TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI KHOA KINH TẾ - LUẬT

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

ĐỀ TÀI: PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ Ở

VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Thị Vinh

Hương

Đơn vị công tác: Bộ môn Luật Căn bản

Khoa Kinh tế - Luật

Hà Nội, 2017

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN

BÍ MẬT ĐỜI TƯ Ở VIỆT NAM .............................................................................. 1

1.1. TÍNH CẤP THIẾT NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI ........................................... 1

1.2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THUỘC LĨNH VỰC CỦA ĐỀ

TÀI ........................................................................................................................ 4

1.2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước .................................................................. 4

1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước ................................................................... 5

1.3. XÁC LẬP VÀ TUYÊN BỐ VẤN ĐỀ TRONG ĐỀ TÀI ................................... 7

1.4. CÁC MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ...................................................................... 8

1.5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU .................................................................................. 8

1.6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI .............................................. 9

1.7. KẾT CẤU BÁO CÁO NGHIÊN CỨU ............................................................ 10

2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ ................................. 11

2.1.1. Khái niệm quyền bí mật đời tư ....................................................................... 11

2.1.2. Đặc điểm của quyền bí mật đời tư ................................................................. 14

2.1.3. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền bí mật đời tư ................................................. 21

2.2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ ... 22

2.2.1. Cá nhân có quyền đối với các thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí

mật cá nhân, bí mật gia đình của mình ................................................................... 22

2.3.2. Cá nhân có quyền bí mật đối vói thư tín, điện thoại, điện tín và các hình

thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân.................................................. 23

2.3. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN

BÍ MẬT ĐỜI TƯ ..................................................................................................... 25

2.4. QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ

QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI ............................................................................... 29

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ VÀ

THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ Ở VIỆT NAM ...................... 32

3.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ ..................... 32

3.1.1. Thực trạng quy định pháp luật dân sự về quyền bí mật đời tư ..................... 32

3.1.2. Các nhóm hành vi xâm phạm bí mật đời tư thông qua các văn bản pháp luật

chuyên ngành ........................................................................................................... 36

3.1.3. Các biện pháp bảo vệ quyền bí mật đời tư ..................................................... 45

3.2. THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ Ở VIỆT NAM ............... 51

3.2.1. Việc cung cấp các thông tin liên quan đến bản thân, gia đình cho cơ quan

sử dụng lao động ...................................................................................................... 52

3.2.2. Về việc liệu có tồn tại bí mật đời tư trong đời sống hôn nhân? .................... 53

3.2.3. Tiết lộ, rao bán thông tin khách hàng ........................................................ 55

CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN

THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÍ

MẬT ĐỜI TƯ .......................................................................................................... 57

4.1. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN` THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÍ MẬT

ĐỜI TƯ .................................................................................................................... 57

4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ ..................................... 60

4.2.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền bí mật đời tư ..................... 60

4.2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về quyền bí mật đời

tư ................................................................................................................. 66

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS Bộ luật Dân sự

BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự

BLHS Bộ luật Hình sự

BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự

TAND Tòa án Nhân dân

HĐXX Hội đồng xét xử

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI PHÁP LUẬT VỀ

QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ Ở VIỆT NAM



1.1. TÍNH CẤP THIẾT NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

Con người là vốn quý của xã hội, một xã hội càng tiến bộ, quyền tự do dân chủ

càng được mở rộng bao nhiêu thì con người càng được tôn trọng bấy nhiêu. Kèm theo

đó các quyền nhân thân cũng được pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng cùng với các

biện pháp bảo vệ ngày càng hiệu quả hơn. Quyền bí mật đời tư là một trong các quyền

nhân thân quan trọng, bất khả xâm phạm của cá nhân, đây là quyền hiến định nhưng

đồng thời cũng là quyền nhân thân cơ bản được ghi nhận trong các văn bản pháp luật

về dân sự…

Trong bối cảnh phát triển công nghệ thông tin hiện đại, sự phổ biến của internet

khiến hình ảnh xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật của cá nhân ai đó sẽ bị lan truyền,

phát tán với tốc độ cực nhanh chỉ sau một cú nhấp chuột, không chỉ giới hạn ở Việt

Nam mà còn trên phạm vi thế giới. Việc ngăn chặn và truy tìm thủ phạm càng trở nên

khó khăn hơn. Từ những vụ việc mang tính chất điển hình như vụ ca sỹ Hồ Ngọc Hà

có đơn khiếu nại Báo Pháp luật và Cuộc sống về việc thông tin sai sự thật và xâm

phạm đời tư bất hợp pháp trong bài viết “Chuyện Hồ Ngọc Hà cưới chồng năm 2001

ở khách sạn Daewoo, Hà Nội” đăng ngày 12/5/2012 cho đến vụ việc bị báo chí xâm

hại đời tư liên quan tới scandal sex của MC Đan Lê, Đài Truyền hình KTS VTC. Ngày

21/3/2008, trên các trang web, blog đen xuất hiện một vài đoạn phim đồi trụy, được

lén lút phát tán, truyền tay nhau, MC Đan Lê bị gán ghép là nhân vật trong đoạn phim

đó và một tờ báo điện tử đã cố tình xuyên tạc, khai thác thông tin trên gây hiểu lầm

cho độc giả... Sau nhiều tháng theo đuổi vụ kiện, MC Đan Lê đã buộc được tờ báo nọ

cải chính, xin lỗi, bồi thường thiệt hại vật chất cũng như tinh thần. Hoặc vụ tranh cãi

lùm xùm xung quanh việc VTV chương trình “Chuyển động 24h“ tự ý thu thập và

công bố về thông tin đời tư của cầu thủ Công Phượng... Ngoài ra, những hành vi như

bóc mở thư tín trái phép, gây thất lạc thư tín của công dân, sử dụng thiết bị, phần mềm

nghe trộm, nghe lén điện thoại nhằm theo dõi để kiểm soát, khai thác bí mật đời tư

người khác, gây tâm lý bất an cho mọi người, hành vi phát tán trái phép những hình

ảnh nhạy cảm riêng tư của cá nhân, công bố chuyện riêng tư, những thông tin sai sự

1

thật gây ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, hành vi chụp và đăng ảnh của người

khác lên mạng khi chưa được phép, đăng hồ sơ cá nhân của người khác lên mạng,

những hành vi này đều tiềm ẩn rất nhiều hệ lụy...

Có thể nói chưa bao giờ nguy cơ xâm phạm về quyền bí mật đời tư lại cao như

hiện nay, bởi lẽ bất cứ ai cũng có thể trở thành nạn nhân bị xâm phạm đời sống riêng

tư và bí mật cá nhân, bí mật gia đình, hệ quả là gây ra những thiệt hại nặng nề, ảnh

hưởng nghiêm trọng tới cuộc sống, công việc, danh dự, nhân phẩm của người trong

cuộc, một số vụ đã được khởi kiện ra tòa. Đã đến lúc chúng ta cần lấp các “lỗ hổng”,

hoàn thiện các quy định pháp luật để bảo vệ sự riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia

đình.

Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 đã có

những quy định về quyền bí mật đời tư, nhưng việc hiểu và áp dụng các quy định đó

trong thực tế còn nhiều bất cập, vướng mắc như: xác định thế nào là quyền bí mật đời

tư; biểu hiện cụ thể của các hành vi xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân; cơ chế giải

quyết tranh chấp; mức độ bồi thường khi bị xâm phạm đời tư được xác định như thế

nào; các hình thức áp dụng để hạn chế và bảo vệ quyền này ra sao;… Trong thời gian

vừa qua, trên các phương tiện thông tin đại chúng có đề cập rất nhiều đến bí mật đời tư

cũng như quyền bí mật đời tư, sở dĩ vấn đề này được bàn luận sôi nổi bởi xuất hiện

một loạt tình huống trong thực tế dẫn tới tranh chấp, nhiều vụ việc được đưa ra Tòa án

để giải quyết nhưng ngay cả khi giải quyết tại Toà, các cán bộ Toà án cũng có những

lúng túng nhất định xung quanh việc xác định hành vi đó có bị coi là xâm phạm bí mật

đời tư hay không? Hiện nay, Bộ luật Dân sự 2005 vẫn bỏ ngỏ khái niệm này, dẫn tới

nhiều cách hiểu khác nhau, gây khó khăn trong quá trình xét xử cho cơ quan xét xử.

Trong Bộ luật Dân sự năm 2015 (có hiệu lực từ 01/011/2017) thuật ngữ “quyền

bí mật đời tư” được sửa đổi thành “quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật

gia đình” (Điều 38) cho phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013. Tuy nhiên,

nội dung các quy định về quyền bí mật đời tư hầu như được giữ nguyên, trong đó có

các cụm từ “trừ trường hợp luật có quy định khác”, “chỉ được thực hiện trong trường

hợp luật định”. Về các luật liên quan, ngoài một vài quy định của Bộ luật Hình sự và

BLTTHS thì khó có thể tìm thấy hoặc làm rõ luật nào “có quy định khác”, “trường hợp

luật định” là các trường hợp nào.

2

Về nguyên tắc, quyền bí mật đời tư được bảo vệ chủ yếu bởi các quy định của Bộ

luật Hình sự và Bộ luật Dân sự. Thực tế cho thấy chỉ khi có “thiệt hại” của cá nhân bị

xâm hại (bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng), người vi phạm mới phải chịu các chế

tài vật chất. Ngoài việc thiếu vắng các chế tài hành chính có thể áp dụng với cả những

trường hợp không có thiệt hại xảy ra nhằm bảo vệ quyền hợp pháp của cá nhân cũng

như mang tính giáo dục chung, ngăn ngừa vi phạm, cho đến nay chưa có văn bản pháp

luật nào giải thích cụ thể hơn về bí mật đời tư của cá nhân.

Những người quan tâm đặt ra nhiều câu hỏi: Các dạng thông tin cụ thể nào được

coi là bí mật cá nhân? Phạm vi đời sống riêng tư của một cá nhân thế nào? Có sự khác

nhau giữa “dân thường” và quan chức, người nổi tiếng hay không? Đối với người bị

tạm giữ, khởi tố về hình sự và người đã bị kết án, quyền của họ ra sao? Việc thu thập,

lưu trữ, sử dụng, công bố thông tin riêng, nhận dạng cá nhân được thực hiện thế nào,

cơ quan có thẩm quyền tiến hành, xử lý với từng trường hợp vi phạm ra sao? Những

câu hỏi này đều là các vấn đề có thể gây tranh cãi khó đi đến hồi kết, nếu không được

luật hóa bằng các quy định cụ thể.

Như vậy, nếu không làm rõ được khái niệm bí mật đời tư hay “đời sống riêng

tư”, “bí mật cá nhân”, nếu không chỉ rõ được ranh giới giữa an toàn và vi phạm, thì

“đời sống riêng tư”, “bí mật cá nhân” khó được bảo đảm an toàn, dẫn tới cách hiểu

khác nhau và sự tùy tiện trong áp dụng, thực hiện pháp luật nhất là khi chính hoạt động

của cơ quan nhà nước (cơ quan điều tra, Tòa án) và của báo chí rất dễ trở thành “chủ

thể” của hành vi xâm phạm bí mật đời tư. Do đó, việc quy định các quyền này trong

Bộ luật Dân sự 2005 như hiện nay và kể cả như trong Bộ luật Dân sự 2015 chưa mang

lại ý nghĩa thiết thực.

Xuất phát từ yêu cầu có tính thời sự và cấp thiết đó, tác giả đã lựa chọn đề tài

“Pháp luật về quyền bí mật đời tư ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” làm đề

tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở của mình. Qua nghiên cứu, tác giả muốn làm rõ

những quy định của pháp luật về quyền bí mật đời tư, xác định vai trò quan trọng của

quyền nhân thân nói chung cũng như quyền bí mật đời tư nói riêng trong pháp luật dân

sự Việt Nam. Đồng thời, góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý cũng như nâng cao

hơn nữa hiệu quả thực thi pháp luật về quyền bí mật đời tư và bảo vệ quyền bí mật đời

tư của cá nhân ở nước ta hiện nay.

3

1.2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THUỘC LĨNH VỰC CỦA

ĐỀ TÀI

1.2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Quyền bí mật đời tư là quyền nhân thân bất khả xâm phạm được pháp luật các

quốc gia bảo vệ chặt chẽ. Ở các nước phát triển trên thế giới, vấn đề bảo vệ quyền con

người nói chung và quyền bí mật đời tư nói riêng được pháp điển hóa một cách cụ thể.

BLDS Pháp ghi nhận mọi người đều có quyền được tôn trọng đời tư của mình và

quyền riêng tư này được pháp luật bảo vệ bằng nhiều hình thức khác nhau. Tòa án tối

cao Pháp đã có phán quyết giải thích về phạm vi của quyền riêng tư, theo đó thì đời

sống riêng tư của một người bao gồm: Đời sống tình cảm, bạn bè, gia đình, sinh hoạt

hằng ngày, quan điểm chính trị, công việc làm ăn hay tư tưởng tôn giáo và tình trạng

sức khỏe. Có thể thấy rằng theo BLDS Pháp thì quyền riêng tư của mọi cá nhân là như

nhau. Đồng thời phạm vi bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân là rất rộng, bao gồm các

thông tin được đưa ra cả tại nơi công cộng lẫn nơi riêng tư của cá nhân.

