ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
NGUYỄN BÍCH NGỌC
PH¸P LUËT §ÇU T¦ RA N¦íC NGOµI TRONG LÜNH VùC VIÔN TH¤NG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
NGUYỄN BÍCH NGỌC
PH¸P LUËT §ÇU T¦ RA N¦íC NGOµI TRONG LÜNH VùC VIÔN TH¤NG
Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380101.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN TIẾN VINH
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Bích Ngọc
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ Lời cam đoan Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU
TƯ RA NƯỚC NGOÀI TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG ..... 6
1.1. Đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông ............................. 6
1.1.1. Khái niệm đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông ................. 6
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông .......... 10
1.1.3. Vai trò của đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông .............. 14
1.2. Pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông .......... 16
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung pháp luật đầu tư ra nước ngoài
trong lĩnh vực viễn thông ................................................................... 16
1.2.2. Vai trò của pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông ... 22
1.2.3. Khái quát sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư ra
nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông ................................................ 24
Kết luận Chương 1 ........................................................................................ 30
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ RA NƯỚC
NGOÀI TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG ............................ 31
2.1. Thực trạng quy định pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong
lĩnh vực viễn thông ........................................................................... 31
2.1.1. Quy định chuẩn bị dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực
viễn thông ........................................................................................... 32
2.1.2. Quy định về thủ tục đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông ..... 41
2.1.3. Quy định về triển khai dự án đầu tư đầu tư ra nước ngoài trong
lĩnh vực viễn thông ............................................................................. 48
2.1.4. Quy định về quản lý nhà nước về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh
vực viễn thông .................................................................................... 53
2.2. Quy định về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
trong hiệp định quốc tế .................................................................... 55
2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh
vực viễn thông ................................................................................... 63
Kết luận Chương 2 ........................................................................................ 71
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN VÀ GIẢI PHÁP KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ RA NƯỚC
NGOÀI TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG .............................. 72
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong
lĩnh vực viễn thông ........................................................................... 72
3.1.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật ............................................................. 72
3.1.2. Một số định hướng hoàn thiện pháp luật ............................................ 83
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong
lĩnh vực viễn thông ........................................................................... 86
3.2.1. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật ......................... 86
3.2.2. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật ..................... 91
Kết luận Chương 3 ........................................................................................ 99
KẾT LUẬN .................................................................................................. 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 102
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, các quốc gia trên thế giới đang không ngừng tăng cường tiềm
lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước để chủ động tích cực hội nhập
quốc tế sâu, rộng và hiệu quả. Trong bối cảnh đó, đầu tư ra nước ngoài được
xem là vấn đề mang tính chất toàn cầu. Đầu tư ra nước ngoài đang là xu thế
chung của các quốc gia nhằm mở rộng thị trường đầu tư, nâng cao hiệu quả
đầu tư kinh doanh, góp phần bảo đảm sự phát triển của nền kinh tế, tăng
cường vị thế kinh tế ở nước ngoài.
Với xu hướng hội nhập đó, hoạt động đầu tư ra nước ngoài tại Việt
Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ trong những thập kỷ trở lại đây và thực sự
trở thành một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế hiện đại. Theo Cục Ðầu tư
nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Ðầu tư), sau hơn 30 năm hội nhập và phát triển,
đến nay, Việt Nam không chỉ là một quốc gia tiếp nhận đầu tư hàng đầu trong
khu vực mà còn vươn lên trở thành quốc gia có nhiều doanh nghiệp, dự án
đầu tư ra nước ngoài. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam ngày
càng đa dạng, thể hiện rõ nét qua thị trường, ngành nghề đầu tư, quy mô, hình
thức đầu tư, các loại hình kinh tế và doanh nghiệp tham gia đầu tư.
Trong các lĩnh vực Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, lĩnh vực viễn thông
là một trong những lĩnh vực có thành công nổi bật. Viễn thông là một trong
những ngành cơ bản và có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã
hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nước. Trong những năm gần đây
Việt Nam liên tục được Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) xếp vào nhóm
những quốc gia có tốc độ phát triển viễn thông nhanh nhất thế giới. Tuy
nhiên, thị trường viễn thông trong nước cũng đang bước vào giai đoạn bão
hòa. Do đó, việc đầu tư ra nước ngoài được coi là chiến lược quan trọng giúp
1
nhà đầu tư viễn thông Việt Nam tìm kiếm cơ hội thị trường, cơ hội doanh thu
mới, mở rộng vị thế, danh tiếng không chỉ tại Việt Nam mà còn vươn ra các
quốc gia khác trên thị trường quốc tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động đầu tư ra nước ngoài đặc
biệt trong lĩnh vực viễn thông, pháp luật điều chỉnh hoạt động này cũng
không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài
trong lĩnh vực viễn thông về bản chất là hoạt động đầu tư xuyên quốc gia nên
pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông chịu sự điều chỉnh
của pháp luật quốc gia nhà đầu tư, pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư và các
Điều ước quốc tế đa phương, song phương giữa nước đầu tư và nước tiếp
nhận đầu tư. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn, tác giá chỉ tập trung nghiên
cứu pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông theo quy định
của pháp luật Việt Nam.
Những năm qua hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động
đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông ở nước ta không ngừng được
phát triển và hoàn thiện phù hợp với đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước. Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật
điều chỉnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Hệ
thống văn bản pháp luật này đã tạo khung pháp lý quan trọng cho các nhà đầu
tư khi đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên, pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong
lĩnh vực viễn thông của nước ta vẫn còn một số bất cập, hạn chế. Bên cạnh
đó, trong thực tiễn thực thi nhà đầu tư Việt Nam cũng gặp những khó khăn,
thách thức, đe dọa lợi ích khi hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh
vực viễn thông để từ đó đưa ra một số biện pháp, phương hướng giải quyết
góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong
lĩnh vực viễn thông trở thành một yêu cầu cần thiết và có ý nghĩa quan trọng
2
đối với nước ta trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Từ những lý do trên, học viên lựa chọn nghiên cứu đề tài “Pháp luật
đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước khi có Luật Đầu tư 2005 và các văn bản hướng dẫn liên quan thì
hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung và trong lĩnh vực viễn thông nói
riêng chưa thực sự được quan tâm đúng mức tại Việt Nam. Trước năm 2005,
liên quan đến vấn đề này, có rất ít các công trình nghiên cứu, sách báo đi sâu
vào phân tích. Những năm gần đây cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế, hội nhập quốc tế, pháp luật về đầu tư ra nước ngoài đã nhận được
nhiều sự quan tâm và đã có nhiều công trình nghiên cứu về đề tài này ở những
khía cạnh và góc độ khác nhau như: “Pháp luật về hình thức đầu tư ra nước
ngoài của doanh nghiệp Việt Nam”, luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả
Quách Mạnh Hồng năm 2006; “Pháp luật về thủ tục đầu tư ra nước ngoài của
Việt Nam”, luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Phan Thị Ngân Hà năm
2011; “Pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt
Nam- Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, luận văn Thạc sĩ luật học của tác
giả Đỗ Thị Phương năm 2013; “Chính sách đầu tư ra nước ngoài của Trung
Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, bài viết trên Tạp chí Khoa học
Đại học Quốc gia Hà Nội của tác giả Đỗ Xuân Thưởng năm 2015; “Địa vị
pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài” Luận án
Tiến sĩ luật quốc tế của tác giả Trần Thanh Hải năm 2019;...
Các công trình nghiên cứu trên, tuy có đề cập đến hoạt động đầu tư ra
nước ngoài nhưng một số công trình nghiên cứu pháp luật đầu tư ra nước
ngoài theo quy định của Luật đầu tư 2005 đã hết hiệu lực pháp lý; chưa có
công trình nào nghiên cứu về pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực
viễn thông cũng như đưa ra những bất cập, vướng mắc trong quá trình thực
3
thi pháp luật trong lĩnh vực này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của luận văn là nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề lý luận và
thực trạng pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông của Việt
Nam và đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định này cũng như những khó
khăn, hạn chế trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Từ đó đề ra những giải
pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông trong bối cảnh hiện nay nhằm
đảm bảo phù hợp với sự phát triển chung của nền kinh tế thị trường.
Để đạt được những mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
cần phải làm rõ những vấn đề như sau:
- Phân tích những vấn đề lý luận về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực
viễn thông và pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Với nhiệm
vụ này, luận văn phân tích, lý giải và làm rõ khái niệm, đặc điểm và vai trò của
đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông và khái quát pháp luật Việt Nam về
đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông qua giai đoạn khác nhau.
- Phân tích thực trạng các quy định của pháp luật hiện hành về đầu tư ra
nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông và thực tiễn áp dụng. Với nhiệm vụ này,
luận văn tập trung phân tích các quy định của pháp luật đầu tư ra nước ngoài
trong lĩnh vực viễn thông và thực tiễn áp dụng pháp luật đầu tư ra nước ngoài
trong lĩnh vực viễn thông.
- Đề xuất một số kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như các
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định hiện hành của
pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông và thực tiễn áp dụng
các hoạt động này.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
của pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông theo quy định
4
của pháp luật Việt Nam. Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản
của pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam theo
quy định tại Luật Đầu tư 2014, trong đó tập trung nghiên cứu các quy định
của pháp luật Việt Nam về điều kiện, thủ tục thực hiện dự án đầu tư ra nước
ngoài trong lĩnh vực viễn thông đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp
luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam. Từ đó đưa ra
một số giải pháp kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin đồng thời kết hợp một số phương pháp nghiên cứu như: Phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp
thống kê, phương pháp phân loại…để làm rõ các luận điểm trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về ý nghĩa lý luận, luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông và hệ thống hóa các
quy định pháp luật hiện hành về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông.
Về ý nghĩa thực tiễn, luận văn là công trình nghiên cứu có giá trị tham
khảo đóng góp vào việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông cũng như nâng cao hơn hiệu
quả áp dụng của pháp luật trong lĩnh vực này.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về pháp luật đầu tư ra nước ngoài
trong lĩnh vực viễn thông.
Chương 2. Thực trạng pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực
viễn thông.
Chương 3. Định hướng hoàn thiện và giải pháp kiến nghị hoàn thiện
5
pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ
RA NƯỚC NGOÀI TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG
1.1. Đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
1.1.1. Khái niệm đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
1.1.1.1. Khái niệm đầu tư ra nước ngoài
Trong xu hướng phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, hoạt động
đầu tư ra nước ngoài là xu thế tất yếu, đồng thời là lựa chọn phù hợp với điều
kiện phát triển kinh tế hiện nay nhằm tận dụng nguồn tài nguyên của địa bàn
tiếp nhận vốn đầu tư, mở rộng thị trường, đẩy mạnh quảng bá, tiếp thị hình
ảnh của nước đầu tư đến các nước khác nhau trên thế giới.
Để làm rõ khái niệm đầu tư ra nước ngoài trước hết cần tìm hiểu một số
cách hiểu về đầu tư.
Theo cách hiểu phổ thông, đầu tư là việc “bỏ nhân lực, vật lực, tài lực vào
công việc gì, trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế, xã hội” [42, tr.301]. Trong
khoa học kinh tế, đầu tư được quan niệm là hoạt động sử dụng các nguồn lực
hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế, xã hội những kết quả trong tương lai lớn
hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó [39, tr.16]. Các nguồn
lực được chủ thể đầu tư (cá nhân, tổ chức) sử dụng để đầu tư có thể là tiền, tài
nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ. Mục đích của hoạt động đầu tư
không những mang lại những lợi ích trực tiếp cho nhà đầu tư như tăng thêm
tài sản vật chất, tài sản trí tuệ… mà còn mang lại lợi ích chung cho nền kinh
tế và cho toàn xã hội.
Khái niệm đầu tư được quy định trong Luật Đầu tư 2005 như sau:
Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các tài sản hữu hình và vô
hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy
6
định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Luật Đầu tư 2014 đưa ra khái niệm đầu tư kinh doanh như sau:
Đầu tư kinh doanh là việc mà nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện
hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu
tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn của của tổ chức kinh tế; đầu tư
theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư.
Do đó, có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư như sau: “Đầu tư là
việc nhà đầu tư bỏ vốn để tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm mục đích
thu về cho nhà đầu tư các kết quả nhất định lớn hơn nguồn vốn đã bỏ ra”.
Xuất phát từ khái niệm đầu tư nêu trên, đầu tư ra nước ngoài cũng được
hiểu theo nhiều phương diện khác nhau.
Theo từ điển luật học của Viện khoa học pháp lý, khái niệm đầu tư ra
nước ngoài là việc tổ chức cá nhân của một quốc gia đưa vốn dưới các hình
thức khác nhau vào một quốc gia khác để tiến hành các hoạt động kinh doanh
tìm kiếm lợi nhuận. Đầu tư nước ngoài được thực hiện dưới hình thức đầu tư
trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp [41].
Theo các nhà kinh tế học, dòng đầu tư quốc tế vận động dựa trên
nguyên tắc lợi thế so sánh các yếu tố vốn, lao động, thị trường giữa các quốc
gia, đặc biệt giữa các nước phát triển và đang phát triển. Đầu tư quốc tế là sự
di chuyển tài sản vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý… từ quốc gia này sang
quốc gia khác để kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận cao trên phạm vi
toàn cầu cho các bên tham gia [29, tr.50].
Theo lý luận Mác- Lênin, hiện tượng xuất khẩu tư bản (đầu tư ra nước
ngoài) có nguyên nhân là vì một số nước có hiện tượng “thừa tư bản”, nhưng
lại thiếu địa bàn đầu tư có lợi. Hiện tượng “thừa tư bản” được hiểu là thừa
tương đối khi đầu tư trong nước có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn so với tỷ suất
lợi nhuận đầu tư ở nước ngoài. Các nền kinh tế lạc hậu có tỷ suất lợi nhuận
7
nhưng rất thiếu tư bản để đầu tư phát triển kinh tế, đổi mới kỹ thuật và công
nghệ. Sự gặp nhau giữa các nước xuất khẩu và nước tiếp nhận tư bản đã hình
thành đầu tư ra nước ngoài. Nếu thương mại quốc tế là sự di chuyển kết quả
của quá trình sản xuất trên quy mô quốc tế để thu lợi nhuận thì đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài là sự di chuyển chính điều kiện sản xuất giữa các quốc gia
để thu lợi nhuận [1, tr.207].
Trên phương diện pháp lý, đầu tư ra nước ngoài từ khi xuất hiện ở Việt
Nam cho đến nay, đã có nhiều định nghĩa khác nhau.
Tại Khoản 1 Điều 1 Nghị định số 22/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày
14/4/1999 quy định về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam quy
định: Đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam là việc doanh nghiệp
Việt Nam đưa vốn bằng tiền, tài sản khác ra nước ngoài để đầu tư trực tiếp ở
nước ngoài theo quy định của pháp luật. Luật Đầu tư 2005 quy định tại Khoản
14 Điều 3: “Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các
tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu
tư”. Mới đây nhất, tại Nghị định số 83/2015/NĐ-CP ngày 25/9/2015 của
Chính phủ Quy định về đầu tư ra nước ngoài đã đưa ra định nghĩa, cụ thể:
“Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn; hoặc thanh toán mua
một phần hoặc toàn bộ cơ sở kinh doanh; hoặc xác lập quyền sở hữu để thực
hiện hoạt động đầu tư kinh doanh ngoài lãnh thổ Việt Nam; đồng thời trực
tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó”.
Như vậy, các khái niệm trên đều bàn đến việc chuyển vốn từ một nền
kinh tế này sang một nền kinh tế khác để thực hiện hoạt động kinh doanh.
Trên cơ sở đó, có thể hiểu một cách khái quát đầu tư ra nước ngoài là việc nhà
đầu tư đưa vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác để tiến hành các hoạt động
đầu tư nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận, mục tiêu kinh tế xã hội khác.
1.1.1.2. Khái niệm đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
8
Trong những năm qua, ngành viễn thông đã liên tục phát triển, trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn, ngành công nghệ cao đóng vai trò động lực cho việc
thúc đẩy các ngành khác trong nước. Bên cạnh đó, viễn thông là một trong
những lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài điển hình. Xuất phát từ tầm quan trọng
của viễn thông, việc phát triển viễn thông trong nước và quốc tế là nhu cầu
thiết yếu của quốc gia.
Theo tổ chức Thương mại thế giới (WTO), viễn thông là việc truyền
dẫn thông tin giao tiếp qua khoảng cách địa lý [22, tr.5].
Theo tổ chức Liên minh Viễn thông thế giới (ITU), viễn thông là tất cả
sự chuyển tải, truyền dẫn hoặc thu phát các ký hiệu, tín hiệu, chữ viết, âm
thanh, hình ảnh, giọng nói, dữ liệu qua các dây dẫn, sóng vô tuyến, cáp
quang, các phương tiện vật lý hoặc các hệ thống điện từ khác [22, tr.6].
Theo Luật Viễn thông năm 2009 tại Khoản 1 Điều 3 có quy định: Viễn
thông là việc gửi, truyền, nhận và xử lý ký hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết,
hình ảnh, âm thanh hoặc dạng thông tin khác bằng đường cáp, sóng vô tuyến
điện, phương tiện quang học và phương tiện điện từ khác.
Từ những khái niệm trên, có thể hiểu khái quát viễn thông là việc gửi,
truyền, tiếp nhận, xử lý thông tin bằng các phương tiện khác nhau. Hoạt động
viễn thông là hoạt động cung cấp các dịch vụ viễn thông như gửi, truyền,
nhận và xử lý thông tin.
Xuất phát từ những khái quát trên về viễn thông và khái niệm về đầu tư
ra nước ngoài, mặc dù các văn bản pháp luật đầu tư không đưa ra định nghĩa
đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông nhưng có thể hiểu đầu tư ra
nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông là việc nhà đầu tư đưa vốn từ quốc gia
này sang quốc gia khác để tiến hành các hoạt động đầu tư dịch vụ viễn thông
như gửi, truyền, nhận và xử lý thông tin nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận,
9
mục tiêu kinh tế xã hội khác.
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
Đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông mang những đặc điểm
của đầu tư ra nước ngoài nói chung, được thể hiện ở một số điểm như sau:
Thứ nhất, đầu tư ra nước ngoài có sự di chuyển tài sản giữa các quốc
gia, làm tăng lượng tài sản của nền kinh tế tiếp nhận và làm giảm lượng tài
sản của nước đầu tư. Nguồn vốn đầu tư có sự chuyển dịch qua biên giới của
nước đầu tư để chuyển sang nước tiếp nhận đầu tư. Nguồn vốn này được xuất
phát từ nước đầu tư và được chuyển dịch sang nước tiếp nhận đầu tư để thực
hiện hoạt động đầu tư.
Thứ hai, mục đích đầu tư ra nước ngoài nhằm tìm kiếm doanh thu, lợi
nhuận, mở rộng, chiếm lĩnh thị trường. Đầu tư ra nước ngoài là hoạt động nhà
đầu tư tìm kiếm cơ hội tại các thị trường khác ngoài thị trường trong nước,
đưa các sản phẩm, dịch vụ của mình vào thị trường thế giới. Mục đích hàng
đầu khi các nhà đầu tư thực hiện đầu tư ra nước ngoài chính là tìm kiếm
doanh thu, lợi nhuận. Bên cạnh đó, khi đầu tư ra nước ngoài nhà đầu tư còn
có các mục đích khác như mở rộng thị trường, phát triển thương hiệu, quảng
bá hình ảnh sản phẩm dịch vụ của mình, tận dụng những nguồn tài nguyên
thiên nhiên hoặc nhân công tại nước tiếp nhận đầu tư.
Thứ ba, hoạt động đầu tư ra nước ngoài được thực hiện bằng nguồn vốn
của chính nhà đầu tư, nhà đầu tư chịu trách nhiệm về nguồn vốn của mình.
Nguồn vốn của nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài có thể là
tiền, công nghệ hoặc tài sản khác.
Thứ tư, hình thức đầu tư ra nước ngoài có thể được thực hiện dưới hình
thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đầu tư gián tiếp ra nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là hình thức đầu tư mà nhà đầu tư mang
vốn của mình vào nước tiếp nhận đầu tư để hình thành các dự án đầu tư tại
10
nước tiếp nhận đầu tư và trực tiếp quản lý dự án đầu tư tại nước tiếp nhận đầu
tư. Với hình thức này, người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá
trình sử dụng các nguồn lực (vốn) đầu tư. Trong hoạt động đầu tư trực tiếp sẽ
không có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý của nhà đầu tư với
vốn đầu tư. Đầu tư gián tiếp ra nước ngoài là hình thức đầu tư ra nước ngoài
mà theo đó nhà đầu tư thông qua thị trường tài chính mua bán cổ phần, chứng
khoán, các giấy tờ có giá khác của các công ty ở nước tiếp nhận đầu tư để
thực hiện hoạt động đầu tư. Qua đó, nhà đầu tư thu lại lợi nhuận dưới các hình
thức như cổ tức, thu nhập chứng khoán mà không trực tiếp tham gia điều hành
đối với đối tượng mà họ bỏ vốn ra đầu tư.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đầu tư gián tiếp ra nước ngoài có sự
giống nhau về mục đích kinh doanh nhưng cơ bản hai hình thức trên có những
sự khác nhau như sau:
Về phương thức quản lý vốn. Với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, nhà
đầu tư và vốn gắn bó chặt chẽ với nhau. Các nhà đầu tư trực tiếp quản lý
nguồn vốn này, trực tiếp điều hành hoặc tham gia điều hành dự án đầu tư, thu
lợi nhuận và cũng trực tiếp gánh chịu rủi ro từ hoạt động đầu tư. Trong khi
đó, các nhà đầu tư gián tiếp ra nước ngoài không trực tiếp điều hành quản lý
hoạt động kinh doanh của dự án mà họ bỏ vốn, việc quản lý điều hành này do
các doanh nghiệp tiếp nhận vốn đầu tư thực hiện do mục đích của dự án. Về
nguồn vốn đầu tư, đối với đầu tư gián tiếp ra nước ngoài, vốn chỉ có thể là
tiền, không thể là tài sản khác như bằng hiện vật và công nghệ. Trong khi đó,
vốn của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có thể là tiền, công nghệ hoặc tài sản
khác. Đối với đầu tư gián tiếp, doanh nghiệp nhận vốn không có cơ hội tiếp
nhận công nghệ hiện đại, kinh nghiệm, trình độ quản lý của các nhà đầu tư
nước ngoài nhưng họ lại tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi và biết cách chia
sẻ rủi ro kinh doanh cho những nhà đầu tư nước ngoài. Ngược lại, đối với đầu
tư trực tiếp, nước tiếp nhận đầu tư có cơ hội được tiếp thu công nghệ tiến tiến,
11
kinh nghiệm và trình độ quản lý… của nhà đầu tư.
Bên cạnh những đặc điểm chung của đầu tư ra nước ngoài, đầu tư ra nước
ngoài trong lĩnh vực viễn thông có một số những đặc điểm riêng như sau:
Thứ nhất, đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông thường sử
dụng nguồn vốn đầu tư lớn, đòi hỏi sử dụng công nghệ, kỹ thuật và thường có
sự hợp tác giữa quốc gia trong các dự án đầu tư. Chi phí cho mỗi dự án đầu tư
thường khá lớn với các hệ thống cơ sở hạ tầng, trang thiết bị được lắp đặt và
đầu tư đồng thời thời gian cho mỗi dự án thường khá dài từ bước đầu tư đến
giai đoạn hoạt động và mang lại doanh thu lợi nhuận. Chính vì điều này,
không phải bất kỳ nhà đầu tư nào cũng có đủ khả năng về vốn, năng lực, kinh
nghiệm để tiến hành đầu tư ra nước ngoài.
Thứ hai, sự cạnh tranh lĩnh vực viễn thông là rất khốc liệt. Hiện nay
trên thế giới, đối với các nước phát triển và đang phát triển, nền viễn thông
gần như đã bước vào giai đoạn bão hòa, sự ổn định của các nhà viễn thông
trong nước đã được thiết lập, rất khó để một doanh nghiệp mới bước chân vào
thị trường. Các lợi thế về hạ tầng, giá, và chất lượng dịch vụ không còn là lợi
thế nhiều đối với các doanh nghiệp mới. Từ đó cách doanh nghiệp viễn thông
muốn tìm kiếm một cơ hội đầu tư tiềm năng đều hướng tới các nước bắt đầu
bước sang giai đoạn đang phát triển hoặc chậm phát triển, nơi mà nền tảng về
viễn thông vẫn còn ít, sự cạnh tranh cũng như dung lượng của thị trường còn
lớn và tiềm năng. Ở các thị trường đó, mạng viễn thông chỉ tập trung nhiều ở
thành thị. Mạng viễn thông ở nông thôn vẫn còn kém phát triển, thậm chí còn
không phát triển do tính chất chung về hạ tầng cần đầu tư lớn, mật độ dân số
và thu nhập thấp. Vì những tính chất này, không phải doanh nghiệp nào cũng
sẵn sàng bỏ một khoản đầu tư lớn mà tốc độ thu lại nguồn vốn chậm như vậy.
Thứ ba, trong lĩnh vực viễn thông nhà đầu tư phải đối mặt với những
rủi ro cao. Các rủi ro cơ bản mà nhà đầu tư viễn thông khi đầu tư ra nước
ngoài gặp phải có thể kể đến như môi trường văn hóa, chính trị, pháp luật, đối
12
thủ cạnh tranh, môi trường tự nhiên.
- Đối với môi trường văn hóa, người dân ở mỗi nước khác nhau có
những nền văn hóa, tôn giáo, niềm tin khác nhau, điều này ảnh hưởng trực
tiếp đến thói quen tiêu dùng của họ.
- Đối với chính trị và pháp luật, do tính chất bất ổn chính trị tại các
nước chậm hoặc các nước bắt đầu bước vào giai đoạn đang phát triển sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến chính sách cũng như luật pháp tại nước sở tại. Việc thay đổi
thể chế hoặc thay đổi đảng cầm quyền có thể gây ảnh hưởng rất lớn đối với
doanh nghiệp viễn thông, nhất là do tính chất đặc thù là nhạy cảm của ngành
này. Với việc đầu tư rất lớn trong giai đoạn ban đầu, việc thay đổi thể chế có
thể dẫn tới doanh nghiệp mất trắng nguồn vốn đầu tư.
