ngoài trong lĩnh vực viễn thông tại Việt Nam hiện nay. Tính đến hiện nay,

Viettel đã đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông tại 10 quốc gia gồm:

Campuchia, Lào, Mozambique, Đông Timor, Cameroon, Burundi, Tanzania,

Haiti, Myanmar, Peru. Dự án đầu tiên năm 2007 của Viettel ở Campuchia với

số vốn 27 triệu USD. Năm 2008, Viettel đầu tư sang Lào với số vốn 83,7 triệu

USD. Năm 2010, Viettel tiếp tục đầu tư sang Haiti (99,8 triệu USD) và

Mozambique. Sang năm 2011, Viettel đầu tư tại Peru với số vốn 420,8 triệu

USD. Năm 2012 là 14,9 triệu USD vào Đông Timor và Cameroon (328,8 triệu

USD) vào năm 2013. Năm 2014 Viettel đầu tư vào Tanzania (783,9 triệu USD)

và Burundi (200 triệu USD). Năm 2015 đầu tư vào Myanmar (860 triệu USD).

Bên cạnh Viettel, VNPT cũng 01 dự án tại Myanmar: Dự án thành lập

Công ty TNHH Streamnet giữa Tập đoàn VNPT và Công ty TNHH Elite

Telecom Public năm 2017 với tổng vốn đầu tư của cả hai bên trong giai đoạn

đầu là hơn 15 triệu USD, trong đó VNPT nắm giữ 67% cổ phần, Công ty

TNHH Elite Telecom Public nắm giữ 33% [46].

74

Từ tình hình đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông nêu trên có

thể nhận thấy rằng, các dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

có quy mô khá lớn, địa bàn đầu tư không chỉ những nước trong khu vực Châu

Á mà còn ở các nước tại các châu lục khác như Châu Phi, Châu Mỹ. Điều này

thể hiện phần nào xu hướng đầu tư trong lĩnh vực viễn thông ngày càng mở

rộng, thể hiện sự mạnh dạn và trưởng thành cũng như quyết tâm tìm kiếm cơ

hội mới của các nhà đầu tư Việt Nam.

Các dự án đã chứng minh sự trưởng thành từng bước của nhà đầu tư Việt

Nam về năng lực tài chính, trình độ công nghệ kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý,

đầu tư. Nhìn chung các dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

triển khai đều đạt hiệu quả về mặt kinh tế và có đóng góp quan trọng cho sự

phát triển kinh tế- xã hội của nước ta cũng như nước tiếp nhận đầu tư.

Tiêu biểu có thể kể đến sự đóng góp của Viettel. Hoạt động đầu tư

nước ngoài của Viettel đạt hiệu quả kinh tế, đóng góp cho xã hội, là cầu nối

tăng cường mối quan hệ giữa Chính phủ, doanh nghiệp và con người Việt

Nam với nhiều nước trên thế giới.

Trong hơn 13 năm đầu tư ra nước ngoài, 10 thị trường của Viettel với

gần 250 triệu dân (Lào, Campuchia, Haiti, Peru, Mozambique, Burundi,

Tanzania, Cameroon, Đông Timor và Myanmar) đã mang lại hiệu quả rõ nét

trong hoạt động kinh doanh tại các thị trường, tạo niềm tin vững chắc với Đảng

và Nhà nước về chiến lược đầu tư quốc tế của Viettel. Với sự lãnh đạo của

Viettel, tốc độ tăng trưởng của Tổng công ty cổ phần đầu tư quốc tế Viettel-

Viettel Global (Công ty trực tiếp tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài của

Viettel) luôn được duy trì ở hai con số, trung bình 18%/năm, là đơn vị có tốc

độ tăng trưởng cao gấp 03 lần mức bình quân ngành viễn thông thế giới

(6%/năm); 09/10 thị trường kinh doanh có lãi và đạt lợi nhuận dương, cá biệt

có Peru và Burundi đã có lãi sau 02 năm kinh doanh. Nếu như ở Việt Nam,

75

Viettel lập kỷ lục của thế giới là trong vòng 04 năm, từ nhà mạng thứ 04,

vươn lên thứ nhất thì tại Campuchia - thị trường nước ngoài đầu tiên, Viettel

chỉ mất 03 năm, tại Mozambique - thị trường nước ngoài thứ tư, Viettel mất

01 năm và tại Burundi - thị trường thứ 09 Viettel chỉ mất 06 tháng để có được

vị trí số 01. Đến nay, trong tổng số 10 thị trường đã kinh doanh, Viettel đứng

ở vị trí số 01 tại 04 thị trường là: Campuchia, Lào, Đông Timor và Burundi.

Tốc độ tăng trưởng hàng năm của các thị trường đều đạt 20-30%, cao gấp gần

10 lần so với tốc độ tăng trưởng chung của toàn ngành viễn thông thế giới.

Theo báo cáo mới nhất của Hiệp hội Viễn thông toàn cầu (GSMA), hiện

Viettel Global nằm trong top 11 công ty viễn thông đầu tư ra nước ngoài lớn

nhất thế giới về số thị trường sở hữu ≥49%; top 25 hãng viễn thông thế giới

về số thuê bao.

Không những thế, Viettel còn là cầu nối hữu nghị về hợp tác kinh tế -

văn hóa giữa Việt Nam với các quốc gia đầu tư, góp phần nâng cao vị thế, uy

tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong năm 2016, Thủ tướng Chính phủ

Việt Nam cùng Thủ tướng Chính phủ Lào, Campuchia đã tin tưởng giao cho

Viettel trách nhiệm hiện đại hóa mạng viễn thông mạng viễn thông 03 nước

bằng công nghệ 4G, hỗ trợ xây dựng Chính phủ điện tử cho ba nước và triển

khai mức cước gọi giữa thuê bao của Viettel tại 03 nước tương đương với

mức cước trong nước. Qua đó góp phần kết nối hoạt động đầu tư, phục vụ

khách du lịch và người dân của ba nước.

Tại các quốc gia đang đầu tư, Viettel luôn đề cao trách nhiệm xã hội.

Theo đó, Viettel luôn đồng hành cùng Chính phủ, triển khai các dự án,

chương trình xã hội nâng cao hình ảnh không chỉ của Viettel mà còn của Việt

Nam trên trường quốc tế. Tính đến hết năm 2019, tổng giá trị mà các thị

trường của Viettel Global đã hỗ trợ chính phủ, nhân dân các quốc gia đầu tư

tương đương 183 triệu USD thông qua các chương trình xã hội, điển hình

76

như: Dự án internet miễn phí đường truyền internet đến các trường học tại tất

cả các nước đầu tư; dự án cầu truyền hình cho chính phủ các nước đầu tư;

chương trình xây dựng trường học, cấp học bổng cho trẻ em nghèo; tài trợ

nhân đạo (mổ hàm ếch, mổ tim….) cho trẻ em nghèo.

Ngoài ra, hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông của

Viettel đã tạo việc làm cho hàng nghìn lao động nước sở tại và lao động Việt

Nam. Đặc biệt là các dự án viễn thông với quy mô lớn thì nhu cầu sử dụng lao

động lại càng tăng cao khi hoạt động đầu tư ra nước ngoài được mở rộng.

Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Viettel tại nước sở tại đã góp phần tạo

công ăn việc làm, ổn định cuộc sống, xóa đói giảm nghèo cho người dân

những vùng nông thôn, những vùng điều kiện kinh tế khó khăn.

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, các nhà đầu tư Việt Nam

khi thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông cũng

gặp phải không ít những khó khăn thách thức xuất phát từ nước tiếp nhận đầu

tư và từ chính nhà đầu tư.