Hiến pháp Nhật Bản ghi nhận rằng công dân có quyền sống, tự do và theo đuổi

hạnh phúc và được tôn trọng với tư cách là một công dân. Đây là quy định làm nền

tảng cho những quy định của pháp luật chuyên ngành về quyền bí mật đời tư như:

Công dân không được phép xây nhà có thể nhìn vào nhà của người khác, nghiêm cấm

nhìn ngó nơi cư ngụ của người khác hay đọc thư cá nhân của người khác. Năm 2003,

Nhật Bản ban hành Luật Bảo vệ những thông tin cá nhân. Đồng thời, tòa án Nhật Bản

đã giải thích quyền về bí mật đời tư của cá nhân, bao gồm: i) Quyền không bị công bố

thông tin cá nhân nếu không có lý do chính đáng; ii) Quyền quyết định đối với thông

tin cá nhân. Cũng theo Tòa án Nhật Bản, để xác định có sự vi phạm về quyền bí mật

đời tư hay không phải đảm bảo các yêu cầu sau: i). Có liên quan đến đời sống riêng tư

của cá nhân. ii). Cá nhân đó có mong muốn giữ bí mật. iii). Không phải là thông tin,

hiểu biết công cộng. iv). Gây ảnh hưởng nặng nề đối với cá nhân nếu bị xâm phạm.

Bên cạnh đó, Hội đồng Calcutt ở Vương quốc Anh cho rằng: “không nơi nào chúng ta

có thể tìm thấy một định nghĩa hoàn toàn thỏa đáng về quyền riêng tư”. Nhưng Hội

đồng này đã hài lòng với định nghĩa sau: Quyền riêng tư là các quyền của cá nhân

được bảo vệ để chống lại sự xâm nhập vào đời sống cá nhân hay công việc của mình

(hoặc những người trong gia đình) bằng các phương tiện vật lý trực tiếp hoặc bằng

cách công bố thông tin.

4

Như vậy, nhìn chung có thể thấy rằng pháp luật các quốc gia trên thế giới đều rất

quan tâm tới việc bảo vệ “quyền bí mật đời tư” của cá nhân.

Không những thế, quyền bí mật đời tư cũng là chủ đề được các nhà nghiên cứu

khoa học tập trung khai thác dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Có thể kể đến như Luận

văn thạc sỹ “Antitrust Investigations and the Right to Privacy” của tác giả Mar’yana

Yarmolenko, Faculty of Law, University of Lund, 2003. Luận văn đã nghiên cứu các

vấn đề cơ bản về quyền riêng tư của cá nhân, đồng thời đưa ra các giải pháp thiết thực

để bảo vệ quyền con người nói chung và quyền riêng tư nói riêng.

Hay bài viết “Privacy law' may need rewriting due to modern technology, says

senior judge” By David Barrett, Home Affairs Correspondent, bài viết đã đưa ra quan

điểm thay đổi hành lang pháp lý về bảo vệ quyền riêng tư cho phù hợp với sự phát

triển của xã hội hiện đại, khi mà vấn đề xâm phạm quyền bí mật đời tư của cá nhân

diễn ra khá phổ biến.

Hay bài nghiên cứu “The Right to Privacy” của hai tác giả: Warren and

Brandeis, Harvard Law Review, 1890; bài viết cũng đã tập trung phân tích các vấn đề

lý luận và thực tiễn về quyền bí mật riêng tư.

Nói tóm lại, quyền bí mật đời tư là quyền con người cơ bản được pháp luật hầu

hết các quốc gia trên thế giới bảo vệ thông qua việc quy định khá chặt chẽ trong các

văn bản pháp lý quan trọng. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng đặc biệt quan tâm

đến vấn đề này. Điều đó cho thấy việc nghiên cứu và bảo vệ quyền bí mật đời tư của

cá nhân là hết sức quan trọng, đây là lĩnh vực được quan tâm rất lớn trong xã hội hiện

nay, khi mà quyền con người được chú trọng hơn bao giờ hết.

1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

Trước khi có Bộ luật Dân sự 1995, gần như không có một công trình khoa học

nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống về quyền bí mật đời tư. Sau khi Bộ luật

Dân sự 1995 ra đời, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về quyền nhân thân

dưới góc độ là một quyền của con người trong lĩnh vực dân sự như

 “Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị“ – Sách chuyên khảo của Trung

tâm Nghiên cứu quyền con người – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Nội

dung cuốn sách có đề cập nhưng không chi tiết về các quyền nhân thân theo quy định

của Bộ luật Dân sự, trong đó có quyền đối với bí mật đời tư.

5

 “Vai trò của Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền nhân thân của công

dân theo quy định của Bộ luật Dân sự“ – Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của

Tòa án Nhân dân Tối cao. Công trình này cũng chỉ dừng lại ở việc khẳng định vai trò

của Tòa án Nhân dân trong việc bảo vệ quyền nhân thân nói chung chứ chưa đưa ra

được phương hướng giải quyết tranh chấp, bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân ở

những trường hợp cụ thể - trong khi đó mỗi quyền nhân thân lại có đặc thù riêng.

Mãi tới sau khi Bộ luật Dân sự 2005 ra đời, thay thế Bộ luật Dân sự 1995 cũng

đã có thêm vài công trình khoa học tuy không nhiều được đăng ở một số báo, tạp chí

chuyên ngành nhưng thực chất mới chỉ dừng lại ở khía cạnh nêu, liệt kê một vài vụ

việc tranh chấp điển hình liên quan đến xâm phạm bí mật đời tư, kèm theo những ý

kiến đánh giá mang tính chủ quan, một chiều... Một số bài viết trên các tạp chí khoa

học pháp lý như: “Sự phát triển của pháp luật dân sự liên quan đến các quy định về

quyền nhân thân” (Lê Đình Nghị, Nghề Luật, số 3/2007) đã khái quát được quá trình

hình thành và phát triển các quy định về quyền nhân thân trong pháp luật dân sự; “Bàn

về khái niệm quyền bí mật đời tư” (Lê Đình Nghị, Nghề Luật, số 3/2007) đã phân tích

những quy định pháp lý liên quan đến khái niệm quyền bí mật đời tư, tuy nhiên mới

chỉ dừng ở đó chưa chỉ ra được đặc điểm hay các nội dung của quyền bí mật đời tư,

biểu hiện cụ thể của các hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư...; “Xung quanh một vụ

kiện về việc xâm phạm bí mật đời tư” (Lê Đình Nghị, Nghề Luật, số 6/2007) đã đưa

đến cho người đọc một vụ việc điển hình, gây nhức nhối trong dư luận và những tranh

cãi về hướng xử lý sau đó, đây là một trong vô số các trường hợp có biểu hiện xâm

phạm đến quyền bí mật đời tư của cá nhân; “Khái niệm và phân loại quyền nhân thân”

(TS. Bùi Đăng Hiếu, Tạp chí Luật học, số 7/2012) đã phân tích khái niệm quyền nhân

thân và phân loại các quyền nhân thân thành các nhóm quyền khác nhau. Ngoài ra,

quyền bí mật đời tư còn được nghiên cứu trong Luận án TS Luật học của NCS Lê

Đình Nghị năm 2007: “Quyền bí mật đời tư theo qui định của pháp luật dân sự Việt

Nam”, tuy nhiên, cũng giống như một số công trình nghiên cứu trên đây, công trình

này vì đã khá lâu – 10 năm nên thiếu tính cập nhật, hơn nữa chủ yếu nghiên cứu trong

lĩnh vực dân sự chứ ít đặt trong mối tương quan tới các văn bản pháp luật chuyên

ngành.

6

Như vậy, có thể thấy những công trình trên hoặc là không nghiên cứu riêng; nếu

có thì vẫn còn lẻ tẻ, tản mạn chưa có tính hệ thống về quyền bí mật đời tư và bảo vệ bí

mật đời tư, hoặc thời gian nghiên cứu khá xa trong bối cảnh BLDS và các văn bản

pháp luật chuyên ngành có liên quan đều đã có nhiều thay đổi.

Trong giai đoạn gần đây, nhất là trong bối cảnh sửa đổi Bộ luật Dân sự 2005 và

đến nay Bộ luật Dân sự 2015 đã được thông qua nhưng vẫn chưa có hiệu lực thì bí mật

đời tư, nội dung của bí mật đời tư và cơ chế bảo vệ quyền bí mật đời tư dường như vẫn

còn là vấn đề khá mới, hầu như chưa có thêm bất kỳ công trình nghiên cứu toàn diện

nào về vấn đề này.

Nhận thức được điều đó, đề tài “Pháp luật về quyền bí mật đời tư ở Việt Nam –

Thực trạng và giải pháp ” lần đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ đề tài nghiên cứu

khoa học cấp cơ sở, trên cơ sở kế thừa một số đánh giá của các công trình nghiên cứu

trước, đồng thời hướng tới phân tích một cách toàn diện, đầy đủ và đảm bảo được tính

logíc, hệ thống về quyền bí mật đời tư, tác giả mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé

vào công cuộc hoàn thiện và thực thi có hiệu quả pháp luật về quyền bí mật đời tư ở

Việt Nam hiện nay.

1.3. XÁC LẬP VÀ TUYÊN BỐ VẤN ĐỀ TRONG ĐỀ TÀI

Đề tài tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản sau:

­ Một số vấn đề lý luận trong quy định của pháp luật về quyền bí mật đời tư

(khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật điều chỉnh về quyền bí mật đời tư...), việc

nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các quy định trong BLDS 2005, 2015 và các văn bản

pháp luật chuyên ngành

­ Rà soát quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về quyền bí mật đời tư,

nghiên cứu vấn đề bí mật đời tư theo quy định của của một số quốc gia khác và Công

ước quốc tế

­ Trên cơ sở lý luận, đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng trong quy định của

pháp luật về quyền bí mật đời tư và thực tiễn bảo vệ quyền bí mật đời tư ở Việt Nam

hiện nay

7

­ Từ việc tìm ra những điểm bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật về

quyền bí mật đời tư và bảo vệ bí mật đời tư, đề tài đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn

thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quyền bí mật đời tư

1.4. CÁC MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Lựa chọn nghiên cứu đề tài trên, tác giả mong muốn phân tích làm sáng tỏ các

quy định của pháp luật về quyền bí mật đời tư và bảo vệ quyền bí mật đời tư, thực tiễn

thi hành các quy định này trên thực tế, trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp góp phần

hoàn thiện hệ thống pháp luật và giải quyết tranh chấp liên quan đến bảo vệ quyền bí

mật đời tư, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay.

Để đạt được mục đích trên, tác giả đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản như sau:

­ Phân tích khái niệm, đặc điểm của quyền bí mật đời tư.

­ Phân tích quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành cũng như trong các văn bản

pháp luật chuyên ngành khác về quyền bí mật đời tư: Nội dung pháp luật điều chỉnh,

cơ chế bảo vệ, giải quyết tranh chấp…

­ Khái quát quá trình phát triển trong quy định của pháp luật Việt Nam về quyền

bí mật đời tư

­ Tìm hiểu pháp luật về việc ghi nhận và bảo hộ quyền bí mật đời tư của một số

quốc gia trên thế giới như Pháp, Nga, Nhật Bản…

­ Xem xét việc bảo vệ quyền bí mật đời tư theo quy định của Bộ luật Dân sự

hiện hành – đặt trong sự phân tích mối tương quan với một số ngành luật khác (hành

chính, hình sự).

­ Phân tích thực trạng pháp luật về quyền bí mật đời tư, tìm hiểu thực tiễn của

việc bảo vệ quyền bí mật đời tư, những thuận lợi, khó khăn…

­ Xây dựng quan điểm và giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của

pháp luật về quyền bí mật đời tư và bảo vệ quyền bí mật đời tư, từ đó nâng cao hiệu

quả áp dụng pháp luật trên thực tế.

1.5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

 Về nội dung, đề tài hướng tới việc nghiên cứu những vấn đề lý luận như khái

niệm, đặc điểm của quyền bí mật đời tư, ý nghĩa của cơ chế bảo vệ quyền bí mật đời

8

tư, nội dung pháp luật điều chỉnh về quyền bí mật đời tư… Đồng thời, đề tài cũng chỉ

ra và phân tích những biểu hiện cụ thể của hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư của

cá nhân, những bất cập; hạn chế của pháp luật về quyền bí mật đời tư và bảo vệ quyền

bí mật đời tư gây khó khăn trong quá trình xử lý vi phạm trên thực tế; từ đó đưa ra cái

nhìn bao quát và đề xuất những giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng

cao hiệu quả thực thi pháp luật trong lĩnh vực quyền bí mật đời tư của cá nhân.

 Về không gian, đề tài nghiên cứu dựa trên phạm vi các quy định của pháp luật

về quyền bí mật đời tư ở Việt Nam hiện hành chủ yếu trong Bộ luật Dân sự, một số

văn bản luật chuyên ngành và các văn bản hướng dẫn thi hành. Ngoài ra đề tài còn có

sự đối chiếu với các quy định pháp luật về quyền bí mật đời tư của một số nước trên

thế giới.