- Các đối thủ cạnh tranh có tiềm lực lớn đều đã có nhiều kinh nghiệm
đầu tư triển khai mạng hạ tầng ở nước ngoài. Việc một doanh nghiệp đơn
thương độc mã gia nhập thị trường là rất khó để cạnh tranh được, trừ khi
doanh nghiệp có những chiến lược kinh doanh khác biệt và đánh được vào thị
trường chưa được khai mở. Ngoài ra việc liên doanh cũng tiềm ẩn nguy cơ về
việc doanh nghiệp gặp bất lợi và có thể bị thôn tính nếu không có hiểu biết rõ
ràng về chính sách luật pháp cũng như hiểu biết rõ ràng về liên doanh.
- Môi trường tự nhiên cũng ảnh hưởng rất lớn đến đầu tư viễn thông.
Do đặc điểm của đầu tư viễn thông là hạ tầng đi trước, dịch vụ theo sau nên vị
trí địa lý, khí hậu, thiên tai, động đất ảnh hưởng rất lớn đến hạ tầng viễn
thông. Đối với các nước có địa lý, địa hình phức tạp nhiều sông ngòi kênh
rạch hoặc địa hình đồi núi chia cắt, việc đầu tư, triển khai và bảo trì hạ tầng là
vô cùng khó khăn và mất rất nhiều chi phí. Đối với đất nước có khí hậu không
ổn định hoặc thiên tai thất thường như bão, lũ lụt thì hạ tầng viễn thông có thể
bị ảnh hưởng hư hại lớn và rất khó khắc phục, ngoài ra chi phí khắc phục
13
cũng vô cùng tốn kém.
1.1.3. Vai trò của đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
Đầu tư ra nước ngoài nói chung và đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực
viễn thông nói riêng là một xu thế tất yếu, khách quan trong quá trình toàn
cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Trong bối cảnh đó, bên cạnh việc
đầu tư phát triển nền kinh tế trong nước thì các nhà đầu tư phải không ngừng
tìm kiếm thêm những cơ hội phát triển, cạnh tranh với các nền kinh tế khác
trên thế giới. Đặc biệt trong lĩnh vực viễn thông, những năm gần đây việc
phát triển viễn thông trong nước đã ở tình trạng bão hòa thì nhu cầu đầu tư ra
nước ngoài một cách hiệu quả đóng vai trò quan trọng.
1.1.3.1. Đối với nhà đầu tư
Trước hết, đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông có ý nghĩa,
vai trò trực tiếp đối với nhà đầu tư trên nhiều phương diện khác nhau như sau:
Thứ nhất, giúp nhà đầu tư mở rộng thị trường. Với sự cạnh tranh nội
địa ngày càng khốc liệt, thị trường trong nước có xu hướng bão hòa, việc trao
đổi sản phẩm dịch vụ giữa các nước với nhau, gia nhập thị trường chung là
yếu tố tất yếu trong giai đoạn hiện nay. Các nhà đầu tư phải không ngừng tìm
kiếm thị trường, cơ hội để đưa sản phẩm dịch vụ của mình phát triển sâu rộng.
Thứ hai, thông qua hoạt động đầu tư nhà đầu tư tăng doanh thu, lợi
nhuận. Mục đích đầu tiên của bất kỳ nhà đầu tư nào hướng tới khi đầu tư
cũng là tìm kiếm doanh thu và lợi nhuận cho chính mình. Thông qua hoạt
động đầu tư, nhà đầu tư mở rộng thị trường, phạm vi hoạt động và làm tăng
doanh thu, lợi nhuận.
Thứ ba, nâng cao vị thế của nhà đầu tư trên thị trường thế giới. Các nhà
đầu tư thông qua hoạt động đầu tư, tận dụng được lợi thế của một số nước để
kinh doanh, mở rộng thị trường, từng bước tạo dựng thương hiệu của mình,
tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, thúc đẩy nhanh tiến
14
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ tư, nhà đầu tư tăng thêm kinh nghiệm, nâng cao năng lực cạnh
tranh. Các nhà đầu tư khi tham gia vào môi trường đầu tư mới, muốn đứng
vững, phát triển mang lại hiệu quả phải không ngừng tìm hiểu, học hỏi,
nghiên cứu và thích nghi, đáp ứng với những yêu cầu đặt ra từ thị trường. Bên
cạnh những kinh nghiệm thích nghi từ hoạt động kinh doanh, nhà đầu tư còn
có cơ hội giao lưu, học hỏi, khám phá những nền văn hóa khác nhau trên thế
giới. Đây là những kiến thức được kiểm nghiệm từ thực tiễn và là tri thức cần
thiết nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của nhà đầu tư.
1.1.3.2. Đối với nước đầu tư
Bên cạnh vai trò đối với nhà đầu tư, hoạt động đầu tư ra nước ngoài
trong lĩnh vực viễn thông còn mang lại nhiều lợi ích đối với nước đầu tư.
Thứ nhất, tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế, bảo đảm an ninh quốc
phòng. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông tạo điều
kiện mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế theo hướng đa phương hóa, đa
dạng hóa, góp phần thúc đẩy nước đầu tư chủ động hội nhập kinh tế khu vực
và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hóa thương mại và đầu tư.
Thứ hai, mở rộng hoạt động kinh doanh tạo công ăn việc làm cho người
lao động. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông tạo cơ hội
việc làm cho người lao động của nước đầu tư làm việc tại thị trường nước tiếp
nhận đầu tư.
Thứ ba, đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông nếu thành công
cũng sẽ có tác động ngược lại đối với nền kinh tế của nước đầu tư theo hướng
thúc đẩy công cuộc cải tổ nền kinh tế, chính sách, thuế, thủ tục hành chính và
hệ thống công nghệ thông tin hay cả về chính sách quản lý, điều hành vĩ mô.
Ngoài ra, các quốc gia còn có thêm một lượng lớn ngoại tệ nhờ việc đóng
15
thuế hoặc hoạt động tái đầu tư của nhà đầu tư.
1.1.3.3. Đối với nước tiếp nhận đầu tư
Đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông không chỉ có ý nghĩa
với nhà đầu tư, nước đầu tư mà còn có tác động tích cực đối với nước tiếp
nhận đầu tư.
Thứ nhất, thông qua hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn
thông, ngân sách của nước tiếp nhận đầu tư tăng lên đáng kể từ hoạt động nộp
thuế của nhà đầu tư. Từ đó, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu
ngân sách, nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực của nước tiếp
nhận đầu tư.
Thứ hai, chính sách lao động, an sinh xã hội của các nhà đầu tư giúp
nước tiếp nhận đầu tư giải quyết vấn đề việc làm cho số lượng lớn người lao
động. Các dự án viễn thông thường là những dự án có quy mô lớn và sử dụng
nhiều lao động đặc biệt là lao động tại nước tiếp nhận đầu tư, qua đó góp phần
tạo công ăn, việc làm cho số lượng lớn người lao động.
Thứ ba, thông qua hoạt động đầu tư, hệ thống viễn thông của quốc gia
tiếp nhận đầu tư được cải thiện, phát triển hơn, thúc đẩy nền kinh tế quốc gia
cũng như các hoạt động dịch vụ khác, góp phần thu hút đầu tư nước ngoài vào
các lĩnh vực khác nhau.
1.2. Pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung pháp luật đầu tư ra nước ngoài
trong lĩnh vực viễn thông
1.2.1.1. Khái niệm pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung cũng như hoạt động đầu tư
ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông nói riêng về bản chất là hoạt động
đầu tư xuyên quốc gia, do đó chịu sự điều chỉnh của cả hai hệ thống pháp luật,
đó là hệ thống pháp luật của nước đầu tư và pháp luật của nước tiếp nhận đầu
16
tư. Cả hai hệ thống pháp luật này đều điều chỉnh hoạt động đầu tư của nhà
đầu tư đảm bảo quyền lợi của quốc gia và quyền lợi của nhà đầu tư. Pháp luật
đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư thường quy định các điều kiện, trình tự cho
phép nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các hoạt động đầu tư trên quốc gia
mình. Trong khi đó, pháp luật của nước đầu tư thường hướng tới điều chỉnh
và quản lý sự chuyển dịch ra ngoài quốc gia và việc quản lý hoạt động của
nhà đầu tư tại nước ngoài thông qua việc quy định các thủ tục đăng ký, thẩm
định và cấp phép đầu tư cũng như các quy định về quản lý ngoại hối.
Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc tế là các hiệp định, thỏa thuận, cam
kết giữa nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Có rất nhiều hiệp định, thỏa
thuận, cam kết quốc tế về đầu tư quốc tế có thể kể đến như: (1) Trong khuôn
khổ Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) với các hiệp định có liên quan đến
đầu tư quốc tế như: Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương
mại (Hiệp định TRIMs); Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (Hiệp định
GATS); Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Hiệp định SCM);
Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (Hiệp định
TRIPS). (2) Trong khuôn khổ khu vực: Hiệp định của Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN). (3) Trong khuôn khổ các hiệp định đa phương, song
phương khác, một số hiệp định cơ bản như sau: Hiệp định Đối tác Toàn diện và
Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định CPTPP) và Hiệp định thương mại
tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (Hiệp định EVFTA)... Có thể thấy,
trong các hiệp định về đầu tư quốc tế dù là đa phương hay song phương cơ
bản thường bao gồm các nguyên tắc bảo hộ đầu tư, thúc đẩy đầu tư, đảm bảo
tự do hóa đầu tư; cam kết về khuyến khích đầu tư và mở cửa thị trường đầu
tư; các quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư giữa nhà đầu tư nước
ngoài và quốc gia tiếp nhận đầu tư. Các hiệp định quốc tế này có giá trị pháp
17
lý quan trọng không những ràng buộc các bên ký kết là các quốc gia, các
vùng lãnh thổ có quy chế thuế quan độc lập mà còn là cơ sở pháp lý xác định
quyền, nghĩa vụ pháp lý cho các nhà đầu tư. Trong nhiều trường hợp, các thỏa
thuận này là căn cứ để các nhà đầu tư nước ngoài khởi kiện, yêu cầu trách
nhiệm của quốc gia bên ký kết là nước tiếp nhận đầu tư.
Như vậy, có thể hiểu rằng, hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh
vực viễn thông chịu sự điều chỉnh của ba cấu phần gồm: Pháp luật nước nhà
đầu tư, pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư và pháp luật quốc tế (hiệp định,
thỏa thuận, cam kết giữa nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư). Tuy nhiên,
do phạm vi luận văn đã giới hạn là chỉ tập trung nghiên cứu các pháp luật đầu
tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông theo quy định của pháp luật Việt
Nam nên tác giả không tìm hiểu hệ thống pháp luật nước tiếp nhận đầu tư,
pháp luật quốc tế (hiệp định song phương, đa phương, cam kết quốc tế giữa
quốc gia đầu tư và quốc gia tiếp nhận đầu tư).
Là nhà đầu tư Việt Nam, nhà đầu tư chịu sự điều chỉnh của pháp luật
Việt Nam khi tiến hành dự án đầu tư từ các chính sách, điều kiện đầu tư, quá
trình thực hiện đầu tư, kết thúc đầu tư… do hoạt động đầu ra nước ngoài liên
quan đến những vấn đề mà pháp luật Việt Nam phải điều chỉnh như chuyển
dịch tài sản qua biên giới, xuất nhập cảnh, yêu cầu bảo hộ công dân khi ở
nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài, nghĩa vụ về thuế... Ở Việt Nam,
hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông được quy định tại
các văn bản quy phạm pháp luật. Văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp là
Luật Đầu tư. Bên cạnh đó, các luật khác điều chỉnh như Luật Doanh nghiệp,
Luật Thương mại, Luật Chứng khoán, Luật các tổ chức tín dụng, Luật chuyển
giao công nghệ và các văn bản khác có liên quan.
Trên cơ sở giới hạn phạm vi trên, có thể khái quát rằng pháp luật
Việt Nam về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông là tổng thể
18
những quy định pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh của quá trình đầu tư ra nước ngoài
trong lĩnh vực viễn thông.
1.2.1.2. Đặc điểm pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
Thứ nhất, pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt
Nam. Hệ thống pháp luật về đầu tư ra nước ngoài nói chung cũng như trong
lĩnh vực viễn thông nói riêng của Việt Nam chỉ thực sự được quan tâm và chú
trọng trong giai đoạn thực hiện công cuộc phát triển, hội nhập kinh tế thế giới.
Pháp luật đầu tư ra nước ngoài đã từng bước được xây dựng, phát triển và
hoàn thiện theo hướng ngày càng đảm bảo hành lang pháp lý cho nhà đầu tư
trên nguyên tắc đảm bảo tự do, bình đẳng trong đầu tư kinh doanh, mở rộng
quyền đầu tư cho mọi chủ thể.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, pháp luật đầu tư ra nước ngoài
trong lĩnh vực viễn thông đã có một quá trình phát triển không ngừng, phù
hợp với các giai đoạn khác nhau của nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam đã từng
bước hoàn thiện hệ thống pháp luật đầu tư trong nước và đầu tư ra nước
ngoài, trong đó phải kế đến việc ban hành Luật Đầu tư 2005, Luật Đầu tư
2014 cùng với hệ thống các văn bản liên quan hướng dẫn thi hành.
Thứ hai, pháp luật về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông có
mối liên hệ chặt chẽ với nhiều chế định pháp luật về thuế, ngoại hối, lao
động,… Luật Đầu tư là văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động đầu
tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông, theo đó, pháp luật đầu tư quy định
các điều kiện, thủ tục đầu tư, các quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư,…Bên
cạnh đó, hoạt động đầu tư này còn chịu sự điều chỉnh của rất nhiều các luật
khác như Luật Doanh nghiệp, Luật các tổ chức tín dụng,…Hệ thống các quy
định của pháp luật trên đều là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo quyền và
nghĩa vụ của nhà đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong
19
lĩnh vực viễn thông.
Thứ ba, pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông được
xây dựng và hoàn thiện trên cơ sở phù hợp, tương thích với pháp luật quốc tế,
tạo cơ chế thông thoáng, cởi mở, thúc đẩy hoạt động đầu tư. Trước yêu cầu
tăng cường hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, pháp luật đầu tư ra nước
ngoài trong lĩnh vực viễn thông của Việt Nam phải luôn vận hành theo xu
hướng hội nhập, phù hợp với pháp luật quốc tế và pháp luật đầu tư của các
nước thế giới.
Thứ tư, pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông có
mối liên quan chặt chẽ đến chính sách an ninh quốc phòng của quốc gia. Xuất
phát từ những đặc trưng của lĩnh vực viễn thông, pháp luật đầu tư ra nước
ngoài trong lĩnh vực viễn thông được xây dựng phải đảm bảo phù hợp với
chính sách an ninh quốc phòng quốc gia bên cạnh chính sách kinh tế.
1.2.1.3. Nội dung pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn
thôngXét tổng thể, pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong
lĩnh vực viễn thông theo quy định của pháp luật Việt Nam tại Luật Đầu tư bao
gồm những nội dung cơ bản như sau: Quy định về chủ thể đầu tư; Quy định
về điều kiện đầu tư; Quy định về hình thức đầu tư; Quy định về thủ tục đầu
tư; Quy định về triển khai dự án đầu tư; Quy định về quản lý nhà nước.
- Quy định về chủ thể đầu tư: Đây là các quy định về các cá nhân tổ
chức thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh
vực viễn thông. Theo đó, để thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong
lĩnh vực viễn thông, nhà đầu tư phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về mặt chủ
thể theo quy định của pháp luật.
- Quy định về điều kiện đầu tư: Để được đầu tư ra nước ngoài trong
lĩnh vực viễn thông, điều kiện đầu tư đóng vai trò quan trọng, nhà đầu tư phải
đáp ứng các điều kiện cụ thể do nhà nước đưa ra để đảm bảo tính khả thi của
20
dự án đầu tư, đảm bảo các lợi ích của quốc gia. Về cơ bản, theo xu hướng hội
nhập kinh tế thế giới hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới ngày càng mở
rộng điều kiện đầu tư, nâng cao sức hút đối với hoạt động đầu tư này cũng
như đảm bảo quyền tự do hóa đầu tư của các nhà đầu tư.
- Quy định về hình thức đầu tư: Các hình thức đầu tư ra nước ngoài
trong lĩnh vực viễn thông rất đa dạng và phụ thuộc vào quy định của nước tiếp
nhận đầu tư. Về cơ bản, theo thông lệ quốc tế, pháp luật của các nước đều quy
định các hình thức đầu tư như liên doanh, mua lại, sáp nhập,…Các nhà đầu tư
có thể lựa chọn một trong các hình thức đầu tư phù hợp để thực hiện hoạt
động đầu tư của mình.
- Quy định về thủ tục đầu tư: Pháp luật đưa ra các quy định về trình tự,
thủ tục để nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài, các thủ tục cơ
bản như thủ tục chấp nhận chủ trương, thủ tục xin cấp, điều chỉnh, chấm dứt
hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài. Quy định về thủ
tục đầu tư đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của hoạt động đầu tư
ra nước ngoài. Nếu thủ tục đơn giản sẽ góp phần khuyến khích cho các nhà
đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư, còn nếu thủ tục đầu tư rườm rà sẽ tạo tâm
lý nản lòng các nhà đầu tư. Do đó để thúc đẩy hoạt động đầu tư, quy định về
thủ tục đầu tư cần đảm bảo đơn giản, hiệu quả.
- Quy định về triển khai dự án đầu tư: Pháp luật đầu tư ra nước ngoài
trong lĩnh vực viễn thông quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư
khi triển khai dự án đầu tư. Dù là nhà đầu tư ra nước ngoài hay nhà đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam thì đều phải đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ
theo quy định của pháp luật.
- Quy định về quản lý nhà nước: Quy định về trách nhiệm quản lý nhà
nước trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Đây là
quy định quan trọng thể hiện vai trò của nhà nước trong việc quản lý hoạt
động đầu tư cũng như hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động đầu tư nhằm nâng cao hiệu
21
quả của hoạt động đầu tư.
1.2.2. Vai trò của pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
Thứ nhất, pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông là
cơ sở pháp lý đảm bảo thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh
vực viễn thông.
Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hoạt động đầu tư ra
nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông đã và đang là một trong những hoạt động
đầu tư ra nước ngoài thường xuyên và quan trọng. Cũng như các hoạt động đầu
tư khác, đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông có những khung pháp
lý để điều chỉnh và từng bước phát triển, hoàn thiện không ngừng theo từng
giai đoạn khác nhau. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
chỉ có thể được thực thi hiệu quả khi các quy định của pháp luật được quy định
rõ ràng và phù hợp. Pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
nếu được xây dựng một cách hiệu quả sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để thúc
đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông, góp phần xây
dựng môi trường pháp lý đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Thứ hai, pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông là
công cụ để nhà nước quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực
viễn thông.
Pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông được áp dụng
bắt buộc đối với các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư này. Các nhà đầu tư
khi thực hiện hoạt động đầu tư phải đảm bảo tuân thủ đúng quy định của hệ
thống pháp luật điều chỉnh. Đầu tư ra nước ngoài giúp bổ sung vốn cho nền
kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư, do đó đặt ra yêu cầu quan trọng trong việc
quản lý và điều tiết việc kiểm soát dòng tiền chuyển ra nước ngoài của nhà
nước. Thông qua hệ thống pháp luật, việc quản lý nhà nước được dễ dàng và
hiệu quả hơn trên các phương diện như quản lý quá trình hoạt động của nhà
22
đầu tư, quá trình chuyển dịch vốn,... Do đó, đây là công cụ hữu hiệu và đắc
lực để nhà nước định hướng, giám sát cũng như quản lý hoạt động của các
chủ thể đầu tư.
Thứ ba, pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông là
công cụ để khuyến khích, hỗ trợ, đảm bảo quyền và lợi ích của nhà đầu tư khi
thực hiện hoạt động đầu tư.
Pháp luật cho phép các chủ thể có quyền đầu tư ra nước ngoài và bảo
đảm các lợi ích của chủ thể khi thực hiện hoạt động đầu tư. Bên cạnh đó, pháp
luật cũng đưa ra những nghĩa vụ đối với các chủ thể đầu tư khi thực hiện đầu
tư ra nước ngoài. Từ việc quy định này, các chủ thể dễ dàng tiếp cận, nắm bắt
và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, đảm bảo hoạt động đầu tư ra
nước ngoài tuân thủ đúng đường lối, chính sách của nhà nước cũng như các
quy định của pháp luật. Trên cơ sở được pháp luật bảo vệ, ghi nhận quyền lợi,
các nhà đầu tư sẽ có cơ sở mở rộng thị trường kinh doanh ra các nước khác
trên thế giới. Cùng với đó, các nước tiếp nhận đầu tư cũng không ngừng thu
hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Từ đó, tạo
cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư phù hợp
với bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay.
Thứ tư, pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông góp
phần đảm bảo việc thể chế hóa và thực thi các cam kết quốc tế về đầu tư, đảm
bảo hội nhập kinh tế thế giới.
Pháp luật đầu tư ra nước ngoài là lĩnh vực pháp luật chịu sự ảnh hưởng
và tác động của quá trình hội nhập kinh tế thế giới của các quốc gia. Khi các
quốc gia tham gia, ký kết các hiệp định song phương, đa phương về đầu tư thì
vấn đề đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư cũng như tạo lập môi trường
hợp tác đầu tư quốc tế luôn được quan tâm, chú trọng. Trên cơ sở đó, pháp
luật của mỗi quốc gia phải được xây dựng và hoàn thiện đảm bảo tính tương
23
thích với các hiệp định, điều ước quốc tế mà quốc gia đã cam kết tham gia.
Chính vì lẽ đó, vấn đề hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài nói chung
cũng như đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông nói riêng sẽ góp
phần đảm bảo việc thể chế hóa và thực thi các cam kết quốc tế về đầu tư, đảm
bảo hội nhập kinh tế thế giới.
Như vậy, pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông có
ý nghĩa quan trọng không những đối với những nhà đầu tư Việt Nam mà
còn có vai trò thiết yếu đối với sự phát triển, hội nhập kinh tế thế giới của
nước ta. Hệ thống pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
của Việt Nam cần được đảm bảo tính thống nhất, hiệu quả, góp phần hoàn
thiện môi trường pháp lý của hoạt động đầu tư ra nước ngoài, phù hợp với
thông lệ quốc tế về hoạt động đầu tư cũng như thúc đẩy quá trình hội kinh
tế quốc tế của Việt Nam.
1.2.3. Khái quát sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư ra
nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
Sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh
vực viễn thông gắn liền với sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư ra
nước ngoài. Pháp luật đầu tư ra nước ngoài ở Việt Nam từ khi hình thành và phát
triển đã trải qua một quá trình với những lần sửa đổi, bổ sung trên cơ sở phù hợp
với tình hình thực tế của đất nước và xu hướng phát triển chung của thế giới. Kể
từ khi được hình thành cho đến nay, có thể chia pháp luật đầu tư ra nước ngoài
thành 03 giai đoạn lớn như sau: Giai đoạn trước năm 2005; Giai đoạn từ năm
2005 đến năm 2014 và Giai đoạn từ năm 2014 đến nay.
1.2.3.1. Giai đoạn trước năm 2005
Việt Nam tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài đầu tiên năm 1989
với số vốn đăng ký là 563.000 USD [23, tr.145]. Đây được coi là dự án mở
đường cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài của nước ta. Trong một thời gian
24
dài sau đó, nước ta chưa có quy định pháp luật nào điều chỉnh bởi trong giai
đoạn này, đất nước còn nhiều khó khăn, hạn chế về nguồn vốn, trình độ khoa
học công nghệ...
Tuy nhiên, trước thực trạng một số doanh nghiệp Việt Nam đã tiến hành
hoạt động đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là một số doanh nghiệp đầu tư sang
Campuchia, Lào, Chính phủ đã ban hành văn bản dưới luật để hướng dẫn hoạt
động đầu tư ra nước ngoài. Sau 10 năm kể từ ngày dự án đầu tiên của doanh
nghiệp Việt Nam được cấp phép, Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14 tháng
4 năm 1999 của Chính phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp
Việt Nam (Nghị định số 22/1999/NĐ-CP) đã được ban hành chính thức điều
chỉnh vấn đề này. Nhằm triển khai Nghị định nêu trên, các bộ, ngành liên quan
đã ban hành các văn bản hướng dẫn hoạt động đầu tư ra nước ngoài như:
Thông tư số 01/2001/TT-NHNN ngày 19 tháng 01 năm 2001 của Ngân hàng
Nhà nước về việc hướng dẫn quản lý ngoại hối đối với đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của doanh nghiệp Việt Nam; Thông tư số 05/2001/TT-BKH ngày 30
tháng 8 năm 2001 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc hướng dẫn hoạt động
đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam; Thông tư số 97/2002/TT-
BTC ngày 24 tháng 10 năm 2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện nghĩa
vụ thuế đối với doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài,…
Nghị định số 22/1999/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn liên quan khác
được xem là khung pháp lý đầu tiên cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài của
doanh nghiệp Việt Nam, tạo điều kiện cho sự phát triển của các dự án đầu tư
ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam, ghi nhận sự trưởng thành của
doanh nghiệp Việt Nam trong xu hướng hội nhập nền kinh thế thế giới. Tuy
nhiên, sau 06 năm thực hiện, Nghị định này đã phát sinh những điểm không
phù hợp với tình hình hội nhập kinh tế thế giới như:
- Nhiều quy định trong Nghị định số 22/1999/NĐ-CP còn thiếu cụ thể,
đồng bộ và nhất quán; nhiều điều khoản không còn phù hợp; không bao quát
25
hết được sự đa dạng của các hình thức đầu tư ra nước ngoài.
- Thủ tục đầu tư phức tạp, rườm rà; thủ tục điều chỉnh giấy phép đầu tư
chưa rõ ràng; không ít quy định can thiệp quá sâu vào quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Thiếu các quy định về lĩnh vực khuyến khích đầu tư ra nước ngoài.
- Các quy định về chế độ báo cáo thông tin không phù hợp khiến thông
tin về tình hình đầu tư ra nước ngoài hầu như không được đề cập.