Xuất phát từ nước tiếp nhận đầu tư: Từ thực tiễn hoạt động đầu tư của

các nhà đầu tư Việt Nam trong lĩnh vực viễn thông, có thể thấy rằng các thị

trường viễn thông mà nhà đầu tư tại Việt Nam hiện tại hướng tới là những thị

trường đầu tư phù hợp với điều kiện và khả năng của mình. Đây được xem

như những những thị trường tiềm năng (nhóm thị trường chưa phát triển, độ

phủ viễn thông dưới 20%; Nhóm thị trường đang phát triển, độ phủ viễn

thông dưới 60%) để đảm bảo nhà đầu tư Việt Nam có đủ năng lực để kinh

doanh và cạnh tranh với các hãng viễn thông khác trên thị trường. Nếu nhà

đầu tư đầu tư vào những thị trường đã phát triển thì viễn thông cơ bản đã bão

hòa, việc xin cấp phép đầu tư tại các thị trường này sẽ gặp nhiều khó khăn

hơn, bên cạnh đó, sự cạnh tranh cũng lớn hơn. Từ thực tế điển hình trong hoạt

động đầu tư ra nước ngoài của Viettel có thể thấy được rõ nội dung này, các

77

thị trường Viettel đầu tư thường là những nước có nền kinh tế đang phát triển

hoặc chậm phát triển, dịch vụ viễn thông tại các nước này có phần hạn chế,

trình độ phát triển chưa cao hay điều kiện tự nhiên có địa hình không thuận

lợi hoặc một số quốc gia còn có sự bất ổn về chính trị. Chính vì lẽ đó, nhà đầu

tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông sẽ gặp nhiều khó khăn liên quan

đến nước sở tại.

Một là, hệ thống pháp luật của một số nước còn nhiều thiếu sót, chưa

đồng bộ, đang trong quá trình hoàn thiện thay đổi, không thống nhất, thiếu

minh bạch, khó tiếp cận, chưa tạo động lực thu hút doanh nghiệp đầu tư. Tại

một số nền kinh tế có sự thiếu nhất quán trong áp dụng chính sách, đặc biệt là

các quy định do địa phương đặt ra và áp dụng các chính sách của nhà nước

(Chính sách ưu đãi miễn thuế thu nhập doanh nghiệp của Lào được áp dụng

trên toàn quốc, nhưng địa phương vẫn thu thuế thu nhập; chính sách khuyến

khích đầu tư của Lào thường xuyên thay đổi và các loại thuế, phí khá nhiều.

Đặc biệt, ở Lào thời gian làm các thủ tục hành chính cũng khá lâu vì việc cải

cách hành chính chưa thực sự nhanh như ở Việt Nam). Các văn bản liên quan

đến hoạt động đầu tư còn hạn chế, chưa lường được trước những vấn đề có

thể phát sinh trong quá trình hoạt động tại nước sở tại.

Hai là, tại một số quốc gia có sự bất ổn về tình hình chính trị, nội chiến,

thiên tai gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của nhà đầu tư. Một số địa bàn

và lĩnh vực đã xuất hiện một số rủi ro về mặt pháp lý, có nguy cơ dẫn đến các

vụ kiện, tranh chấp quốc tế, cụ thể là một số nước châu Phi như Cameroon,

Tanzania... Bên cạnh đó, những khác biệt về văn hóa, môi trường giữa Việt

Nam và các quốc gia tiếp nhận đầu tư dẫn đến tranh chấp, ảnh hưởng đến việc

thực hiện dự án, quyền và lợi ích của người dân địa phương cũng như hình

ảnh của nhà đầu tư Việt Nam trong khu vực. Hơn nữa, tại nhiều quốc gia,

Việt Nam cũng chưa có cơ quan đại diện ngoại giao để có thể hỗ trợ nhà đầu

78

tư khi có những khó khăn vướng mắc phát sinh tại nước tiếp nhận đầu tư.

Xuất phát từ nhà đầu tư

Một là, hệ thống quản lý của các nhà đầu tư chưa có sự đồng bộ. Khi

đầu tư ra nước ngoài toàn bộ hệ thống quản lý, quy định quản lý, ứng dụng

công nghệ thông tin đều được thực hiện bằng tiếng Việt, trong khi đó nhu cầu

triển khai hoạt động lại phải sử dụng ngôn ngữ của nước sở tại. Do đó, hoạt

động quản lý, kinh doanh gặp nhiều khó khăn về mặt ngôn ngữ.

Hai là, năng lực của nhà đầu tư trong nước vẫn còn những hạn chế.

Công tác phân tích, dự báo hoạt động quản trị, xây dựng chiến lược, đánh giá

rủi ro về tài chính tại các nước tiếp nhận đầu tư chưa sát với thực tế, thiếu

kinh nghiệm thực tiễn. Chưa dự báo được các thay đổi chính sách về phát

triển kinh tế của các quốc gia đầu tư kinh doanh.

Ba là, các nhà đầu tư Việt Nam khi đầu tư ra nước ngoài trong các lĩnh

vực khác nhau tại nước sở tại chưa có sự liên kết, hỗ trợ nhau trong hoạt động

đầu tư tại nước sở tại. Thực tế, cho thấy việc nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào

Việt Nam luôn có sự liên kết giúp đỡ lẫn nhau, nâng cao năng lực cạnh tranh

thông qua việc thành lập các hiệp hội các doanh nhân: Hiệp hội doanh nhân

Nhật, Trung Quốc, ... trong khi hoạt động liên kết này của các nhà đầu tư Việt

Nam đầu tư ra nước ngoài là rất hạn chế. Phát huy được vai trò của các Hiệp

hội này thì nhà đầu tư Việt Nam sẽ có thể nâng cao hơn năng lực của mình qua

việc nắm bắt, cập nhật thông tin, cập nhật pháp luật, ưu đãi,...từ Hiệp hội.

Bốn là, các nhà đầu tư chưa có sự tìm hiểu kỹ về môi trường đầu tư,

văn hóa, phong tục tập quán, hệ thống pháp luật điều chỉnh trong quá trình

hoạt động của nước tiếp nhận đầu tư dẫn đến nhiều trường hợp gây mất uy

tín, hoạt động kinh doanh không hiệu quả. Bên cạnh đó, nhà đầu tư không

thường xuyên cập nhật chính sách pháp luật về đầu tư ra nước ngoài của Việt

Nam và không thực hiện đầy đủ hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ đối

79

với nhà nước như nghĩa vụ báo cáo... Điều này, phần nào dẫn đến tình trạng

cơ quan quản lý nhà nước nắm bắt không chính xác, không kịp thời tình hình

hoạt động thực tế của nhà đầu tư tại nước sở tại.

Như vậy, có thể thấy rằng, tình hình hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói

chung, đặc biệt là trong lĩnh vực viễn thông nói riêng đã có những bước tiến

rõ rệt, khẳng định vị trí vai trò tích cực và xu hướng phát triển đối với nền

kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được thì cũng tồn tại

những khó khăn, hạn chế đối với hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư Việt

Nam. Xuất phát từ thực tiễn này, đặt ra yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng

cao hiệu quả áp dụng pháp luật về đầu tư ra nước ngoài nói chung cũng như

lĩnh vực viễn thông nói riêng.

Thứ hai, xuất phát từ những bất cập hệ thống pháp luật

Từ thực trạng những bất cập, vướng mắc, khó khăn của một số quy

định pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông đã đặt ra yêu

cầu phải tiếp tục hoàn thiện hơn nữa một số quy định hiện hành của pháp luật

nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật.

Để đảm bảo Luật Đầu tư 2014 có hiệu quả thi hành cao, Chính phủ, Bộ,

ban, ngành đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để

hướng dẫn áp dụng Luật Đầu tư. Bên cạnh những kết quả đạt được như hệ

thống pháp luật về cơ bản được xây dựng đầy đủ, tạo cơ sở, hành lang pháp lý

trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư của nhà đầu tư thì trong bối cảnh hội

nhập kinh tế toàn cầu của nước ta như hiện nay đặt ra yêu cầu không ngừng

hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật, đảm bảo sự phù hợp với thông

lệ quốc tế và sự phát triển chung của toàn cầu. Hệ thống pháp luật đầu tư ra

nước ngoài của nước ta hiện nay vẫn còn bộc lộ một số vướng mắc, chưa được

hoàn thiện, một số quy định tại Luật Đầu tư 2014 còn có sự chồng chéo, mâu

thuẫn với các luật chuyên ngành khác và vẫn còn có những quy định chưa thực

80

sự phù hợp với thực tế. Từ đó, gây ra nhưng khó khăn, vướng mắc trong việc

áp dụng và thực thi pháp luật. Để đảm bảo quản lý nhà nước hiệu quả trong

lĩnh vực này thì yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật là tất yếu. Dự thảo Luật

Đầu tư 2020 về cơ bản cũng đã có một số những nội dung sửa đổi, bổ sung

nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực

viễn thông. Tuy nhiên, để đảm bảo sự thống nhất, hiệu quả trong quá trình áp

dụng và thực thi pháp luật thì cần không ngừng hoàn thiện, sửa đổi bổ sung các

văn bản hướng dẫn thi hành Luật, nhằm tạo cơ sở pháp lý để nhà đầu tư thực

hiện hiệu quả hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông.