 Về thời gian: Đề tài nghiên cứu các quy định hiện hành của Việt Nam liên

quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài, đặc biệt là từ năm 2005 cho đến nay.

1.6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

Trên cơ sở mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài “Pháp luật về quyền bí mật

đời tư ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”được nghiên cứu trên cơ sở phương

pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu quyền bí

mật đời tư trong mối quan hệ với điều kiện kinh tế - xã hội; trong sự tương quan với

các quyền nhân thân khác.

Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử để thấy rõ được

quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam trong việc quy định quyền bí mật đời tư,

phương pháp so sánh để thấy những điểm tiến bộ, những điểm hạn chế trong quy định

của pháp luật Việt Nam với pháp luật của một số nước khác trên thế giới, phương pháp

thống kê - phân tích nhằm cụ thể hóa và làm rõ những nội dung quan trọng của pháp

luật về quyền bí mật đời tư và thực tiễn bảo vệ quyền bí mật đời tư ở Việt Nam hiện

nay, các phương pháp tổng hợp, đánh giá thực trạng pháp luật liên quan đến vấn đề

nghiên cứu. Từ đó, tác giả đưa ra những giải pháp khắc phục những bất cập trong pháp

luật về quyền bí mật đời tư, góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao

hiệu quả thực thi pháp luật trên thực tế.

Bên cạnh đó, phương pháp quy nạp, diễn giải… cũng được sử dụng rất nhiều

trong quá trình nghiên cứu đề tài.

9

1.7. KẾT CẤU BÁO CÁO NGHIÊN CỨU

Đề tài có kết cấu gồm 4 chương:

­ Chương 1: Tổng quan nghiên cứu đề tài pháp luật về quyền bí mật đời tư ở

Việt Nam

­ Chương 2: Một số vấn đề lý luận về quyền bí mật đời tư

­ Chương 3: Thực trạng pháp luật về quyền bí mật đời tư và thực tiễn bảo vệ

quyền bí mật đời tư ở Việt Nam

­ Chương 4: Phương hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao

hiệu quả áp dụng pháp luật về quyền bí mật đời tư

10

CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ



2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ

Quyền bí mật đời tư là một quyền nhân thân quan trọng của cá nhân và là cũng

là một quyền dân sự. Đưa ra khái niệm bí mật đời tư cùng những đặc điểm của bí mật

đời tư có ý nghĩa rất lớn trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền của cá nhân trong lĩnh

vực khá nhạy cảm này, đồng thời đây còn là cơ sở để Tòa án, cơ quan Nhà nước có

thẩm quyền khác bảo vệ quyền của cá nhân đối với bí mật đời tư khi quyền đó bị xâm

phạm.

2.1.1. Khái niệm quyền bí mật đời tư

Cho đến nay, mặc dù “bí mật đời tư” được đề cập khá nhiều trong các văn bản

pháp luật cũng như các văn bản áp dụng, hướng dẫn thi hành pháp luật của Nhà nước

ta như Hiến pháp, BLDS, Luật báo chí, Luật Xuất bản, Luật Viễn thông, một số văn

bản của Bộ Y tế... Tuy nhiên trên thực tế vẫn chưa hề có một quy định rõ ràng như thế

nào là bí mật đời tư mà chỉ ghi nhận về quyền bí mật đời tư, coi đó là quyền mà các

chủ thể có liên quan, được xác định phải tôn trọng . Đây cũng chính là một trong

những khó khăn khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong việc

giải quyết các tranh chấp liên quan đến bí mật đời tư. Bởi lẽ quyền bí mật đời tư được

xây dựng trên khái niệm bí mật đời tư, muốn xác định được phạm vi của quyền bí mật

đời tư đòi hỏi chúng ta phải xác định được khái niệm về bí mật đời tư. Vậy bí mật đời

tư là gì?

Có rất nhiều lập luận, căn cứ được các nhà nghiên cứu trong nước đưa ra khi đề

cập đến khái niệm bí mật đời tư, tác giả xin trích dẫn một số quan điểm xoay quanh

vấn đề này như sau:

­ Theo cuốn Đại từ điển Tiếng Việt thì bí mật được giải thích là “giữ kín, không

để lộ ra, không công khai.” [26, tr. 155]

Một cách giải thích khác thì cho rằng: “Bí mật là thông tin cần che giấu, chỉ để

một số nhất định những người có liên quan được biết. Những thông tin được xác định

là bí mật chỉ mang ý nghĩa tương đối. Dưới góc độ này hay đối với một bên thì nó có

thể cần phải che đậy, giữ kín, nhưng dưới góc độ khác, đối với bên khác nó có thể

11

không cần che giấu. Tính bí mật có được do những gì chứa đựng trong thông tin đó có

liên quan đến một điều gì đó mà nếu để người không có nhiệm vụ biết thì có thể sẽ gây

ảnh hưởng xấu, gây thiệt hại cho bên cần che giấu. Bí mật thông thường được chia

làm ba cấp độ, từ thấp đến cao là: Mật; Tối mật; Tuyệt mật” [2]. Như vậy, theo sự

giải thích này thì bí mật được xác định bởi các yếu tố sau: 1. Bí mật là những “thông

tin”; 2. Những “thông tin” này được che giấu bằng những biện pháp, cách thức khác

nhau; 3. Những “thông tin” được coi là bí mật này nếu để người không có nhiệm vụ

biết thì có thể sẽ gây ảnh hưởng xấu, gây thiệt hại cho bên cần che giấu thông tin.

Tuy nhiên, quan điểm này cũng cho rằng những “thông tin” được coi là bí mật

cũng chỉ mang tính tương đối.

­ Một số người làm công tác pháp luật lại cho là:

“Bí mật đời tư có thể được hiểu là những gì gắn với nhân thân con người, là

quyền cơ bản. Đó có thể là những thông tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình, tên gọi,

con cái, các mối quan hệ… gắn liền với một cá nhân mà người này không muốn cho

người khác biết. Những bí mật đời tư này chỉ có bản thân người đó biết hoặc những

người thân thích, người có mối liên hệ với người đó biết và họ chưa từng công bố ra

ngoài cho bất kỳ ai. “Bí mật đời tư”có thể hiểu là “chuyện trong nhà” của cá nhân

nào đó. Ví dụ: con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khỏe, bệnh

tật, các loại thư tín, điện thoại, điện tín,…”. [2]

Như vậy, quan điểm này cũng chỉ ra bí mật đời tư là những thông tin gắn liền với cá

nhân, chỉ có thể mình họ hoặc một số người hạn chế biết được. Tuy nhiên, nếu hiểu như

vậy thì cũng chưa bao quát được nội hàm của khái niệm bí mật đời tư, bởi lẽ nếu hiểu bí

mật đời tư là những thông tin chưa từng công bố cho bất kỳ ai thì cũng không đúng. Có

trường hợp thông tin này đã được công bố nhưng bản thân người tiếp nhận thông tin phải

có nghĩa vụ bảo mật thông tin thì thông tin đó vẫn được coi là bí mật đời tư.

­ Trong một Công trình Nghiên cứu khoa học cấp Bộ của TAND tối cao,

PGS.TS Nguyễn Văn Luật đã khẳng định:

“…bí mật đời tư của cá nhân được hiểu trên hai phương diện: 1. Bí mật về đời

sống tình cảm,tinh thần: Bí mật về đời sống tình cảm của cá nhân thể hiện tính chất

đặc biệt riêng tư của cá nhân đó. Điều luật cấm công khai cho mọi người biết các mối

quan hệ thực tại hoặc mang tính chất hình tượng mà cá nhân đó vốn có. 2. Bí mật về 12

đời sống nghề nghiệp, vật chất của cá nhân thể hiện là những bí mật về hoạt động

nghề nghiệp; tình trạng vật chất gắn liền với hoạt động đó.” [37, tr.167]

Theo cách diễn giải này thì khái niệm bí mật đời tư được bao quát trên các

phương diện: “tình cảm, tinh thần” và “nghề nghiệp, vật chất”. Như vậy khái niệm bí

mật đời tư có thể được khái quát theo hướng liệt kê mà không được khái quát theo

hướng bao quát, tuy nhiên sẽ có những trường hợp việc liệt kê sẽ không đầy đủ.

Có thể thấy rằng, mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng hầu hết các các

nhà nghiên cứu đều đồng ý rằng bí mật đời tư là những thông tin liên quan và gắn liền

với chính chủ thể đó, đó là những nội dung mang tính chất thầm kín cá nhân và họ

không muốn công khai cho người khác biết. Đó có thể là các thông tin liên quan đến

các yếu tố như tinh thần, vật chất, các quan hệ xã hội.

Quan điểm của tác giả đồng ý với cách nhìn nhận khái niệm “bí mật đời tư” như

trên. Bởi lẽ, “Bí mật đời tư” là một cụm từ Hán – Việt, có nguồn gốc từ chữ Hán và

được Việt hóa, do vậy để xây dựng khái niệm “bí mật đời tư” phải xác định được hai

khái niệm cũng như sự liên kết của hai khái niệm, đó là khái niệm “bí mật” và khái

niệm “đời tư”.

­ “Bí mật” được hiểu là giữ kín, không để lộ ra, không công khai. Tính “bí mật”

này có thể được xác định theo các tiêu chí cụ thể như:

 Bản thân thông tin đó đã mang tính bí mật. Việc xác định thông tin mang tính

bí mật có thể dựa vào bản chất của thông tin, có thể xác định theo qui định của pháp

luật (thư tín, điện thoại, tình trạng bệnh tật… – những thông tin này đã có văn bản

pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành xác định rõ đó là bí mật mà

không được tiết lộ hoặc xâm phạm).

 Người nắm giữ thông tin có thể đã áp dụng mọi biện pháp để bảo mật như

khoá, cài đặt mã số bảo vệ, hoặc áp dụng mọi biện pháp bảo vệ khác.

 Giữa chủ sở hữu thông tin bí mật với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác đã có sự

thoả thuận về nghĩa vụ giữ bí mật. Ví dụ: Anh A đến nhờ Văn phòng luật sư X tư vấn

pháp luật liên quan đến việc ly hôn của anh. Giữa A và Văn phòng luật sư X có ký hợp

đồng dịch vụ trong việc tư vấn, theo hợp đồng này thì Văn phòng có nghĩa vụ giữ bí

mật các thông tin của A khi A cung cấp cho Văn phòng luật sư X.

13

Tuy nhiên, chúng ta sẽ không coi là “bí mật” nếu những thông tin đó xâm phạm

lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người

khác (Ví dụ: thông tin liên quan đến hành vi phạm tội, chuẩn bị phạm tội). Trong

trường hợp này việc tiết lộ thông tin sẽ không bị coi là xâm phạm bí mật đời tư.

Mặt khác, khái niệm “bí mật đời tư” chỉ có ý nghĩa tương đối. Bởi vì, cùng một

nội dung vụ việc có tính chất như nhau, đối với người này có thể là bí mật nhưng đối

với người khác chỉ là một thông tin bình thường, có thể công bố rộng rãi. Đối với mỗi

người thì việc xác định như thế nào là bí mật đời tư chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu

tố như: quan điểm, quan niệm, thói quen sống, làm việc, phong tục tập quán, các qui

định của pháp luật có liên quan...

­ “Đời” là đời sống, cuộc sống hàng ngày, “tư” có nghĩa là riêng, việc riêng, của

riêng, một cách giải thích khác của cuốn Đại từ điển tiếng Việt thì “Tư: Riêng, của cá

nhân; trái với công (chung), đời tư, riêng tư...”

Qua phân tích các yếu tố liên quan đến bí mật đời tư, chúng ta có thể đưa ra khái

niệm bí mật đời tư như sau:

“Bí mật đời tư là những thông tin về tinh thần, vật chất, quan hệ xã hội hoặc

những thông tin khác liên quan đến cá nhân trong quá khứ cũng như trong hiện tại,

được pháp luật bảo vệ và những thông tin đó được bảo mật bằng những biện pháp mà

pháp luật thừa nhận.”

Quyền bí mật đời tư là quyền nhân thân bất khả xâm phạm của cá nhân. Về cơ

bản có thể hiểu rằng: “Quyền bí mật đời tư của cá nhân là quyền được bảo vệ về bí

mật đời tư, nói cách khác không ai được quyền xâm phạm đến bí mật đời tư của cá

nhân khi chưa được phép”.

2.1.2. Đặc điểm của quyền bí mật đời tư

Là một trong những quyền nhân thân được pháp luật quy định và bảo vệ, quyền

bí mật đời tư cũng mang đầy đủ các đặc điểm của quyền nhân thân. Bên cạnh đó

quyền bí mật đời tư còn có những đặc điểm riêng. Việc xem xét những đặc điểm này

có ý nghĩa quan trọng trong quá trình nghiên cứu và trong thực tiễn giải quyết các

tranh chấp tại Tòa án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác khi cần xác định như thế

nào là một hành vi xâm phạm bí mật đời tư.