- Các văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư ra nước ngoài còn hạn
chế, chưa lường hết được những vấn đề phát sinh trong quá trình hình thành,
thẩm định, cấp phép và triển khai dự án.
- Các văn bản có liên quan đến đầu tư ra nước ngoài cũng chưa có các
quy định để tạo ra được cơ chế phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa cơ quan
chức năng của chính phủ như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước,
Bộ Tài chính với doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là trong khâu
triển khai dự án đầu tư… [23, tr.148].
- Các văn bản pháp lý được ban hành mới dừng lại ở cấp Nghị định của
Chính phủ do đó hiệu lực pháp lý chưa cao.
Trong giai đoạn này, dù đã có hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động
đầu tư ra nước ngoài, tuy nhiên trong lĩnh vực viễn thông chưa có dự án đầu
tư ra nước ngoài nào. Tuy nhiên, đây là hành lang pháp lý quan trọng để
phát triển hoạt động đầu tư ra nước ngoài đối với lĩnh vực viễn thông trong
giai đoạn sau.
1.2.3.2. Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2014
Trước yêu cầu hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài tại Nghị định
số 22/1999/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan, hoạt
động đầu tư ra nước ngoài đã được Quốc hội luật hóa tại Chương VIII Luật
Đầu tư 2005 (hiệu lực thi hành từ tháng 7 năm 2006). Sau một thời gian ngắn,
26
các văn bản khác có liên quan cũng đã được ban hành như: Nghị định số
108/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 22 tháng 9 năm 2006 hướng
dẫn thi hành quy định Luật Đầu tư 2005; Nghị định số 78/2006/NĐ-CP của
Chính phủ ban hành ngày 09 tháng 8 năm 2006 quy định về đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài; Thông tư số 10/2006/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam hướng dẫn các tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài; Quyết định số 1175/2007/QĐ-BKH ngày 10 tháng 10 năm
2007 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc ban hành mẫu các văn bản thực hiện
thủ tục đầu tư ra nước ngoài; Thông tư số 11/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính
ban hành ngày 19 tháng 01 năm 2010 hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế đối
với nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài; Thông tư số 104/2011/TT-
BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày 12 tháng 7 năm 2011 sửa đổi, bổ sung
Thông tư số 11/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày 19 tháng 01
năm 2010 hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà đầu tư Việt Nam
đầu tư ra nước ngoài;… Đặc biệt, trong giai đoạn này Thủ tướng Chính phủ
Nguyễn Tấn Dũng đã phê duyệt đề án “Thúc đẩy đầu tư của Việt nam ra nước
ngoài” theo Quyết định số 236/QĐ-TTg ngày 20 tháng 02 năm 2009. Đề án
đã tạo cơ sở cho các nhà đầu tư Việt Nam mạnh dạn hơn trong hoạt động đầu
tư ra nước ngoài và đặt ra những mục tiêu thúc đẩy hơn hoạt động đầu tư ra
nước ngoài, tăng cường các biện pháp, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động đầu
tư của doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài.
Các văn bản pháp luật được ban hành trong giai đoạn này mang ý nghĩa,
vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư ra
nước ngoài nói chung cũng như đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
nói riêng. Điều này thể hiện qua số lượng các dự án đầu tư ra nước ngoài trong
lĩnh vực viễn thông trong giai đoạn này có sự phát triển mạnh mẽ. Nội dung
các văn bản trên đã ghi nhận quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với hoạt
27
động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư; giảm các quy định không cần
thiết, trái với nguyên tắc tự do kinh doanh; quy định cụ thể hơn về quyền và
nghĩa vụ của nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, mối quan hệ giữa cơ
quan nhà nước và nhà đầu tư,… Đây cũng là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của
các dự án viễn thông đầu tư ra nước ngoài. Bên cạnh những kết quả đạt được,
sau gần 10 năm áp dụng thực hiện, hoạt động đầu tư ra nước ngoài cũng đã gặp
phải những tồn tại về mặt pháp lý, đặt ra yêu cầu phải sửa đổi bổ sung.
1.2.3.3. Giai đoạn từ năm 2014 đến nay
Hệ thống pháp luật đầu tư ra nước ngoài ngày càng được định hình và
tiếp tục được hoàn thiện rõ nét hơn trong giai đoạn này. Năm 2014, Quốc hội
đã thông qua Luật Đầu tư mới thay thế Luật Đầu tư 2005. Việc ban hành hệ
thống văn bản pháp luật về đầu tư ra nước ngoài về cơ bản đáp ứng được tính
cấp thiết, kịp thời và phù hợp với tình hình thực tiễn phát triển của Việt Nam.
Hệ thống pháp luật về đầu tư ra nước ngoài gồm các văn bản quy phạm pháp
luật điều chỉnh trực tiếp sau: Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ngày 26 tháng 11
năm 2014 của Quốc Hội; Luật số 03/2016/QH14 ngày 26 tháng 11 năm 2016
sửa đổi bổ sung Điều 6 và Phụ lục 4 về danh mục ngành, nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện của Luật Đầu tư 2014; Nghị định số 83/2015/NĐ-CP ngày
25 tháng 9 năm 2015 quy định về đầu tư ra nước ngoài; Nghị định số
135/2015/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2015 quy định về đầu tư gián tiếp ra
nước ngoài; Thông tư số 03/2018/TT-BKHĐT ngày 17/10/2018 Hướng dẫn
và ban hành mẫu văn bản thực hiện thủ tục đầu tư ra nước ngoài; Thông tư số
09/2019/TT-BKHĐT ngày 29/7/2019 sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều
khoản của các thông tư liên quan đến chế độ báo cáo định kỳ thuộc phạm vi
quản lý nhà nước và hệ thống thông tin báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
Thông tư số 12/2016/TT-NHNN ngày 29 tháng 6 năm 2016 của Ngân hàng
Nhà nước hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước
28
ngoài; và các văn bản liên quan khác.
Luật Đầu tư 2014 đã đánh dấu một sự phát triển mới, thuận lợi hơn
trong hoạt động kinh doanh. Nhiều quy định không phù hợp với thị trường ở
Việt Nam cũng như pháp luật quốc tế cũng được bãi bỏ, thủ tục thực hiện đơn
giản hơn, thời hạn xem xét hồ sơ dự án để được cấp phép cũng được rút ngắn
hơn. Luật cũng đã tạo ra môi trường pháp lý rộng rãi hơn đối với các nhà đầu
tư, tăng cường hơn quyền tự do kinh doanh. Đây được xem là sự hoàn thiện
đáng ghi nhận, tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho các nhà đầu tư viễn thông thực
hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Hệ thống pháp luật đầu tư nói chung cũng ngày càng được hoàn thiện
hơn đặc biệt trong giai đoạn tiếp theo khi Quốc hội đã ban hành Dự thảo Luật
Đầu tư năm 2020 ngày 17/6/2020 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2021.
Pháp luật về đầu tư ra nước ngoài được quy định cụ thể tại Chương V cũng
một số sự thay đổi đáng kể nhằm phù hợp hơn với thực tiễn hoạt động hoạt
29
động đầu tư hiện nay của nhà đầu tư.
Kết luận Chương 1
Qua việc nghiên cứu tìm hiểu tại Chương này, luận văn đã khái quát
một số vấn đề lý luận về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông và
pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông, cụ thể như sau:
Đối với các vấn đề lý luận về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn
thông, luận văn đã chỉ ra những khái niệm và đặc điểm và vai trò của đầu tư
ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Đối với các vấn đề lý luận của pháp
luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông, luận văn đã phân tích
khái niệm, vai trò và khái quát sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu
tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông.
Từ những nội dung trên có thể nhận thấy rằng hoạt động đầu tư ra nước
ngoài nói chung và trong lĩnh vực viễn thông nói riêng đã có sự phát triển và
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Từ đó, đặt ra những yêu cầu điều
30
chỉnh của pháp luật trong hoạt động này.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI
TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG
2.1. Thực trạng quy định pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh
vực viễn thông
Khi thực hiện dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông,
nhà đầu tư phải tuân thủ các quy định của pháp luật đầu tư, trực tiếp là Luật
Đầu tư 2014. Về cơ bản, Luật Đầu tư 2014 quy định về hoạt động đầu tư ra
nước ngoài nói chung và được áp dụng cho các lĩnh vực khác nhau. Trên cơ
sở quy định của Luật Đầu tư 2014, có thể khái quát quy trình thực hiện dự án
đầu tư ra nước ngoài nói chung cũng như lĩnh vực viễn thông nói riêng gồm:
(1) Chuẩn bị dự án; (2) Thực hiện thủ tục đầu tư; (3) Triển khai dự án. Bên
cạnh đó, Luật Đầu tư 2014 cũng quy định cụ thể trách nhiệm quản lý nhà
nước đối với hoạt động đầu tư này. Như vậy, khi thực hiện bất kỳ dự án đầu
tư ra nước ngoài nào, nhà đầu tư cũng phải tuân thủ đúng các quy định của
pháp luật về đầu tư ra nước ngoài nói chung.
Bên cạnh những quy định chung áp dụng cho các dự án đầu tư ra nước
ngoài trong các lĩnh vực khác nhau, Luật Đầu tư 2014 cũng có những quy
định riêng cụ thể trong từng lĩnh vực để đảm bảo phù hợp với đặc thù của
từng lĩnh vực đó. Đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông (ngoài ra
còn có lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, báo chí, phát thanh,
truyền hình) có điểm riêng so với các lĩnh vực khác về thẩm quyền quyết định
chủ trương đầu tư ra nước ngoài. Theo đó, đối với những dự án đầu tư trong
lĩnh vực viễn thông (ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, báo chí, phát thanh,
truyền hình) có vốn đầu tư từ 400 tỷ trở nên do Thủ tướng Chính phủ quyết
31
định chủ trương đầu tư và dự án dưới 400 tỷ không cần thực hiện thủ tục
quyết định chủ trương. Trong khi đó, đối với các lĩnh vực khác, Thủ tướng
Chính phủ quyết định chủ trương khi dự án có vốn đầu tư ra nước ngoài từ
800 tỷ đồng trở lên, dự án dưới 800 tỷ không cần thực hiện thủ tục quyết định
chủ trương. Đây là điểm riêng của đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn
thông so với hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung bởi đặc điểm, tính chất
đặc thù của lĩnh vực này.
Như vậy, dù có đặc điểm riêng điều chỉnh nêu trên, nhưng về cơ bản
hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông tuân thủ đúng các
quy định của hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung.
2.1.1. Quy định chuẩn bị dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực
viễn thông
2.1.1.1. Quy định về điều kiện đầu tư
Điều kiện đầu tư là một trong những yếu tố quan trọng khi chuẩn bị
thực hiện dự án đầu tư trong bất kỳ hoạt động đầu tư ra nước ngoài nào của
nhà đầu tư. Điều kiện đầu tư ra nước ngoài do nhà nước đặt ra nhằm điều
chỉnh những mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài. Do
đó, theo từng giai đoạn các điều kiện này có thể có sự thay đổi để phù hợp với
thực tế và quan điểm quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài của cơ quan có
thẩm quyền. Trên cơ sở những nội dung điều kiện đầu tư ra nước ngoài, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền sẽ hướng dẫn nhà đầu tư phải chấp hành, cam
kết thực hiện đúng và đầy đủ các điều kiện khi thực hiện hoạt động đầu tư ra
nước ngoài, đồng thời đây là cơ sở để cơ quan nhà nước thực hiện chức năng
quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài, tạo ra sự ổn định và phát triển cho
nền kinh tế. Việc đưa ra những điều kiện đầu tư thống nhất này đối với nhà
đầu tư sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh
vực viễn thông của nhà đầu tư.
32
Pháp luật không quy định cụ thể về điều kiện đầu tư ra nước ngoài
trong lĩnh vực viễn thông. Tuy nhiên có thể thấy, đầu tư ra nước ngoài trong
lĩnh vực này cũng phải tuân theo đúng các quy định về điều kiện đầu tư nói
chung của một dự án đầu tư ra nước ngoài. Theo đó, tất cả các dự án đầu tư
đều phải đáp ứng điều kiện để được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra
nước ngoài. Luật Đầu tư 2014 có quy định về điều kiện cấp giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư ra nước ngoài tại Điều 58, bao gồm:
Thứ nhất, hoạt động đầu tư ra nước ngoài phù hợp với nguyên tắc. Cụ
thể, các nguyên tắc thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài như sau:
- Nhà nước khuyến khích nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra
nước ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng xuất
khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao
năng lực quản lý và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
- Nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài phải tuân thủ quy
định của Luật Đầu tư 2014, quy định khác của pháp luật có liên quan, pháp
luật của quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư và điều ước quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; tự chịu trách nhiệm về
hiệu quả hoạt động đầu tư ở nước ngoài.
Thứ hai, hoạt động đầu tư ra nước ngoài không thuộc ngành, nghề cấm
đầu tư kinh doanh. Các ngành nghề cấm đầu tư này được quy định thống nhất
theo những ngành nghề cấm kinh doanh tại Việt Nam để đảm bảo thống nhất
với quy định của pháp luật Việt Nam. Trong các ngành nghề cấm kinh doanh
này, viễn thông không thuộc danh mục ngành nghề cấm theo quy định.
Thứ ba, nhà đầu tư có cam kết tự thu xếp ngoại tệ hoặc được tổ chức tín
dụng được phép cam kết thu xếp ngoại tệ để thực hiện hoạt động đầu tư ra
nước ngoài; trường hợp khoản vốn bằng ngoại tệ chuyển ra nước ngoài tương
đương 20 tỷ đồng trở lên và không thuộc dự án phải có quyết định chủ trương
đầu tư ra nước ngoài thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư lấy ý kiến bằng văn bản của
33
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Thứ tư, có quyết định đầu tư ra nước ngoài. Theo đó, thẩm quyền quyết
định đầu tư ra nước ngoài đối với doanh nghiệp nhà nước thực hiện theo quy
định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất,
kinh doanh tại doanh nghiệp; thẩm quyền quyết định đầu tư ra nước ngoài đối
với các trường hợp khác do nhà đầu tư quyết định.
Thứ năm, Có văn bản của cơ quan thuế xác nhận việc thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế của nhà đầu tư tính đến thời điểm nộp hồ sơ dự án đầu tư.
Như vậy, để thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực
viễn thông, nhà đầu tư phải đáp ứng toàn bộ các điều kiện trên. Đây là những
điều kiện cơ bản thể hiện trách nhiệm, cam kết của nhà đầu tư khi thực hiện
hoạt động đầu tư của mình.
Từ quy định trên, có thể nhận thấy rằng, quy định về điều kiện đầu tư ra
nước ngoài của Luật Đầu tư 2014 so với quy định tại Luật Đầu tư 2005 đã
khắc phục được một số hạn chế nhất định. Luật Đầu tư 2005 quy định để
được đầu tư ra nước ngoài theo hình thức đầu tư trực tiếp nhà đầu tư phải có
các điều kiện sau đây: Có dự án đầu tư ra nước ngoài; Thực hiện đầy đủ các
nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam; Được cơ quan nhà nước quản
lý đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Quy định này có một số điểm hạn chế
như: Điều kiện “Có dự án đầu tư ra nước ngoài” là quy định không cần thiết,
do trên thực tế nhà đầu tư phải có dự án đầu tư ra nước ngoài thì nhà đầu tư
mới thực hiện xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Như vậy, quy định về điều
kiện đầu tư ra nước ngoài của Luật Đầu tư 2014 đã cơ bản tạo điều kiện thông
thoáng cho cho đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh
vực viễn thông.
Dự thảo Luật Đầu tư 2020, đã có một số sửa đổi bổ sung đối với điều
kiện được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài. Theo đó, nhà
34
đầu tư phải đảm bảo điều kiện không thuộc ngành, nghề cấm đầu tư ra nước
ngoài và đáp ứng điều kiện đầu tư ra nước ngoài đối với ngành, nghề đầu tư ra
nước ngoài có điều kiện. Dự thảo Luật Đầu tư 2020 bổ sung thêm quy định về
ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh, bao gồm: ngành nghề cấm đầu tư kinh
doanh theo quy định của pháp luật; ngành, nghề có công nghệ, sản phẩm
thuộc đối tượng cấm xuất khẩu; ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh theo quy
định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư) và ngành nghề kinh doanh có điều
kiện gồm: ngân hàng; bảo hiểm; chứng khoán; báo chí, phát thanh, truyền
hình; kinh doanh bất động sản. Đây là một điểm mới cơ bản của dự thảo Luật
Đầu tư 2020 về đầu tư ra nước ngoài, tuy nhiên, đối với lĩnh vực viễn thông do
không thuộc ngành nghề cấm đầu tư và ngành nghề kinh doanh có điều kiện
nên các điều kiện đầu tư cơ bản không có sự thay đổi so với Luật Đầu tư 2014.
2.1.1.2. Quy định về chủ thể đầu tư
Pháp luật không đưa ra những điều kiện, quy định cụ thể nào về chủ thể
đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Do đó, chủ
thể đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông tuân thủ đúng các quy định
của pháp luật về chủ thể đầu tư ra nước ngoài. Qua từng giai đoạn khác nhau,
pháp luật về chủ thể đầu tư ra nước ngoài cũng được quy định khác nhau.
Nghị định số 22/1999/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành chỉ cho
phép nhà đầu tư là doanh nghiệp Việt Nam (không bao gồm doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài), cụ thể gồm: Doanh nghiệp được thành lập theo Luật
Doanh nghiệp nhà nước; Hợp tác xã được thành lập theo Luật hợp tác xã;
Doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp. Đây được xem là quy
định không những làm hạn chế các nhà đầu tư muốn đầu tư ra nước ngoài mà
còn tạo sự bất bình đẳng giữa các nhà đầu tư. Tuy nhiên, Luật đầu tư 2005 và
các văn bản đầu tư có liên quan quy định chủ thể của quan hệ đầu tư ra nước
ngoài đã mở rộng cho tất cả các nhà đầu tư tại Việt Nam thuộc mọi thành
35
phần kinh tế, không phân biệt nhà đầu tư là doanh nghiệp hay nhà đầu tư
không là doanh nghiệp, không phân biệt nhà đầu tư có nguồn gốc vốn đầu tư
trong nước hay nhà đầu tư có nguồn gốc vốn đầu tư nước ngoài. Tất cả các
nhà đầu tư tại Việt Nam đều có quyền đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp
pháp từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư. Theo quy
định tại khoản 4 Điều 3 Luật Đầu tư 2005 nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực
hiện hoạt động đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp ra nước ngoài theo bao gồm:
Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo Luật doanh nghiệp;
Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập theo Luật hợp tác xã; Doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập trước khi Luật Đầu tư 2005 có hiệu
lực; Hộ kinh doanh, cá nhân; Tổ chức, cá nhân nước ngoài; người Việt Nam
định cư ở nước ngoài; người nước ngoài thường trú ở Việt Nam; Các tổ chức
khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Hiện nay, chủ thể đầu tư ra nước ngoài được quy định tại Luật Đầu tư
2014, cụ thể tại Khoản 13 Điều 13 có quy định “Nhà đầu tư là tổ chức, cá
nhân thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh, gồm nhà đầu tư trong nước, nhà
đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”. Nghị định
83/2015/NĐ-CP quy định về đầu tư ra nước ngoài, quy định chi tiết tại Khoản
1 Điều 2 về chủ thể đầu tư ra nước ngoài, theo đó nhà đầu tư Việt Nam đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài (theo hình thức đầu tư: Thành lập tổ chức kinh tế theo
quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư; Thực hiện hợp đồng BCC ở
nước ngoài; Mua lại một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của tổ chức kinh tế ở
nước ngoài để tham gia quản lý và thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại
nước ngoài; Các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật nước tiếp
nhận đầu tư) bao gồm:
- Tổ chức kinh tế được thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
- Hợp tác xã, liên hợp hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy
36
định của Luật Hợp tác xã.
- Tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật các Tổ chức
tín dụng.
- Hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật, cá nhân mang quốc tịch
Việt Nam.
- Các tổ chức khác thực hiện đầu tư kinh doanh theo quy định của pháp
luật Việt Nam.
Đối với hình thức đầu tư gián tiếp (Mua, bán chứng khoán, giấy tờ có
giá khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán, các định chế tài
chính trung gian khác ở nước ngoài) thì chủ thể đầu tư được quy định chi tiết
tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 135/2015/NĐ-CP quy định về đầu tư gián
tiếp ra nước ngoài, theo đó, nhà đầu tư gồm các đối tượng sau:
- Tổ chức kinh tế theo quy định tại Khoản 16 Điều 3 Luật Đầu tư 2014
(là tổ chức được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt
Nam, gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và các tổ chức khác
thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh).
- Cá nhân có quốc tịch Việt Nam thuộc đối tượng được tham gia chương
trình thưởng cổ phiếu phát hành ở nước ngoài.
Như vậy, chủ thể của quan hệ đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn
thông hiện nay được quy định cụ thể tại các văn bản pháp luật. Có thể nhận thấy
sự đa dạng về các chủ thể đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông, bao
gồm tất cả các nhà đầu tư tại Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, không
phân biệt nhà đầu tư là doanh nghiệp hay không phải doanh nghiệp, không phân
biệt nhà đầu tư nước ngoài hay trong nước. Đây là một trong những quy định mở
rộng của pháp luật Việt Nam, thể hiện tinh thần khuyến khích hoạt động đầu tư
ra nước ngoài phát triển, đặc biệt trong nền kinh tế hiện nay. Dự thảo Luật Đầu
tư 2020, về cơ bản các quy định về chủ thể đầu tư không có sự thay đổi so với
37
các quy định tại Luật Đầu tư 2014.
Tuy nhiên, với những đặc điểm cơ bản của đầu tư ra nước ngoài trong
lĩnh vực viễn thông thì cơ bản bên cạnh đáp ứng các điều kiện chủ thể theo
quy định của pháp luật, nhà đầu tư cần có tiềm lực về tài chính, khoa học
công nghệ, bí quyết kinh doanh, nguồn nhân lực... để đảm bảo thực hiện hoạt
động đầu tư của mình. Trên thực tế, các nhà đầu tư thực hiện đầu tư ra nước
ngoài trong lĩnh vực viễn thông tập trung chủ yếu là các doanh nghiệp, tập
đoàn viễn thông có kinh nghiệm, năng lực, nguồn lực tài chính,… tận dụng
những thế mạnh sẵn có của mình để đầu tư vào lĩnh vực này.
2.1.1.3. Quy định về hình thức đầu tư
Do đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông là hoạt động đầu tư
ra nước ngoài nên ngoài việc được quy định tại pháp luật Việt Nam, hình thức
đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông còn phụ thuộc rất nhiều vào
pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư quy định cho các nhà đầu tư nước ngoài
được đầu tư vào quốc gia họ theo hình thức đầu tư nào. Trên cơ sở đó, khi các
nhà đầu tư Việt Nam muốn tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong
lĩnh vực viễn thông thì bên cạnh việc tìm hiểu các quy định của Việt Nam nhà
đầu tư còn phải nghiên cứu và tìm hiểu kỹ các quy định về hình thức đầu tư
tại quốc gia mà nhà đầu tư muốn tiến hành và thực hiện hoạt động đầu tư này
để chuẩn bị và lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp với điều kiện thực tế của
nhà đầu tư.
Tuy mỗi quốc gia có quy định khác nhau nhưng nhìn chung, trên thế
giới tồn tại một số hình thức đầu tư cơ bản như sau:
- Doanh nghiệp liên doanh.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
- Đầu tư theo hình thức hợp tác kinh doanh mà không thành lập pháp nhân.
- Đầu tư theo Hợp đồng BOT, BTO, BT.
38
- Hình thức chi nhánh Công ty ở nước ngoài.
- Đầu tư thông qua mua cổ phần, góp vốn.
Pháp luật Việt Nam cũng có những quy định cơ bản về hình thức đầu tư ra
nước ngoài tại Khoản 1 Điều 52 Luật Đầu tư 2014. Nhà đầu tư được đầu tư ra
nước ngoài không chỉ dưới hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mà còn hình
thức đầu tư gián tiếp nhằm mục đích thu lợi nhuận. Theo đó, nhà đầu tư thực hiện
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài theo các hình thức sau đây như sau:
- Thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận
đầu tư.
- Thực hiện hợp đồng BCC ở nước ngoài.
- Mua lại một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của tổ chức kinh tế ở nước
ngoài để tham gia quản lý và thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại nước ngoài.
Nhà đầu tư cũng có thể đầu tư theo hình thức đầu tư gián tiếp: Mua,
bán chứng khoán, giấy tờ có giá khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư
chứng khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài.
Bên cạnh đó, do tính chất đa dạng của các hình thức đầu tư ra nước
ngoài theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư mà pháp luật đầu tư
Việt Nam cũng quy định theo hướng mở, ngoài các hình thức nêu trên thì nhà
đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo các hình thức đầu tư
khác theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.
So với quy định của Luật Đầu tư năm 2005 và Nghị định số 78/2006/NĐ-
CP của Chính phủ ban hành ngày 09/8/2006 quy định về đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài (Nghị định số 78/2006/NĐ-CP) thì về cơ bản các quy định đối với
hình thức đầu tư tại Luật Đầu tư 2014 không có sự thay đổi. Tuy nhiên, có thể
thấy rằng Luật Đầu tư 2014 đã có bước tiến đáng kể về việc quy định rõ các
hình thức đầu tư ra nước ngoài. Hình thức đầu tư ra nước ngoài tại Luật Đầu
tư 2005 và Nghị định số 78/2006/NĐ-CP không được quy định một cách
39
trực tiếp tại Chương quy định về đầu tư ra nước ngoài mà thông qua quy
định tại Điều 21 Luật Đầu tư 2005 để nhận thấy các hình thức đầu tư ra nước
ngoài. Luật Đầu tư 2014 đã quy định trực tiếp hình thức đầu tư ra nước
ngoài tại Điều 52 Chương V (Hoạt động đầu tư ra nước ngoài). Như vậy, có
thể thấy rằng, pháp luật đầu tư hiện hành đã được xây dựng trên tinh thần
coi trọng hơn vị trí, vai trò của hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong sự phát
triển kinh tế đất nước. Quy định về hình thức đầu tư ra nước ngoài tiếp tục
có sự hoàn thiện hơn tại dự thảo Luật Đầu tư 2020, theo đó, tại Điều 52 của Dự
thảo đã quy định một trong các hình thức đầu tư ra nước ngoài là “Đầu tư theo
hình thức hợp đồng ở nước ngoài” thay vì quy định đầu tư theo hình thức “Thực
hiện hợp đồng BCC ở nước ngoài” tại Luật Đầu tư 2014. Quy định này được
xem có tính khái quát, mở rộng và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế của các
nước trên thế giới.