Thứ ba, xuất phát từ việc tham gia các Điều ước quốc tế của Việt Nam

Khi đề cập đến quan hệ đầu tư ra nước ngoài, các điều ước quốc tế song

phương, đa phương mà Việt Nam đã ký kết với các quốc gia là một trong

những nội dung quan trọng tác động và ảnh hưởng đến hoạt động của nhà đầu

tư Việt Nam thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong các lĩnh vực khác

nhau. Việc tham gia ký kết các Điều ước quốc tế về đầu tư thương mại với

các nước là nhân tố góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói

chung cũng như trong lĩnh vực viễn thông nói riêng.

Việt Nam thực hiện chủ trương tích cực chủ động trong hội nhập kinh tế

quốc tế, quan hệ kinh tế của nước ta với các nước, các tổ chức quốc tế cũng ngày

càng được mở rộng hơn.Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới

(WTO) là một bước ngoặt lớn đánh dấu nền kinh tế Việt Nam hội nhập vào nền

kinh tế thế giới và khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Các

thành viên WTO đã ký kết nhiều hiệp định khác nhau về thương mại quốc tế,

trong đó các hiệp định của WTO có liên quan đến đầu tư quốc tế như: Hiệp định

về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (Hiệp định TRIMs); Hiệp định

chung về thương mại và dịch vụ (Hiệp định GATS). Việt Nam cũng là thành

viên quan trọng trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Hiện nay,

81

Việt Nam cũng đã ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA), nổi bật là

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định

CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu

(Hiệp định EVFTA). Ngoài ra, một số hiệp định khác đang trong quá trình đàm

phán như: Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP)... Bên cạnh

những hiệp định đa phương, Việt Nam cũng đã ký kết các hiệp định song

phương về khuyến khích bảo hộ đầu tư, tránh đánh thuế hai lần,...

Các hiệp định này là những văn bản pháp lý quan trọng cho các nhà

đầu tư Việt Nam khi đầu tư ra nước ngoài, không những góp phần thiết lập

quan hệ kinh tế với các nước khác, tiếp cận thị trường mới để đầu tư mà còn

giúp bảo vệ các nhà đầu tư Việt Nam ở nước ngoài. Từ việc tham gia ký kết

các Điều ước quốc tế về đầu tư sẽ đặt ra những yêu cầu rà soát, hoàn thiện hệ

thống pháp luật đầu tư đảm bảo tính tương tính của pháp luật trong nước với

quy định của các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết và sẽ

tham gia trong tương lai.

Thứ tư, xuất phát từ bối cảnh phát triển ngành viễn thông trong nước

Với sự bùng nổ mạnh mẽ trong những năm gần đây cùng với quá trình

phát triển của đất nước, ngành viễn thông Việt Nam là một trong những

ngành có những bước phát triển nhanh và trở thành ngành kinh tế ngành kinh

tế quan trọng của đất nước.

Ngành viễn thông đã trải qua sự hình thành và phát triển qua nhiều giai

đoạn. Thị trường viễn thông phát triển với nhiều sự thay đổi khi chuyển từ

độc quyền sang cạnh tranh. Nghị định 109/1997/NĐ-CP ngày 12/11/1997 của

Chính phủ về bưu chính và viễn thông quy định lĩnh vực bưu chính viễn

thông là độc quyền nhà nước (chỉ có doanh nghiệp nhà nước mới được phép

kinh doanh) đồng thời bắt đầu bóc tách giữa chức năng quản lý nhà nước với

chức năng kinh doanh về bưu chính viễn thông. Văn bản đánh dấu sự đổi mới

82

trong công tác quản lý kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông là Pháp lệnh

Bưu chính Viễn thông được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã

hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X thông qua ngày 25/5/2002, cùng các văn bản

hướng dẫn khác. Văn bản này đã tạo hành lang pháp lý nhằm xóa bỏ hoàn

toàn tình trạng độc quyền của doanh nghiệp trong lĩnh vực viễn thông. Sau

một thời gian triển khai các quy định về viễn thông, đặc biệt khi Việt Nam đã

trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),

Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 đã bộc lộ một số điểm hạn chế,

không phù hợp và Chính Phủ đã ban hành Luật Viễn thông số 41/2009/QH12

(ngày 23 tháng 11 năm 2009) và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Những

hành lang pháp lý này là cơ sở quan trọng thúc đẩy cạnh tranh, tạo điều kiện

cho các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh viễn thông trong môi trường

công bằng, minh bạch, góp phần mở cửa thúc đẩy thị trường viễn thông trong

nước cạnh tranh, phát triển lành mạnh.

Trong bối cảnh đó, lĩnh vực viễn thông trong nước đã có những kết quả

tăng trưởng đáng kể. Theo báo cáo của Cục Viễn thông (Bộ Thông tin và

Truyền thông), năm 2019, tổng doanh thu của các doanh nghiệp viễn thông

đạt khoảng 470.000 tỷ đồng (tăng 18,67%), nộp ngân sách 47.000 tỷ đồng

(tăng 36,7%). Tuy nhiên, kết quả hoạt động năm 2019 cũng cho thấy hạ tầng

và thị trường viễn thông truyền thống đã bão hoà và đang chuyển dịch [47].

Từ đó, đặt ra yêu cầu chuyển đổi phát triển của thị trường viễn thông trong

nước và tìm kiếm cơ hội, thị trường mới trong bối cảnh thị trường viễn thông

trong nước đã bão hòa. Và đầu tư ra nước ngoài là một trong những cơ hội để

nhà đầu tư phát triển mở rộng thị trường, tìm kiếm môi trường kinh doanh

mới đa dạng, hội nhập kinh tế thế giới.

3.1.2. Một số định hướng hoàn thiện pháp luật

Xuất phát từ những yêu cầu hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài

83

trong lĩnh vực viễn thông trong thời gian qua, để nâng cao hơn nữa vai trò của

hoạt động đầu tư ra nước ngoài đối với lĩnh vực viễn thông, một số định

hướng hoàn thiện được đặt ra như sau:

Thứ nhất, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các nhà đầu tư Việt Nam

Hiến pháp 2013 tại Điều 33 có nêu: “Mọi người có quyền tự do kinh

doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Bên cạnh đó, tại

Điều 51 Hiến pháp 2013 cũng khẳng định:

(Khoản 1) Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành

phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. (Khoản 2) Các

thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền

kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình

đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. (Khoản 3) Nhà nước

khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá

nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền

vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp

pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp

luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa. Những cơ sở trên là định

hướng quan trọng để hoàn thiện hệ thống pháp luật đầu tư nói

chung cũng như đầu tư ra nước ngoài nói riêng.

Bảo đảm quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư là yếu tố rất quan

trọng đối với một nền kinh tế phát triển, đồng thời cũng là đảm bảo quyền con

người. Hệ thống pháp luật quốc gia đóng vai trò quan trọng trong việc đảm

bảo quyền tự do kinh doanh. Pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực

viễn thông cần được xây dựng và hoàn thiện trên cơ sở đảm bảo quyền tự do

kinh doanh theo đúng tinh thần của Hiến pháp 2013.