14

Quyền bí mật đời tư có các đặc điểm sau đây:

 Thứ nhất, quyền bí mật đời tư được pháp luật dân sự thừa nhận và bảo vệ

luôn thuộc về cá nhân, không thể chuyển giao cho chủ thể khác

Dưới góc độ pháp luật dân sự thì cá nhân là chủ thể chủ yếu, thường xuyên, quan

trọng và phổ biến của quan hệ dân sự. Các quyền mà pháp luật quy định cho cá nhân là

vì con người và hướng tới con người, trong đó có các quyền nhân thân nói chung và

quyền bí mật đời tư nói riêng. Quyền bí mật đời tư chỉ thuộc về cá nhân trong khi đó

các quyền khác (quyền tài sản) có thể thuộc về chủ thể khác (pháp nhân, hộ gia đình).

Quyền bí mật đời tư là do Nhà nước quy định cho các chủ thể dựa trên điều kiện

kinh tế - xã hội nhất định, do vậy, về mặt nguyên tắc, quyền bí mật đời tư không thể

dịch chuyển cho chủ thể khác, nói cách khác thì quyền bí mật đời tư không thể là đối

tượng trong các giao dịch dân sự giữa cá nhân. Bản thân chủ thể hưởng quyền bí mật

đời tư chứ họ không thể ủy quyền cho ai đó và thông thường, không ai có thể đại diện

cho họ để thực hiện những quyền này trừ trường hợp pháp luật quy định.

 Thứ hai, mọi cá nhân đều có sự bình đẳng về quyền bí mật đời tư, tuy nhiên

vẫn có trường hợp ngoại lệ

Mọi cá nhân đều có quyền nhân thân nói chung, quyền bí mật đời tư nói riêng kể

từ khi họ được sinh ra, không phân biệt giới tính, tôn giáo, địa vị xã hội, trình độ học

vấn, tuổi tác... Cá nhân có thể có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, mất năng lực hay bị

hạn chế năng lực hành vi dân sự, hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi,

tuy nhiên quyền bí mật đời tư của họ vẫn luôn được pháp luật bảo hộ như nhau.

Mặt khác, trong một số trường hợp nhất định sẽ có sự ngoại lệ đối với một số đối

tượng. Việc quy định những ngoại lệ này cũng không nằm ngoài mục đích công - vì

lợi ích của cả cộng đồng. Ví dụ, mọi cá nhân trong xã hội đều có quyền giữ bí mật về

thu nhập và tài sản của mình nếu nguồn gốc của tài sản, thu nhập là họp pháp. Tuy

vậy, trong một số trường hợp do pháp luật quy định thì cá nhân phải công khai thu

nhập cũng như tài sản của mình. Chẳng hạn, theo quy định của Luật Phòng, chống

tham nhũng 2005 sửa đổi bổ sung năm 2012 thì kê khai tài sản, mọi biến động về tài

sản là nghĩa vụ thuộc về một số cán bộ nhất định như cán bộ từ Phó trưởng phòng trở

lên, một số cán bộ, công chức tại xã, phường, thị trấn, người làm công tác quản lý

ngân sách, người ứng cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân... Sở dĩ pháp luật quy

15

định như vậy nhằm phòng và chống các hành vi tham nhũng bởi công việc, chức vụ

mà những người này đảm trách thuộc lĩnh vực “nhạy cảm”, có thể vụ lợi.

Bên cạnh đó, mặc dù pháp luật của Việt Nam chưa có quy định cụ thể nhưng

trên thực tế, những người được coi là “người của công chúng” thì vấn đề bí mật đời tư

của họ cũng rất khó xác định. Chẳng hạn, bí mật đời tư của các vị lãnh đạo Đảng và

Nhà nước. Những thông tin liên quan đến họ luôn là một trong những tâm điểm chú ý

của mọi người trong xã hội. Họ bị coi là ít có quyền riêng tư hơn vì họ là công bộc của

dân, giữ những vị trí quan trọng mà hành động có thể tác động tới hầu hết nhân dân.

Là “người của công chúng” nên công chúng có quyền khai thác các thông tin, hình ảnh

của họ. Nếu đối với một cá nhân bình thưòng, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân đó

phải được sự đồng ý của bản thân họ, nhưng đổi với một người lãnh đạo Đảng, lãnh

đạo Nhà nước thì việc sử dụng hình ảnh của họ lại không bị coi là xâm phạm đến bí

mật đời tư, trừ khi việc sử dụng đó nhằm những mục đích trái pháp luật.

 Thứ ba, về không gian quyền bí mật đời tư được bảo hộ ở một không gian rộng

Quan hệ giữa cá nhân đối với mọi người trong xã hội là cơ sở để chúng ta ghi

nhận sự tồn tại của các quyền liên quan đến cá nhân đó, trong đó có quyền riêng tư,

quyền đảm bảo sự bí mật đời tư. Nếu xét dưới góc độ nội dung của quyền bí mật đời tư

thì bí mật đời tư của cá nhân có thể là những thông tin về tình cảm gia đình, quan hệ

cha mẹ - con, quan hệ vợ - chồng; những quan hệ với đồng nghiệp ở cơ quan công tác

hoặc những quan hệ xã hội khác. Ngoài ra bí mật đời tư cũng có thể là các vấn đề cụ

thể của cá nhân như tình trạng bệnh tật, sức khoẻ... thậm chí những thông tin liên quan

đến thu nhập (thu nhập hợp pháp), thông tin liên quan đến các nghĩa vụ mà cá nhân

thực hiện đối với Nhà nước hoặc chủ thể khác (tiền thuế mà cá nhân phải nộp, tiền

điện thoại mà cá nhân phải thanh toán...) cũng được coi là thông tin mang tính bí mật.

Xuất phát từ những yếu tố trên đây, với ý nghĩa là bảo hộ quyền bí mật đời tư

theo một không gian cụ thể, chúng ta có thể hiểu bí mật đời tư của cá nhân có thể được

đảm bảo không chỉ trong cuộc sống hàng ngày của cá nhân ở nơi cư trú mà còn có thể

được đảm bảo ở môi trường xung quanh, ví dụ ở cơ quan nơi cá nhân công tác, thậm

chí ở bất cứ nơi nào có thể bảo vệ được. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với

việc bí mật đời tư của cá nhân được bảo hộ ngoài phạm vi lãnh thổ Việt Nam..

16

 Thứ tư, quyền bí mật đời tư được bảo hộ vô thời hạn

Quyền nhân thân nói chung, quyền bí mật đời tư nói riêng là một trong những nội

dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân (Khoản 1, Điều 17 BLDS 2015). Quyền bí

mật đời tư của cá nhân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ trong suốt cuộc đời của cá

nhân. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, khi cá nhân không thể tự bảo vệ

quyền và lợi ích họp pháp của mình (người chưa thành niên, người mất năng lực hành

vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi năng lực hành vi dân

sự) thì người đại diện theo pháp luật có thể thực hiện việc bảo vệ quyền bí mật đời tư

của cá nhân bằng cách áp dụng các biện pháp bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật

hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thấm quyền bảo vệ.

Nếu như chúng ta khẳng định “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi

người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. "(Khoản 3 Điều 16, BLDS 2015) thì

dường như đối với các quyền nhân thân của cá nhân lại là trường hợp ngoại lệ, điều đó có

nghĩa là ngay kể cả sau khi cá nhân chết thì các quyền nhân thân vẫn được pháp luật bảo

vệ. Khoản 2, Điều 25 BLDS 2015 quy định: “Việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự liên

quan đến quyền nhân thân của người bị tuyên bố mất tích, người đã chết phải được sự

đồng ý của vợ, chồng hoặc con thành niên của người đó; trường hợp không có những

người này thì phải được sự đồng ý của cha, mẹ của người bị tuyên bố mất tích, người đã

chết, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”

Như vậy, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy, khi cá nhân còn sống nếu như việc

công bố bí mật đời tư mà không được sự đồng ý của họ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến

cuộc sống, sinh hoạt của bản thân cá nhân đó (chủ sở hữu thông tin liên quan đến bí

mật đời tư). Khi cá nhân chết hoặc bị Tòa án ra quyết định tuyên bố là đã chết, những

thông tin, tư liệu liên quan đến cá nhân này vẫn được pháp luật bảo vệ bởi điều đó sẽ

ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, sinh hoạt của những người thân thích của họ. Do đó,

thu thập công bố thông tin tư liệu của cá nhân khi cá nhân đã chết hoặc bị Tòa án

tuyên bố là đã chết thì phải được cha, mẹ hoặc vợ, chồng hoặc con đã thành niên của

người đó đồng ý.

 Thứ năm, những thông tin liên quan đến đời tư được bảo hộ phải là những

thông tin mang tính bí mật, không được trái pháp luật và đạo đức xã hội

17

­ Những thông tin liên quan đến đời tư được bảo hộ phải là những thông tin

mang tính bí mật

Cuộc sống của mỗi một con người gắn liền với nhiều thông tin và theo thời gian,

các thông tin này ngày càng được bổ sung, phát triển. Trong những thông tin đó, có

những thông tin mà người ta không cần giấu giếm, hoặc thậm chí không thể giấu giếm

được: bị bắt và đi tù vì phạm tội, người thân trong gia đình chết, bị tai nạn lao động, tai

nạn giao thông... nhưng bên cạnh đó còn có những thông tin mà người ta hoàn toàn có

thể không công khai và nếu họ không công khai thì những người khác không thể biết

được. Để có thể được thừa nhận là những thông tin được bảo hộ trong phạm trù “bí

mật đời tư” thì những thông tin đó phải mang tính “bí mật”. Vậy tính bí mật của thông

tin được xác định theo những tiêu chí nào ?

Một là, tính “bí mật” của thông tin được xác định theo bản chất của thông tin đó

hoặc thông qua những hình thức chứa đựng thông tin, truyền thông tin cụ thể để chúng

ta xác định đó là bí mật.

Ví dụ: cảm xúc vui buồn của cá nhân có thể được người ta bày tỏ trước một số

chủ thể nhất định – trường hợp này sẽ không coi đó là bí mật. Tuy nhiên, nếu cảm xúc

đó được bản thân cá nhân thể hiện thông qua một hình thức khác như ghi nhật ký (kể

cả trong trường hợp nhật ký đã được viết dưới dạng ký hiệu, mật mã và không có bất

kỳ biện pháp nào để bảo vệ thông tin) thì những thông tin được thể hiện trong nhật ký

vẫn được coi là bí mật riêng tư, nếu ai đó tự ý công bố cuốn nhật ký này mà không

được phép của chủ sở hữu sẽ bị coi là xâm phạm bí mật đời tư.

Ngoài ra trong một số trường hợp, hình thức của việc truyền tải thông tin cũng

thể hiện được bí mật của thông tin đang truyền tải. Ví dụ những cuộc điện thoại,

những tin nhắn qua lại, gửi thư cho nhau (thư tay or thư điện tử) thì mặc nhiên chúng

ta phải hiểu nội dung trao đổi trong những cuộc trò chuyện đó là mang tính bí mật.

Hai là, tính bí mật của thông tin còn có thể được xác định theo quy định của pháp luật.

Tất nhiên, tính bí mật được xác định theo quy định của pháp luật đối với thông

tin ở đây là những thông tin liên quan đến bản thân cá nhân, không áp dụng đối với bí

mật Nhà nước. Pháp luật không thể dự liệu và liệt kê được toàn bộ những thông tin

liên quan đến cá nhân mà chỉ có thể có sự khái quát và cụ thể hoá trong một số trường

hợp cụ thể. Chẳng hạn, trong một số văn bản pháp luật của Nhà nước ta, chúng ta có

18

những quy định cụ thể như các xuất bản phẩm không được có nội dung tiết lộ bí mật

đời tư của cá nhân khi không được phép, hoặc nghiệp vụ báo chí không cho phép tiết

lộ bí mật đời tư của cá nhân, ngoài ra cấm đưa thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu

khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân... Có

những trường hợp không được công bố thông tin liên quan đến cá nhân, nếu công bố

những thông tin nảy thì sẽ bị coi là xâm phạm bí mật đời tư, ví dụ: Tại Điều 8 của Luật

Phòng, chống nhiễm virut gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người

(HIV/AIDS) 2006 nghiêm cấm hành vi: “Công khai tên, địa chỉ, hình ảnh của người

nhiễm HIV hoặc tiết lộ cho người khác biết việc một người nhiễm HIV khi chưa được

sự đồng ý của người đó...” .

Ba là, sẽ coi là thông tin có tính bí mật khi chủ sở hữu thông tin áp dụng các biện

pháp bảo mật.

Bản thân chủ sở hữu thông tin có thể áp dụng các biện pháp bảo mật như khóa,

cài đặt mã số, niêm phong... Thông thường, những trường hợp cần xác định tính bảo

mật thông tin đối với chủ sở hữu là khi có tranh chấp xảy ra, bản thân chủ sở hữu

thông tin cho rằng người khác đã cung cấp thông tin, tiết lộ thông tin khi không được

sự đồng ý của họ - đây chính là hành vi xâm phạm bí mật đời tư của chủ sở hữu thông

tin. Tuy nhiên, bản thân họ phải đưa ra các chứng cứ để chứng minh cho quá trình bảo

mật thông tin của mình.