Việc các nhà đầu tư lựa chọn hình thức đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh
vực viễn thông là rất quan trọng đối với dự án đầu tư do tính chất đặc thù của
ngành viễn thông đòi hỏi yêu cầu cao về năng lực, kinh nghiệm, tài chính bên
cạnh đó có rất nhiều vấn đề có thể ảnh hưởng, gây rủi ro đến hoạt động đầu tư
viễn thông. Trên thực tế, nhà đầu tư Việt Nam thường lựa chọn hợp tác với
các công ty viễn thông tại nước tiếp nhận đầu tư để thành lập tổ chức kinh tế
tại nước tiếp nhận đầu tư hoặc mua lại một phần vốn của tổ chức kinh tế ở
nước ngoài để tham gia quản lý và thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại
nước ngoài. Đối với những hình thức này, nhà đầu tư Việt Nam có thể tận
dụng được cơ sở hạ tầng, thương hiệu, kinh nghiệm,… của nhà đầu tư tại
nước tiếp nhận đầu tư, từ đó hạn chế được một số rủi ro có thể phát sinh trong
quá trình đầu tư. Bên cạnh đó, hình thức thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn
nhà đầu tư cũng được nhà đầu tư lựa chọn để đảm bảo quyền quản lý không bị
40
chi phối bởi bên thứ ba khác.
2.1.2. Quy định về thủ tục đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
Để tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông,
sau khi đảm bảo các điều kiện chuẩn bị dự án về điều kiện đầu tư, chủ thể đầu
tư, hình thức đầu tư,… thì nhà đầu tư phải được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cho phép theo quy định của pháp luật. Quy định của pháp luật về thủ
tục đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông là một trong những quy
định quan trọng đối với nhà đầu tư và đối với nhà nước. Thông qua đó, nhà
nước thể hiện ý chí của mình trong việc quản lý hoạt động đầu tư ra nước
ngoài trong lĩnh vực viễn thông.
Tùy theo từng dự án, tính chất, quy mô mà thủ tục đầu tư có những sự
khác nhau nhất định. Tuy nhiên, có thể phân thành hai thủ tục chính như sau:
- Thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài đối với dự
án thuộc diện phải có quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài: Trường
hợp này phân thành hai thủ tục khác nhau là thủ tục đối với dự án thuộc diện
Quốc hội quyết định chủ trương và thủ tục đối với dự án thuộc diện Chính
phủ quyết định chủ trương.
Theo đó, Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài đối với
các dự án đầu tư sau đây:
+ Dự án có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 20.000 tỷ đồng trở lên.
+ Dự án yêu cầu áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt cần được Quốc
hội quyết định.
Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài trong
lĩnh vực viễn thông đối với: Dự án có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 400 tỷ
đồng trở lên. Quy định này được quy định riêng đối với lĩnh vực viễn thông
cùng với các lĩnh vực như ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, báo chí, phát
thanh, truyền hình. Ngoài các lĩnh vực nêu trên thì các dự án khác chỉ thực
hiện xin Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài khi
41
dự án có vốn đầu tư ra nước ngoài từ 800 tỷ đồng trở lên.
- Thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài đối với dự
án không thuộc diện phải có quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài: Áp
dụng đối với các dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông không
phải chấp nhận chủ trương đầu tư ra nước ngoài.
2.1.2.1. Quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra
nước ngoài đối với dự án thuộc diện phải có quyết định chủ trương đầu tư ra
nước ngoài
Thủ tục quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài là bước đầu tiên và
là tiền đề đối với các dự án thuộc diện phải xin quyết định chủ trương để thực
hiện các thủ tục tiếp theo đối với các dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh
vực viễn thông.
Hồ sơ, trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư được quy định
như sau:
Thứ nhất, về thành phần hồ sơ: Nhà đầu tư nộp hồ sơ dự án đầu tư cho
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hồ sơ gồm có:
- Văn bản đăng ký đầu tư ra nước ngoài.
- Bản sao chứng minh nhân dân, thẻ căn cước hoặc hộ chiếu đối với
nhà đầu tư là cá nhân; bản sao Giấy chứng nhận thành lập hoặc tài liệu tương
đương khác xác nhận tư cách pháp lý đối với nhà đầu tư là tổ chức.
- Đề xuất dự án đầu tư gồm: Mục tiêu, quy mô, hình thức, địa điểm đầu
tư; xác định sơ bộ vốn đầu tư, phương án huy động vốn, cơ cấu nguồn vốn;
tiến độ thực hiện dự án, các giai đoạn đầu tư (nếu có); phân tích sơ bộ hiệu
quả đầu tư của dự án.
- Bản sao một trong các tài liệu chứng minh năng lực tài chính của nhà
đầu tư: Báo cáo tài chính 02 năm gần nhất của nhà đầu tư; cam kết hỗ trợ tài
chính của công ty mẹ; cam kết hỗ trợ tài chính của tổ chức tài chính; bảo lãnh
về năng lực tài chính của nhà đầu tư; tài liệu khác chứng minh năng lực tài
42
chính của nhà đầu tư.
- Cam kết tự cân đối nguồn ngoại tệ hoặc văn bản của tổ chức tín dụng
được phép cam kết thu xếp ngoại tệ cho nhà đầu tư.
- Quyết định đầu tư ra nước ngoài theo quy định.
Thứ hai, về trình tự thủ tục:
Đối với các dự án thuộc diện Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương:
- Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án
đầu tư, Bộ Kế hoạch và Đầu tư gửi hồ sơ lấy ý kiến thẩm định của cơ quan
nhà nước có liên quan.
- Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đầu tư, cơ
quan được lấy ý kiến có ý kiến thẩm định về những nội dung thuộc thẩm
quyền quản lý.
- Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đầu tư, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư tổ chức thẩm định và lập báo cáo thẩm định trình Thủ
tướng Chính phủ. Báo cáo thẩm định gồm các nội dung:
+ Điều kiện cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài quy định.
+ Tư cách pháp lý của nhà đầu tư; Sự cần thiết thực hiện hoạt động đầu
tư ở nước ngoài.
+ Sự phù hợp của dự án với nguyên tắc thực hiện hoạt động đầu tư
(nguyên tắc khuyến khích nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước
ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng xuất khẩu
hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng
lực quản lý và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội đất nước).
+ Những nội dung cơ bản của dự án: Quy mô, hình thức đầu tư, địa
điểm, thời hạn và tiến độ thực hiện dự án, vốn đầu tư, nguồn vốn.
+ Đánh giá mức độ rủi ro tại quốc gia đầu tư.
- Trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo thẩm định của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định chủ trương
43
đầu tư ra nước ngoài, gồm các nội dung:
+ Nhà đầu tư thực hiện dự án.
+ Mục tiêu, địa điểm đầu tư.
+ Vốn đầu tư, nguồn vốn đầu tư; tiến độ góp vốn, huy động vốn và tiến
độ thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài.
+ Ưu đãi và hỗ trợ đầu tư (nếu có).
Đối với dự án Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đủ hồ sơ dự án
đầu tư, Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo Thủ tướng Chính phủ thành lập Hội
đồng thẩm định nhà nước.
- Trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày thành lập, Hội đồng thẩm định nhà
nước tổ chức thẩm định và lập báo cáo thẩm định (gồm các nội dung quy
định: Điều kiện cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài quy định;
Tư cách pháp lý của nhà đầu tư; Sự cần thiết thực hiện hoạt động đầu tư ở
nước ngoài; Sự phù hợp của dự án với nguyên tắc thực hiện hoạt động đầu tư;
Những nội dung cơ bản của dự án: quy mô, hình thức đầu tư, địa điểm, thời
hạn và tiến độ thực hiện dự án, vốn đầu tư, nguồn vốn; Đánh giá mức độ rủi
ro tại quốc gia đầu tư).
- Chậm nhất 60 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội, Chính phủ
gửi Hồ sơ quyết định chủ trương đầu tư ra nước ngoài đến cơ quan chủ trì
thẩm tra của Quốc hội. Hồ sơ gồm:
+ Tờ trình của Chính phủ.
+ Hồ sơ dự án đầu tư theo quy định.
+ Báo cáo thẩm định của Hội đồng thẩm định nhà nước.
+ Tài liệu khác có liên quan.
Quốc hội xem xét, thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư ra nước
ngoài, bao gồm các nội dung như sau: Nhà đầu tư thực hiện dự án; Mục tiêu,
44
địa điểm đầu tư; Vốn đầu tư, nguồn vốn đầu tư; tiến độ góp vốn, huy động
vốn và tiến độ thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài; Ưu đãi và hỗ trợ đầu
tư (nếu có). Nội dung trình tự, thủ tục và nội dung thẩm định chủ trương đầu
tư dự án đầu tư ra nước ngoài do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư được
hướng dẫn chi tiết bởi Mục 4 Chương IV Nghị định 131/2015/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 25/12/2015 hướng dẫn về dự án trọng điểm quốc gia.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản quyết
định chủ trương đầu tư đối với các dự án đầu tư thuộc diện phải quyết định
chủ trương đầu tư ra nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng
nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài cho nhà đầu tư.
2.1.2.2. Quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra
nước ngoài đối với dự án không thuộc diện phải có quyết định chủ trương đầu
tư ra nước ngoài
Các dự án không thuộc trường hợp diện phải quyết định chủ trương đầu
tư ra nước ngoài, nhà đầu tư nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đăng ký
đầu tư cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Hồ sơ bao gồm:
- Văn bản đăng ký đầu tư ra nước ngoài.
- Bản sao chứng minh nhân dân, thẻ căn cước hoặc hộ chiếu đối với
nhà đầu tư là cá nhân; bản sao Giấy chứng nhận thành lập hoặc tài liệu tương
đương khác xác nhận tư cách pháp lý đối với nhà đầu tư là tổ chức.
- Quyết định đầu tư ra nước ngoài.
- Văn bản cam kết tự cân đối nguồn ngoại tệ hoặc văn bản của tổ chức
tín dụng được phép cam kết thu xếp ngoại tệ cho nhà đầu tư.
Trường hợp dự án có vốn đăng ký chuyển ra nước ngoài bằng ngoại tệ
tương đương 20 tỷ đồng trở lên thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư lấy ý kiến bằng
văn bản của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong thời hạn 07 ngày làm việc
kể từ ngày nhận được văn bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam có ý kiến bằng văn bản gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Quá thời
45
hạn trên mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư không nhận được văn bản trả lời, thì
được hiểu là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chấp thuận hồ sơ dự án đầu tư
đối với những nội dung thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước được phân công.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước
ngoài trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định. Trường
hợp từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài thì phải thông
báo cho nhà đầu tư bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Bên cạnh việc quy định thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra
nước ngoài, Luật Đầu tư 2014 (Điều 62) quy định về việc chấm dứt dự án đầu
tư ra nước ngoài trong các trường hợp như sau: Nhà đầu tư quyết định chấm
dứt hoạt động của dự án; Hết thời hạn hoạt động của dự án đầu tư; Theo các
điều kiện chấm dứt hoạt động được quy định trong hợp đồng, điều lệ doanh
nghiệp; Nhà đầu tư chuyển nhượng toàn bộ vốn đầu tư ở nước ngoài cho nhà
đầu tư nước ngoài; Quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài mà dự án đầu tư không được nước tiếp
nhận đầu tư chấp thuận, hoặc quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày dự án đầu tư
được cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư chấp thuận mà dự án
đầu tư không được triển khai; Quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mà nhà đầu tư không thực hiện hoặc không
có khả năng thực hiện dự án theo tiến độ đăng ký với cơ quan quản lý nhà
nước và không thực hiện thủ tục điều chỉnh tiến độ đầu tư; Quá thời hạn 12
tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý
tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư mà nhà đầu
tư không có văn bản báo cáo về tình hình hoạt động của dự án đầu tư; Tổ
chức kinh tế ở nước ngoài bị giải thể hoặc phá sản theo quy định của pháp
luật nước tiếp nhận đầu tư; Theo bản án, quyết định của Tòa án, Trọng tài.
Trong trường hợp dự án đầu tư chấm dứt hoạt động do nhà đầu tư chủ
46
động chấm dứt hoặc do các tình huống khác, nhà đầu tư phải thực hiện đầy đủ
các thủ tục chấm dứt dự án tại nước ngoài theo quy định của pháp luật nước
tiếp nhận đầu tư, thực hiện thanh lý dự án đầu tư và nộp hồ sơ đăng ký chấm
dứt hiệu lực giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài tại Bộ Kế hoạch và
Đầu tư. Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định chấm dứt hiệu lực và thu hồi giấy
chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài để chấm dứt toàn bộ quyền và nghĩa
vụ của nhà đầu tư. Nội dung cụ thể được quy định tại Điều 25 Nghị định
83/2015/NĐ-CP, đây là bước tiến mới so với nghị định số 78/2006/NĐ-CP về
thủ tục chấm dứt dự án, nêu rõ trường hợp hết thời hạn hoạt động của dự án
theo quy định của pháp luật quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư mà nhà
đầu tư không làm thủ tục gia hạn hoặc không được gia hạn hoạt động đầu tư.
Như vậy, trong việc thực hiện các thủ tục đầu tư ra nước ngoài, pháp
luật hiện hành đã có sự thay đổi tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư ra nước
ngoài. Theo đó, doanh nghiệp không cần làm thủ tục để được cấp Giấy chứng
nhận đầu tư mà thay vào đó là thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.
Đây là quy định thể hiện sự tôn trọng quyền tự do kinh doanh, đầu tư của nhà
đầu tư theo hướng nhà nước chỉ xác nhận các hoạt động đầu tư kinh doanh ra
nước ngoài của nhà đầu tư thông qua việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu
tư ra nước ngoài thay thế cho Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài đã từng
được sử dụng theo quy định Luật Đầu tư 2005 và các văn bản hướng dẫn thi
hành. Thủ tục thẩm tra đối với dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn
thông có vốn đầu tư dưới 400 tỷ cũng được miễn. Quy định này được xem là
thông thoáng, đơn giản, minh bạch hơn rất nhiều và tạo điều kiện cho nhà đầu
tư trong việc đăng ký đầu tư ra nước ngoài. Thủ tục chấm dứt dự án cũng có
những sự thay đổi tạo điều kiện đảm bảo việc thực hiện dự án của nhà đầu tư.
Tại Dự thảo Luật Đầu tư 2020, về cơ bản các quy định về trình tự, thủ tục
xin giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài không có sự thay đổi so với
47
các quy định tại Luật Đầu tư 2014. Tuy nhiên, dự thảo Luật Đầu tư 2020 thu hẹp
hơn các trường hợp nhà đầu tư phải thực hiện điều chỉnh giấy chứng nhận đăng
ký đầu tư ra nước ngoài. Đây được xem là một trong những quy định thông
thoáng hơn cho nhà đầu tư trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư.
2.1.3. Quy định về triển khai dự án đầu tư đầu tư ra nước ngoài
trong lĩnh vực viễn thông
Pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông bên cạnh quy
định những quyền lợi của nhà đầu tư thì cũng đặt ra những nghĩa vụ của nhà
đầu tư khi triển khai dự án đầu tư. Đây là những nội dung quan trọng trong quá
trình triển khai dự án đầu tư thể hiện quyền và nghĩa vụ đặc thù của nhà đầu tư
trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài. So với các quy định của Luật Đầu tư
2005 và các văn bản khác có liên quan thì pháp luật đầu tư hiện hành quy định
về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư trong từng quy định của quá trình triển
khai dự án đầu tư thay vì quy định trực tiếp quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư.
2.1.3.1. Quyền của nhà đầu tư
Để đảm bảo việc thực hiện dự án đầu tư thì việc ghi nhận các quyền
của nhà đầu tư là tất yếu. Luật Đầu tư 2014 cùng các văn bản pháp luật khác
có liên quan ra đời đã không ngừng khuyến khích hoạt động đầu tư ra nước
ngoài, mở rộng thị trường kinh doanh ra các nước khác trên thế giới.
Một trong những quyền quan trọng của nhà đầu tư khi thực hiện triển
khai dự án đầu tư đó là quyền chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài.
Theo quy định của Điều 64 Luật Đầu tư 2014, để có thể thực hiện việc
chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư thì nhà đầu tư
phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài, trừ
trường hợp chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài dưới dạng chuyển ngoại tệ, hoặc
thiết bị, máy móc, hàng hóa ra nước ngoài để đáp ứng các chi phí cho hoạt
động hình thành dự án đầu tư (phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu, khảo
48
sát, thăm dò thị trường và thực hiện hoạt động chuẩn bị đầu tư khác).
- Nhà đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư
chấp thuận hoặc cấp phép hoạt động đầu tư. Trường hợp chưa được cấp phép
hoặc chấp nhận đầu tư do hạn chế của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư không
quy định cụ thể về hoạt động đầu tư này thì nhà đầu tư cũng cần cung cấp tài
liệu chứng minh quyền hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư này.
- Nhà đầu tư đã có tài khoản vốn đầu tư theo quy định để thực hiện
chuyển tiền từ Việt Nam ra nước ngoài.
Về nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài, theo Điều 53 Luật Đầu tư 2014:
(1) Nhà đầu tư chịu trách nhiệm góp vốn và huy động các nguồn
vốn để thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài. Việc vay vốn bằng
ngoại tệ, chuyển vốn đầu tư bằng ngoại tệ phải tuân thủ điều kiện
và thủ tục theo quy định của pháp luật về ngân hàng, về các tổ chức
tín dụng, về quản lý ngoại hối; (2) Căn cứ mục tiêu của chính sách
tiền tệ, chính sách quản lý ngoại hối trong từng thời kỳ, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam quy định việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài tại Việt Nam cho nhà đầu tư vay vốn bằng ngoại tệ
theo quy định nêu trên để thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Như vậy có thể thấy, việc chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài tại Luật
Đầu tư 2014 vẫn mang tính chất chung chung, chỉ nêu những nguyên tắc của
việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài trước khi có Giấy chứng nhận đăng ký đầu
tư ra nước ngoài để nghiên cứu, chuẩn bị dự án đầu tư theo quy định của pháp
luật về quản lý ngoại hối và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Tuy nhiên, để cụ thể hóa nội dung này, Nghị định 83/2015/NĐ-CP đã quy
định cụ thể các trường hợp được phép chuyển vốn ra nước ngoài, việc tuân
thủ các quy định của pháp luật chuyên ngành, hạn mức chuyển ngoại tệ.
Riêng đối với việc chuyển ngoại hối, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ban
49
hành Thông tư 12/2016/TT-NHNN, ngày 29/6/2016 về quản lý ngoại hối đối
với hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Thông tư này quy định cụ thể về việc mở,
sử dụng tài khoản vốn đầu tư bằng ngoại tệ, bằng tiền Việt Nam; đăng ký,
đăng ký thay đổi giao dịch ngoại hối liên quan hoạt đầu tư ra nước ngoài; việc
chuyển ngoại tệ ra nước ngoài trước khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký
đầu tư ra nước ngoài...
Cùng với việc quy định để nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài
thì pháp luật hiện hành cũng quy định cụ thể việc sử dụng phần lợi nhuận thu
được từ hoạt động đầu tư ở nước ngoài. Theo đó, nhà đầu tư có quyền sử
dụng lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư ở nước ngoài để tăng vốn, mở
rộng hoạt động đầu tư ở nước ngoài hoặc dùng lợi nhuận thu được từ dự án
đầu tư ở nước ngoài để thực hiện dự án đầu tư khác ở nước ngoài.
Bên cạnh đó, Nghị định 83/2015/NĐ-CP cũng quy định về quyền của
nhà đầu tư trong việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại dự án đầu
tư ở nước ngoài. Theo đó, nhà đầu tư được tuyển dụng lao động Việt Nam đi
làm việc cho dự án đầu tư của mình ở nước ngoài theo quy định của pháp luật
lao động của Việt Nam và của quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư. Nhà
nước không giới hạn cụ thể mà phụ thuộc vào quy định của quốc gia tiếp nhận
đầu tư. Chẳng hạn, nhiều quốc gia như Haiti, Lào có quy định về việc giới
hạn người lao động của Việt Nam sang làm việc tại nước đó, đồng thời quy
định rõ tỷ lệ người lao động Việt Nam và người lao động tại nước tiếp nhận
đầu tư. Như đối với quy định của pháp luật Haiti, người lao động Việt Nam
làm việc tại doanh nghiệp của Haiti không vượt quá 05% tổng số lao động.
Với những quy định như trên thì nhà đầu tư Việt Nam phải đảm bảo tuân thủ
đầy đủ quy định của nước tiếp nhận đầu tư trong việc sử dụng lao động này.
2.1.3.2. Nghĩa vụ của nhà đầu tư
Cùng với việc ghi nhận quyền của nhà đầu tư thì nghĩa vụ của nhà đầu
50
tư cũng được đặt ra, các nghĩa vụ của nhà đầu tư như sau:
- Nhà đầu tư phải mở tài khoản vốn riêng để thực hiện giao dịch chuyển
tiền từ Việt Nam ra nước ngoài và từ nước ngoài vào Việt Nam liên quan đến
hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Tài khoản vốn riêng được mở tại một tổ chức
tín dụng được phép tại Việt Nam và phải đăng ký tại Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối.
- Trừ trường hợp sử dụng lợi nhuận để đầu tư ở nước ngoài, trong thời
hạn 06 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị
pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà
đầu tư phải chuyển toàn bộ lợi nhuận thu được và các khoản thu nhập khác từ
đầu tư ở nước ngoài về Việt Nam. Trong thời hạn quy định tại này mà nhà
đầu tư chưa chuyển lợi nhuận và các khoản thu nhập khác về Việt Nam, nhà
đầu tư phải có văn bản báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam. Thời hạn chuyển lợi nhuận về nước được gia hạn không quá
hai lần, mỗi lần không quá 06 tháng và phải được Bộ Kế hoạch và Đầu tư
chấp thuận bằng văn bản.
- Bên cạnh đó, Nhà đầu tư phải thực hiện nghĩa vụ báo cáo bằng văn
bản và thông qua Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư theo quy định sau:
+ Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày dự án đầu tư được chấp thuận
hoặc cấp phép theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư
phải gửi thông báo bằng văn bản về việc thực hiện hoạt động đầu tư ở nước
ngoài kèm theo bản sao văn bản chấp thuận dự án đầu tư hoặc tài liệu chứng
minh quyền hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư cho Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Cơ quan đại diện Việt Nam tại nước
tiếp nhận đầu tư;
+ Định kỳ hàng quý, hàng năm, nhà đầu tư gửi báo cáo tình hình hoạt
động của dự án đầu tư cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt
51
Nam, Cơ quan đại diện Việt Nam tại nước tiếp nhận đầu tư;
+ Trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc
văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp
nhận đầu tư, nhà đầu tư báo cáo tình hình hoạt động của dự án đầu tư kèm theo
báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương
đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư gửi Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính, Cơ quan đại diện Việt
Nam tại nước tiếp nhận đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
+ Đối với dự án đầu tư ra nước ngoài có sử dụng vốn nhà nước, ngoài
việc thực hiện chế độ báo cáo định kỳ nêu trên, nhà đầu tư phải thực hiện chế
độ báo cáo đầu tư theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà
nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp.
Ngoài những nghĩa vụ trên, Nghị định 83/2015/NĐ-CP cũng quy định
một số nghĩa vụ của nhà đầu tư như sau:
- Nghĩa vụ tài chính: Nhà đầu tư có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các
nghĩa vụ tài chính phát sinh liên quan đến dự án đầu tư ra nước ngoài đối với
nhà nước Việt Nam theo quy định của pháp luật về thuế.
- Nghĩa vụ liên quan đến người lao động khi làm việc tại dự án đầu tư ở
nước ngoài: Nhà đầu tư phải thực hiện đầy đủ các thủ tục theo quy định của
pháp luật về việc đưa lao động Việt Nam làm việc cho dự án đầu tư tại nước
ngoài; đồng thời bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người lao động Việt Nam ở
nước ngoài; chịu trách nhiệm giải quyết các vấn đề phát sinh trong việc đưa
lao động Việt Nam làm việc cho dự án đầu tư tại nước ngoài và quy định khác
của pháp luật có liên quan.
Như vậy, có thể thấy rằng, trong quá trình triển khai dự án đầu tư thì
quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư luôn song song với nhau. Đây là một trong
những cách thức để nhà nước đảm bảo hoạt động đầu tư, quản lý hoạt động
52
của doanh nghiệp đầu tư. Các quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư tiếp tục được
ghi nhận và đảm bảo tại dự thảo Luật Đầu tư 2020, về cơ bản các quyền và
nghĩa vụ của nhà đầu tư tại dự thảo thực hiện theo đúng các quy định tại Luật
Đầu tư 2014. Tuy nhiên, dự thảo đã bổ sung và quy định rõ hơn về quyền của
nhà đầu tư trong việc sử dụng lợi nhuận để đầu tư ở nước ngoài, theo đó, nhà
đầu tư sẽ được giữ lại lợi nhuận từ đầu tư ở nước ngoài để tái đầu tư trong
trường hợp (1) tiếp tục góp vốn đầu tư ở nước ngoài trong trường hợp chưa
góp đủ vốn theo đăng ký; (2) tăng vốn đầu tư ra nước ngoài; (3) thực hiện dự
án đầu tư mới ở nước ngoài. Quy định này nhằm quy định cụ thể và đảm bảo
quyền lợi của nhà đầu tư hơn trong việc sử dụng lợi nhuận ở nước ngoài.