Thứ hai, đảm bảo phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia

84

Đây được xem là một trong những định hướng cần thiết trong việc

hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông nhằm

hướng đến sự phù hợp với các quy tắc chung của các nước trên thế giới trong

xu thế hợp tác quốc tế hiện nay. Điều ước quốc tế là văn bản pháp lý quốc tế

do các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên,

nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể với

nhau. Điều ước quốc tế là văn bản rất quan trọng cho các nhà đầu tư Việt

Nam khi đầu tư ra nước ngoài. Theo Khoản 1, Điều 6 Luật Điều ước quốc tế

(Luật số 108/2016/QH13 ngày 19/4/2016) có quy định trường hợp văn bản

quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp

dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp. Do đó, trong việc hoàn

thiện hệ thống pháp luật đầu tư cần đặt ra yêu cầu đảm bảo sự tương thích với

các Điều ước quốc tế. Khi có những sự thay đổi trong các quy định, cam kết

mà Việt Nam ký kết thì pháp luật nước ta cần hoàn thiện, điều chỉnh đảm bảo

tính nhất quán. Đồng thời, đẩy mạnh việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban

hành mới các văn bản quy phạm pháp luật để phù hợp với thông lệ quốc tế và

các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Thứ ba, đổi mới thủ tục hành chính đối với đầu tư ra nước ngoài nước

ngoài trong lĩnh vực viễn thông

Để đảm bảo tạo hành lang chính sách thúc đẩy hoạt động đầu tư ra

nước ngoài thì vấn đề đơn giản hóa các thủ tục hành chính được đặt ra, các

thủ tục hành chính cần hoàn thiện theo hướng đơn giản, thuận tiện, giảm bớt

sự can thiệp bằng các biện pháp hành chính ngay cả dự án sử dụng vốn nhà

nước; phát huy tinh thần chủ động, tăng tính tự chịu trách nhiệm của nhà đầu

tư đối với hoạt động đầu tư của mình. Nhà đầu tư được quyền tự do thực hiện

hoạt động đầu tư, tìm kiếm cơ hội trên thị trường quốc tế cũng như khẳng

85

định vị trí của mình đối với sự phát triển chung của đất nước.

Thứ tư, các quy định của pháp luật đầu tư ra nước ngoài nước ngoài

trong lĩnh vực viễn thông cần đảm bảo tính đồng bộ, chặt chẽ

Hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông không những

chịu sự điều chỉnh trực tiếp của Luật Đầu tư 2014 mà còn chịu sự điều chỉnh

của các văn bản pháp luật khác nhau như Luật Doanh nghiệp 2014, Luật quản

lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp

2014, ... Hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông

phải đảm bảo tính đồng bộ, chặt chẽ với pháp luật khác có liên quan. Việc

quy định đồng bộ, chặt chẽ sẽ tạo hành lang pháp lý cụ thể, rõ ràng, thống

nhất để nhà đầu tư thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đối với nhà nước

cũng như đảm bảo hiệu quả của hoạt động đầu tư.

Thứ năm, cần đảm bảo môi trường đầu tư rõ ràng, minh bạch tạo điều

kiện thuận lợi cho nhà đầu tư tiếp cận thông tin thực hiện hoạt động đầu tư

Môi trường đầu tư rõ ràng, minh bạch thể hiện trên phương diện các

hoạt động đầu tư ra nước ngoài cũng như pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong

lĩnh vực viễn thông phải đảm bảo quy định rõ ràng, công khai, phổ biến đảm

bảo mọi đối tượng có liên quan đều có thể tiếp cận, nắm và thực hiện. Từ đó,

tạo cơ sở thuận lợi cho các nhà đầu tư thực hiện các quyền và nghĩa vụ của

mình một cách dễ dàng và thuận lợi hơn.

3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh

vực viễn thông

3.2.1. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật

Nhằm mục đích hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh

vực viễn thông, một số giải pháp kiến nghị hoàn thiện cụ thể như sau:

 Về việc xây dựng chiến lược, chính sách đầu tư ra nước ngoài

Trong bối cảnh hiện nay, khi các doanh nghiệp mở rộng thị trường và

86

tầm ảnh hưởng của mình ra bên ngoài thì nhu cầu tất yếu được đặt ra của nhà

đầu tư đó là tìm kiếm những cơ hội đầu tư, chính sách đầu tư được khuyến

khích, hỗ trợ từ nhà nước. Những chính sách cơ chế này mang tính định

hướng cụ thể để nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư của mình. Xây dựng

chiến lược dài hạn là việc làm cần thiết đối với hoạt động đầu tư ra nước

ngoài. Việc xây dựng chiến lược dài hạn giúp nhà đầu tư có thể nhận thức rõ

hơn được định hướng mục đích của mình trong tương lai, tạo tâm lý yên tâm

đầu tư nhất là đối với những dự án đầu tư với thời gian dài, nâng cao hiệu quả

sử dụng vốn, nguồn lực sản xuất khác.

Đối với lĩnh vực viễn thông, đây là một trong những lĩnh vực giữ vai

trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, do đó, trong việc xây dựng chiến

lược, chính sách đầu tư ra nước ngoài chung của Việt Nam, cần đưa ra những

chính sách về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Việc xây dựng

chiến lược này cần đảm bảo được một số vấn đề sau:

- Kế hoạch chiến lược xây dựng được lộ trình đầu tư ra nước ngoài

trong từng giai đoạn nhất định, đảm bảo tạo cơ sở, định hướng cho nhà đầu tư

yên tâm thực hiện hoạt động đầu tư của mình.

- Xây dựng kế hoạch dựa trên những đánh giá, lợi thế so sánh của Việt

Nam với mục tiêu tìm kiếm thị trường, hiệu quả đầu tư.

- Chính sách khuyến khích ưu đãi của nhà nước nhằm hỗ trợ hoạt động

đầu tư ra nước ngoài.

- Địa bàn chiến lược khuyến khích đầu tư.

- Kế hoạch từng bước tháo gỡ những rào cản, khó khăn, vướng mắc đối

với hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

- Xây dựng chiến lược phải đảm bảo đồng bộ với các giải pháp liên

quan đến hoạt động này như xuất khẩu, tín dụng, tài chính, thuế.

 Về các hình thức đầu tư

Thứ nhất, cần quy định thống nhất các hình thức đầu tư ra nước ngoài

87

tại Luật Đầu tư 2014.

Hình thức đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam được quy định

cụ thể tại Điều 52 Luật Đầu tư 2014. Tuy nhiên, bên cạnh đó Luật Doanh

nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn liên quan cũng có những quy định về

hình thức này. Để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ các quy định của pháp

luật cần thống nhất việc quy định về hình thức đầu tư ra nước ngoài tại Luật

Đầu tư 2014. Bên cạnh đó, cơ quan nhà nước cần kịp thời rà soát các văn bản

pháp luật có liên quan thực tế đã hết hiệu và được điều chỉnh bởi văn bản

khác nhưng không có bất kỳ văn bản nào bãi bỏ hiệu lực của văn bản này

(như trường hợp Nghị định số 48/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 7 năm 1999 của

Chính phủ quy định về Văn phòng đại diện, Chi nhánh của thương nhân và

của doanh nghiệp du lịch Việt Nam ở trong nước, ở nước ngoài).

Thứ hai, cần sửa đổi quy định về hình thức đầu tư tại Điều 52 Luật Đầu

tư 2014 đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn hoạt động đầu tư

ra nước ngoài của nhà đầu tư Việt Nam.

 Về điều kiện đầu tư: Bổ sung quy định cụ thể thời điểm xác nhận của

cơ quan thuế đối với văn bản xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế của nhà

đầu tư khi nhà đầu tư nộp hồ sơ. Việc quy định cụ thể thời điểm này là rất cần

thiết cho các nhà đầu tư, từ quy định đó nhà đầu tư sẽ xác định được thời

điểm xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế của mình đến thời điểm nộp hồ

sơ, hạn chế trường hợp nhà đầu tư phải thực hiện xác nhận nhiều lần theo yêu

cầu của cơ quan cấp phép khi nộp hồ sơ.

 Về thủ tục đầu tư

Thứ nhất, phân cấp cho địa phương cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu

tư ra nước ngoài. Thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước

ngoài hiện do Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan duy nhất cấp. Pháp luật cần

phân cấp quản lý cho chính quyền địa phương trực tiếp tiến hành cấp Giấy

88

chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài. Việc giao cho chính quyền địa

phương cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài sẽ phần nào giúp

giảm một số lượng công việc đáng kể cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư đặc biệt khi

trong xu thế hiện nay, số lượng hồ sơ xin cấp phép có xu hướng tăng cao,

công việc quản lý nhiều hơn và phức tạp hơn nên càng đặt ra yêu cầu có sự

phân cấp để đảm bảo quản lý phù hợp. Điều này vừa khiến cho thủ tục đầu tư

ra nước ngoài được thông thoáng đồng thời nhà đầu tư cũng tạo điều kiện

thuận tiện hơn, tiết kiệm thời gian hơn trong việc thực hiện thủ tục xin cấp

Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài.