Bốn là, tính bí mật của thông tin còn có thể được xác định thông qua quan hệ

nghĩa vụ giữa chủ sở hữu thông tin với chủ thể khác.

Theo những quan hệ này, giữa chủ sở hữu thông tin và những người biết được

thông tin đó đã có sự thoả thuận, theo đó những người biết được thông tin do chủ sở

hữu cung cấp phải có nghĩa vụ “bảo mật” - tức là giữ bí mật các thông tin mà mình đã

biết. Ví dụ: trong quan hệ hợp đồng dịch vụ, giữa các bên tham gia giao kết thoả thuận

theo đó bên cung ứng dịch vụ phải giữ bí mật thông tin mà bên thuê dịch vụ cung cấp

thì bên cung ứng dịch vụ phải có nghĩa vụ này. Điều 517 của BLDS 2015 khi quy định

về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ có quy định, bên cung ứng dịch vụ phải “...5.

Giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong thời gian thực hiện công việc, nếu

có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định;... ”

19

­ Những thông tin được coi là “bí mật đời tư” không được trái pháp luật và đạo

đức xã hội

Sự đan xen các mối quan hệ trong xã hội là một điều không thể tránh khỏi, sống

trong một cộng đồng, một tập thể, rộng hơn nữa là sống trong một xã hội nhất định thì

lợi ích chung - riêng luôn có sự kết hợp hài hoà. Cá nhân không thể vì lợi ích của bản

thân mình mà bỏ qua lợi ích của người khác. Những thông tin chỉ có thể được coi là bí

mật đời tư và được pháp luật bảo vệ với điều kiện là những thông tin đó không được

coi là trái pháp luật và trái với đạo đức xã hội

Nếu thông tin có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp

pháp của người khác, thì việc công bố thông tin mặc dù không được phép của chủ sở

hữu thông tin cũng không bị coi là xâm phạm bí mật đời tư như việc công khai các

hành vi vi phạm pháp luật. Ví dụ: A và B chơi thân với nhau, A đến nhà người yêu

chơi, do cãi vã nên lỡ tay giết người yêu nhưng không bị phát hiện. Để bớt mặc cảm

tội lỗi A đã nói điều này với B và yêu cầu B giữ kín thông tin đó. Sau đó, chính B là

người đã công khai thông tin và hành vi giết người của A bị xử lý theo quy định của

pháp luật. Mặc dù B là người đã công khai “thông tin bí mật” mà A đã cung cấp cho

mình nhưng việc cung cấp thông tin đó không bị coi là xâm phạm bí mật đời tư. Thậm

chí, hành vi không bộc lộ thông tin, cố tình che giấu thông tin trong trường hợp này

lại bị coi là hành vi phạm tội.

Khi xác định những thông tin không trái pháp luật, chúng ta căn cứ vào các quy

định của pháp luật. Tuy nhiên, trong một số trường hợp việc xác định thông tin như thế

nào là trái đạo đức xã hội thì còn khó khăn, bởi đạo đức xã hội là vấn đề thuộc về ý

thức xã hội - đó là sự đánh giá của mọi ngưòi trong xã hội về một hành vi và xử sự cụ

thể. Hơn nữa, vấn đề đạo đức xã hội lại có thể thay đổi theo thời gian, không gian và

phụ thuộc vào phong tục, tập quán...

 Thứ sáu, việc công bố những thông tin thuộc về bí mật đời tư sẽ tạo ra sự bất

lợi đối với chủ sở hữu thông tin

Đối với bí mật đời tư của cá nhân, vì nhiều lý do khác nhau mà bản thân cá nhân

không muốn công khai cho người khác biết bởi nếu công bố công khai thì có thể ảnh

hưởng trực tiếp đến đời sống, sinh hoạt, tình cảm, công việc của bản thân họ hoặc của

những người có liên quan. Chẳng hạn, khi một người bị nhiễm vi rút HIV, cuộc sống

20

của họ sẽ trở lên khó khăn hơn nếu như nhiều người trong cộng đồng biết được điều

đó, họ có thể bị xa lánh, bị từ chối tiếp xúc, bị buộc thôi việc... Trong nhiều trường

hợp, hậu quả bất lợi không chỉ do bản thân người này gánh chịu mà những người thân

thích của họ cũng có thể gặp phải tình trạng tương tự. Trong khi chúng ta tuyên truyền

vận động để xã hội có cái nhìn cảm thông hơn thì việc giữ bí mật các thông tin liên

quan đến người nhiễm HIV vẫn là biện pháp khả thi để người nhiễm HIV vẫn có thể

hoà nhập vào cộng đồng.

Sự bất lợi của chủ sở hữu bí mật đời tư khi bí mật đời tư của họ được công bố có

thể được hiểu trên nhiều phương diện:

­ Bất lợi về mặt kinh tế: Cá nhân có thể phải mất những chi phí để cải chính các

thông tin, hoặc phải gánh chịu những thiệt hại khác do không thu được những lợi ích

về mặt kinh tế nếu như bí mật đời tư bị tiết lộ.

­ Bất lợi trong sinh hoạt, cuộc sống hàng ngày: Bản thân người bị xâm phạm bí

mật đời tư phải gánh chịu những “búa rìu” của dư luận, gặp phải sự dè bỉu, bình luận,

chê cười của những người xung quanh.

­ Bất lợi trong công việc: Vì hành vi xâm phạm bí mật đời tư mà bản thân người

bị xâm phạm có thể bị mất việc làm hoặc gặp rất nhiều khó khăn trong công việc

­ Bất lợi trong quan hệ với đồng nghiệp, những người xung quanh khác...

2.1.3. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền bí mật đời tư

Quyền bí mật đời tư nói riêng, quyền nhân thân nói chung được pháp luật quy

định, bảo vệ và pháp luật luôn có các cơ chế pháp lý để đảm bảo cho các quyền này

được thực hiện trên thực tế. Các biện pháp bảo vệ quyền bí mật đời tư đa dạng với sự

phối kết hợp đồng bộ của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ là sự đảm bảo tích

cực cho quyền bí mật đời tư của cá nhân được phát huy tác dụng.

Bảo vệ quyền bí mật đời tư có ý nghĩa rất quan trọng, được thể hiện trên

những phương diện sau đây:

­ Bảo vệ quyền bí mật đời tư chính là sự đảm bảo cho quyền của cá nhân đối

với bí mật đời tư được Nhà nước ghi nhận cho cá nhân trở thành hiện thực

­ Tăng cường sự tôn trọng các quyền của con người, trong đó có quyền đối với

giá trị tinh thần được Nhà nước thừa nhận

21

­ Góp phần hạn chế các hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư của cá nhân

­ Tạo điều kiện cho các cá nhân có thể lựa chọn các biện pháp phù hợp nhất khi

có hành vi xâm phạm (bởi lẽ, các biện pháp bảo vệ quyền bí mật đời tư đa dạng)

­ Giúp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi chức năng, thẩm quyền

của mình lựa chọn cơ sở pháp lý cũng như các biện pháp giải quyết tranh chấp liên

quan đến bí mật đời tư.

2.2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ

Hiện nay trong BLDS chưa có quy định cụ thể như thế nào là bí mật đời tư của

cá nhân mà chỉ khẳng định: “Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất

khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.” – Điều 38 BLDS 2015. Chính từ quy định

còn mang tính chung chung này nên rất khó có thể xác định được nội dung của quyền

bí mật đời tư của cá nhân, vốn được hiểu là phạm vi các quyền liên quan đến bí mật

đời tư được Nhà nước ghi nhận và bảo vệ cho cá nhân. Việc xem xét nội dung quyền

bí mật đời tư để làm cơ sở cho cá nhân hưởng quyền này và để xác định, xử lý các

hành vi xâm phạm – là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Theo quy định tại Điều 38 BLDS 2015 có thể xác định quyền bí mật đời tư như

sau:

2.2.1. Cá nhân có quyền đối với các thông tin liên quan đến đời sống riêng tư,

bí mật cá nhân, bí mật gia đình của mình

Bí mật cá nhân, bí mật gia đình là những thông tin, tư liệu về cá nhân, về gia đình

được giữ kín bằng các biện pháp thông thường hoặc biện pháp kỹ thuật. Đời sống

riêng tư tuy không phải là các bí mật nhưng cũng là các quyền nhân thân cần thiết

được bảo vệ. Điều 38 BLDS 2015 đã nhấn mạnh về các quyền nhân thân này (đời sống

riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình), yêu cầu sự tuyệt đối tôn trọng (bất khả xâm

phạm) và được pháp luật bảo vệ. Khi có hành vi xâm phạm, cá nhân có quyền áp dụng

các phương thức do pháp luật quy định để bảo vệ quyền lợi của mình.

Cuốn Đại từ điển Tiếng Việt do tác giả Nguyễn Như Ý chủ biên định nghĩa

“Thông tin” là “Tin tức về các sự kiện diễn ra trong thế giới xung quanh”[26,

tr.1756] Phạm vi các thông tin thuộc về cá nhân là rất rộng lớn. Đó có thể là những

thông tin liên quan đến cuộc đời của cá nhân được thể hiện ở nhiều hình thức chứa

22

đựng thông tin khác nhau như một câu chuyện, hình ảnh, những trang nhật ký, những

kỷ vật.. .Các thông tin đó có thể có từ khi cá nhân mới sinh ra, thông tin trong suốt

cuộc đời của cá nhân và thậm chí ngay kể cả khi cá nhân đã chết.

Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng

tư, bí mật cá nhân phải được bản thân cá nhân đó đồng ý. Quy định này hướng tới việc

tôn trọng đời sống riêng tư của mỗi cá nhân trong xã hội, trước thực tế hiện nay, rất

nhiều chủ thể, đặc biệt là những người nổi tiếng thường bị xâm phạm nghiêm trọng về

đời sống riêng tư của mình bởi sự hiếu kỳ, quan tâm thái quá của người hâm mộ. Như

vậy cá nhân có quyền công bố hoặc không công bố các thông tin này, khi cá nhân

không công bố - điều đó có nghĩa là các thông tin này được coi là “bí mật”. Bất cứ

hành vi nào tiết lộ các thông tin mà không được phép của chủ sở hữu thông tin sẽ bị

coi là xâm phạm quyền của cá nhân đối với bí mật đời tư (nếu chủ sở hữu thông tin

chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm

chủ hành vi thì phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, nếu chủ sở hữu

thông tin đã chết, hoặc bị tuyên bố đã chết, đã mất tích cần phải được sự đồng ý của

cha mẹ hoặc vợ chồng hoặc con đã thành niên theo quy định của pháp luật).

Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình

phải được các thành viên của gia đình đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định

khác. Đó là một quy định rất mới trong BLDS, bởi có những thông tin không phải là bí

mật riêng tư hoặc thuộc đời sống riêng tư không chỉ của riêng một cá nhân mà là của

chung các thành viên trong cùng gia đình. Do đó, nếu chỉ bảo vệ quyền riêng tư cá

nhân thì sẽ dẫn đến quyền riêng tư của gia đình bị bỏ ngỏ.

Bên cạnh đó, BLDS còn quy định việc đảm bảo bí mật riêng tư của cá nhân, gia

đình trong trường hợp có những chủ thể khác được quyền tiếp cận do gắn liền với các

hợp đồng. Thông thường, ở đây tồn tại một cam kết giữ bí mật giữa hai bên, bên được

cung cấp thông tin cần phải giữ kín những thông tin tiếp nhận được từ chủ sở hữu

thông tin trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng.

2.3.2. Cá nhân có quyền bí mật đối vói thư tín, điện thoại, điện tín và các

hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân

Khoản 2, Điều 21 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Mọi người có quyền bí mật thư

tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai

23

được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức

trao đổi thông tin riêng tư của người khác”. Bên cạnh đó, Khoản 3 Điều 38 BLDS

2015 cũng quy định: “Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình

thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật”.

Khi xã hội ngày càng phát triển, việc trao đổi thông tin được thực hiện bằng nhiều

cách thức khác nhau, phổ biến nhất là sử dụng điện thoại di động, thư tín điện tử. Vì

vậy, thư tín, điện thoại, điện tín và nói chung là những phương tiện liên lạc cá nhân là

những “kênh” thông tin rất quan trọng, trong đó có chứa nhiều thông tin thuộc bí mật

đời tư của cá nhân, những thông tin được chuyển tải có thể là những lời hỏi thăm mang

tính chất tình cảm, công việc hoặc bất kỳ nội dung nào khác, tuy nhiên dù thế nào cũng

không thể bị người khác tự tiện xâm phạm. Đó là quyền tự do dân chủ chính đáng của

mọi công dân, bảo đảm cho sinh hoạt xã hội an toàn một cách cần thiết.