2.1.4. Quy định về quản lý nhà nước về đầu tư ra nước ngoài trong
lĩnh vực viễn thông
Quản lý nhà nước về đầu tư ra nước ngoài nói chung và đầu tư ra nước
ngoài trong lĩnh vực viễn thông nói riêng đóng vai trò quan trọng đối với bất
cứ quốc gia nào và pháp luật là một công cụ đắc lực để đảm bảo công tác
quản lý của nhà nước. Sự quản lý chặt chẽ và thống nhất cũng góp phần thúc
đẩy hoạt động này phát triển. Quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư ra
nước ngoài đã có những sự thay đổi, chuyển biến so với giai đoạn trước. Các
chính sách, hành lang pháp lý đang có sự chuyển đổi theo hướng tạo môi
trường đầu tư mở rộng, khuyến khích các nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu
tư trong khuôn khổ pháp luật.
Trách nhiệm quản lý nhà nước về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh viễn
thông theo quy định của pháp luật Việt Nam, Chính phủ thống nhất quản lý
nhà nước về hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong phạm vi cả nước. Bộ Kế
hoạch và Đầu tư giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đầu tư từ
Việt Nam ra nước ngoài, trong đó có đầu tư viễn thông. Trách nhiệm của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư trong quản lý nhà nước về đầu tư ra nước ngoài trong
53
lĩnh vực viễn thông thể hiện rõ nét nhất ở việc tổ chức thẩm định, đăng ký,
thẩm tra, cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; Kiểm tra,
thanh tra, giám sát theo thẩm quyền việc thực hiện các quy định của pháp luật
về đầu tư ra nước ngoài; giải quyết khiếu nại, tố cáo nếu có phát sinh...
Pháp luật cũng quy định trách nhiệm của các cơ quan có liên quan khác
như: Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương. Các cơ quan này tùy thuộc vào phạm vi thẩm quyền mà có trách
nhiệm cụ thể về quản lý dự án đầu tư viễn thông ở nước ngoài.
Trong việc hỗ trợ nhà đầu tư ở nước ngoài, cơ quan đại diện Việt Nam
ở nước ngoài là đầu mối phối hợp với các cơ quan của Việt Nam ở nước
ngoài theo dõi và hỗ trợ các nhà đầu tư trong việc chấp hành các quy định
pháp luật của quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư; bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của nhà đầu tư ở nước ngoài; thông qua đường ngoại giao, đề xuất và
kiến nghị chính quyền nước sở tại hỗ trợ, tạo điều kiện và tháo gỡ khó khăn
cho các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện dự án đầu tư ở nước ngoài phù
hợp với các quy định tại Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; hỗ trợ Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc xác
minh thông tin liên quan đến hoạt động đầu tư của nhà đầu tư Việt Nam trên
địa bàn quản lý khi có yêu cầu.
Bên cạnh các hoạt động quản lý nhà nước trên, việc thanh tra, kiểm tra,
giám sát, đánh giá dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông thực
hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra, kiểm tra, giám sát và đánh giá
đầu tư. Tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định của pháp luật đầu tư ra nước
ngoài thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý hành
chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường
theo quy định của pháp luật.
Các quy định của pháp luật hiện hành về quản lý nhà nước về đầu tư ra
54
nước ngoài đối với đầu tư viễn thông so với Luật Đầu tư 2005 và các văn bản
hướng dẫn thi hành liên quan thì việc quy định trách nhiệm của cơ quan đại
diện Việt Nam ở nước ngoài là một điểm mới. Cơ quan đại diện Việt Nam ở
nước ngoài là một trong những cơ quan đầu mối có khả năng nắm bắt thông
tin, hỗ trợ và bảo vệ nhà đầu tư tại nước sở tại kịp thời nhất. Thông qua việc
quy định trách nhiệm của cơ quan này, các nhà đầu tư có cơ chế đầu mối hỗ
trợ hiệu quả đồng thời phát huy được vai trò của quản lý nhà nước đối với
hoạt động đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài. Các quy định về quản lý nhà
nước tiếp tục được quy định tại dự thảo Luật Đầu tư 2020, về cơ bản các quy
định này không có sự thay đổi so với các quy định tại Luật Đầu tư 2014.
Sự phân công trách nhiệm và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn
thông sẽ tạo nên một cơ chế quản lý chặt chẽ, tránh sự chồng chéo trong
quản lý và tránh tình trạng đầu tư tự do không có sự kiểm soát, gây thất
thoát cho nền kinh tế.
2.2. Quy định về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
trong hiệp định quốc tế
Do phạm vi luận văn đã giới hạn chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật đầu
tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông theo quy định của pháp luật Việt
Nam nên tác giả không tìm hiểu hệ thống pháp luật nước tiếp nhận đầu tư,
pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, xuất phát từ tầm quan trọng của các hiệp định,
thỏa thuận, cam kết giữa Việt Nam với nước tiếp nhận đầu tư mà khi thực
hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung cũng như trong lĩnh vực viễn
thông nói riêng không thể không đề cập tới các văn bản quốc tế nêu trên. Việc
áp dụng các hiệp định quốc tế cũng đã được ghi nhận tại Luật Điều ước quốc
tế 2016, theo đó, trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế
mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác
55
nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ
Hiến pháp. Do đó, bên cạnh việc nghiên cứu các quy định pháp luật đầu tư ra
nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam cần tìm hiểu một cách khái
quát một số hiệp định quốc tế để từ đó đánh giá sự tương thích của pháp luật
trong nước với quy định của các văn bản quốc tế.
Hiện nay, Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều hiệp định quốc tế trong
khuôn khổ WTO, ASEAN, đa phương và song phương khác. Một số hiệp
định quốc tế cơ bản có thể kể đến như sau:
Trong khuôn khổ WTO
Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) ngày
07/11/2006. Đây được xem là một bước ngoặt đánh dấu sự hội nhập của nền
kinh tế Việt Nam. Các chính sách, pháp luật về đầu tư nước ngoài của Việt
Nam đã có nhiều biến chuyển tích cực và đóng vai trò lớn trong việc thu hút
đầu tư trong nước và mở cửa đầu tư ra nước ngoài. Trong khuôn khổ WTO,
Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định liên quan đến hoạt động đầu tư quốc tế,
có thể kể đến một số hiệp định như: Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên
quan đến thương mại (Hiệp định TRIMs); Hiệp định chung về thương mại và
dịch vụ (Hiệp định GATS);...
Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (Hiệp
định TRIMs)
Tại Điều 1 Hiệp định TRIMs quy định phạm vi áp dụng như sau: “Hiệp
định này chỉ áp dụng đối với các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
hàng hoá”. Theo đó, Hiệp định TRIMs chỉ quy định về các biện pháp đầu tư
liên quan đến thương mại bị cấm áp dụng chứ không bao trùm tất cả vấn đề
về đầu tư nước ngoài. Hiệp định TRIMs cấm các nước thành viên WTO ban
hành hoặc thực thi các biện pháp vi phạm nguyên tắc của WTO (nêu trong
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT 1994) sau:
56
- Đối xử quốc gia
- Các hạn chế số lượng xuất khẩu, nhập khẩu trong WTO
Phụ lục của Hiệp định TRIMs liệt kê các ví dụ minh họa về các biện
pháp đầu tư có thể coi là vi phạm hai nhóm nguyên tắc nêu trên.
Như vậy, Hiệp định TRIMs cơ bản chỉ đề cập đến nghĩa vụ của các
nước không được ban hành các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại mà
không đề cập trực tiếp đến quyền của nhà đầu tư. Tuy nhiên, việc các nước
tuân thủ đầy đủ các quy định tại Hiệp định TRIMs sẽ mang lại lợi ích cho nhà
đầu tư. Đối với các nhà đầu tư Việt Nam, khi đầu tư ra nước ngoài cần lưu ý
đến các biện pháp bị cấm đã nêu hoặc minh họa trong Hiệp định TRIMs để có
cách thức bảo vệ lợi ích của mình khi bị vi phạm (Ví dụ như khiếu nại với
chính phủ nước nhận đầu tư hoặc thông tin cho chính phủ Việt Nam để có thể
tham vấn với nước nhận đầu tư nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu
tư Việt Nam).
Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (Hiệp định GATS)
Hiệp định GATS quy định về các vấn đề liên quan đến thương mại và
dịch vụ, chủ yếu điều chỉnh phương thức cung ứng dịch vụ. Các nguyên tắc
và các điều khoản cơ bản của Hiệp định GATS được áp dụng để điều chỉnh
quyền tiếp cận thị trường, việc thành lập, quản lý hoạt động các hiện diện
thương mại của các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài…
Hiệp định GATS quy định một số nội dung như sau:
- Quy định việc thực hiện nguyên tắc đối xử quốc gia, nguyên tắc đối
xử tối huệ quốc (Hiệp định GATS yêu cầu các nước thành viên tuân thủ cam
kết của mình trong việc thực hiện tiếp cận thị trường, đối xử quốc gia, đối xử
tối huệ quốc).
- Quy định về loại bỏ các biện pháp hạn chế đầu tư.
- Điều chỉnh loại hình doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Theo đó, các
57
thành viên WTO không được đưa ra yêu cầu bắt buộc hình thức pháp nhân cụ
thể đối với nhà đầu tư (quốc gia thành viên không được gây trở ngại đối với
mong muốn của nhà đầu tư trong việc thành lập hiện diện thương mại bằng
một trong các hình thức như chi nhánh, liên doanh,…).
- Quy định về tự do trong việc di chuyển dòng vốn đầu tư.
Trong khuôn khổ Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
Cộng đồng kinh tế ASEAN được chính thức thành lập vào ngày
31/12/2015 và giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế khu vực.
Trong khuôn khổ cộng đồng kinh tế ASEAN, các vấn đề liên quan đến hoạt
đồng đầu tư nói chung được quy định tại Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN
(Hiệp định ACIA). Hiệp định ACIA được ký kết tháng 2/2009 và có hiệu lực
từ 29/3/2012 thay thế cho Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư ASEAN
(IGA) 1987 và Hiệp định Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) 1998. Mục tiêu của
Hiệp định ACIA là thiết lập chế độ đầu tư thông thoáng và cởi mở trong khu
vực ASEAN nhằm đạt mục tiêu sau cùng là hội nhập kinh tế. Theo đó, Hiệp
định ACIA có 49 điều và 02 phụ lục, bao gồm 04 nội dung chính là: Tự do
hóa đầu tư; Bảo hộ đầu tư; Thuận lợi hóa đầu tư; Xúc tiến đầu tư. Trong đó
một số nội dung cơ bản của ACIA như sau:
- Hiệp định ACIA đưa ra bảy nguyên tắc hướng dẫn chung cho các
thành viên, trong đó yêu cầu các nước thành viên cần không ngừng tự do hóa
nhằm đạt được môi trường tự do và mở cửa khu vực. Từ các nguyên tắc này,
đặt ra yêu cầu các nước thành viên có chính sách mở cửa nhằm hướng tới
mục tiêu tự do hóa của cộng đồng ASEAN.
- Quy định cho phép tự do hóa đối với bất kỳ lĩnh vực nào được các
nước thành viên nhất trí, nhằm cho phép tự do hóa một số lĩnh vực, dịch vụ
khác sẽ phát sinh trong tương lai.
58
- Hiệp định ACIA không quy định cụ thể về định nghĩa hay liệt kê các
biện pháp hạn chế đầu tư nhưng thay vào đó Hiệp định quy định việc loại bỏ
các biện pháp hạn chế đầu tư được thực hiện thông qua các quy định về áp
dụng nguyên tắc đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc.
- Hiệp định ACIA quy định cơ chế giải quyết tranh chấp trực tiếp giữa
nhà nước và nhà đầu tư.
Như vậy, có thể thấy rằng, Hiệp định ACIA được xem là hiệp định đầu
tư toàn diện với các quy tắc cải thiện môi trường đầu tư trở nên cạnh tranh,
minh bạch và thông thoáng hơn. Hiệp định ACIA được kỳ vọng sẽ thúc đẩy
tiến trình xây dựng một khu vực đầu tư tự do, mở cửa và hội nhập trong
ASEAN, qua đó góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng Cộng đồng kinh tế
chung ASEAN.
Trong khuôn khổ các hiệp định đa phương và song phương khác.
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(Hiệp định CPTPP)
Hiệp định CPTPP là một hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới,
gồm 11 nước thành viên là: Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản,
Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam. Đối với Việt
Nam, hiệp định này có hiệu lực từ ngày 14 tháng 01 năm 2019.
Các nội dung liên quan đến đầu tư được quy định tại Chương 9 của
hiệp định. Theo đó, hiệp định quy định khá toàn diện những nội dung liên
quan đến đầu tư qua biên giới, trong đó có nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, đối
xử quốc gia, quyền của nhà đầu tư, của nước tiếp nhận đầu tư, giải quyết tranh
chấp,… Hiệp định CPTPP đòi hỏi cao hơn về đầu tư trên các phương diện
như: Công khai, minh bạch; Quyền sở hữu trí tuệ; Lao động và quyền của
người lao động;…
Hiệp định CPTPP với mức độ tự do hóa cao cùng với những quy định
59
mở cửa thị trường, cắt giảm thuế quan và chú trọng hoạt động đầu tư sẽ có tác
động đến nền kinh tế của các nước thành viên. Với Việt Nam, việc ký kết hiệp
định này góp phần mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài, thu hút đầu tư từ các
nước khác vào Việt Nam đồng thời là cơ hội để các nhà đầu tư Việt Nam tìm
kiếm các thị trường đầu tư, phát triển hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam- EU (EVFTA)
Hiệp định EVFTA có hiệu lực vào ngày 01/8/2020 sau khi được Quốc
hội Việt Nam phê chuẩn. Sau Hiệp định CPTPP, việc Việt Nam tham gia ký
kết Hiệp định EVFTA góp phần thiết lập quan hệ đối tác bình đẳng, trên cơ sở
đôi bên cùng có lợi với một số nền kinh tế phát triển nhất thế giới.
Hiệp định EVFTA với 17 Chương, 8 Phụ lục, 02 Nghị định thư, 02
Biên bản ghi nhớ và 04 Tuyên bố chung điều chỉnh nhiều vấn đề bao gồm:
Thương mại hàng hóa (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị
trường), quy tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại, các biện pháp
kiểm dịch và vệ sinh an toàn thực phẩm, các hàng rào kỹ thuật trong thương
mại, thương mại dịch vụ (gồm các quy định chung và cam kết mở cửa thị
trường), đầu tư, phòng vệ thương mại, cạnh tranh, doanh nghiệp nhà nước,
mua sắm của Chính phủ, sở hữu trí tuệ, thương mại và phát triển bền vững,
hợp tác và xây dựng năng lực, pháp lý - thể chế.
Các vấn đề về đầu tư được quy định tại chương 8 của hiệp định bao
gồm các cam kết về đầu tư nhằm đảm bảo môi trường đầu tư kinh doanh minh
bạch, thuận lợi. Hiệp định EVFTA quy định một số nội dung như sau:
- Quy định cụ thể về các cam kết về tự do hóa và mở cửa thị trường.
- Đưa ra nguyên tắc đối xử tối huệ quốc và nguyên tắc đối xử quốc gia.
Việt Nam và EU cam kết không phân biệt đối xử với các nhà đầu tư của bên
kia khi tìm kiếm cơ hội ở lãnh thổ của mình trên cơ sở dành cho nhà đầu tư đó
sự đối xử không kém thuận lợi hơn nhà đầu tư của nước mình hoặc nhà đầu tư
60
của nước thứ ba khác.
- Đưa ra cam kết không áp dụng các hạn chế về tiếp cận thị trường, các
yêu cầu hoạt động hay các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại hay
điều kiện hưởng ưu đãi…
- Quy định về việc giải quyết tranh chấp. Trong đó, hiệp định cho phép
nhà đầu tư nước ngoài có thể khởi kiện nhà nước, chính phủ kể cả khi chưa
cấp phép đầu tư.
EVFTA là một hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, mang lại
nhiều tác động tích cực đến nhiều mặt của nền kinh tế Việt Nam, tác động đến
tăng trưởng xuất nhập khẩu của Việt Nam sang thị trường Liên minh châu Âu
(EU) như: Mở cửa thị trường EU cho Việt Nam; thu hút đầu tư, chuyển dịch
cơ cấu sản xuất, xuất khẩu;…
Từ những nội dung khái quát về một số hiệp định quốc tế trên, có thể
nhận thấy rằng, có rất nhiều các hiệp định trong các khuôn khổ khu vực, đa
phương, song phương liên quan đến hoạt động đầu tư được ký kết và cơ bản
điều chỉnh một số vấn đề chung, có tác động đến khả năng nhà đầu tư nước
ngoài tham gia đầu tư vào một quốc gia như: Các quy định về đảm bảo đối xử
tối huệ quốc, đối xử quốc gia đối với nước thành viên; loại bỏ các rào cản
trong hoạt động đầu tư… Các quy định này đã có những tác động không nhỏ
trong việc thiết lập những tiêu chuẩn chung cho việc mở cửa thị trường, thực
hiện tự do hóa đầu tư. Các nước thành viên, khi tham gia hiệp định trên đều
phải thực hiện theo đúng cam kết của mình, đảm bảo các nguyên tắc đối xử
quốc gia, đối xử tối huệ quốc, xóa bỏ những biện pháp hạn chế đầu tư…
Những quy định quốc tế trên là cơ sở pháp lý quan trọng bảo vệ quyền
lợi của nhà đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung,
bởi lẽ trong rất nhiều trường hợp nhà đầu tư có thể kiện chính phủ nước tiếp
nhận đầu tư về việc vi phạm các cam kết quốc tế nêu trên. Một ví dụ đối với
61
trường hợp của Việt Nam bị nhà đầu tư nước ngoài khởi kiện trong quá trình
nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Công ty
DialAsie của Pháp đã khởi kiện Chính phủ Việt Nam ra trọng tài thường trực
tại La Haye, Hà Lan trên cơ sở Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư
Việt Nam- Pháp năm 1992. Theo đó, công ty này cho rằng Việt Nam đã vi
phạm nghĩa vụ đối xử công bằng và bình đẳng đối với dự án đầu tư theo quy
định tại hiệp định. Có thể thấy trong vụ án này Việt Nam đã bị nhà đầu tư
nước ngoài khởi kiện do vi phạm nghĩa vụ đối xử công bằng, một trong
những nội dung thường được quy định tại các hiệp định. Như vậy, các nhà
đầu tư Việt Nam khi thực hiện đầu tư ra nước ngoài cần nắm và vận dụng
hiệu quả các quy định trong các hiệp định quốc tế để bảo vệ quyền lợi ích của
mình khi thực hiện hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư.
Bên cạnh đó, các hiệp định này là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của các nước thành viên đảm bảo
tính tương thích với những cam kết quốc tế, từ đó thúc đẩy hoạt động đầu tư
giữa các nước thành viên, thúc đẩy hội nhập kinh tế thế giới. Đối với Việt
Nam, có thể thấy rằng trong những năm qua, Việt Nam đã nỗ lực trong việc
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình, đảm bảo việc thực hiện
các cam kết về mở cửa thị trường tuân thủ các hiệp định, đồng thời cũng tạo
thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tại Việt Nam cũng như các nhà
đầu tư tại Việt Nam thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Theo đó, hệ thống pháp
luật đầu tư nói chung cũng như đầu tư ra nước ngoài nói riêng được hoàn
thiện không ngừng qua các giai đoạn, cụ thể là Luật Đầu tư 2014. So với Luật
Đầu tư 2005 và các văn bản pháp luật trước đó thì Luật Đầu tư 2014 đã có
những quy định mở rộng phạm vi, khuyến khích hoạt động đầu tư ra nước
ngoài, các quy định về việc chuyển tiền đầu tư ra nước ngoài cũng được quy
định cụ thể hơn, tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho nhà đầu tư thực hiện hoạt
62
động đầu tư nước ngoài, thủ tục đầu tư cũng có những thay đổi theo hướng tự
do hóa đầu tư, ví dụ như thay vì việc nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư ra nước
ngoài phải thực hiện thủ tục xin cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài
theo Luật Đầu tư 2005 thì Luật Đầu tư 2014 yêu cầu nhà đầu tư thực hiện thủ
tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài…Như vậy có thể thấy
rằng về cơ bản pháp luật đầu tư ra nước ngoài được quy định tại Luật Đầu tư
2014 ngày càng được hoàn thiện hơn để đảm bảo tính tương thích đối với các
hiệp định quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết và từ đó đặt ra yêu cầu không
ngừng hoàn thiện để đảm bảo sự phù hợp này. Bên cạnh hoàn thiện pháp luật
đầu tư ra nước ngoài thì cũng đặt ra yêu cầu hoàn thiện tổng thể đối với hệ
thống pháp luật liên quan. Đặc biệt, trong các hiệp định Thương mại tự do thế
hệ mới như Hiệp định CPTPP, Hiệp định EVFTA bên cạnh những cơ hội đầu
tư thì cũng có đặt ra những yêu cầu cần đáp ứng về các điều kiện, tiêu chuẩn
về lao động, môi trường, phát triển bền vững, sở hữu trí tuệ…khi thực hiện
hoạt động đầu tư.
2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh
vực viễn thông
Pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông kể từ khi ra đời
và phát triển đã trải qua quá trình với sự thay đổi và hoàn thiện không ngừng để
đảm bảo phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế hiện nay. Về cơ bản, hệ
thống văn bản điều chỉnh hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn
thông tương đối hoàn chỉnh. Luật Đầu tư 2014 đã đánh dấu mốc mới cho sự
phát triển của hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Bên cạnh đó là nghị định
83/2015/NĐ-CP và các văn bản liên quan trực tiếp đã có những hướng dẫn
mang tính cập nhật và có sự điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn đầu tư. Ngoài
ra các văn bản pháp luật có liên quan khác về hoạt động quản lý ngoại hối của
Ngân hàng Nhà nước,... cũng đã góp phần tạo nên một khung pháp lý ổn định
63
cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung cũng như đối với lĩnh vực viễn
thông nói riêng. Hệ thống pháp luật về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn
thông đã tạo các điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư; mở rộng và đảm
bảo quyền tự do kinh doanh hơn cho các nhà đầu tư; các thủ tục hành chính
đơn giản hóa hơn;... góp phần khuyến khích hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn phát sinh những tồn tại, hạn
chế, khó khăn cho hoạt động đầu tư của nhà đầu tư, cụ thể như sau:
Về việc xây dựng chiến lược, chính sách đầu tư ra nước ngoài
Hiện nay ở nước ta chưa có những chính sách chiến lược tổng thể dài
hạn định hướng hoạt động đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư Việt Nam nói
chung cũng như đối với lĩnh vực viễn thông.
Năm 2009 có đề án “Thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài”
trong đó một số lĩnh vực được ưu tiên đầu tư như năng lượng, sản xuất điện
năng, khai thác tài nguyên thiên nhiên, thăm dò khai thác dầu khí, khoáng sản.
Đến Luật Đầu tư 2014 đã đưa ra nguyên tắc của hoạt động đầu tư ra nước
ngoài, theo đó nhà nước khuyến khích nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư
ra nước ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng
xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng
cao năng lực quản lý và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội đất
nước. Những sự thay đổi này phần nào khiến nhà đầu tư thiếu sự yên tâm khi
đầu tư bởi sự lo ngại những chính sách có thể tác động đến hoạt động đầu tư
của họ. Trong lĩnh vực viễn thông, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định số 32/2012/QĐ-TTg ngày 27/7/2012 về việc phê duyệt Quy hoạch phát
triển viễn thông quốc gia đến năm 2020. Cũng theo Quyết định này, Chính
phủ cũng đã có những quy định liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài
như: Tạo điều kiện về cơ chế, chính sách cho các tập đoàn, doanh nghiệp viễn
thông của Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, bên cạnh đó quy định trách nhiệm
64
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc chủ trì, phối hợp với Bộ Thông tin và
Truyền thông, Bộ Tài chính trong việc xây dựng các cơ chế, chính sách thông
thoáng và thuận lợi cho việc đầu tư ra nước ngoài của các tập đoàn, doanh
nghiệp viễn thông của Việt Nam. Việc quy định này cũng phần nào thể hiện
sự khuyến khích của nhà nước trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài đối với
lĩnh vực viễn thông, tuy nhiên quy định cũng mới dừng lại ở việc khuyến
khích các tập đoàn, doanh nghiệp viễn thông mà chưa có tính khái quát và
chưa có định hướng giải pháp cụ thể để đảm bảo các nhà đầu tư có cơ sở định
hướng thực hiện rõ ràng đặc biệt trong những giai đoạn tiếp theo.
Về hình thức đầu tư ra nước ngoài
Theo quy định của Luật Đầu tư 2014, các hình thức đầu tư được liệt kê
cụ thể. Bên cạnh việc liệt kê các hình thức đầu tư thì Luật Đầu tư cũng quy
định nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo “Các hình thức
đầu tư khác theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư”. Tại Khoản 1
Điều 46 Luật Doanh nghiệp 2014 cũng có quy định “Doanh nghiệp có quyền
lập chi nhánh, văn phòng đại diện ở trong nước và nước ngoài”. Đồng thời,
nội dung này được hướng dẫn tại Khoản 5 Điều 33 Nghị định 78/2015/NĐ-
CP ngày 14/9/2015 về đăng ký thành lập doanh nghiệp như sau: “Việc lập chi
nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp ở nước ngoài thực hiện theo quy
định của pháp luật nước đó. Trong thời hạn 30 ngày làm việc, kể từ ngày
chính thức mở chi nhánh, văn phòng đại diện ở nước ngoài, doanh nghiệp
phải thông báo bằng văn bản đến Phòng Đăng ký kinh doanh nơi doanh
nghiệp đã đăng ký. Kèm theo thông báo phải có bản sao hợp lệ Giấy chứng
nhận đăng ký hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc giấy tờ tương
đương để bổ sung thông tin về chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh
nghiệp trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp”. Ngoài ra, liên
quan đến việc thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, trên thực tế Nghị định
65
số 48/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 7 năm 1999 của Chính phủ quy định về
Văn phòng đại diện, Chi nhánh của thương nhân và của doanh nghiệp du lịch
Việt Nam ở trong nước, ở nước ngoài cũng điều chỉnh vấn đề này đã hết hiệu
lực, tuy nhiên trong suốt thời gian dài không có bất kỳ văn bản pháp luật nào
bãi bỏ hiệu lực của Nghị định này. Thực tế, phải đến tận ngày 01 tháng 02
năm 2019 Chính phủ mới ban hành Nghị định bãi bỏ một số văn bản quy
phạm pháp luật trong đó có Nghị định số 48/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 7
năm 1999. Trong suốt thời gian chưa có văn bản bãi bỏ của Chính phủ đã gây
khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện.