Thứ hai, cải cách thủ tục hành chính trong quá trình cấp giấy chứng

nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài.

Thủ tục cấp phép đầu tư là một trong những thủ tục quan trọng đối với

bất kỳ nhà đầu tư nào. Đối với nhà đầu tư thời gian cấp phép và thủ tục cấp

phép cần đảm bảo đơn giản hóa, nhanh chóng không gây những khó khăn cho

nhà đầu tư trong việc tận dụng cơ hội đầu tư, tìm kiếm lợi nhuận. Đối với cơ

quan quản lý nhà nước việc quy định thủ tục phải đảm bảo được mục đích, giá

trị và hoạt động quản lý của mình phải đảm bảo chặt chẽ trong việc kiểm soát

ngoại tệ, dòng tiền, lợi nhuận, trách nhiệm của nhà đầu tư với nhà nước.

Xuất phát từ những yêu cầu trên, cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục

hoàn thiện cải tiến thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa, giảm bớt thời

gian cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài; đồng thời mở rộng

diện dự án cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài theo quy trình

đăng ký, thu hẹp hơn các trường hợp cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra

nước ngoài phải có chấp nhận chủ trương của Quốc hội, Chính phủ; giảm bớt

sự can thiệp bằng biện pháp hành chính ngay cả đối với những dự án sử dụng

vốn nhà nước; tăng tính tự chịu trách nhiệm, quyền chủ động của nhà đầu tư

khi thực hiện hoạt động đầu tư đồng thời nêu rõ các nguyên tắc nhà đầu tự

89

chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư ở nước ngoài.

Ngoài ra, đối với việc thẩm định, lấy ý kiến của các cơ quan liên quan

trước khi cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài: Cần xác định rõ

các trường hợp phải lấy ý kiến các cơ quan liên quan và những nội dung cụ

thể các cơ quan liên quan này cần cho ý kiến, thẩm định. Đồng thời khi các cơ

quan được lấy ý kiến cần phải có hình thức trả lời cụ thể bằng văn bản (nêu rõ

ý kiến thẩm định) trong đúng thời hạn pháp luật quy định, không quy định

trường hợp quá hạn không trả lời thì được xem là chấp nhận, từ đó là cơ sở để

Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện các thủ tục đảm bảo hiệu quả, thể hiện rõ

vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc cấp phép hoạt động đầu

tư ra nước ngoài.

Thứ ba, thống nhất thủ tục đối với dự án đầu tư ra nước ngoài trong

lĩnh vực viễn thông có sử dụng vốn nhà nước tại Luật Đầu tư 2014 và Luật

quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh

nghiệp 2014. Theo đó, sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư 2014 theo hướng làm rõ

thành phần hồ sơ cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài trong

trường hợp các dự án sử dụng vốn nhà nước đảm bảo quy định chặt chẽ và

thống nhất giữa Luật Đầu tư với Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư

vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp 2014, nâng cao hiệu quả trong việc

quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư này.

 Về việc triển khai dự án

Thứ nhất, cần cụ thể hóa các nội dung cho phép chuyển tiền ra nước

ngoài trước khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài để

đáp ứng chi phí hình thành dự án đầu tư. Mục tiêu quản lý nhà nước đối với

hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung là kiểm soát dòng tiền đi ra vào

lãnh thổ. Việc chuyển ngoại tệ trước khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký

đầu tư ra nước ngoài để đáp ứng chi phí hình thành dự án đầu tư cũng là một

90

phần trong tổng vốn đầu tư của toàn dự án, cần phải có cái nhìn toàn diện về

dự án đầu tư và tính hiệu quả của dự án đặc biệt đối với các dự án lớn. Do đó,

việc kiểm soát theo dõi dòng tiền này cần được quan tâm và đặt ra các quy

định cụ thể để tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện một cách hợp pháp,

đúng quy định đồng thời cơ quan quản lý nhà nước theo dõi được mục đích

của dòng tiền này. Vì vậy, cần cụ thể hóa các trường hợp được chuyển ngoại

tệ ra nước ngoài trước khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước

ngoài để đáp ứng chi phí hình thành dự án đầu tư.

Thứ hai, về quy định hạn mức chuyển ngoại tệ trong các trường hợp

được chuyển ngoại tệ ra nước ngoài trước khi được cấp Giấy chứng nhận

đăng ký đầu tư. Quy định về hạn mức này là một hình thức hạn chế dòng vốn

đầu tư ra nước ngoài của nhà nước, tuy nhiên việc quy định này chỉ phù hợp

trong một số giai đoạn khi mà dòng tiền đầu tư ra nước ngoài chưa lớn. Hiện

nay, đối với nhiều dự án lớn, tổng chi phí đáp ứng cho hoạt động hoạt động

hình thành dự án đầu tư có thể rất lớn và lớn hơn con số quy định (5% tổng

vốn đầu tư ra nước ngoài và không quá 300.000 đô la Mỹ). Chi phí cho các

hoạt động này là thiết yếu và đóng vai trò quan trọng đối với nhà đầu tư khi

thực hiện dự án đầu tư. Do đó, để đảm bảo nhà đầu tư được tự do hơn trong

việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài trước khi được cấp Giấy chứng nhận đăng

ký đầu tư để đáp ứng các hoạt động hình thành dự án và đảm bảo hoạt động

đầu tư của nhà đầu tư đạt hiệu quả nên nâng hạn mức này đảm bảo phù hợp

với từng thời điểm.

3.2.2. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật

Bên cạnh giải pháp hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh

vực viễn thông thì một số giải pháp kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp

luật như sau:

 Giải pháp tăng cường các hoạt động hỗ trợ nhà đầu tư.

Thứ nhất, nhà nước cần xây dựng cơ chế khuyến khích thành lập Hiệp

91

hội doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài.

Việc thành lập Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài là một

giải pháp nhằm tạo nên một cộng đồng doanh nghiệp ở nước ngoài có khả

năng hỗ trợ nhau, chia sẻ các kinh nghiệm đầu tư, những bài học, rủi ro pháp

lý có thể gặp phải tại địa bàn đầu tư... Thông qua đó, tạo kênh kết nối thông

tin hữu ích cho nhà đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của nhà đầu tư Việt

Nam với các quốc gia khác, đồng thời hiệp hội cũng góp phần bảo vệ nhà đầu

tư, hỗ trợ giải quyết những khó khăn vướng mắc của nhà đầu tư.

Bên cạnh đó, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)

cần phát huy hơn nữa vai trò là đầu mối liên kết các doanh nghiệp Việt Nam

đầu tư ra nước ngoài với doanh nghiệp trong nước đồng thời kịp thời nắm bắt

thông tin, tình hình đầu tư, thị trường đầu tư,... góp phần hỗ trợ tích cực cho

nhà đầu tư trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

Thứ hai, tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư ra nước ngoài cho

nhà đầu tư Việt Nam đặc biệt đối với những doanh nghiệp viễn thông. Trong

bối cảnh hiện nay, xúc tiến đầu tư cần không ngừng được đổi mới nội dung,

cách thức thực hiện đảm bảo phát huy hiệu quả của hoạt động này. Đây là một

trong những hoạt động thuộc trách nhiệm của cơ quan nhà nước, các Bộ, ban

ngành, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Các nhà đầu tư Việt

Nam khi đầu tư ra nước ngoài còn thiếu sự hỗ trợ của nhà nước. Các biện

pháp hỗ trợ về vốn, ưu đãi; thông tin tiếp cận thị trường; hỗ trợ trong việc

triển khai thực hiện dự án tại nước tiếp nhận đầu tư cũng như cơ chế bảo vệ

nhà đầu tư đã được sự quan tâm nhưng chưa đồng bộ và chưa đạt hiệu quả.

Do vậy cần quy định đồng bộ các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ đầu tư ra

nước ngoài một cách cụ thể, trong đó đặc biệt chú trọng các biện pháp hỗ trợ

về cung cấp thông tin môi trường đầu tư, cơ hội đầu tư tại nước sở tại, bảo hộ

quyền lợi của các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài trong quá trình thực hiện

92

hoạt động đầu tư tại nước ngoài.