Pháp luật về bưu chính viễn thông của Nhà nước ta cũng đã đưa nguyên tắc bảo

mật là một trong những nguyên tắc trong hoạt động bưu chính, viễn thông. Điều 4

Luật Bưu chính 2010 quy định một trong các nguyên tắc của hoạt động bưu chính đó

là: “Bảo đảm bí mật thư theo quy định của pháp luật”. Điều 6 Luật Viễn thông 2009

ghi nhận vấn đề bảo đảm bí mật thông tin như sau: “Thông tin riêng chuyển qua mạng

viễn thông công cộng của mọi tổ chức, cá nhân được bảo đảm bí mật; Doanh nghiệp

viễn thông không được tiết lộ thông tin riêng liên quan đến người sử dụng dịch vụ viễn

thông, bao gồm tên, địa chỉ, số máy gọi, số máy được gọi, vị trí máy gọi, vị trí máy

được gọi, thời gian gọi và thông tin riêng khác mà người sử dụng đã cung cấp khi giao

kết hợp đồng với doanh nghiệp...”. Bên cạnh đó Điều 12 Luật Viễn thông 2009 còn

nghiêm cấm hành vi: “Thu trộm, nghe trộm, xem trộm thông tin trên mạng viễn thông;

trộm cắp, sử dụng trái phép tài nguyên viễn thông, mật khẩu, khóa mật mã và thông

tin riêng của tổ chức, cá nhân khác”. Luật pháp cũng có những chế tài nhằm ngăn

chặn những trường hợp xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của

người khác trong những điều luật cụ thể. Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín,

điện thoại, điện tín của người khác là hành vi chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc

các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và vi tính, hoặc có

hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của

người khác. Hành vi vi phạm các quy định trên đây có thể bị xử lý vi phạm hành chính

24

hoặc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh xâm phạm bí mật hoặc an

toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác. Như vậy, các quy định của pháp luật

Việt Nam không chỉ ghi nhận và thể hiện sự tôn trọng các quyền bí mật thư tín, bí mật

đời tư mà còn đề ra các biện pháp để bảo vệ những quyền này.

Tuy nhiên, bí mật đối với thư tín, điện thoại, điện tín và cơ sở dữ liệu điện tử và

các hình thức thông tin điện tử khác cũng phải chịu những giới hạn nhất định theo quy

định của pháp luật. Việc kiểm soát thư tín, điện tín cũng như các hình thức thông tin

điện tử khác nhằm bảo vệ lợi ích công cộng, giữ gìn an ninh, trật tự - hay nói cách

khác ỉà nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của quốc gia. Hầu hết các quốc gia trên thế giới

đều có sự kiểm soát này, kể cả Hoa Kỳ - một trong những quốc gia vẫn được coi là tôn

trọng bí mật riêng tư một cách chặt chẽ nhất. Mặc dù có thể có sự can thiệp vào thư

tín, điện tín và các hình thức thông tin điện tử khác nhưng phải tuân theo một trình tự,

thủ tục nhất định. Điều 6 Luật Viễn thông 2009 quy định: “Việc kiểm soát thông tin

trên mạng viễn thông do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của

pháp luật “

Trong trường hợp người có điện thoại, điện tín, thư tín (bao gồm cả người nhận

và người gửi) đang liên quan đến vụ án hình sự, nếu thấy cần thiết, cơ quan điều tra có

thể áp dụng các biện pháp kiểm soát, thu giữ điện thoại, điện tín, thư tín để phục vụ

cho hoạt động điều tra, nhưng việc áp dụng các biện pháp này phải theo đúng quy định

của BLTTHS 2015 về thẩm quyền, trình tự, thủ tục

Xét về hành vi thì đây là những hành vi can thiệp vào bí mật đời tư của cá nhân,

tuy vậy điều này là hết sức cần thiết. Nhiều vụ án đã được phá, nhiều âm mưu phản

động chống phá chính quyền cũng như gây thiệt hại cho Nhà nước, cho nhân dân đã

được ngăn chặn thông qua việc kiểm soát thư tín, điện tín và các hình thức thông tin

điện tử khác.

2.3. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ

QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ

Quyền bí mật đời tư là một trong những quyền nhân thân có lịch sử hình thành

từ rất sớm. Tuy mới chính thức được ghi nhận trong BLDS 1995 nhưng một số quy

định cụ thể liên quan đến nội dung của quyền bí mật đời tư cũng đã được đề cập rải rác

25

trong một số văn bản trước đó. Có thể chia quá trình phát triển của pháp luật nước ta

trong quy định về quyền bí mật đời tư thành các giai đoạn sau đây:

Giai đoạn 1946 – 1959: Đây là giai đoạn chuyển biến mạnh mẽ về chất của hệ

thống chính trị, Việt Nam đã chính thức là một quốc gia độc lập. Ngay sau đó, Nhà

nước ta cho ra đời bản Hiến pháp đầu tiên – Hiến pháp 1946 đặt nền móng cho việc

ban hành các văn bản có hiệu lực sau Hiến pháp, trong đó có các văn bản pháp luật về

dân sự. Điều 11 của Hiến pháp 1946 quy định: “… Nhà ở và thư tín của công dân Việt

Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật”. Như vậy, sau bao nhiêu năm

dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và giai cấp địa chủ phong kiến, các quyền của con

người đã được thừa nhận và một trong những quyền đó có liên quan đến bí mật đời tư

của công dân, trước đó bất cứ lúc nào sự riêng tư của con người cũng có thể bị xâm

phạm một cách thô bạo. Do đó, bằng quy định này của bản Hiến pháp 1946 chúng ta

thấy có một sự tiến bộ vượt bậc của pháp luật nước nhà trong việc khẳng định các

quyền của công dân.

Giai đoạn sau năm 1959 – 1980: Điểm mốc của giai đoạn này được đánh dấu

bằng bản Hiến pháp 1959 thay cho Hiến pháp 1946, trong hoàn cảnh lịch sử mới:

chúng ta tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam, xây dựng chủ

nghĩa xã hội ở miền Bắc. Liên quan đến quyền bí mật đời tư, Điều 28 Hiến pháp 1959

ghi nhận: “Pháp luật bảo đảm nhà ở của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa

không bị xâm phạm, thư tín được giữ bí mật…”. Do hoàn cảnh lịch sử, giai đoạn này

chúng ta cũng chưa có những văn bản pháp luật quy định cụ thể hoá quyền bí mật đời

tư của cá nhân.

Giai đoạn sau năm 1980 – 1992: Đây là giai đoạn đất nước thống nhất và cả

nước bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nhà nước ta đã cho ra đời bản

Hiến pháp mới – Hiến pháp 1980, thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng ta trong

giai đoạn mới. Liên quan tới quyền bí mật đời tư , Điều 71 Hiến pháp 1980 quy định:

“Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của

người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép. Việc

khám xét chỗ ở phải do đại diện cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành, theo quy

định của pháp luật. Bí mật thư tín, điện thoại, điện tín được bảo đảm. Quyền tự do đi

lại và cư trú được tôn trọng, theo quy định của pháp luật”.

26

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp 1980, một loạt các văn bản có hiệu lực sau

Hiến pháp đã cụ thể hóa các quyền cơ bản của công dân, trong đó có quyền liên quan

đến “bất khả xâm phạm về chỗ ở”, quyền được giữ bí mật về thư tín, điện thoại, điện

tín như: Thông tư liên ngành số 249 – HK/BĐ ngày 20/3/1981 của Tổng cục hàng

không – Tổng cục bưu điện về việc tổ chức vận chuyển túi, gói bưu phẩm, bưu kiện

qua đường hàng không, BLTTHS 1988, Nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng số 384 –

HĐBT ngày 5/11/1990 về tăng cường quản lý công tác báo chí, xuất bản, Luật Báo chí

1990, Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989… Tuy nhiên, mới chỉ dừng lại ở mức

độ quy định của pháp luật chuyên ngành chứ chưa có một văn bản pháp luật cụ thể

điều chỉnh quyền bí mật đời tư.

Giai đoạn sau năm 1992 – 1995: Đây là giai đoạn có sự chuyển biến mạnh mẽ

của hệ thống pháp luật nước ta. Hiến pháp 1992 ra đời, thay thế cho Hiến pháp 1980.

Làm cơ sở cho các văn bản pháp luật có hiệu lực sau này cụ thể hóa quyền của cá nhân

đối với bí mật đời tư, Điều 73 Hiến pháp 1992 quy định: “ Công dân có quyền bất khả

xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không

đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép. Thư tín, điện thoại, điện tín của công

dân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu

giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy

định của pháp luật”. Sau khi Hiến pháp 1992 được ban hành, một loạt các văn bản

pháp luật ra đời đã đề cập đến việc bảo vệ quyền bí mật đời tư của cá nhân như Quyết

định số 259/QĐ – NH6 ngày 22/10/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt

Nam ban hành Quy chế về nhận bảo quản tài sản quý hiếm, Nghị định số 133 – HĐBT

ngày 20/4/1992 hướng dẫn chi tiết thi hành Luật báo chí, Luật Xuất bản năm 1993…

Các văn bản này cũng đã đưa ra được những hành vi bị cấm như cấm tiết lộ bí mật đời

tư của cá nhân liên quan như tiền gửi, cấm tiết lộ bí mật đời tư của cá nhân trong các

xuất bản phẩm…

Một trong những dấu mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển vượt bậc của pháp

luật dân sự là sự ra đời của BLDS 1995, được đánh giá có vị trí thứ 2 sau Hiến pháp.

Lần đầu tiên, BLDS đã quy định về quyền đối với bí mật đời tư với tư cách một quyền

nhân thân của cá nhân tại Điều 34, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho các cơ quan Nhà

27

nước có thẩm quyền xác định các hành vi xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân và cơ

chế bảo vệ thích hợp.

Giai đoạn sau năm 1995 – 2013: BLDS 1995 đã phát huy vai trò to lớn trong

việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân tuy nhiên qua thời gian áp dụng vào

thực tiễn đời sống cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định cần được sửa đổi, bổ sung.

Đây chính là lý do để BLDS 2005 ra đời. Quy định về quyền bí mật đời tư của cá nhân

có sự thay đổi nhỏ, theo đó tên điều luật được quy định là “Quyền bí mật đời tư” thay

vì “Quyền đối với bí mật đời tư” như trước đây.

Một loạt các văn bản pháp luật ra đời trong giai đoạn này đã đề cập đến quyền bí

mật đời tư của cá nhân theo các quy định dưới dạng cấm tiết lộ như Pháp lệnh Quảng

cáo, Luật Quảng cáo 2012, Luật Báo chí, Luật Xuất bản 2004 và 2012, Pháp lệnh

giám định tư pháp 2004 và 2012, Pháp lệnh Bưu chính viễn thông 2002, Luật Bưu

chính 2010 (có nguyên tắc bảo mật, nghiêm cấm hành vi thu, nghe trộm thông tin, tiết

lộ nội dung thư, bưu phẩm…), Luật Luật sư 2006 sửa đổi 2012 (nghiêm cấm tiết lộ

thông tin khách hàng), Luật quản lý thuế (giữ bí mật thông tin của người nộp thuế),

Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 (nghiêm

cấm tiết lộ thông tin, bí mật về người hiến và người được ghép)… Bên cạnh đó, còn có

các văn bản dưới luật được ban hành, trong đó có những nội dung liên quan đến quy

định và bảo vệ quyền bí mật đời tư, như Nghị định số 97/2008/NĐ – CP ngày

28/8/2008 về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên

Internet…

Giai đoạn sau 2013 đến nay: Trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013 được Quốc hội

thông qua ngày 28/11/2013, vấn đề quyền con người, quyền công dân được quy định

trong Chương II với nhiều điểm mới và tiến bộ, mở rộng một cách toàn diện phạm vi

quy định quyền được bảo vệ bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình.

Điều 21 Hiến pháp 2013 ghi nhận: “1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời

sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của

mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật

bảo đảm an toàn. 2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các

hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ

trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của

28

người khác”. Trên cơ sở những quy định nhằm đảm bảo quyền riêng tư trong Hiến

pháp mới, BLDS 2015 ra đời đã sửa đổi một số điểm trong BLDS 2005 cho phù hợp

với Hiến pháp 2013, điều luật “Quyền bí mật đời tư” được sửa thành “Quyền về đời

sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình”...

Ngoài ra, các văn bản pháp luật chuyên ngành cũng có những quy định tương đối

cụ thể nhằm bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân như Luật an toàn thông tin mạng 2015,

Luật giao dịch điện tử, Luật báo chí 2016...

Tóm lại, nếu như trước đây quyền bí mật đời tư của cá nhân mới chỉ được quy

định trong Hiến pháp thì hiện nay, quyền bí mật đời tư của cá nhân đã được cụ thể hóa

trong rất nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành khác nhau. Đó cũng chính là biểu hiện

của sự tiến bộ trong hệ thống pháp luật nước ta.

2.4. QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT CỦA MỘT

SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI

Nghiên cứu so sánh với pháp luật một số quốc gia trên thế giới, có thể thấy

rằng quyền bí mật đời tư được hầu hết các nước thừa nhận với tên gọi và phạm vi khác

nhau. Một số quốc gia đã ban hành luật về quyền riêng tư như Anh, Mỹ, Nga, Úc...

hoặc ban hành văn bản pháp luật liên quan đến quyền bí mật đời tư như Luật bảo vệ

thông tin cá nhân của Nhật Bản. Không những thế, trong các công ước quốc tế được

các quốc gia trên thế giới ký kết cũng đã đề cập đến quyền này.