Như vậy, cùng về nội dung đầu tư ra nước ngoài, nhưng cả Luật Đầu tư
2014 và Luật Doanh nghiệp 2014 cùng đề cập đến vấn đề này, đã dẫn đến tình
trạng quy định pháp luật đầu tư ra nước ngoài thiếu sự chặt chẽ, thống nhất.
Bên cạnh hệ thống văn bản hướng dẫn cũng chưa có sự nhất quán cũng đã gây
những khó khăn nhất định đối với nhà đầu tư.
Ngoài ra, hình thức đầu tư được quy định tại Điều 52 Luật Đầu tư 2014
chưa thật sự phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn hoạt động đầu tư ra
nước ngoài của nhà đầu tư Việt Nam.
Về điều kiện đầu tư: Đối với quy định về văn bản xác nhận của cơ
quan thuế về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của nhà đầu tư. Để thực hiện
thủ tục đầu tư ra nước ngoài nhà đầu tư cần nộp hồ sơ theo quy định. Trong
đó, có quy định về việc nhà đầu tư cần có văn bản xác nhận của cơ quan thuế
về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của nhà đầu tư. Đây cũng là một trong
những điều kiện để nhà đầu tư được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra
nước ngoài. Trên thực tế, do không có quy định về thời điểm xác nhận văn
bản này đã gây khó khăn cho nhà đầu tư, nhiều trường hợp nhà đầu tư phải
xác nhận lại nhiều lần khi thực hiện nộp hồ sơ dự án.
Về thủ tục đầu tư
66
Thứ nhất, về thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước
ngoài: Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc cấp Giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư ra nước ngoài chưa được phân cấp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư là
cơ quan duy nhất cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài cho tất
cả các dự án cũng là một trong những hạn chế đối với các doanh nghiệp ở địa
phương tốn thời gian chờ Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp phép.
Thứ hai, thủ tục xin cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài
gây một số khó khăn, vướng mắc cho nhà đầu tư do thời gian cấp vẫn còn dài
và qua nhiều các cơ quan, bộ ngành.
Thủ tục hành chính đối với các dự án cần quyết định chủ trương vẫn
chưa thật sự đơn giản và tốn nhiều thời gian. Dự án thuộc thẩm quyền quyết
định chủ trương của Quốc hội mất khoảng 160 ngày, dự án thuộc thẩm
quyền quyết định chủ trương của Chính phủ khoảng trên 60 ngày, dự án
không thuộc diện phải xin chủ trương thì ngắn hơn và mất khoảng 15 ngày.
Dự án có thời gian càng ngắn thì việc thẩm định qua các cơ quan cũng ít
hơn. Như đối với dự án không thuộc diện phải xin chủ trương thì hồ sơ qua
thẩm định của Bộ Kế hoạch Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước. Đối với Dự án
thuộc thẩm quyền quyết định của Chính phủ thì hồ sơ qua thẩm định của Bộ
Kế hoạch Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội, Bộ quản lý ngành, Ủy ban nhân dân thành phố trực thuộc
trung ương nơi nhà đầu tư đặt trụ sở.
Nghị định 83/2015/NĐ-CP quy định cụ thể các trường hợp dự án đầu
tư cần phải qua thẩm định của các cơ quan nêu trên đồng thời quy định rõ thời
hạn trả lời của các cơ quan này. Tuy nhiên, tại Khoản 5 Điều 12 quy định:
Quá thời hạn trên mà cơ quan được lấy ý kiến không có ý kiến bằng
văn bản thì được coi là đã chấp thuận hồ sơ dự án đầu tư đối với
những nội dung thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước được phân công
67
Tại Khoản 4 Điều 15 của Nghị định này có quy định như sau:
Quá thời hạn trên mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư không nhận được văn
bản trả lời, thì được hiểu là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chấp
thuận hồ sơ dự án đầu tư đối với những nội dung thuộc lĩnh vực
quản lý nhà nước được phân công.
Như vậy có thể thấy rằng, Luật Đầu tư 2014, Nghị định 83/2015/NĐ-
CP bên cạnh quy định thời gian và trách nhiệm thẩm định của các cơ quan
liên quan khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư lấy ý kiến cũng quy định luôn các
trường hợp quá hạn không trả lời được coi như chấp nhận với nội dung lấy ý
kiến này. Việc quy định này, trên phương diện của nhà đầu tư thì cơ bản sẽ
làm hạn chế trường hợp kéo dài thời gian cấp phép do các cơ quan liên quan
kéo dài thời gian thẩm định; tuy nhiên trên phương diện quản lý nhà nước,
chức năng nhiệm vụ của các cơ quan liên quan, mục đích của việc lấy ý
kiến thì nội dung quy định này dường như không mang nhiều giá trị, bởi lẽ
trong trường hợp nếu việc thẩm định là thiết yếu quan trọng thì việc trả lời
cụ thể của các cơ quan được lấy ý kiến là rất quan trọng trước khi Bộ Kế
hoạch và Đầu tư thực hiện các thủ tục; việc quy định như trên chưa thực sự
thể hiện được sự rõ ràng của việc thẩm định, vai trò của các cơ quan được
lấy ý kiến thẩm định.
Bên cạnh đó, về cách thức thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng
ký đầu tư ra nước ngoài, hiện tại, công tác cấp phép và quản lý hoạt động đầu
tư ra nước ngoài được thực hiện trên bản cứng, nhà đầu tư phải trực tiếp đến
Bộ Kế hoạch và Đầu tư nộp hồ sơ bản cứng đồng thời phải kê khai trên mạng.
Điều này phần nào gây ra một số bất tiện cho các nhà đầu tư về thời gian, thủ
tục thực hiện trong quá trình xin cấp phép cũng như trong quá trình thực hiện
hoạt động đầu tư.
Thứ ba, thủ tục đối với dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn
68
thông có sử dụng vốn nhà nước. Các dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh
vực viễn thông có quy mô lớn tập trung cơ bản tại các doanh nghiệp nhà
nước. Tuy nhiên, hành lang pháp lý cho các dự án có sử dụng vốn nhà nước
chưa thực sự chặt chẽ, rõ ràng làm giảm hiệu quả của việc sử dụng nguồn vốn
nhà nước. Theo quy định của Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào
sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp 2014, việc sử dụng vốn, tài sản của
doanh nghiệp để đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ quy định của Luật này,
quy định của pháp luật về đầu tư, pháp luật về quản lý ngoại hối và quy định
khác của pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, một số quy định của Luật quản lý,
sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp 2014
và Luật Đầu tư 2014 có sự không đồng bộ, thống nhất như trong việc quy
định về quy trình chấp nhận chủ trương đầu tư đối với dự án đầu tư ra nước
ngoài có sử dụng vốn nhà nước. Theo quy định của Luật Đầu tư 2014, trong
hồ sơ xin chấp nhận chủ trương hay hồ sơ đăng ký đầu tư ra nước ngoài phải
có quyết định đầu tư ra nước ngoài của chủ đầu tư. Theo Luật quản lý, sử
dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp 2014 tại
Khoản 2 Điều 29 quy định như sau:
Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty báo cáo cơ quan đại
diện chủ sở hữu xem xét, quyết định chủ trương dự án đầu tư ra
nước ngoài. Trường hợp dự án đầu tư ra nước ngoài thuộc thẩm
quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội thì Thủ tướng
Chính phủ quyết định đầu tư sau khi Quốc hội quyết định chủ
trương đầu tư; trường hợp dự án đầu tư ra nước ngoài thuộc thẩm
quyền quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ thì
cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định đầu tư sau khi Thủ tướng
Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư.
Như vậy có sự mâu thuẫn giữa Luật Đầu tư 2014 và Luật quản lý, sử
69
dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp 2014 về
thành phần hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư ra nước ngoài
đối với doanh nghiệp nhà nước.
Về việc triển khai dự án đầu tư ra nước ngoài
Thứ nhất, vấn đề chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để thực hiện dự án.
Hiện nay, quy định hiện hành của pháp luật đã đưa ra những nguyên tắc
chung về việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài trước khi có giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư để nghiên cứu, chuẩn bị dự án đầu tư phải thực hiện theo quy
định của pháp luật về ngoại hối và các quy định khác của pháp luật có liên
quan. Thời gian qua, ngoại trừ lĩnh vực dầu khí thực hiện theo quy định tại
Nghị định riêng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cơ bản chưa ghi nhận dự án nào thực
hiện chuyển vốn để đầu tư ra nước ngoài trước khi được cấp phép do pháp
luật chưa có quy định cụ thể về việc báo cáo đồng thời hoạt động chuyển tiền
này cũng không thuộc phạm vi quản lý của cơ quan cấp đăng ký đầu tư. Tuy
nhiên, trên thực tế đây là hoạt động rất cần thiết đối với nhà đầu tư viễn thông
khi thực hiện dự án của mình.
Thứ hai, tại Nghị định 83/2015/NĐ-CP quy định hạn mức chuyển ngoại
tệ trong các trường hợp được chuyển ngoại tệ ra nước ngoài trước khi được
cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư không vượt quá 5% tổng vốn đầu tư ra
nước ngoài và không quá 300.000 đô la Mỹ, được tính vào tổng vốn đầu tư ra
nước ngoài chưa thực sự phù hợp với nhà đầu tư và nhiều trường hợp trở
70
thành một rào cản đối với nhà đầu tư.
Kết luận Chương 2
Pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông được thể hiện
khá cụ thể tại Luật Đầu tư 2014 và ngày càng hoàn thiện hơn, góp phần tạo
điều kiện và môi trường kinh doanh thuận lợi, khuyến khích hoạt động đầu tư
của nhà đầu tư. Pháp luật Việt Nam về đầu tư ra nước ngoài đã có những quy
định cụ thể trong việc chuẩn bị dự án đầu tư; thủ tục cấp giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư ra nước ngoài; triển khai dự án… Về cơ bản, các quy định
pháp luật này đã có những điểm tiến bộ hơn so với Luật Đầu tư 2005 đồng
thời tạo nhiều cơ chế khuyến khích nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra
nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Bên cạnh quy định của pháp luật Việt
Nam về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông, luận văn cũng nêu
khái quát một số hiệp định quốc tế về đầu tư bởi giá trị pháp lý quan trọng của
các hiệp định này. Hệ thống pháp luật Việt Nam về đầu tư ra nước ngoài đã
ngày càng hoàn thiện, đảm bảo tính tương thích với pháp luật quốc tế. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì cũng tồn tại những hạn chế, khó
khăn, vướng mắc xuất phát từ hệ thống pháp luật Việt Nam và đặt ra những
yêu cầu cần hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư ra
71
nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông.
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN VÀ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI
TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong
lĩnh vực viễn thông
3.1.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, xuất phát từ thực tiễn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của
các nhà đầu tư Việt Nam nói chung và trong lĩnh vực viễn thông nói riêng
Thực tiễn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư Việt
Nam nói chung
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư Việt Nam được ghi
nhận bắt đầu từ năm 1989 và có sự phát triển không ngừng qua các năm sau
đó. Kể từ năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày
14/4/1999 quy định về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam đã
tạo khung cơ sở pháp lý riêng cho hoạt động đầu tư này.Trên cơ sở đó, số
lượng và quy mô của các dự án đầu tư ra nước ngoài không ngừng tăng. Tuy
nhiên, sự khởi sắc của hoạt động đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư Việt
Nam thực sự bắt đầu nhờ nỗ lực chuẩn hóa thủ tục đầu tư gắn với hoàn thiện
hành lang pháp lý phù hợp với bối cảnh mới. Thực tế cho thấy, kể từ khi Nghị
định số 83/2015/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn về đầu tư ra nước ngoài
được ban hành, việc mở rộng phạm vi đầu tư, kinh doanh ở nước ngoài của
nhà đầu tư đã được tạo điều kiện thuận lợi hơn.
Thống kê cho thấy, lũy kế từ năm 1989 đến nay, Việt Nam đã đầu tư ra
nước ngoài hơn 22 tỷ USD với các lĩnh vực thế mạnh của Việt Nam là nông
72
nghiệp, lâm nghiệp, năng lượng,..Trong đó, các nước như Lào, Campuchia và
Myanmar chiếm gần 40% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư Việt
Nam [43]. Theo Báo cáo tình hình đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài, riêng
năm 2019, tổng vốn đầu tư Việt Nam ra nước ngoài cấp mới và tăng thêm đạt
508,14 triệu USD. Trong đó có 164 dự án được cấp giấy chứng nhận đăng ký
đầu tư mới, với tổng vốn đầu tư bên Việt Nam đạt 403,15 triệu USD. Có 29
lượt dự án điều chỉnh vốn đầu tư với vốn đầu tư Việt Nam tăng thêm gần 105
triệu USD. Ngoài ra, lĩnh vực đầu tư cũng không ngừng được mở rộng và
phát triển đa dạng. Nhà đầu tư không chỉ tập trung đầu tư vào những lĩnh vực
đầu tư mà Việt Nam có thế mạnh như ngành nông, lâm, ngư nghiệp mà còn
mở rộng sang nhiều lĩnh vực ngành nghề khác như viễn thông, ngân hàng,...
Bên cạnh đó, địa bàn đầu tư cũng ngày càng đa dạng. Xét theo địa bàn, tính
đến hết năm 2019, Việt Nam đã đầu tư sang 32 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Australia là địa bàn dẫn đầu về vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài với
154,6 triệu USD, chiếm 30,4% tổng vốn đầu tư. Hoa Kỳ xếp thứ 2 với 26 dự
án, tổng vốn đầu tư là 93,4 triệu USD, chiếm 18,4% tổng vốn đầu tư. Tiếp
theo là Campuchia, Tây Ban Nha, Singapore, Canada [3]. Tuy nhiên, hoạt
động đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam tại một số địa bàn và lĩnh vực đã
xuất hiện một số rủi ro về mặt pháp lý, có nguy cơ dẫn đến các vụ kiện, tranh
chấp quốc tế. Vì vậy, yêu cầu được đặt ra là cần có giải pháp để đảm bảo an
toàn cho các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư tại các
địa bàn và lĩnh vực này để đảm bảo hoạt động đầu tư ra nước ngoài hiệu quả,
hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư và nhà nước Việt Nam.
Thực tiễn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư Việt
Nam trong lĩnh vực viễn thông
Đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông trong thời gian qua đã
có những đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế nói chung cũng như
73
sự phát triển trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói riêng của Việt Nam.
Bắt đầu từ cuối năm 2006, các dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn
thông được triển khai và đã đạt được những hiệu quả nhất định. Trong những
năm gần đây, nhiều dự án đầu tư đã được mở rộng quy mô vốn. Các dự án
này đã góp phần không nhỏ trong việc mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư
cũng như khẳng định vị trí của nhà đầu tư trong lĩnh vực viễn thông.
Tính đến giai đoạn hiện nay, trong lĩnh vực viễn thông đã có 11 dự án
đầu tư tại các nước: Campuchia, Lào, Mozambique, Đông Timor, Cameroon,
Burundi, Tanzania, Haiti, Myanmar, Peru. Các doanh nghiệp đầu tư vào
ngành này gồm có Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel),
Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT).
Viettel là một doanh nghiệp điển hình trong hoạt động đầu tư ra nước
ngoài trong lĩnh vực viễn thông tại Việt Nam hiện nay. Tính đến hiện nay,
Viettel đã đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông tại 10 quốc gia gồm:
Campuchia, Lào, Mozambique, Đông Timor, Cameroon, Burundi, Tanzania,
Haiti, Myanmar, Peru. Dự án đầu tiên năm 2007 của Viettel ở Campuchia với
số vốn 27 triệu USD. Năm 2008, Viettel đầu tư sang Lào với số vốn 83,7 triệu
USD. Năm 2010, Viettel tiếp tục đầu tư sang Haiti (99,8 triệu USD) và
Mozambique. Sang năm 2011, Viettel đầu tư tại Peru với số vốn 420,8 triệu
USD. Năm 2012 là 14,9 triệu USD vào Đông Timor và Cameroon (328,8 triệu
USD) vào năm 2013. Năm 2014 Viettel đầu tư vào Tanzania (783,9 triệu USD)
và Burundi (200 triệu USD). Năm 2015 đầu tư vào Myanmar (860 triệu USD).
Bên cạnh Viettel, VNPT cũng 01 dự án tại Myanmar: Dự án thành lập
Công ty TNHH Streamnet giữa Tập đoàn VNPT và Công ty TNHH Elite
Telecom Public năm 2017 với tổng vốn đầu tư của cả hai bên trong giai đoạn
đầu là hơn 15 triệu USD, trong đó VNPT nắm giữ 67% cổ phần, Công ty
TNHH Elite Telecom Public nắm giữ 33% [46].
74
Từ tình hình đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông nêu trên có
thể nhận thấy rằng, các dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
có quy mô khá lớn, địa bàn đầu tư không chỉ những nước trong khu vực Châu
Á mà còn ở các nước tại các châu lục khác như Châu Phi, Châu Mỹ. Điều này
thể hiện phần nào xu hướng đầu tư trong lĩnh vực viễn thông ngày càng mở
rộng, thể hiện sự mạnh dạn và trưởng thành cũng như quyết tâm tìm kiếm cơ
hội mới của các nhà đầu tư Việt Nam.
Các dự án đã chứng minh sự trưởng thành từng bước của nhà đầu tư Việt
Nam về năng lực tài chính, trình độ công nghệ kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý,
đầu tư. Nhìn chung các dự án đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
triển khai đều đạt hiệu quả về mặt kinh tế và có đóng góp quan trọng cho sự
phát triển kinh tế- xã hội của nước ta cũng như nước tiếp nhận đầu tư.
Tiêu biểu có thể kể đến sự đóng góp của Viettel. Hoạt động đầu tư
nước ngoài của Viettel đạt hiệu quả kinh tế, đóng góp cho xã hội, là cầu nối
tăng cường mối quan hệ giữa Chính phủ, doanh nghiệp và con người Việt
Nam với nhiều nước trên thế giới.
Trong hơn 13 năm đầu tư ra nước ngoài, 10 thị trường của Viettel với
gần 250 triệu dân (Lào, Campuchia, Haiti, Peru, Mozambique, Burundi,
Tanzania, Cameroon, Đông Timor và Myanmar) đã mang lại hiệu quả rõ nét
trong hoạt động kinh doanh tại các thị trường, tạo niềm tin vững chắc với Đảng
và Nhà nước về chiến lược đầu tư quốc tế của Viettel. Với sự lãnh đạo của
Viettel, tốc độ tăng trưởng của Tổng công ty cổ phần đầu tư quốc tế Viettel-
Viettel Global (Công ty trực tiếp tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài của
Viettel) luôn được duy trì ở hai con số, trung bình 18%/năm, là đơn vị có tốc
độ tăng trưởng cao gấp 03 lần mức bình quân ngành viễn thông thế giới
(6%/năm); 09/10 thị trường kinh doanh có lãi và đạt lợi nhuận dương, cá biệt
có Peru và Burundi đã có lãi sau 02 năm kinh doanh. Nếu như ở Việt Nam,
75
Viettel lập kỷ lục của thế giới là trong vòng 04 năm, từ nhà mạng thứ 04,
vươn lên thứ nhất thì tại Campuchia - thị trường nước ngoài đầu tiên, Viettel
chỉ mất 03 năm, tại Mozambique - thị trường nước ngoài thứ tư, Viettel mất
01 năm và tại Burundi - thị trường thứ 09 Viettel chỉ mất 06 tháng để có được
vị trí số 01. Đến nay, trong tổng số 10 thị trường đã kinh doanh, Viettel đứng
ở vị trí số 01 tại 04 thị trường là: Campuchia, Lào, Đông Timor và Burundi.
Tốc độ tăng trưởng hàng năm của các thị trường đều đạt 20-30%, cao gấp gần
10 lần so với tốc độ tăng trưởng chung của toàn ngành viễn thông thế giới.
Theo báo cáo mới nhất của Hiệp hội Viễn thông toàn cầu (GSMA), hiện
Viettel Global nằm trong top 11 công ty viễn thông đầu tư ra nước ngoài lớn
nhất thế giới về số thị trường sở hữu ≥49%; top 25 hãng viễn thông thế giới
về số thuê bao.
Không những thế, Viettel còn là cầu nối hữu nghị về hợp tác kinh tế -
văn hóa giữa Việt Nam với các quốc gia đầu tư, góp phần nâng cao vị thế, uy
tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong năm 2016, Thủ tướng Chính phủ
Việt Nam cùng Thủ tướng Chính phủ Lào, Campuchia đã tin tưởng giao cho
Viettel trách nhiệm hiện đại hóa mạng viễn thông mạng viễn thông 03 nước
bằng công nghệ 4G, hỗ trợ xây dựng Chính phủ điện tử cho ba nước và triển
khai mức cước gọi giữa thuê bao của Viettel tại 03 nước tương đương với
mức cước trong nước. Qua đó góp phần kết nối hoạt động đầu tư, phục vụ
khách du lịch và người dân của ba nước.
Tại các quốc gia đang đầu tư, Viettel luôn đề cao trách nhiệm xã hội.
Theo đó, Viettel luôn đồng hành cùng Chính phủ, triển khai các dự án,
chương trình xã hội nâng cao hình ảnh không chỉ của Viettel mà còn của Việt
Nam trên trường quốc tế. Tính đến hết năm 2019, tổng giá trị mà các thị
trường của Viettel Global đã hỗ trợ chính phủ, nhân dân các quốc gia đầu tư
tương đương 183 triệu USD thông qua các chương trình xã hội, điển hình
76
như: Dự án internet miễn phí đường truyền internet đến các trường học tại tất
cả các nước đầu tư; dự án cầu truyền hình cho chính phủ các nước đầu tư;
chương trình xây dựng trường học, cấp học bổng cho trẻ em nghèo; tài trợ
nhân đạo (mổ hàm ếch, mổ tim….) cho trẻ em nghèo.
Ngoài ra, hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông của
Viettel đã tạo việc làm cho hàng nghìn lao động nước sở tại và lao động Việt
Nam. Đặc biệt là các dự án viễn thông với quy mô lớn thì nhu cầu sử dụng lao
động lại càng tăng cao khi hoạt động đầu tư ra nước ngoài được mở rộng.
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Viettel tại nước sở tại đã góp phần tạo
công ăn việc làm, ổn định cuộc sống, xóa đói giảm nghèo cho người dân
những vùng nông thôn, những vùng điều kiện kinh tế khó khăn.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, các nhà đầu tư Việt Nam
khi thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông cũng
gặp phải không ít những khó khăn thách thức xuất phát từ nước tiếp nhận đầu
tư và từ chính nhà đầu tư.
Xuất phát từ nước tiếp nhận đầu tư: Từ thực tiễn hoạt động đầu tư của
các nhà đầu tư Việt Nam trong lĩnh vực viễn thông, có thể thấy rằng các thị
trường viễn thông mà nhà đầu tư tại Việt Nam hiện tại hướng tới là những thị
trường đầu tư phù hợp với điều kiện và khả năng của mình. Đây được xem
như những những thị trường tiềm năng (nhóm thị trường chưa phát triển, độ
phủ viễn thông dưới 20%; Nhóm thị trường đang phát triển, độ phủ viễn
thông dưới 60%) để đảm bảo nhà đầu tư Việt Nam có đủ năng lực để kinh
doanh và cạnh tranh với các hãng viễn thông khác trên thị trường. Nếu nhà
đầu tư đầu tư vào những thị trường đã phát triển thì viễn thông cơ bản đã bão
hòa, việc xin cấp phép đầu tư tại các thị trường này sẽ gặp nhiều khó khăn
hơn, bên cạnh đó, sự cạnh tranh cũng lớn hơn. Từ thực tế điển hình trong hoạt
động đầu tư ra nước ngoài của Viettel có thể thấy được rõ nội dung này, các
77
thị trường Viettel đầu tư thường là những nước có nền kinh tế đang phát triển
hoặc chậm phát triển, dịch vụ viễn thông tại các nước này có phần hạn chế,
trình độ phát triển chưa cao hay điều kiện tự nhiên có địa hình không thuận
lợi hoặc một số quốc gia còn có sự bất ổn về chính trị. Chính vì lẽ đó, nhà đầu
tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông sẽ gặp nhiều khó khăn liên quan
đến nước sở tại.
Một là, hệ thống pháp luật của một số nước còn nhiều thiếu sót, chưa
đồng bộ, đang trong quá trình hoàn thiện thay đổi, không thống nhất, thiếu
minh bạch, khó tiếp cận, chưa tạo động lực thu hút doanh nghiệp đầu tư. Tại
một số nền kinh tế có sự thiếu nhất quán trong áp dụng chính sách, đặc biệt là
các quy định do địa phương đặt ra và áp dụng các chính sách của nhà nước
(Chính sách ưu đãi miễn thuế thu nhập doanh nghiệp của Lào được áp dụng
trên toàn quốc, nhưng địa phương vẫn thu thuế thu nhập; chính sách khuyến
khích đầu tư của Lào thường xuyên thay đổi và các loại thuế, phí khá nhiều.
Đặc biệt, ở Lào thời gian làm các thủ tục hành chính cũng khá lâu vì việc cải
cách hành chính chưa thực sự nhanh như ở Việt Nam). Các văn bản liên quan
đến hoạt động đầu tư còn hạn chế, chưa lường được trước những vấn đề có
thể phát sinh trong quá trình hoạt động tại nước sở tại.
Hai là, tại một số quốc gia có sự bất ổn về tình hình chính trị, nội chiến,
thiên tai gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của nhà đầu tư. Một số địa bàn
và lĩnh vực đã xuất hiện một số rủi ro về mặt pháp lý, có nguy cơ dẫn đến các
vụ kiện, tranh chấp quốc tế, cụ thể là một số nước châu Phi như Cameroon,
Tanzania... Bên cạnh đó, những khác biệt về văn hóa, môi trường giữa Việt
Nam và các quốc gia tiếp nhận đầu tư dẫn đến tranh chấp, ảnh hưởng đến việc
thực hiện dự án, quyền và lợi ích của người dân địa phương cũng như hình
ảnh của nhà đầu tư Việt Nam trong khu vực. Hơn nữa, tại nhiều quốc gia,
Việt Nam cũng chưa có cơ quan đại diện ngoại giao để có thể hỗ trợ nhà đầu
78
tư khi có những khó khăn vướng mắc phát sinh tại nước tiếp nhận đầu tư.