Ngoài ra, cần tăng cường tổ chức các diễn đàn, hội thảo, hội nghị giữa

Chính phủ và nhà đầu tư để từ đó đánh giá hoạt động đầu tư ra nước ngoài,

môi trường đầu tư ở nước ngoài, năng lực cạnh tranh và phát triển của doanh

nghiệp Việt Nam để từ đó Chính phủ sẽ có cái nhìn khách quan, toàn diện

trên mọi khía cạnh của hoạt động đầu tư ra nước ngoài và có những biện pháp

hỗ trợ hay sửa đổi bổ sung pháp luật phù hợp với nhà đầu tư. Việc tổ chức các

chương trình, hội nghị, diễn đàn này cũng đóng vai trò quan trọng trong việc

phổ biến pháp luật trong nước cũng như các nước tiếp nhận đầu tư để nhà đầu

tư có những kiến thức cần thiết khi thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

Thứ ba, cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài cần tạo

điều kiện cao nhất hỗ trợ, giúp đỡ nhà đầu tư các vấn đề liên quan phát sinh

trong quá trình đầu tư như tư vấn pháp lý, thông tin về các quy định pháp luật,

địa bản đầu tư, chính sách đầu tư, lao động...Đối với những quốc gia có quan

hệ đầu tư, tiềm năng đầu tư, hợp tác nhưng chưa có cơ quan đại diện ngoại giao

của Việt Nam tại đây, cần tăng cường hơn nữa hợp tác song phương giữa Việt

Nam và các quốc gia này, tiến tới thành lập cơ quan đại diện ngoại giao của

Việt Nam để tăng cường hoạt động hỗ trợ đối với nhà đầu tư.

Thứ tư, nhà nước cần có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho các dự án

viễn thông thực hiện ở nước ngoài mà có tác động tới sự phát triển kinh tế, xã

hội và mối quan hệ hữu nghị của nước ta với nước tiếp nhận đầu tư. Các

chính sách ưu đãi này có thể là những chính sách tín dụng như vay vốn, hoặc

chính sách thuế,...

Thứ năm, cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư cần chủ trì phối hợp với

các Bộ ngành liên quan tổ chức thu thập thông tin, có thể định kỳ hàng năm

biên soạn thành các ấn phẩm như sách để cung cấp cho các nhà đầu tư trong

nước có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài trong các lĩnh vực khuyến khích, trong

đó có lĩnh vực viễn thông. Nguồn thông tin bao gồm: Chính sách thu hút đầu

93

tư, chính sách liên quan đến hoạt động đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp tại nước tiếp nhận đầu tư; các tiềm năng và cơ hội đầu tư

trong lĩnh vực viễn thông; các dự án đầu tư đã được Chính phủ hai nước ký

thỏa thuận; các dự án viễn thông có chính sách ưu đãi khuyến khích tái đầu tư

tại nước sở tại...

 Giải pháp nâng cao công tác quản lý nhà nước

Thứ nhất, nâng cấp hệ thống cổng thông tin quốc gia về đầu tư.

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong cấp phép và quản lý

hoạt động đầu tư ra nước ngoài phù hợp với xu hướng hiện nay. Hiện tại,

công tác cấp phép và quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài chưa hoàn toàn

được thực hiện qua cổng thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư

trong quá trình thực hiện đăng ký/điều chỉnh dự án vẫn phải nộp hồ sơ bản

cứng lên Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện, nhà

đầu tư có trách nhiệm thực hiện chế độ báo cáo tình hình hoạt động kèm các

văn bản gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các cơ quan Bộ ngành liên quan khác.

Trong công tác quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài, yêu cầu được đặt ra là

các thông tin, tài liệu phải đảm bảo tính pháp lý, tính chính xác và tính kịp

thời nhằm đảm bảo rút ngắn tối đa thời gian xử lý giải quyết của cơ quan nhà

nước, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trong việc theo dõi, giám sát

hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Từ đó đặt ra yêu cầu cần áp dụng công nghệ

thông tin trong các hoạt động này nhưng vẫn đảm bảo các yêu cầu trong công

tác quản lý nhà nước. Hệ thống cổng thông tin quốc gia về đầu tư cần được

không ngừng nâng cấp, bảo trì, đảm bảo an toàn thông tin.

Thứ hai, cần quy định rõ ràng, minh bạch các thủ tục hành chính ở các

khâu, các cấp; công khai quy trình, thời hạn, trách nhiệm của các cơ quan nhà

nước trong việc xử lý các thủ tục hành chính, hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện

thủ tục nhằm tạo sự cải cách hành chính trọng lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài;

94

đẩy mạnh công tác gặp gỡ, đối thoại với nhà đầu tư để xem xét các ý kiến của

nhà đầu tư đối với các thủ tục hành chính liên quan. Bên cạnh đó, cần nâng

cao chuyên môn, năng lực, kiến thức pháp luật của cán bộ nhà nước để đảm

bảo hỗ trợ tích cực, kịp thời các vướng mắc, khó khăn của nhà đầu tư trong

quá trình thực hiện.

 Giải pháp tăng cường tham gia và thực hiện các Điều ước quốc tế về

đầu tư

Trong xu hướng phát triển, hội nhập quốc tế việc ký kết và triển khai

thực hiện các hiệp định song phương và đa phương đóng vai trò hết sức quan

trọng trong quan hệ đầu tư giữa nước ta và các nước khác trên thế giới. Đây là

cơ sở pháp lý trong việc bảo đảm các quyền lợi của nhà đầu tư Việt Nam có

hoạt động tại quốc gia mà Việt Nam ký kết hiệp định song phương, đa

phương. Bên cạnh đó, các hiệp định về đầu tư này sẽ bao trùm các nội dung

về khuyến khích đầu tư ra nước ngoài; thực hiện đối xử công bằng và thỏa

đáng; áp dụng nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và nguyên tắc tối huệ quốc; các

quốc gia đảm bảo tự do chuyển các khoản thanh toán ra nước ngoài liên quan

đến đầu tư; các nguyên tắc về người lao động; các nguyên tắc giải quyết tranh

chấp giữa nhà đầu tư và quốc gia tiếp nhận đầu tư. Chính vì vậy, việc ký kết

các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư sẽ tạo cơ chế bảo vệ nhà đầu tư

tại nước tiếp nhận đầu tư, nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư. Trong các

quốc gia mà Việt Nam đang đầu tư trong lĩnh vực viễn thông, có nhiều quốc

gia Việt Nam chưa ký kết hiệp định đầu tư. Từ đó, mở rộng hơn các quốc gia

khác để nhà đầu tư Việt Nam có cơ hội đầu tư kinh doanh trên nhiều thị

trường khác với các điều kiện thuận lợi hơn về đầu tư. Ngoài ra, Việt Nam

cần tích cực hơn nữa trong việc ký kết hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Bởi

lẽ, khi thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhà đầu tư chịu thuế ở trong

nước và ở nước tiếp nhận đầu tư, việc thu thuế trùng làm giảm lợi nhuận đầu

95

tư của dự án, hạn chế việc khuyến khích nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu

tư. Như vậy, một số giải pháp được đặt ra trong việc ký kết và thực hiện điều

ước quốc tế về đầu tư như sau:

Thứ nhất, tăng cường hoạt động đàm phán, ký kết hiệp định tránh đánh

thuế hai lần với những nước đã đầu tư nhưng chưa ký kết hiệp định.

Thứ hai, mở rộng ký kết với các nước khác có tiềm năng đầu tư và có

mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với nước ta.