Trong Công ước châu Âu về Nhân quyền được soạn thảo và thông qua bởi Hội

đồng Châu Âu vào năm 1950, nhằm bảo vệ quyền tôn trọng cuộc sống riêng tư, Điều 8

quy định: “Mọi người đều có quyền tôn trọng cuộc sống riêng tư và gia đình của

mình, nhà của mình và thư từ của cá nhân”. Ngoài ra Điều 12 Tuyên ngôn Quốc tế

Nhân quyền (UDHR) ghi nhận: "Không ai phải chịu sự can thiệp một cách tuỳ tiện

vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự

hoặc uy tín cá nhân. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can

thiệp và xâm phạm như vậy”. Tại Điều 17 Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và

Chính trị: “Không ai bị can thiệp một cách tuỳ tiện hoặc bất hợp pháp vào đời sống

riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xâm phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy

tín. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những can thiệp hoặc

xâm phạm như vậy”. Những qui định trên là một sự tôn trọng tuyệt đối đến quyền

29

riêng tư của con người bằng một qui chế pháp lí cao nhất đối với các nước là thành

viên của Công ước.

Pháp luật của các quốc gia trên thế giới cũng có những qui định riêng liên quan

đến việc bảo vệ bí mật đời tư từ rất sớm.

Theo quy định của pháp luật Pháp thì quyền đối với đời tư của cá nhân luôn được

tôn trọng một cách tuyệt đối: “Cá nhân có quyền được tôn trọng về đời tư. Ngoài biện

pháp yêu cầu bồi thường thiệt hại, thẩm phán có thể quyết định mọi biện pháp như

giao tài sản cho người khác quản lý, kê biên tài sản và các biện pháp khác, nhằm ngăn

chặn hoặc buộc chấm dứt hành vi xâm phạm bí mật đời tư, trong trường hợp khẩn cấp

các biện pháp này có thể được quyết định theo thủ tục khẩn cấp tạm thời” (Điều 9 -

BLDS Pháp). Bên cạnh đó án lệ Pháp đã có những bổ sung rất quan trọng đối với các

hành vi bị coi là xâm phạm đời tư, theo đó, phạm vi của quyền riêng tư rất rộng, có thể

là bí mật thư tín, tình trạng sức khỏe, đời sống tình cảm, trạng thái tâm lý, hình ảnh,

chỗ ở, địa chỉ, số điện thoại, thậm chí giọng nói…

Pháp luật của Liên bang Nga lại thông qua Hiến pháp để đưa ra các nguyên tắc

chung nhằm bảo vệ quyền bí mật đời tư của cá nhân: “Mỗi cá nhân đều có quyền bí

mật về đời tư, gia đình, có quyền được bảo vệ nhân phẩm và tên tuổi của mình. Mỗi

người đều có quyền được bảo đảm bí mật thư tín, điện tín, điện thoại. Việc hạn chế

quyền này của cá nhân phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật…” (Điều 23,

24). Ngoài ra theo quy định tại Điều 150 BLDS Liên bang Nga thì tính mạng, sức

khỏe, thân thể, uy tín, danh dự, nhân phẩm, bí mật đời tư (bao gồm của cá nhân và gia

đình), quyền tác giả và các quyền cá nhân khác đều được pháp luật bảo vệ. Đây được

coi là cơ sở pháp lý quan trọng để cá nhân thực hiện quyền của mình đối với các thông

tin thuộc về bí mật đời tư. Ngoài ra vì lợi ích công cộng, pháp luật cũng quy định về

việc xử lý thông tin cũng như các trường hợp thuộc giới hạn xử lý thông tin của chủ

thể (không được phép xử lý những thông tin thuộc loại đặc biệt, nhạy cảm như: nòi

chủng, dân tộc, khuynh hướng chính trị, tôn giáo, tình trạng sức khỏe, đời sống riêng

tư…).

Đối với pháp luật Nhật Bản, Điều 35 - Hiến pháp Nhật Bản ghi nhận: “Nhà ở, thư từ và

các đồ vật đều được đảm bảo chống lại sự khám xét, tìm tòi và tịch thu, trừ có trát của toà án

trình bày lý do, ghi chỗ khám xét, đồ vật có thể bị tịch thu theo điều kiện trong khoản 33. Mọi sự

30

khám xét và tịch thu phải do lệnh của thẩm phán có trát riêng biệt”. Còn BLDS Nhật Bản quy

định cho cá nhân có quyền năng kể từ khi sinh ra, tuy nhiên quyền đối với bí mật đời tư không

được đề cập tại đây. Trong bối cảnh có sự gia tăng việc sử dụng thông tin cá nhân do có sự phát

triển mạnh mẽ của xã hội thông tin và truyền thông, năm 2003 Nhật Bản ban hành Luật về bảo

hộ thông tin cá nhân, một trong những nội dung liên quan đến bí mật đời tư của cá nhân. Những

thông tin này thuộc về một cá nhân cụ thể và cá nhân có quyền đối với các thông tin đó. Việc

khai thác, xử lý thông tin cá nhân, cung cấp thông tin cá nhân cho người thứ ba phải tuân theo

quy định của pháp luật nhưng trên tinh thần không xâm hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của

chủ sở hữu thông tin. Đây có thể coi là kinh nghiệm quý báu đối với nước ta khi xây dựng các

văn bản pháp luật chuyên ngành trong các lĩnh vực tương ứng để bảo vệ thông tin cá nhân cũng

như quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra quyền bí mật đời tư còn được ghi nhận tại nhiều quốc gia khác trên thế

giới như: Hợp chủng quốc Hoa Kỳ: “ Quyền lợi của các công dân được đảm bảo về

bản thân, nhà cửa, giấy tờ và tài sản khỏi mọi sự khám xét và tịch thu vô lý, sẽ không

bị xâm phạm và sẽ không bị trát khám nhà nào được cấp nếu không phải là có lí do

chắc chắn, căn cứ vào lời tuyên thệ hoặc sự xác nhận cần nhất trát đó phỉa tả rõ nơi

và chốn phải khám xét và chỉ rõ người hay vật phải bắt giữ. (Điều 4 - Hiến pháp Hợp

chủng quốc Hoa Kỳ). Trung Quốc: “Công dân có quyền được tự do về ngôn luận, thư

tín, báo chí, hội họp, tuần hành, biểu tình, tự do bãi công, tự do tín ngưỡng và tự do

không tín ngưỡng và tuyên truyền chủ nghĩa vô thần. Tự do cá nhân của công dân và

nhà ở của họ là bất khả xâm phạm. Không một công dân nào có thể bị bắt nếu không

có quyết định của toà án, chứng nhận hoặc phê chuẩn của một cơ quan an ninh ".

(Điều 28 - Hiến pháp CHND Trung Hoa).

Trên đây là một số quy định pháp luật về quyền bí mật đời tư của các quốc gia

tiên tiến trên thế giới, hầu hết các nước đều có những ghi nhận về việc bảo hộ quyền

này trong Hiến pháp, BLDS hoặc ban hành những đạo luật liên quan để bảo vệ quyền

riêng tư. Từ đó có thể thấy nhu cầu con người trong xã hội mới ngày càng được nâng

cao thì nhu cầu bảo vệ bí mật đời tư ngày càng được quan tâm. Việc tìm hiểu quyền bí

mật đời tư của một số quốc gia trên thế giới có ý nghĩa rất lớn trong việc nghiên cứu,

tìm hiểu về quyền bí mật đời tư theo quy định pháp luật Việt Nam.

31

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ VÀ

THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ Ở VIỆT NAM



3.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ

3.1.1. Thực trạng quy định pháp luật dân sự về quyền bí mật đời tư

Quyền bí mật đời tư là một quyền cơ bản của con người, lần đầu tiên được quy

định một cách chính thức trong BLDS 1995, và sau này là trong BLDS 2005, tuy

nhiên trước đó đã được ghi nhận một cách rải rác trong một số văn bản pháp luật

chuyên ngành, thậm chí trở thành một nguyên tắc hiến định.

Nhưng, có thể thấy rằng trải qua các thời kỳ phát triển các bản Hiến pháp chỉ quy

định việc bảo vệ bí mật đời tư công dân đối với thư tín, điện thoại, điện tín mà thôi, tức

phạm vi quyền bí mật đời tư còn tương đối hẹp. Đến Hiến pháp 2013 quyền bí mật đời

tư của cá nhân đã được tiếp cận theo một cách khác, mà theo đó, như Điều 21 Hiến

pháp 2013 quy định đã mở rộng hơn rất nhiều đối với quyền bí mật đời tư, không chỉ

bao gồm thư tín, điện thoại, điện tín mà tất cả các vấn đề về đời sống riêng tư, bí mật

cá nhân và bí mật gia đình đều được pháp luật bảo vệ.

Tiếp thu quan điểm tiến bộ này, BLDS 2015 (có hiệu lực từ 01/01/2017) được

ban hành thay thế BLDS 2005 trước đây đã sửa đổi “Quyền bí mật đời tư” thành

“Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình” cho phù hợp với quy

định mới trong Hiến pháp. Để tiện bề so sánh, chỉ ra điểm tiến bộ, hạn chế của điều

luật, xin trích đăng cả hai quy định trong BLDS 2005 và BLDS 2015 như sau:

Điều 38 – BLDS 2005:

“1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được

người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự,

chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc

người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư

liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân

được bảo đảm an toàn và bí mật.”

32

Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác

của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết

định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Điều 38 – BLDS 2015:

“1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và

được pháp luật bảo vệ.

2. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống

riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng,

công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình

đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác.

3. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi

thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.

Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử

và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện

trong trường hợp luật quy định.

4. Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí

mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập,

thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

 Điểm tiến bộ của pháp luật

Như đã chỉ ra ở trên, tên điều luật đã được sửa đổi cho phù hợp với tình hình

mới, theo hướng mở rộng hơn về quyền bí mật đời tư, trên cơ sở đó nội dung được quy

định tại các điều khoản cũng có nhiều thay đổi.

­ Ở BLDS 2005 quyền bí mật đời tư của cá nhân “được tôn trọng và được pháp

luật bảo vệ”, nhưng ở BLDS 2015 thì quyền đó không chỉ là được tôn trọng mà còn là

quyền “bất khả xâm phạm” – tức là yêu cầu một sự tuyệt đối tôn trọng và được pháp

luật bảo vệ. Tính chất bảo hộ, đảm bảo thực hiện cũng đã nâng cao chặt chẽ hơn.

­ Khoản 2 Điều 38 BLDS 2015 đã bổ sung thêm hai hành vi được coi là xâm

phạm bí mật đời tư, nếu trước đây chỉ giới hạn ở việc thu thập và công bố thông tin

liên quan đến bí mật đời tư thì nay luật quy định ngoài thu thập, công khai (tiết lộ

thông tin) còn có lưu giữ, sử dụng thông tin mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu

thông tin, điều này góp phần làm rõ, chi tiết hơn phạm vi của các hành vi xâm phạm, 33

hỗ trợ cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Tòa án trong quá trình giải quyết tranh

chấp liên quan quyền bí mật đời tư.

­ Một quy định rất mới trong BLDS đó là ghi nhận “bí mật gia đình” bên cạnh

bí mật đời tư của cá nhân, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên

quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên của gia đình đồng ý, lý do chính là

bởi vì có những thông tin không phải là bí mật riêng tư hoặc thuộc đời sống riêng tư

không chỉ của riêng một cá nhân mà là của chung các thành viên trong cùng gia đình,

quy định như vậy rất phù hợp vì tránh được sự bỏ ngỏ về quyền riêng tư của gia đình

bên cạnh quyền riêng tư của cá nhân.

­ Tại khoản 3 Điều 38 BLDS 2015, thay thế “các hình thức thông tin điện tử

khác” bằng cụm từ “cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư

khác”, đây là quy định kịp thời, phù hợp với thực trạng của xã hội, với sự phát triển

của công nghệ thông tin, đưa thêm căn cứ để Nhà nước có thể xử lý các vụ việc xâm

phạm bí mật đời tư qua cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng

tư khác. Nhất là trong bối cảnh nhiều nguồn thông tin không có sự chọn lọc được phát

tán qua các kênh mạng thông tin, rất khó để xác định nguồn phát tán bởi sự rộng lớn

của mạng toàn cầu, Internet đang là mảnh đất “béo bở” cho các thành phần xâm phạm

đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình.

­ Một điểm mới đáng lưu ý tại Khoản 4 Điều 38 đó là quy định về việc đảm bảo

bí mật riêng tư của cá nhân, gia đình trong trường hợp có các bên trong hợp đồng đã

biết thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của đối

phương trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng nhưng không được phép tiết lộ.

Thông thường giữa những chủ thể này đã xác lập một quan hệ hợp đồng, giao dịch với

chủ sở hữu thông tin. Có thể nói quy định này siết chặt hơn quy chế bảo mật thông tin

của khách hàng, đối tác vẫn lỏng lẻo lâu nay của chúng ta.