Xuất phát từ nhà đầu tư
Một là, hệ thống quản lý của các nhà đầu tư chưa có sự đồng bộ. Khi
đầu tư ra nước ngoài toàn bộ hệ thống quản lý, quy định quản lý, ứng dụng
công nghệ thông tin đều được thực hiện bằng tiếng Việt, trong khi đó nhu cầu
triển khai hoạt động lại phải sử dụng ngôn ngữ của nước sở tại. Do đó, hoạt
động quản lý, kinh doanh gặp nhiều khó khăn về mặt ngôn ngữ.
Hai là, năng lực của nhà đầu tư trong nước vẫn còn những hạn chế.
Công tác phân tích, dự báo hoạt động quản trị, xây dựng chiến lược, đánh giá
rủi ro về tài chính tại các nước tiếp nhận đầu tư chưa sát với thực tế, thiếu
kinh nghiệm thực tiễn. Chưa dự báo được các thay đổi chính sách về phát
triển kinh tế của các quốc gia đầu tư kinh doanh.
Ba là, các nhà đầu tư Việt Nam khi đầu tư ra nước ngoài trong các lĩnh
vực khác nhau tại nước sở tại chưa có sự liên kết, hỗ trợ nhau trong hoạt động
đầu tư tại nước sở tại. Thực tế, cho thấy việc nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam luôn có sự liên kết giúp đỡ lẫn nhau, nâng cao năng lực cạnh tranh
thông qua việc thành lập các hiệp hội các doanh nhân: Hiệp hội doanh nhân
Nhật, Trung Quốc, ... trong khi hoạt động liên kết này của các nhà đầu tư Việt
Nam đầu tư ra nước ngoài là rất hạn chế. Phát huy được vai trò của các Hiệp
hội này thì nhà đầu tư Việt Nam sẽ có thể nâng cao hơn năng lực của mình qua
việc nắm bắt, cập nhật thông tin, cập nhật pháp luật, ưu đãi,...từ Hiệp hội.
Bốn là, các nhà đầu tư chưa có sự tìm hiểu kỹ về môi trường đầu tư,
văn hóa, phong tục tập quán, hệ thống pháp luật điều chỉnh trong quá trình
hoạt động của nước tiếp nhận đầu tư dẫn đến nhiều trường hợp gây mất uy
tín, hoạt động kinh doanh không hiệu quả. Bên cạnh đó, nhà đầu tư không
thường xuyên cập nhật chính sách pháp luật về đầu tư ra nước ngoài của Việt
Nam và không thực hiện đầy đủ hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ đối
79
với nhà nước như nghĩa vụ báo cáo... Điều này, phần nào dẫn đến tình trạng
cơ quan quản lý nhà nước nắm bắt không chính xác, không kịp thời tình hình
hoạt động thực tế của nhà đầu tư tại nước sở tại.
Như vậy, có thể thấy rằng, tình hình hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói
chung, đặc biệt là trong lĩnh vực viễn thông nói riêng đã có những bước tiến
rõ rệt, khẳng định vị trí vai trò tích cực và xu hướng phát triển đối với nền
kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được thì cũng tồn tại
những khó khăn, hạn chế đối với hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư Việt
Nam. Xuất phát từ thực tiễn này, đặt ra yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật về đầu tư ra nước ngoài nói chung cũng như
lĩnh vực viễn thông nói riêng.
Thứ hai, xuất phát từ những bất cập hệ thống pháp luật
Từ thực trạng những bất cập, vướng mắc, khó khăn của một số quy
định pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông đã đặt ra yêu
cầu phải tiếp tục hoàn thiện hơn nữa một số quy định hiện hành của pháp luật
nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật.
Để đảm bảo Luật Đầu tư 2014 có hiệu quả thi hành cao, Chính phủ, Bộ,
ban, ngành đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để
hướng dẫn áp dụng Luật Đầu tư. Bên cạnh những kết quả đạt được như hệ
thống pháp luật về cơ bản được xây dựng đầy đủ, tạo cơ sở, hành lang pháp lý
trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư của nhà đầu tư thì trong bối cảnh hội
nhập kinh tế toàn cầu của nước ta như hiện nay đặt ra yêu cầu không ngừng
hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật, đảm bảo sự phù hợp với thông
lệ quốc tế và sự phát triển chung của toàn cầu. Hệ thống pháp luật đầu tư ra
nước ngoài của nước ta hiện nay vẫn còn bộc lộ một số vướng mắc, chưa được
hoàn thiện, một số quy định tại Luật Đầu tư 2014 còn có sự chồng chéo, mâu
thuẫn với các luật chuyên ngành khác và vẫn còn có những quy định chưa thực
80
sự phù hợp với thực tế. Từ đó, gây ra nhưng khó khăn, vướng mắc trong việc
áp dụng và thực thi pháp luật. Để đảm bảo quản lý nhà nước hiệu quả trong
lĩnh vực này thì yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật là tất yếu. Dự thảo Luật
Đầu tư 2020 về cơ bản cũng đã có một số những nội dung sửa đổi, bổ sung
nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực
viễn thông. Tuy nhiên, để đảm bảo sự thống nhất, hiệu quả trong quá trình áp
dụng và thực thi pháp luật thì cần không ngừng hoàn thiện, sửa đổi bổ sung các
văn bản hướng dẫn thi hành Luật, nhằm tạo cơ sở pháp lý để nhà đầu tư thực
hiện hiệu quả hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông.
Thứ ba, xuất phát từ việc tham gia các Điều ước quốc tế của Việt Nam
Khi đề cập đến quan hệ đầu tư ra nước ngoài, các điều ước quốc tế song
phương, đa phương mà Việt Nam đã ký kết với các quốc gia là một trong
những nội dung quan trọng tác động và ảnh hưởng đến hoạt động của nhà đầu
tư Việt Nam thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong các lĩnh vực khác
nhau. Việc tham gia ký kết các Điều ước quốc tế về đầu tư thương mại với
các nước là nhân tố góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói
chung cũng như trong lĩnh vực viễn thông nói riêng.
Việt Nam thực hiện chủ trương tích cực chủ động trong hội nhập kinh tế
quốc tế, quan hệ kinh tế của nước ta với các nước, các tổ chức quốc tế cũng ngày
càng được mở rộng hơn.Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) là một bước ngoặt lớn đánh dấu nền kinh tế Việt Nam hội nhập vào nền
kinh tế thế giới và khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Các
thành viên WTO đã ký kết nhiều hiệp định khác nhau về thương mại quốc tế,
trong đó các hiệp định của WTO có liên quan đến đầu tư quốc tế như: Hiệp định
về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (Hiệp định TRIMs); Hiệp định
chung về thương mại và dịch vụ (Hiệp định GATS). Việt Nam cũng là thành
viên quan trọng trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Hiện nay,
81
Việt Nam cũng đã ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA), nổi bật là
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định
CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu
(Hiệp định EVFTA). Ngoài ra, một số hiệp định khác đang trong quá trình đàm
phán như: Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP)... Bên cạnh
những hiệp định đa phương, Việt Nam cũng đã ký kết các hiệp định song
phương về khuyến khích bảo hộ đầu tư, tránh đánh thuế hai lần,...
Các hiệp định này là những văn bản pháp lý quan trọng cho các nhà
đầu tư Việt Nam khi đầu tư ra nước ngoài, không những góp phần thiết lập
quan hệ kinh tế với các nước khác, tiếp cận thị trường mới để đầu tư mà còn
giúp bảo vệ các nhà đầu tư Việt Nam ở nước ngoài. Từ việc tham gia ký kết
các Điều ước quốc tế về đầu tư sẽ đặt ra những yêu cầu rà soát, hoàn thiện hệ
thống pháp luật đầu tư đảm bảo tính tương tính của pháp luật trong nước với
quy định của các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết và sẽ
tham gia trong tương lai.
Thứ tư, xuất phát từ bối cảnh phát triển ngành viễn thông trong nước
Với sự bùng nổ mạnh mẽ trong những năm gần đây cùng với quá trình
phát triển của đất nước, ngành viễn thông Việt Nam là một trong những
ngành có những bước phát triển nhanh và trở thành ngành kinh tế ngành kinh
tế quan trọng của đất nước.
Ngành viễn thông đã trải qua sự hình thành và phát triển qua nhiều giai
đoạn. Thị trường viễn thông phát triển với nhiều sự thay đổi khi chuyển từ
độc quyền sang cạnh tranh. Nghị định 109/1997/NĐ-CP ngày 12/11/1997 của
Chính phủ về bưu chính và viễn thông quy định lĩnh vực bưu chính viễn
thông là độc quyền nhà nước (chỉ có doanh nghiệp nhà nước mới được phép
kinh doanh) đồng thời bắt đầu bóc tách giữa chức năng quản lý nhà nước với
chức năng kinh doanh về bưu chính viễn thông. Văn bản đánh dấu sự đổi mới
82
trong công tác quản lý kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông là Pháp lệnh
Bưu chính Viễn thông được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X thông qua ngày 25/5/2002, cùng các văn bản
hướng dẫn khác. Văn bản này đã tạo hành lang pháp lý nhằm xóa bỏ hoàn
toàn tình trạng độc quyền của doanh nghiệp trong lĩnh vực viễn thông. Sau
một thời gian triển khai các quy định về viễn thông, đặc biệt khi Việt Nam đã
trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),
Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 đã bộc lộ một số điểm hạn chế,
không phù hợp và Chính Phủ đã ban hành Luật Viễn thông số 41/2009/QH12
(ngày 23 tháng 11 năm 2009) và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Những
hành lang pháp lý này là cơ sở quan trọng thúc đẩy cạnh tranh, tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh viễn thông trong môi trường
công bằng, minh bạch, góp phần mở cửa thúc đẩy thị trường viễn thông trong
nước cạnh tranh, phát triển lành mạnh.
Trong bối cảnh đó, lĩnh vực viễn thông trong nước đã có những kết quả
tăng trưởng đáng kể. Theo báo cáo của Cục Viễn thông (Bộ Thông tin và
Truyền thông), năm 2019, tổng doanh thu của các doanh nghiệp viễn thông
đạt khoảng 470.000 tỷ đồng (tăng 18,67%), nộp ngân sách 47.000 tỷ đồng
(tăng 36,7%). Tuy nhiên, kết quả hoạt động năm 2019 cũng cho thấy hạ tầng
và thị trường viễn thông truyền thống đã bão hoà và đang chuyển dịch [47].
Từ đó, đặt ra yêu cầu chuyển đổi phát triển của thị trường viễn thông trong
nước và tìm kiếm cơ hội, thị trường mới trong bối cảnh thị trường viễn thông
trong nước đã bão hòa. Và đầu tư ra nước ngoài là một trong những cơ hội để
nhà đầu tư phát triển mở rộng thị trường, tìm kiếm môi trường kinh doanh
mới đa dạng, hội nhập kinh tế thế giới.
3.1.2. Một số định hướng hoàn thiện pháp luật
Xuất phát từ những yêu cầu hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài
83
trong lĩnh vực viễn thông trong thời gian qua, để nâng cao hơn nữa vai trò của
hoạt động đầu tư ra nước ngoài đối với lĩnh vực viễn thông, một số định
hướng hoàn thiện được đặt ra như sau:
Thứ nhất, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các nhà đầu tư Việt Nam
Hiến pháp 2013 tại Điều 33 có nêu: “Mọi người có quyền tự do kinh
doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Bên cạnh đó, tại
Điều 51 Hiến pháp 2013 cũng khẳng định:
(Khoản 1) Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. (Khoản 2) Các
thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình
đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. (Khoản 3) Nhà nước
khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá
nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền
vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp
pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp
luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa. Những cơ sở trên là định
hướng quan trọng để hoàn thiện hệ thống pháp luật đầu tư nói
chung cũng như đầu tư ra nước ngoài nói riêng.
Bảo đảm quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư là yếu tố rất quan
trọng đối với một nền kinh tế phát triển, đồng thời cũng là đảm bảo quyền con
người. Hệ thống pháp luật quốc gia đóng vai trò quan trọng trong việc đảm
bảo quyền tự do kinh doanh. Pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực
viễn thông cần được xây dựng và hoàn thiện trên cơ sở đảm bảo quyền tự do
kinh doanh theo đúng tinh thần của Hiến pháp 2013.
Thứ hai, đảm bảo phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia
84
Đây được xem là một trong những định hướng cần thiết trong việc
hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông nhằm
hướng đến sự phù hợp với các quy tắc chung của các nước trên thế giới trong
xu thế hợp tác quốc tế hiện nay. Điều ước quốc tế là văn bản pháp lý quốc tế
do các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên,
nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể với
nhau. Điều ước quốc tế là văn bản rất quan trọng cho các nhà đầu tư Việt
Nam khi đầu tư ra nước ngoài. Theo Khoản 1, Điều 6 Luật Điều ước quốc tế
(Luật số 108/2016/QH13 ngày 19/4/2016) có quy định trường hợp văn bản
quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp
dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp. Do đó, trong việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật đầu tư cần đặt ra yêu cầu đảm bảo sự tương thích với
các Điều ước quốc tế. Khi có những sự thay đổi trong các quy định, cam kết
mà Việt Nam ký kết thì pháp luật nước ta cần hoàn thiện, điều chỉnh đảm bảo
tính nhất quán. Đồng thời, đẩy mạnh việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban
hành mới các văn bản quy phạm pháp luật để phù hợp với thông lệ quốc tế và
các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Thứ ba, đổi mới thủ tục hành chính đối với đầu tư ra nước ngoài nước
ngoài trong lĩnh vực viễn thông
Để đảm bảo tạo hành lang chính sách thúc đẩy hoạt động đầu tư ra
nước ngoài thì vấn đề đơn giản hóa các thủ tục hành chính được đặt ra, các
thủ tục hành chính cần hoàn thiện theo hướng đơn giản, thuận tiện, giảm bớt
sự can thiệp bằng các biện pháp hành chính ngay cả dự án sử dụng vốn nhà
nước; phát huy tinh thần chủ động, tăng tính tự chịu trách nhiệm của nhà đầu
tư đối với hoạt động đầu tư của mình. Nhà đầu tư được quyền tự do thực hiện
hoạt động đầu tư, tìm kiếm cơ hội trên thị trường quốc tế cũng như khẳng
85
định vị trí của mình đối với sự phát triển chung của đất nước.
Thứ tư, các quy định của pháp luật đầu tư ra nước ngoài nước ngoài
trong lĩnh vực viễn thông cần đảm bảo tính đồng bộ, chặt chẽ
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông không những
chịu sự điều chỉnh trực tiếp của Luật Đầu tư 2014 mà còn chịu sự điều chỉnh
của các văn bản pháp luật khác nhau như Luật Doanh nghiệp 2014, Luật quản
lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp
2014, ... Hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông
phải đảm bảo tính đồng bộ, chặt chẽ với pháp luật khác có liên quan. Việc
quy định đồng bộ, chặt chẽ sẽ tạo hành lang pháp lý cụ thể, rõ ràng, thống
nhất để nhà đầu tư thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đối với nhà nước
cũng như đảm bảo hiệu quả của hoạt động đầu tư.
Thứ năm, cần đảm bảo môi trường đầu tư rõ ràng, minh bạch tạo điều
kiện thuận lợi cho nhà đầu tư tiếp cận thông tin thực hiện hoạt động đầu tư
Môi trường đầu tư rõ ràng, minh bạch thể hiện trên phương diện các
hoạt động đầu tư ra nước ngoài cũng như pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong
lĩnh vực viễn thông phải đảm bảo quy định rõ ràng, công khai, phổ biến đảm
bảo mọi đối tượng có liên quan đều có thể tiếp cận, nắm và thực hiện. Từ đó,
tạo cơ sở thuận lợi cho các nhà đầu tư thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình một cách dễ dàng và thuận lợi hơn.
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh
vực viễn thông
3.2.1. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật
Nhằm mục đích hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh
vực viễn thông, một số giải pháp kiến nghị hoàn thiện cụ thể như sau:
Về việc xây dựng chiến lược, chính sách đầu tư ra nước ngoài
Trong bối cảnh hiện nay, khi các doanh nghiệp mở rộng thị trường và
86
tầm ảnh hưởng của mình ra bên ngoài thì nhu cầu tất yếu được đặt ra của nhà
đầu tư đó là tìm kiếm những cơ hội đầu tư, chính sách đầu tư được khuyến
khích, hỗ trợ từ nhà nước. Những chính sách cơ chế này mang tính định
hướng cụ thể để nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư của mình. Xây dựng
chiến lược dài hạn là việc làm cần thiết đối với hoạt động đầu tư ra nước
ngoài. Việc xây dựng chiến lược dài hạn giúp nhà đầu tư có thể nhận thức rõ
hơn được định hướng mục đích của mình trong tương lai, tạo tâm lý yên tâm
đầu tư nhất là đối với những dự án đầu tư với thời gian dài, nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn, nguồn lực sản xuất khác.
Đối với lĩnh vực viễn thông, đây là một trong những lĩnh vực giữ vai
trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, do đó, trong việc xây dựng chiến
lược, chính sách đầu tư ra nước ngoài chung của Việt Nam, cần đưa ra những
chính sách về đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Việc xây dựng
chiến lược này cần đảm bảo được một số vấn đề sau:
- Kế hoạch chiến lược xây dựng được lộ trình đầu tư ra nước ngoài
trong từng giai đoạn nhất định, đảm bảo tạo cơ sở, định hướng cho nhà đầu tư
yên tâm thực hiện hoạt động đầu tư của mình.
- Xây dựng kế hoạch dựa trên những đánh giá, lợi thế so sánh của Việt
Nam với mục tiêu tìm kiếm thị trường, hiệu quả đầu tư.
- Chính sách khuyến khích ưu đãi của nhà nước nhằm hỗ trợ hoạt động
đầu tư ra nước ngoài.
- Địa bàn chiến lược khuyến khích đầu tư.
- Kế hoạch từng bước tháo gỡ những rào cản, khó khăn, vướng mắc đối
với hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
- Xây dựng chiến lược phải đảm bảo đồng bộ với các giải pháp liên
quan đến hoạt động này như xuất khẩu, tín dụng, tài chính, thuế.
Về các hình thức đầu tư
Thứ nhất, cần quy định thống nhất các hình thức đầu tư ra nước ngoài
87
tại Luật Đầu tư 2014.
Hình thức đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam được quy định
cụ thể tại Điều 52 Luật Đầu tư 2014. Tuy nhiên, bên cạnh đó Luật Doanh
nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn liên quan cũng có những quy định về
hình thức này. Để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ các quy định của pháp
luật cần thống nhất việc quy định về hình thức đầu tư ra nước ngoài tại Luật
Đầu tư 2014. Bên cạnh đó, cơ quan nhà nước cần kịp thời rà soát các văn bản
pháp luật có liên quan thực tế đã hết hiệu và được điều chỉnh bởi văn bản
khác nhưng không có bất kỳ văn bản nào bãi bỏ hiệu lực của văn bản này
(như trường hợp Nghị định số 48/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 7 năm 1999 của
Chính phủ quy định về Văn phòng đại diện, Chi nhánh của thương nhân và
của doanh nghiệp du lịch Việt Nam ở trong nước, ở nước ngoài).
Thứ hai, cần sửa đổi quy định về hình thức đầu tư tại Điều 52 Luật Đầu
tư 2014 đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn hoạt động đầu tư
ra nước ngoài của nhà đầu tư Việt Nam.
Về điều kiện đầu tư: Bổ sung quy định cụ thể thời điểm xác nhận của
cơ quan thuế đối với văn bản xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế của nhà
đầu tư khi nhà đầu tư nộp hồ sơ. Việc quy định cụ thể thời điểm này là rất cần
thiết cho các nhà đầu tư, từ quy định đó nhà đầu tư sẽ xác định được thời
điểm xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế của mình đến thời điểm nộp hồ
sơ, hạn chế trường hợp nhà đầu tư phải thực hiện xác nhận nhiều lần theo yêu
cầu của cơ quan cấp phép khi nộp hồ sơ.
Về thủ tục đầu tư
Thứ nhất, phân cấp cho địa phương cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu
tư ra nước ngoài. Thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước
ngoài hiện do Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan duy nhất cấp. Pháp luật cần
phân cấp quản lý cho chính quyền địa phương trực tiếp tiến hành cấp Giấy
88
chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài. Việc giao cho chính quyền địa
phương cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài sẽ phần nào giúp
giảm một số lượng công việc đáng kể cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư đặc biệt khi
trong xu thế hiện nay, số lượng hồ sơ xin cấp phép có xu hướng tăng cao,
công việc quản lý nhiều hơn và phức tạp hơn nên càng đặt ra yêu cầu có sự
phân cấp để đảm bảo quản lý phù hợp. Điều này vừa khiến cho thủ tục đầu tư
ra nước ngoài được thông thoáng đồng thời nhà đầu tư cũng tạo điều kiện
thuận tiện hơn, tiết kiệm thời gian hơn trong việc thực hiện thủ tục xin cấp
Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài.
Thứ hai, cải cách thủ tục hành chính trong quá trình cấp giấy chứng
nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài.
Thủ tục cấp phép đầu tư là một trong những thủ tục quan trọng đối với
bất kỳ nhà đầu tư nào. Đối với nhà đầu tư thời gian cấp phép và thủ tục cấp
phép cần đảm bảo đơn giản hóa, nhanh chóng không gây những khó khăn cho
nhà đầu tư trong việc tận dụng cơ hội đầu tư, tìm kiếm lợi nhuận. Đối với cơ
quan quản lý nhà nước việc quy định thủ tục phải đảm bảo được mục đích, giá
trị và hoạt động quản lý của mình phải đảm bảo chặt chẽ trong việc kiểm soát
ngoại tệ, dòng tiền, lợi nhuận, trách nhiệm của nhà đầu tư với nhà nước.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục
hoàn thiện cải tiến thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa, giảm bớt thời
gian cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài; đồng thời mở rộng
diện dự án cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài theo quy trình
đăng ký, thu hẹp hơn các trường hợp cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra
nước ngoài phải có chấp nhận chủ trương của Quốc hội, Chính phủ; giảm bớt
sự can thiệp bằng biện pháp hành chính ngay cả đối với những dự án sử dụng
vốn nhà nước; tăng tính tự chịu trách nhiệm, quyền chủ động của nhà đầu tư
khi thực hiện hoạt động đầu tư đồng thời nêu rõ các nguyên tắc nhà đầu tự
89
chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư ở nước ngoài.
Ngoài ra, đối với việc thẩm định, lấy ý kiến của các cơ quan liên quan
trước khi cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài: Cần xác định rõ
các trường hợp phải lấy ý kiến các cơ quan liên quan và những nội dung cụ
thể các cơ quan liên quan này cần cho ý kiến, thẩm định. Đồng thời khi các cơ
quan được lấy ý kiến cần phải có hình thức trả lời cụ thể bằng văn bản (nêu rõ
ý kiến thẩm định) trong đúng thời hạn pháp luật quy định, không quy định
trường hợp quá hạn không trả lời thì được xem là chấp nhận, từ đó là cơ sở để
Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện các thủ tục đảm bảo hiệu quả, thể hiện rõ
vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc cấp phép hoạt động đầu
tư ra nước ngoài.
Thứ ba, thống nhất thủ tục đối với dự án đầu tư ra nước ngoài trong
lĩnh vực viễn thông có sử dụng vốn nhà nước tại Luật Đầu tư 2014 và Luật
quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh
nghiệp 2014. Theo đó, sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư 2014 theo hướng làm rõ
thành phần hồ sơ cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài trong
trường hợp các dự án sử dụng vốn nhà nước đảm bảo quy định chặt chẽ và
thống nhất giữa Luật Đầu tư với Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư
vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp 2014, nâng cao hiệu quả trong việc
quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư này.
Về việc triển khai dự án
Thứ nhất, cần cụ thể hóa các nội dung cho phép chuyển tiền ra nước
ngoài trước khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài để
đáp ứng chi phí hình thành dự án đầu tư. Mục tiêu quản lý nhà nước đối với
hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung là kiểm soát dòng tiền đi ra vào
lãnh thổ. Việc chuyển ngoại tệ trước khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký
đầu tư ra nước ngoài để đáp ứng chi phí hình thành dự án đầu tư cũng là một
90
phần trong tổng vốn đầu tư của toàn dự án, cần phải có cái nhìn toàn diện về
dự án đầu tư và tính hiệu quả của dự án đặc biệt đối với các dự án lớn. Do đó,
việc kiểm soát theo dõi dòng tiền này cần được quan tâm và đặt ra các quy
định cụ thể để tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện một cách hợp pháp,
đúng quy định đồng thời cơ quan quản lý nhà nước theo dõi được mục đích
của dòng tiền này. Vì vậy, cần cụ thể hóa các trường hợp được chuyển ngoại
tệ ra nước ngoài trước khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước
ngoài để đáp ứng chi phí hình thành dự án đầu tư.
Thứ hai, về quy định hạn mức chuyển ngoại tệ trong các trường hợp
được chuyển ngoại tệ ra nước ngoài trước khi được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư. Quy định về hạn mức này là một hình thức hạn chế dòng vốn
đầu tư ra nước ngoài của nhà nước, tuy nhiên việc quy định này chỉ phù hợp
trong một số giai đoạn khi mà dòng tiền đầu tư ra nước ngoài chưa lớn. Hiện
nay, đối với nhiều dự án lớn, tổng chi phí đáp ứng cho hoạt động hoạt động
hình thành dự án đầu tư có thể rất lớn và lớn hơn con số quy định (5% tổng
vốn đầu tư ra nước ngoài và không quá 300.000 đô la Mỹ). Chi phí cho các
hoạt động này là thiết yếu và đóng vai trò quan trọng đối với nhà đầu tư khi
thực hiện dự án đầu tư. Do đó, để đảm bảo nhà đầu tư được tự do hơn trong
việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài trước khi được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký đầu tư để đáp ứng các hoạt động hình thành dự án và đảm bảo hoạt động
đầu tư của nhà đầu tư đạt hiệu quả nên nâng hạn mức này đảm bảo phù hợp
với từng thời điểm.