Về cơ bản đầu tư trong lĩnh vực viễn thông sẽ hỗ trợ rất lớn đến quá

trình phát triển của khu vực được đầu tư như tăng trưởng về liên lạc, giao

thương, phát triển về kinh tế xã hội du lịch văn hóa đặc biệt là khu vực có hạ

tầng phức tạp, việc phủ sóng viễn thông đóng một vai trò rất lớn hỗ trợ sự

phát triển. Tuy nhiên, xuất phát từ tính đặc thù của lĩnh vực viễn thông về

việc nắm giữ rất nhiều thông tin nhạy cảm cần bảo vệ như thông tin khách

hàng, cuộc gọi tin nhắn, địa bàn… nên để đảm bảo việc mở cửa thị trường

viễn thông của các quốc gia thì những chính sách trong quá trình đàm phán ký

kết các hiệp định, thỏa thuận, cam kết giữa nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu

tư đóng vai trò quan trọng. Do đó, để đảm bảo hợp tác tốt và phù hợp với

chính sách pháp luật của các nước sở tại cũng như tăng sự tin tưởng của nhà

nước sở tại, tạo cơ chế mở cửa đối với nhà đầu tư viễn thông Việt Nam khi

đầu tư thì trong các hiệp định, thỏa thuận, cam kết giữa Việt Nam và nước sở

tại nên có một số chính sách, nội dung như:

- Chính sách, cam kết đảm bảo an toàn thông tin quốc phòng an ninh

của nước sở tại và thông tin người dùng nước sở tại.

- Chính sách, cam kết về hỗ trợ hạ tầng viễn thông với một số khu vực

khó khăn; cam kết đầu tư và hỗ trợ các doanh nghiệp nước sở tại ở một số

hạng mục về đường truyền viễn thông; Cam kết hỗ trợ chính phủ về mảng số

96

hóa chính sách, dịch vụ công, xây dựng chính phủ điện tử.

- Chính sách hợp tác đầu tư cho nhà đầu tư hai nước nhằm phát triển

giao thương trên các lĩnh vực đầu tư khác.

Thứ ba, tăng cường công tác rà soát các hiệp định và hệ thống pháp luật

quốc gia đảm bảo tính tương thích của các văn bản này.

Thứ tư, tăng cường triển khai các hiệp định đã ký kết đồng thời ban

hành những văn bản hướng dẫn triển khai tuyên truyền, giáo dục, phổ biến

cho các nhà đầu tư để nắm, hiểu và áp dụng các hiệp định một cách hiệu quả

trong hoạt động đầu tư của mình cũng như áp dụng trong việc bảo vệ quyền

và lợi ích của mình khi thực hiện hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư

(nhà đầu tư có thể khởi kiện Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư trong trường

hợp vi phạm các hiệp định quốc tế này).

 Giải pháp đối với nhà đầu tư

Thứ nhất, xây dựng chiến lược đầu tư trong đó tăng cường tìm hiểu thị

trường trước khi thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

Trước khi thực hiện hoạt động đầu tư, nhà đầu tư cần xây dựng chiến

lược đầu tư của mình một cách cụ thể theo từng thời điểm, từng địa bàn, từng

thị trường... Trong đó đặc biệt chú trọng việc tìm hiểu thị trường trước khi

quyết định đầu tư. Tìm hiểu sâu về chính sách đầu tư và những thay đổi chính

sách của nước tiếp nhận đầu tư để đảm bảo hạn chế nhất những rủi ro pháp lý

có thể xảy ra đối với nhà đầu tư.

Thứ hai, thực hiện tuân thủ pháp luật nước sở tại, luật pháp quốc tế và

các chính sách, pháp luật có liên quan khác. Bản thân nhà đầu tư khi đầu tư ra

nước ngoài phải tích cực, chủ động trong vấn đề tìm hiểu cơ chế chính sách

pháp luật Việt Nam, cũng như các văn bản điều ước quốc tế và đặc biệt pháp

luật nước sở tại mà nhà đầu tư thực hiện đầu tư. Bên cạnh đó, nhà đầu tư phải

có ý thức bảo vệ môi trường sống nơi sở tại, không chỉ bảo đảm hoạt động

97

kinh doanh bền vững của chính mà còn hạn chế những phản đối, bất bình và

tẩy chay từ phía người dân địa phương. Các nhà đầu tư cũng cần đảm bảo lợi

ích hài hòa cho người dân địa phương, tạo công ăn việc làm và tích cực các

hoạt động từ thiện, xóa đói giảm nghèo đối với quốc gia nhận đầu tư bên cạnh

những lợi ích của doanh nghiệp.

Thứ ba, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực quản trị: Nhà đầu tư

cần không ngừng nâng cao, năng lực quản lý, năng lực tài chính khi đầu tư

ra nước ngoài. Theo đó, nhà đầu tư cần xây dựng chiến lược kinh doanh,

chiến lược sản phẩm, thương hiệu để từng bước nâng cao năng lực quản trị;

nghiên cứu phát triển thị trường... nhằm đạt được những hiệu quả đầu tư,

98

lợi nhuận cao nhất.

Kết luận Chương 3

Trên cơ sở những nội dung khái quát về mặt lý luận tại Chương 1 và

các nội dung quy định của pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực

viễn thông cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật tại Chương 2 thì Chương 3

của luận văn đã đưa ra một số yêu cầu và định hướng hoàn thiện pháp luật,

một số kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

áp dụng pháp luật. Theo đó, một số giải pháp hoàn thiện pháp luật như: Xây

dựng chiến lược, chính sách đầu tư ra nước ngoài; thống nhất các hình thức

đầu tư tại Luật Đầu tư 2014 đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế và thực

tiễn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư Việt Nam; đơn giản hóa

các thủ tục đầu tư; đảm bảo hệ thống pháp luật đầu tư đồng bộ, chặt chẽ với

hệ thống pháp luật liên quan,...Bên cạnh đó, các giải pháp nâng cao hiệu quả

áp dụng pháp luật như: Giải pháp tăng cường các hoạt động hỗ trợ nhà đầu

tư; giải pháp nâng cao công tác quản lý nhà nước; giải pháp tăng cường

tham gia và thực hiện các Điều ước quốc tế về đầu tư; giải pháp đối với nhà

đầu tư cũng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài

99

trong lĩnh vực viễn thông.

KẾT LUẬN

Trải qua hơn thời gian 30 năm hội nhập và phát triển, Việt Nam hiện

nay không chỉ là một nước tiếp nhận đầu tư hàng đầu trong khu vực mà còn

vươn lên trở thành một trong số những quốc gia có nhiều doanh nghiệp, dự án

đầu tư ra nước ngoài. Đầu tư ra nước ngoài là một xu hướng tất yếu, khách

quan của nhà đầu tư Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện

nay, không chỉ những quốc gia có nền khoa học công nghệ hiện đại, trình độ

quản lý tiên tiến mới thực hiện đầu tư ra nước ngoài mà ngay cả những nước

đang phát triển hoặc kém phát triển thì dòng đầu tư cũng đã phát triển một

cách mạnh mẽ. Sự tham gia đầu tư của các quốc gia làm đa dạng, phong phú

hơn môi trường đầu tư quốc tế.

Việt Nam cũng là quốc gia có nền kinh tế đang phát triển nhưng hoạt

động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam cũng mang lại nhiều kết quả tích cực

đặc biệt trong lĩnh vực viễn thông. Trước thực trạng viễn thông trong nước

bão hòa, để tìm kiếm cơ hội, thị trường mới thì hoạt động đầu tư quốc tế là

một giải pháp hữu hiệu. Dự án đầu tư đầu tiên trong lĩnh vực viễn thông chỉ

mới bắt đầu từ đầu năm 2007 nhưng đến nay đã đạt được những hiệu quả nhất

định không chỉ về mặt kinh tế và còn đóng góp quan trọng cho sự phát triển

kinh tế - xã hội của nước ta cũng như nước tiếp nhận đầu tư, góp phần tăng

cường quan hệ hợp tác ngoại giao giữa Việt Nam và nước tiếp nhận đầu tư.

Những kết quả này thể hiện vai trò, tầm quan trọng của hệ thống pháp luật

đầu tư ra nước ngoài của nhà nước ta. Các văn bản pháp luật này đã tạo ra

những khung pháp lý tương đối hoàn thiện để đảm bảo cơ sở cho nhà đầu tư

thực hiện hoạt động đầu tư của mình. Mặc dù vậy, trong quá trình thực thi, hệ

thống pháp luật này cũng còn bộc lộ những bất cập, hạn chế, gây ra những

100

khó khăn vướng mắc trên thực tế. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư trong lĩnh vực

viễn thông cũng gặp nhiều thách thức dẫn đến việc hoạt động đầu tư kinh

doanh bị ảnh hưởng, không mang lại hiệu quả cao cho nhà đầu tư.