3.2.2. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
Bên cạnh giải pháp hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh
vực viễn thông thì một số giải pháp kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật như sau:
Giải pháp tăng cường các hoạt động hỗ trợ nhà đầu tư.
Thứ nhất, nhà nước cần xây dựng cơ chế khuyến khích thành lập Hiệp
91
hội doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài.
Việc thành lập Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài là một
giải pháp nhằm tạo nên một cộng đồng doanh nghiệp ở nước ngoài có khả
năng hỗ trợ nhau, chia sẻ các kinh nghiệm đầu tư, những bài học, rủi ro pháp
lý có thể gặp phải tại địa bàn đầu tư... Thông qua đó, tạo kênh kết nối thông
tin hữu ích cho nhà đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của nhà đầu tư Việt
Nam với các quốc gia khác, đồng thời hiệp hội cũng góp phần bảo vệ nhà đầu
tư, hỗ trợ giải quyết những khó khăn vướng mắc của nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)
cần phát huy hơn nữa vai trò là đầu mối liên kết các doanh nghiệp Việt Nam
đầu tư ra nước ngoài với doanh nghiệp trong nước đồng thời kịp thời nắm bắt
thông tin, tình hình đầu tư, thị trường đầu tư,... góp phần hỗ trợ tích cực cho
nhà đầu tư trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Thứ hai, tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư ra nước ngoài cho
nhà đầu tư Việt Nam đặc biệt đối với những doanh nghiệp viễn thông. Trong
bối cảnh hiện nay, xúc tiến đầu tư cần không ngừng được đổi mới nội dung,
cách thức thực hiện đảm bảo phát huy hiệu quả của hoạt động này. Đây là một
trong những hoạt động thuộc trách nhiệm của cơ quan nhà nước, các Bộ, ban
ngành, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Các nhà đầu tư Việt
Nam khi đầu tư ra nước ngoài còn thiếu sự hỗ trợ của nhà nước. Các biện
pháp hỗ trợ về vốn, ưu đãi; thông tin tiếp cận thị trường; hỗ trợ trong việc
triển khai thực hiện dự án tại nước tiếp nhận đầu tư cũng như cơ chế bảo vệ
nhà đầu tư đã được sự quan tâm nhưng chưa đồng bộ và chưa đạt hiệu quả.
Do vậy cần quy định đồng bộ các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ đầu tư ra
nước ngoài một cách cụ thể, trong đó đặc biệt chú trọng các biện pháp hỗ trợ
về cung cấp thông tin môi trường đầu tư, cơ hội đầu tư tại nước sở tại, bảo hộ
quyền lợi của các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài trong quá trình thực hiện
92
hoạt động đầu tư tại nước ngoài.
Ngoài ra, cần tăng cường tổ chức các diễn đàn, hội thảo, hội nghị giữa
Chính phủ và nhà đầu tư để từ đó đánh giá hoạt động đầu tư ra nước ngoài,
môi trường đầu tư ở nước ngoài, năng lực cạnh tranh và phát triển của doanh
nghiệp Việt Nam để từ đó Chính phủ sẽ có cái nhìn khách quan, toàn diện
trên mọi khía cạnh của hoạt động đầu tư ra nước ngoài và có những biện pháp
hỗ trợ hay sửa đổi bổ sung pháp luật phù hợp với nhà đầu tư. Việc tổ chức các
chương trình, hội nghị, diễn đàn này cũng đóng vai trò quan trọng trong việc
phổ biến pháp luật trong nước cũng như các nước tiếp nhận đầu tư để nhà đầu
tư có những kiến thức cần thiết khi thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Thứ ba, cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài cần tạo
điều kiện cao nhất hỗ trợ, giúp đỡ nhà đầu tư các vấn đề liên quan phát sinh
trong quá trình đầu tư như tư vấn pháp lý, thông tin về các quy định pháp luật,
địa bản đầu tư, chính sách đầu tư, lao động...Đối với những quốc gia có quan
hệ đầu tư, tiềm năng đầu tư, hợp tác nhưng chưa có cơ quan đại diện ngoại giao
của Việt Nam tại đây, cần tăng cường hơn nữa hợp tác song phương giữa Việt
Nam và các quốc gia này, tiến tới thành lập cơ quan đại diện ngoại giao của
Việt Nam để tăng cường hoạt động hỗ trợ đối với nhà đầu tư.
Thứ tư, nhà nước cần có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho các dự án
viễn thông thực hiện ở nước ngoài mà có tác động tới sự phát triển kinh tế, xã
hội và mối quan hệ hữu nghị của nước ta với nước tiếp nhận đầu tư. Các
chính sách ưu đãi này có thể là những chính sách tín dụng như vay vốn, hoặc
chính sách thuế,...
Thứ năm, cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư cần chủ trì phối hợp với
các Bộ ngành liên quan tổ chức thu thập thông tin, có thể định kỳ hàng năm
biên soạn thành các ấn phẩm như sách để cung cấp cho các nhà đầu tư trong
nước có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài trong các lĩnh vực khuyến khích, trong
đó có lĩnh vực viễn thông. Nguồn thông tin bao gồm: Chính sách thu hút đầu
93
tư, chính sách liên quan đến hoạt động đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp tại nước tiếp nhận đầu tư; các tiềm năng và cơ hội đầu tư
trong lĩnh vực viễn thông; các dự án đầu tư đã được Chính phủ hai nước ký
thỏa thuận; các dự án viễn thông có chính sách ưu đãi khuyến khích tái đầu tư
tại nước sở tại...
Giải pháp nâng cao công tác quản lý nhà nước
Thứ nhất, nâng cấp hệ thống cổng thông tin quốc gia về đầu tư.
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong cấp phép và quản lý
hoạt động đầu tư ra nước ngoài phù hợp với xu hướng hiện nay. Hiện tại,
công tác cấp phép và quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài chưa hoàn toàn
được thực hiện qua cổng thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư
trong quá trình thực hiện đăng ký/điều chỉnh dự án vẫn phải nộp hồ sơ bản
cứng lên Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện, nhà
đầu tư có trách nhiệm thực hiện chế độ báo cáo tình hình hoạt động kèm các
văn bản gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các cơ quan Bộ ngành liên quan khác.
Trong công tác quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài, yêu cầu được đặt ra là
các thông tin, tài liệu phải đảm bảo tính pháp lý, tính chính xác và tính kịp
thời nhằm đảm bảo rút ngắn tối đa thời gian xử lý giải quyết của cơ quan nhà
nước, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trong việc theo dõi, giám sát
hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Từ đó đặt ra yêu cầu cần áp dụng công nghệ
thông tin trong các hoạt động này nhưng vẫn đảm bảo các yêu cầu trong công
tác quản lý nhà nước. Hệ thống cổng thông tin quốc gia về đầu tư cần được
không ngừng nâng cấp, bảo trì, đảm bảo an toàn thông tin.
Thứ hai, cần quy định rõ ràng, minh bạch các thủ tục hành chính ở các
khâu, các cấp; công khai quy trình, thời hạn, trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước trong việc xử lý các thủ tục hành chính, hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện
thủ tục nhằm tạo sự cải cách hành chính trọng lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài;
94
đẩy mạnh công tác gặp gỡ, đối thoại với nhà đầu tư để xem xét các ý kiến của
nhà đầu tư đối với các thủ tục hành chính liên quan. Bên cạnh đó, cần nâng
cao chuyên môn, năng lực, kiến thức pháp luật của cán bộ nhà nước để đảm
bảo hỗ trợ tích cực, kịp thời các vướng mắc, khó khăn của nhà đầu tư trong
quá trình thực hiện.
Giải pháp tăng cường tham gia và thực hiện các Điều ước quốc tế về
đầu tư
Trong xu hướng phát triển, hội nhập quốc tế việc ký kết và triển khai
thực hiện các hiệp định song phương và đa phương đóng vai trò hết sức quan
trọng trong quan hệ đầu tư giữa nước ta và các nước khác trên thế giới. Đây là
cơ sở pháp lý trong việc bảo đảm các quyền lợi của nhà đầu tư Việt Nam có
hoạt động tại quốc gia mà Việt Nam ký kết hiệp định song phương, đa
phương. Bên cạnh đó, các hiệp định về đầu tư này sẽ bao trùm các nội dung
về khuyến khích đầu tư ra nước ngoài; thực hiện đối xử công bằng và thỏa
đáng; áp dụng nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và nguyên tắc tối huệ quốc; các
quốc gia đảm bảo tự do chuyển các khoản thanh toán ra nước ngoài liên quan
đến đầu tư; các nguyên tắc về người lao động; các nguyên tắc giải quyết tranh
chấp giữa nhà đầu tư và quốc gia tiếp nhận đầu tư. Chính vì vậy, việc ký kết
các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư sẽ tạo cơ chế bảo vệ nhà đầu tư
tại nước tiếp nhận đầu tư, nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư. Trong các
quốc gia mà Việt Nam đang đầu tư trong lĩnh vực viễn thông, có nhiều quốc
gia Việt Nam chưa ký kết hiệp định đầu tư. Từ đó, mở rộng hơn các quốc gia
khác để nhà đầu tư Việt Nam có cơ hội đầu tư kinh doanh trên nhiều thị
trường khác với các điều kiện thuận lợi hơn về đầu tư. Ngoài ra, Việt Nam
cần tích cực hơn nữa trong việc ký kết hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Bởi
lẽ, khi thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhà đầu tư chịu thuế ở trong
nước và ở nước tiếp nhận đầu tư, việc thu thuế trùng làm giảm lợi nhuận đầu
95
tư của dự án, hạn chế việc khuyến khích nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu
tư. Như vậy, một số giải pháp được đặt ra trong việc ký kết và thực hiện điều
ước quốc tế về đầu tư như sau:
Thứ nhất, tăng cường hoạt động đàm phán, ký kết hiệp định tránh đánh
thuế hai lần với những nước đã đầu tư nhưng chưa ký kết hiệp định.
Thứ hai, mở rộng ký kết với các nước khác có tiềm năng đầu tư và có
mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với nước ta.
Về cơ bản đầu tư trong lĩnh vực viễn thông sẽ hỗ trợ rất lớn đến quá
trình phát triển của khu vực được đầu tư như tăng trưởng về liên lạc, giao
thương, phát triển về kinh tế xã hội du lịch văn hóa đặc biệt là khu vực có hạ
tầng phức tạp, việc phủ sóng viễn thông đóng một vai trò rất lớn hỗ trợ sự
phát triển. Tuy nhiên, xuất phát từ tính đặc thù của lĩnh vực viễn thông về
việc nắm giữ rất nhiều thông tin nhạy cảm cần bảo vệ như thông tin khách
hàng, cuộc gọi tin nhắn, địa bàn… nên để đảm bảo việc mở cửa thị trường
viễn thông của các quốc gia thì những chính sách trong quá trình đàm phán ký
kết các hiệp định, thỏa thuận, cam kết giữa nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu
tư đóng vai trò quan trọng. Do đó, để đảm bảo hợp tác tốt và phù hợp với
chính sách pháp luật của các nước sở tại cũng như tăng sự tin tưởng của nhà
nước sở tại, tạo cơ chế mở cửa đối với nhà đầu tư viễn thông Việt Nam khi
đầu tư thì trong các hiệp định, thỏa thuận, cam kết giữa Việt Nam và nước sở
tại nên có một số chính sách, nội dung như:
- Chính sách, cam kết đảm bảo an toàn thông tin quốc phòng an ninh
của nước sở tại và thông tin người dùng nước sở tại.
- Chính sách, cam kết về hỗ trợ hạ tầng viễn thông với một số khu vực
khó khăn; cam kết đầu tư và hỗ trợ các doanh nghiệp nước sở tại ở một số
hạng mục về đường truyền viễn thông; Cam kết hỗ trợ chính phủ về mảng số
96
hóa chính sách, dịch vụ công, xây dựng chính phủ điện tử.
- Chính sách hợp tác đầu tư cho nhà đầu tư hai nước nhằm phát triển
giao thương trên các lĩnh vực đầu tư khác.
Thứ ba, tăng cường công tác rà soát các hiệp định và hệ thống pháp luật
quốc gia đảm bảo tính tương thích của các văn bản này.
Thứ tư, tăng cường triển khai các hiệp định đã ký kết đồng thời ban
hành những văn bản hướng dẫn triển khai tuyên truyền, giáo dục, phổ biến
cho các nhà đầu tư để nắm, hiểu và áp dụng các hiệp định một cách hiệu quả
trong hoạt động đầu tư của mình cũng như áp dụng trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích của mình khi thực hiện hoạt động đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư
(nhà đầu tư có thể khởi kiện Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư trong trường
hợp vi phạm các hiệp định quốc tế này).
Giải pháp đối với nhà đầu tư
Thứ nhất, xây dựng chiến lược đầu tư trong đó tăng cường tìm hiểu thị
trường trước khi thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Trước khi thực hiện hoạt động đầu tư, nhà đầu tư cần xây dựng chiến
lược đầu tư của mình một cách cụ thể theo từng thời điểm, từng địa bàn, từng
thị trường... Trong đó đặc biệt chú trọng việc tìm hiểu thị trường trước khi
quyết định đầu tư. Tìm hiểu sâu về chính sách đầu tư và những thay đổi chính
sách của nước tiếp nhận đầu tư để đảm bảo hạn chế nhất những rủi ro pháp lý
có thể xảy ra đối với nhà đầu tư.
Thứ hai, thực hiện tuân thủ pháp luật nước sở tại, luật pháp quốc tế và
các chính sách, pháp luật có liên quan khác. Bản thân nhà đầu tư khi đầu tư ra
nước ngoài phải tích cực, chủ động trong vấn đề tìm hiểu cơ chế chính sách
pháp luật Việt Nam, cũng như các văn bản điều ước quốc tế và đặc biệt pháp
luật nước sở tại mà nhà đầu tư thực hiện đầu tư. Bên cạnh đó, nhà đầu tư phải
có ý thức bảo vệ môi trường sống nơi sở tại, không chỉ bảo đảm hoạt động
97
kinh doanh bền vững của chính mà còn hạn chế những phản đối, bất bình và
tẩy chay từ phía người dân địa phương. Các nhà đầu tư cũng cần đảm bảo lợi
ích hài hòa cho người dân địa phương, tạo công ăn việc làm và tích cực các
hoạt động từ thiện, xóa đói giảm nghèo đối với quốc gia nhận đầu tư bên cạnh
những lợi ích của doanh nghiệp.
Thứ ba, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực quản trị: Nhà đầu tư
cần không ngừng nâng cao, năng lực quản lý, năng lực tài chính khi đầu tư
ra nước ngoài. Theo đó, nhà đầu tư cần xây dựng chiến lược kinh doanh,
chiến lược sản phẩm, thương hiệu để từng bước nâng cao năng lực quản trị;
nghiên cứu phát triển thị trường... nhằm đạt được những hiệu quả đầu tư,
98
lợi nhuận cao nhất.
Kết luận Chương 3
Trên cơ sở những nội dung khái quát về mặt lý luận tại Chương 1 và
các nội dung quy định của pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực
viễn thông cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật tại Chương 2 thì Chương 3
của luận văn đã đưa ra một số yêu cầu và định hướng hoàn thiện pháp luật,
một số kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật. Theo đó, một số giải pháp hoàn thiện pháp luật như: Xây
dựng chiến lược, chính sách đầu tư ra nước ngoài; thống nhất các hình thức
đầu tư tại Luật Đầu tư 2014 đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế và thực
tiễn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư Việt Nam; đơn giản hóa
các thủ tục đầu tư; đảm bảo hệ thống pháp luật đầu tư đồng bộ, chặt chẽ với
hệ thống pháp luật liên quan,...Bên cạnh đó, các giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật như: Giải pháp tăng cường các hoạt động hỗ trợ nhà đầu
tư; giải pháp nâng cao công tác quản lý nhà nước; giải pháp tăng cường
tham gia và thực hiện các Điều ước quốc tế về đầu tư; giải pháp đối với nhà
đầu tư cũng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài
99
trong lĩnh vực viễn thông.
KẾT LUẬN
Trải qua hơn thời gian 30 năm hội nhập và phát triển, Việt Nam hiện
nay không chỉ là một nước tiếp nhận đầu tư hàng đầu trong khu vực mà còn
vươn lên trở thành một trong số những quốc gia có nhiều doanh nghiệp, dự án
đầu tư ra nước ngoài. Đầu tư ra nước ngoài là một xu hướng tất yếu, khách
quan của nhà đầu tư Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện
nay, không chỉ những quốc gia có nền khoa học công nghệ hiện đại, trình độ
quản lý tiên tiến mới thực hiện đầu tư ra nước ngoài mà ngay cả những nước
đang phát triển hoặc kém phát triển thì dòng đầu tư cũng đã phát triển một
cách mạnh mẽ. Sự tham gia đầu tư của các quốc gia làm đa dạng, phong phú
hơn môi trường đầu tư quốc tế.
Việt Nam cũng là quốc gia có nền kinh tế đang phát triển nhưng hoạt
động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam cũng mang lại nhiều kết quả tích cực
đặc biệt trong lĩnh vực viễn thông. Trước thực trạng viễn thông trong nước
bão hòa, để tìm kiếm cơ hội, thị trường mới thì hoạt động đầu tư quốc tế là
một giải pháp hữu hiệu. Dự án đầu tư đầu tiên trong lĩnh vực viễn thông chỉ
mới bắt đầu từ đầu năm 2007 nhưng đến nay đã đạt được những hiệu quả nhất
định không chỉ về mặt kinh tế và còn đóng góp quan trọng cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của nước ta cũng như nước tiếp nhận đầu tư, góp phần tăng
cường quan hệ hợp tác ngoại giao giữa Việt Nam và nước tiếp nhận đầu tư.
Những kết quả này thể hiện vai trò, tầm quan trọng của hệ thống pháp luật
đầu tư ra nước ngoài của nhà nước ta. Các văn bản pháp luật này đã tạo ra
những khung pháp lý tương đối hoàn thiện để đảm bảo cơ sở cho nhà đầu tư
thực hiện hoạt động đầu tư của mình. Mặc dù vậy, trong quá trình thực thi, hệ
thống pháp luật này cũng còn bộc lộ những bất cập, hạn chế, gây ra những
100
khó khăn vướng mắc trên thực tế. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư trong lĩnh vực
viễn thông cũng gặp nhiều thách thức dẫn đến việc hoạt động đầu tư kinh
doanh bị ảnh hưởng, không mang lại hiệu quả cao cho nhà đầu tư.
Để hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông của các
nhà đầu tư Việt Nam phát triển hơn, phát huy tối đa vai trò của mình thì yêu
cầu cấp thiết là cần có những giải pháp tổng thể và đồng bộ để xây dựng và
hoàn thiện pháp luật đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông đảm bảo
hệ thống pháp luật thống nhất, chặt chẽ, tương thích với pháp luật quốc tế,
phù hợp với nền kinh tế thị trường, khuyến khích thúc đẩy hoạt động đầu tư
ra nước ngoài.
Với mong muốn giảm bớt các hạn chế, tồn tại liên quan đến pháp luật
đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông, học viên đưa ra một số giải
pháp, kiến nghị để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật, từ đó nhằm tiến tới xây dựng một hệ thống pháp luật về đầu tư ra nước
ngoài nói chung cũng như trong lĩnh vực viễn thông nói riêng hoàn thiện, phù
hợp hơn với thực tiễn đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư
Việt Nam tiến xa hơn trên thị trường thế giới, khẳng định thương hiệu của
101
mình cũng như vị thế của đất nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu Tiếng Việt
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), Thông tư số 03/2018/TT-BKHĐT ngày
17/10/2018 Hướng dẫn và ban hành mẫu văn bản thực hiện thủ tục đầu
tư ra nước ngoài, Hà Nội.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Báo cáo tình hình đầu tư ra nước ngoài
của Doanh nghiệp Việt Nam, Hà Nội.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Quyết định số 38/QĐ-BKHĐT ngày
11/01/2019 về việc đính chính Thông tư 03/2018/TT-BKHĐT hướng dẫn
và ban hành mẫu văn bản thực hiện thủ tục đầu tư ra nước ngoài của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội.
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Thông tư số 09/2019/TT-BKHĐT ngày
29/7/2019 sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều khoản của các thông tư
liên quan đến chế độ báo cáo định kỳ thuộc phạm vi quản lý nhà nước và
hệ thống thông tin báo cáo của bộ kế hoạch và đầu tư, Hà Nội.
6. Bộ Tài chính (2010), Thông tư 11/2010/TT-BTC ngày 19/01/2010 hướng
dẫn nghĩa vụ thuế đối với nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài do
Bộ Tài chính ban hành, Hà Nội.
7. Bộ Tài chính (2011), Thông tư 104/2011/TT-BTC ngày 12/7/2011 sửa đổi
Thông tư 11/2010/TT-BTC hướng dẫn nghĩa vụ thuế đối với nhà đầu tư
Việt Nam đầu tư ra nước ngoài do Bộ Tài chính ban hành, Hà Nội.
8. Chính phủ (1999), Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14/4/1999 quy
định về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam, Hà Nội.
9. Chính phủ (2006), Nghị định 78/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 về đầu tư
102
trực tiếp ra nước ngoài, Hà Nội.
10. Chính phủ (2015), Nghị định 131/2015/NĐ-CP ngày 25/12 /2015 hướng
dẫn về dự án trọng điểm quốc gia, Hà Nội.
11. Chính phủ (2015), Nghị định số 135/2015/NĐ-CP ngày 31/12/2015 quy
định về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài, Hà Nội.
12. Chính phủ (2015), Nghị định số 83/2015/NĐ-CP ngày 25/9/2015 quy
định về đầu tư ra nước ngoài, Hà Nội.
13. Chính phủ (2015), Nghị định số 91/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 về đầu
tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại
doanh nghiệp, Hà Nội.
14. Vũ Duy Cương (2016), “Phát triển bền vững và hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài - nhìn từ góc độ luật và chính sách của Trung Quốc”,
Tạp chí Khoa học pháp lý, (5), tr.20-27.
15. Phạm Thanh Hà (2011), “Đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động đầu tư ra nước ngoài”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (6), tr.19-21.
16. Phan Thị Ngân Hà (2011), Pháp luật về thủ tục đầu tư ra nước ngoài của
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
17. Trần Thanh Hải (2014), “Đầu tư ra nước ngoài khó khăn của doanh
nghiệp và những vấn đề pháp lý cần hoàn thiện”, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, (3), tr.33 - 35.
18. Trần Thanh Hải (2016), “Một số vấn đề ảnh hưởng của Hiệp định TPP
đến doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài”, Tạp chí
Nghề luật, (2), tr.46 - 47, 53.
19. Trần Thanh Hải (2018), “Kinh nghiệm pháp luật về quản lý dòng vốn đầu
tư ra nước ngoài của Nhật Bản, Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam trong việc quản lý doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài”, Tạp chí
103
Nghề luật, (2), tr.76- 86.
20. Trần Thanh Hải (2019), Địa vị pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài, Luận án tiến sĩ luật học Luật học, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
21. Quách Mạnh Hồng (2006), Pháp luật về hình thức đầu tư ra nước ngoài
của doanh nghiệp Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội.
22. Trần Đăng Khoa (2007), Phát triển ngành viễn thông Việt Nam đến năm
2020, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hồ Chí Minh.
23. Đoàn Trung Kiên (2009), Giáo trình Luật Đầu tư, Nxb Giáo dục Việt
Nam, Hà Nội.
24. Hoàng Thị Bích Loan (2011), “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (6),
tr.52 - 55.
25. Nguyễn Thị Ngọc Mai (2018), Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt
Nam: Nhân tố tác động và hàm ý chính sách, Luật án tiến sĩ kinh tế,
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
26. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2016), Thông tư số 12/2016/TT-NHNN
Hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài,
Hà Nội.
27. Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2018), Thông tư 36/2018/TT-NHNN quy
định về hoạt động cho vay để đầu tư ra nước ngoài của tổ chức tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng do Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam ban hành, Hà Nội.
28. Nguyễn Thị Bích Ngọc (2019), “Hoạt động đầu tư của Việt Nam ra nước
ngoài: Thực trạng và khuyến nghị”, Tạp chí Tài chính, Kỳ 2, tháng 12.
29. Phùng Xuân Nhạ (2001), Giáo trình Đầu tư quốc tế, Nxb Đại học quốc
104
gia Hà Nội.
30. Đỗ Thị Phương (2013), Pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam- Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
31. Quốc hội (2005), Luật Đầu tư, Hà Nội.
32. Quốc hội (2009), Luật Viễn thông, Hà Nội.
33. Quốc hội (2014), Luật Đầu tư, Hà Nội.
34. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
35. Quốc hội (2014), Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản
xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Hà Nội.
36. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
37. Phạm Thị Sơn (2010), “Pháp luật về đầu tư nước ngoài của Việt Nam sau
khi ra nhập WTO”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Chuyên đề), tr.9 - 10.
38. Đỗ Huy Thưởng (2015), “Chính sách đầu tư ra nước ngoài của Trung
Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Đại học
Quốc gia Hà Nội.
39. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2003), Giáo trình Kinh tế Đầu tư,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
40. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật Đầu tư, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
41. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách
khoa, Hà Nội.
42. Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
II. Tài liệu trang Website
43. http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/loai-bo-nhung-rao-can-doi-
hoat-dong-dau-tu-cua-viet-nam-ra-nuoc-ngoai-319247.html (truy cập lúc
105
10h ngày 01/3/2020).
44. http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/loai-bo-nhung-rao-can-doi-
hoat-dong-dau-tu-cua-viet-nam-ra-nuoc-ngoai-319247.html (truy cập lúc
10h ngày 01/3/2020).
45. http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/dau-tu-ra-nuoc-ngoai-cua-
viet-nam-tang-manh-314593.html (truy cập lúc 10h ngày 01/3/2020).
46. https://baodautu.vn/vnpt-thanh-lap-lien-doanh-streamnet-von-15-trieu-
usd-tai-myanmar-d71882.html (truy cập lúc 8h ngày 27/4/2020).
47. https://baodautu.vn/chien-truong-moi-cua-doanh-nghiep-vien-thong
106
d114360.html (truy cập lúc 8h ngày 27/4/2020).