Để hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông của các

nhà đầu tư Việt Nam phát triển hơn, phát huy tối đa vai trò của mình thì yêu

cầu cấp thiết là cần có những giải pháp tổng thể và đồng bộ để xây dựng và

hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông đảm bảo

hệ thống pháp luật thống nhất, chặt chẽ, tương thích với pháp luật quốc tế,

phù hợp với nền kinh tế thị trường, khuyến khích thúc đẩy hoạt động đầu tư

ra nước ngoài.

Với mong muốn giảm bớt các hạn chế, tồn tại liên quan đến pháp luật

đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông, học viên đưa ra một số giải

pháp, kiến nghị để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp

luật, từ đó nhằm tiến tới xây dựng một hệ thống pháp luật về đầu tư ra nước

ngoài nói chung cũng như trong lĩnh vực viễn thông nói riêng hoàn thiện, phù

hợp hơn với thực tiễn đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư

Việt Nam tiến xa hơn trên thị trường thế giới, khẳng định thương hiệu của

101

mình cũng như vị thế của đất nước.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu Tiếng Việt

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Thông tư số 03/2018/TT-BKHĐT ngày

17/10/2018 Hướng dẫn và ban hành mẫu văn bản thực hiện thủ tục đầu

tư ra nước ngoài, Hà Nội.

3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Báo cáo tình hình đầu tư ra nước ngoài

của Doanh nghiệp Việt Nam, Hà Nội.

4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Quyết định số 38/QĐ-BKHĐT ngày

11/01/2019 về việc đính chính Thông tư 03/2018/TT-BKHĐT hướng dẫn

và ban hành mẫu văn bản thực hiện thủ tục đầu tư ra nước ngoài của Bộ

Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội.

5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Thông tư số 09/2019/TT-BKHĐT ngày

29/7/2019 sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều khoản của các thông tư

liên quan đến chế độ báo cáo định kỳ thuộc phạm vi quản lý nhà nước và

hệ thống thông tin báo cáo của bộ kế hoạch và đầu tư, Hà Nội.

6. Bộ Tài chính (2010), Thông tư 11/2010/TT-BTC ngày 19/01/2010 hướng

dẫn nghĩa vụ thuế đối với nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài do

Bộ Tài chính ban hành, Hà Nội.

7. Bộ Tài chính (2011), Thông tư 104/2011/TT-BTC ngày 12/7/2011 sửa đổi

Thông tư 11/2010/TT-BTC hướng dẫn nghĩa vụ thuế đối với nhà đầu tư

Việt Nam đầu tư ra nước ngoài do Bộ Tài chính ban hành, Hà Nội.

8. Chính phủ (1999), Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14/4/1999 quy

định về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam, Hà Nội.

9. Chính phủ (2006), Nghị định 78/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 về đầu tư

102

trực tiếp ra nước ngoài, Hà Nội.

10. Chính phủ (2015), Nghị định 131/2015/NĐ-CP ngày 25/12 /2015 hướng

dẫn về dự án trọng điểm quốc gia, Hà Nội.

11. Chính phủ (2015), Nghị định số 135/2015/NĐ-CP ngày 31/12/2015 quy

định về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài, Hà Nội.

12. Chính phủ (2015), Nghị định số 83/2015/NĐ-CP ngày 25/9/2015 quy

định về đầu tư ra nước ngoài, Hà Nội.

13. Chính phủ (2015), Nghị định số 91/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 về đầu

tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại

doanh nghiệp, Hà Nội.

14. Vũ Duy Cương (2016), “Phát triển bền vững và hoạt động đầu tư trực

tiếp ra nước ngoài - nhìn từ góc độ luật và chính sách của Trung Quốc”,

Tạp chí Khoa học pháp lý, (5), tr.20-27.

15. Phạm Thanh Hà (2011), “Đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước đối với hoạt

động đầu tư ra nước ngoài”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (6), tr.19-21.

16. Phan Thị Ngân Hà (2011), Pháp luật về thủ tục đầu tư ra nước ngoài của

Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

17. Trần Thanh Hải (2014), “Đầu tư ra nước ngoài khó khăn của doanh

nghiệp và những vấn đề pháp lý cần hoàn thiện”, Tạp chí Dân chủ và

Pháp luật, (3), tr.33 - 35.

18. Trần Thanh Hải (2016), “Một số vấn đề ảnh hưởng của Hiệp định TPP

đến doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài”, Tạp chí

Nghề luật, (2), tr.46 - 47, 53.

19. Trần Thanh Hải (2018), “Kinh nghiệm pháp luật về quản lý dòng vốn đầu

tư ra nước ngoài của Nhật Bản, Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho

Việt Nam trong việc quản lý doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài”, Tạp chí

103

Nghề luật, (2), tr.76- 86.

20. Trần Thanh Hải (2019), Địa vị pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam đầu

tư trực tiếp ra nước ngoài, Luận án tiến sĩ luật học Luật học, Khoa Luật,

Đại học Quốc gia Hà Nội.

21. Quách Mạnh Hồng (2006), Pháp luật về hình thức đầu tư ra nước ngoài

của doanh nghiệp Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại

học Quốc gia Hà Nội.

22. Trần Đăng Khoa (2007), Phát triển ngành viễn thông Việt Nam đến năm

2020, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hồ Chí Minh.

23. Đoàn Trung Kiên (2009), Giáo trình Luật Đầu tư, Nxb Giáo dục Việt

Nam, Hà Nội.

24. Hoàng Thị Bích Loan (2011), “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đầu

tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (6),

tr.52 - 55.

25. Nguyễn Thị Ngọc Mai (2018), Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt

Nam: Nhân tố tác động và hàm ý chính sách, Luật án tiến sĩ kinh tế,

Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.

26. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2016), Thông tư số 12/2016/TT-NHNN

Hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài,

Hà Nội.

27. Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2018), Thông tư 36/2018/TT-NHNN quy

định về hoạt động cho vay để đầu tư ra nước ngoài của tổ chức tín dụng,

chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng do Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam ban hành, Hà Nội.

28. Nguyễn Thị Bích Ngọc (2019), “Hoạt động đầu tư của Việt Nam ra nước

ngoài: Thực trạng và khuyến nghị”, Tạp chí Tài chính, Kỳ 2, tháng 12.

29. Phùng Xuân Nhạ (2001), Giáo trình Đầu tư quốc tế, Nxb Đại học quốc

104

gia Hà Nội.

30. Đỗ Thị Phương (2013), Pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các

doanh nghiệp Việt Nam- Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn

thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

31. Quốc hội (2005), Luật Đầu tư, Hà Nội.

32. Quốc hội (2009), Luật Viễn thông, Hà Nội.

33. Quốc hội (2014), Luật Đầu tư, Hà Nội.

34. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.

35. Quốc hội (2014), Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản

xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Hà Nội.

36. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.

37. Phạm Thị Sơn (2010), “Pháp luật về đầu tư nước ngoài của Việt Nam sau

khi ra nhập WTO”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Chuyên đề), tr.9 - 10.

38. Đỗ Huy Thưởng (2015), “Chính sách đầu tư ra nước ngoài của Trung

Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Đại học

Quốc gia Hà Nội.

39. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2003), Giáo trình Kinh tế Đầu tư,

Nxb Thống kê, Hà Nội.

40. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật Đầu tư, Nxb Công

an nhân dân, Hà Nội.

41. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách

khoa, Hà Nội.

42. Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

II. Tài liệu trang Website

43. http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/loai-bo-nhung-rao-can-doi-

hoat-dong-dau-tu-cua-viet-nam-ra-nuoc-ngoai-319247.html (truy cập lúc

105

10h ngày 01/3/2020).

44. http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/loai-bo-nhung-rao-can-doi-

hoat-dong-dau-tu-cua-viet-nam-ra-nuoc-ngoai-319247.html (truy cập lúc

10h ngày 01/3/2020).

45. http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/dau-tu-ra-nuoc-ngoai-cua-

viet-nam-tang-manh-314593.html (truy cập lúc 10h ngày 01/3/2020).

46. https://baodautu.vn/vnpt-thanh-lap-lien-doanh-streamnet-von-15-trieu-

usd-tai-myanmar-d71882.html (truy cập lúc 8h ngày 27/4/2020).

47. https://baodautu.vn/chien-truong-moi-cua-doanh-nghiep-vien-thong

106

d114360.html (truy cập lúc 8h ngày 27/4/2020).