Từ những phân tích trên cho thấy Nhà nước đã có sự quan tâm sâu sắc hơn đến

quyền bí mật đời tư của cá nhân, BLDS mới bên cạnh tính kế thừa đã có những quy

định chặt chẽ, nâng cao và mở rộng hơn về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật

gia đình.

34

 Điểm hạn chế của pháp luật

Dù đã sửa đổi, bổ sung theo hướng tiếp cận mới tuy nhiên trong quy định pháp

luật vẫn còn những hạn chế nhất định như:

­ Chưa đưa ra một khái niệm thống nhất về “đời sống riêng tư, bí mật cá nhân,

bí mật gia đình”. Trước đây trong luật cũng không hề có khái niệm về “bí mật đời tư”,

sự quy định không chi tiết, cụ thể về “bí mật đời tư” gây khó khăn trong căn cứ xử lý

các vụ việc liên quan xâm phạm bí mật đời tư. Tình trạng tương tự có thể diễn ra khi

không có khái niệm nào về “đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình”

­ Những quy định còn khá chung chung, chưa xác định rõ phạm vi, giới hạn và

nhận diện những thông tin như thế nào sẽ thuộc vào phạm vi bất khả xâm phạm, nhất

là đối với những cá nhân, gia đình thường xuyên xuất hiện trước công chúng và được

nhiều người biết đến.

­ Bên cạnh đó, luật chưa tính đến những trường hợp có thể làm ảnh hưởng tới

quvền lợi của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý trừ trường hợp theo

quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

­ Các hành vi bị cấm (liên quan đến xâm phạm bí mật đời tư) tuy đã được mở

rộng so với trước đây nhưng theo quan điểm tác giả vẫn chưa đầy đủ, nên chăng cân

nhắc việc bổ sung thêm hành vi tiêu hủy, làm mất thông tin của cá nhân?

Nếu chỉ xét riêng “bí mật đời tư” và “đời sống riêng tư” thì các khái niệm này

là không đồng nhất với nhau. “Đời sống riêng tư” cũng gắn liền với cá nhân, tuy nhiên

không phải tất cả các vấn đề thuộc về đời sống riêng tư đều được coi là bí mật, mặc dù

pháp luật vẫn bảo vệ các quyền này. Trong khi đó, đã được gọi là “bí mật đời tư” thì

đương nhiên thông tin đó phải là những thông tin mà cá nhân không muốn tiết lộ ra

bên ngoài. Như vậy, nếu hiểu theo cách này chúng ta có thể thấy nội hàm của khái

niệm “bí mật đời tư” và “đời sống riêng tư, bí mật cá nhân” là khác nhau. Quan điểm

này nhận được sự đồng tình của nhiều nhà nghiên cứu.

Tuy nhiên, quan điểm của tác giả thì nên nhìn nhận theo hướng đồng nhất nội

hàm của “bí mật đời tư” và “đời sống riêng tư, bí mật cá nhân”, bởi lẽ:

35

Xét cho cùng, các khái niệm này đều để chỉ ra những thông tin liên quan đến

đời sống của cá nhân mà cá nhân đó có quyền không công bố công khai và người khác

phải tôn trọng điều này.

Việc xác định khi nào thông tin cá nhân trở thành bí mật chỉ mang tính tương

đối, tức là phụ thuộc ý chí chủ quan của người trong cuộc.

Hiện giờ trong quy định của pháp luật chúng ta chưa có một hướng dẫn cụ thể

về những khái niệm này. Do đó, việc cố gắng hiểu hai khái niệm này theo hướng có

nội hàm khác nhau chỉ làm tăng sự chồng chéo, mâu thuẫn trong các quy định pháp

luật mà thôi

Hay nói cách khác, quyền bí mật đời tư và quyền được bảo đảm về đời sống

riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là giống nhau về bản chất, đều là sự bảo vệ

đối với những thông tin liên quan đến cuộc sống riêng của cá nhân.

3.1.2. Các nhóm hành vi xâm phạm bí mật đời tư thông qua các văn bản pháp

luật chuyên ngành

Hành vi xâm phạm bí mật đời tư được hiểu là toàn bộ những hành động của cá

nhân nhằm xâm hại những thông tin hợp pháp liên quan đến đời sống tinh thần, vật

chất và các mối quan hệ xã hội của cá nhân khác khi chưa được sự đồng ý của cá nhân

đó. Những hành vi này thường gây tổn hại tinh thần hoặc vật chất của người khác

trong hiện tại hoặc tương lai.

Việc xác định các hành vi xâm phạm bí mật đời tư có ý nghĩa vô cùng quan

trọng trong việc bảo vệ quyền bí mật đời tư, nhờ đó Tòa án hoặc cơ quan Nhà nước có

thẩm quyền có cơ sở để áp dụng hậu quả pháp lý bất lợi đối với những hành vi này, từ

đó quyền và lợi ích của cá nhân có thể được đảm bảo đầy đủ và chính xác hơn. Điều

38 BLDS 2015 cũng như Điều 38 BLDS 2005 trước đây không liệt kê cụ thể các hành

vi bị coi là xâm phạm bí mật đời tư mà chỉ quy định một cách chung nhất như: “Đời

sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật

bảo vệ” hay “Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo

vệ”. Qua nghiên cứu các quy định về quyền bí mật đời tư của cá nhân trong các văn

bản pháp luật chuyên ngành của Việt Nam, có thể thấy rằng hành vi xâm phạm bí mật

đời tư bao gồm 2 nhóm hành vi cơ bản sau:

36

3.1.2.1. Hành vi thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời

sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình nhưng không được người đó hoặc các

thành viên gia đình đồng ý

Hành vi thu thập thông tin của cá nhân được hiểu là những hành vi thể hiện

dưới dạng hành động để khai thác thông tin của cá nhân đó khi không được họ đồng ý

như sử dụng phương tiện điện tử để quay phim, chụp ảnh, ghi âm lại cuộc nói chuyện,

xâm nhập, sao chụp các vật phẩm chứa đựng thông tin cá nhân, chiếm đoạt kỷ vật cá

nhân, xem hồ sơ bệnh án của cá nhân mà mình không có thẩm quyền xem...

Hành vi lưu giữ, sử dụng thông tin của cá nhân là những hành vi tự ý lưu giữ,

sao chép các thông tin bí mật đời tư của người khác, sử dụng cho những mục đích

không phù hợp với quy định và yêu cầu của pháp luật chẳng hạn như mua bán, trao đổi

những thông tin về đời tư người khác một cách trái phép...

Hành vi công khai thông tin của cá nhân là hành vi tiết lộ thông tin mà mình

đã thu thập được hoặc đang có quyền quản lý, lưu trữ các thông tin đó cho người khác

như cung cấp cho cơ quan báo chí, cung cấp cho cá nhân khác mà họ không được phép

thu thập, tiếp cận thông tin theo quy định của pháp luật, thậm chí công bố chúng trên

các phương tiện thông tin đại chúng như tivi, báo, mạng internet...

Bên cạnh các hành vi được pháp luật quy định, theo tác giả cần quy định thêm

hành vi tiêu hủy, làm mất thông tin của cá nhân cũng bị coi là hành vi xâm phạm bí

mật đời tư. Hành vi tiêu hủy thông tin là hành vi cố ý của một chủ thể nhằm làm cho

thông tin đó không còn tồn tại trên thực tế. Hành vi làm mất thông tin là hành vi được

thực hiện với lỗi vô ý của chủ thể làm cho thông tin đó không còn tồn tại, ngoài sự

kiểm soát của chủ sở hữu thông tin. Những thông tin liên quan đến cá nhân có thể

chứa đựng ở nhiều dạng khác nhau như sổ sách, nhật ký viết tay hoặc đánh máy, lưu

trữ trong các thiết bị điện tử, máy ảnh, máy quay hoặc những tấm ảnh, kỷ vật mà chủ

sở hữu thông tin lưu giữ với ý nghĩa là bí mật cá nhân. Chủ thể xâm phạm đã thực hiện

các hành vi tiêu hủy, làm mất như xé, đốt, xóa trong dữ liệu điện tử... Xét về hành vi

và hậu quả của hành vi mang lại thì đây chính là một hành vi xâm phạm bí mật đời tư,

thay vì bí mật đó bị chiếm đoạt (thu thập) hoặc công khai cho người khác biết thì chủ

thể xâm phạm đã cố ý hoặc vô ý làm cho bí mật đời tư không còn tồn tại (tiêu hủy, làm

37

mất), điều này gây hậu quả đôi khi không hề nhỏ bởi trong nhiều trường hợp vật chứa

đựng thông tin đó chỉ có duy nhất một bản, một vật.

 Các quy định của pháp luật liên quan đến xác định hành vi thu thập, lưu giữ,

sử dụng, công khai thông tin của cá nhân bị coi là xâm phạm bí mật đời tư thường là

những quy định thể hiện dưới dạng nguyên tắc, quy định quyền của cá nhân hoặc xác

định những hành vi bị cấm.

­ Trong lĩnh vực y tế:

Có rất nhiều quy định buộc bác sĩ, những người làm công tác khám, chữa bệnh

khác phải tôn trọng bí mật đời tư của người bệnh.

Điều 25 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989 quy định trách nhiệm của thầy thuốc

là: “có nghĩa vụ khám bệnh chữa bệnh, kê đơn và hướng dẫn cách phòng bệnh, tự chữa

bệnh cho người bệnh; phải giữ bí mật về những điều có liên quan đến bệnh tật hoặc đời

tư mà mình được biết về người bệnh”. Tương tự Điều 37 Luật Khám bệnh, chữa bệnh

2009 quy định nghĩa vụ đối với nghề nghiệp của người hành nghề khám bệnh, chữa

bệnh là: “Giữ bí mật tình trạng bệnh của người bệnh, những thông tin mà người bệnh

đã cung cấp và hồ sơ bệnh án”, những thông tin này chỉ được phép công bố khi người

bệnh đồng ý hoặc để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng chẩn

đoán, chăm sóc, điều trị người bệnh giữa những người hành nghề trong nhóm trực tiếp

điều trị cho người bệnh hoặc trong trường hợp khác được pháp luật quy định.

Luật Phòng, chống nhiễm virut gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở

người (HIV/AIDS) 2006 nghiêm cấm hành vi: “Công khai tên, địa chỉ, hình ảnh của

người nhiễm HIV hoặc tiết lộ cho người khác biết việc một người nhiễm HIV khi chưa

được sự đồng ý của người đó...” (Khoản 5 Điều 8). Bên cạnh đó Luật Hiến, lấy, ghép

mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác 2006 nghiêm cấm: “Tiết lộ thông tin, bí mật

về người hiến và người được ghép trái với quy định của pháp luật” (Khoản 8 Điều 11).

Như vậy, trên cơ sở quy định của pháp luật mà các chủ thể có hành vi tiết lộ

thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư của người bệnh, hành vi công khai tên tuổi,

địa chỉ, hình ảnh của người nhiễm HIV thì những hành vi này bị coi là xâm phạm bí

mật đời tư.

38

Trong lĩnh vực xuất bản, báo chí và điện ảnh

Điều 10 Luật Xuất bản 2012 quy định nghiêm cấm việc xuất bản, in, phát hành

xuất bản phẩm có nội dung: “Tiết lộ bí mật Nhà nước, bí mật đời tư của cá nhân và bí

mật khác do pháp luật quy định”. Các quy định này là “cấm”, do đó người thực hiện

những hành vi này sẽ bị coi là xâm phạm quyền bí mật đời tư.

Bên cạnh đó, báo chí là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu trong đời sống

xã hội. Với tính chất đặc thù của nghề nghiệp – lấy hiện thực khách quan làm đối tượng

phản ánh, nghĩa là đối tượng đó phải xác thực cụ thể, có thể coi đây là lĩnh vực có liên

quan nhiều nhất đến bí mật đời tư cá nhân và cũng là lĩnh vực mà việc xâm phạm bí mật

đời tư cá nhân xảy ra một cách phổ biến, thậm chí là một việc không thể thiếu nếu muốn

có một bài báo “giật gân”, “nổi”, thu hút dư luận chú ý. Những người bị báo chí xâm

phạm bí mật đời tư phần lớn là những người nổi tiếng, ngoài ra mỗi cá nhân trong cuộc

sống hàng ngày cũng đều có thể dễ dàng trở thành “nạn nhân” bị xâm phạm đời sống

riêng tư, bí mật cá nhân bởi báo chí. Nguy hại ở chỗ, nếu báo in, báo nói, báo hình chỉ

phát trong phạm vi nhất định thì báo điện tử với tính năng động của nó – luôn luôn đưa

những thông tin cập nhật nhanh nhất, mới nhất và lan tỏa không ngừng (dù thật ra số

lượng đầu tin, bài, ảnh không quá lớn), khi công khai những hình ảnh cá nhân, những bí

mật đời tư của người khác có thể dẫn đến những hệ quả hết sức nghiêm trọng đối với

tinh thần và cuộc sống của người trong cuộc cũng như những người có liên quan. Đây

không những là hành vi thiếu đạo đức của nghề báo mà còn vi phạm pháp luật, xâm hại

đến đời tư của người khác. Luật Báo chí 2016 quy định: “Không ai được lạm dụng

quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà

nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân” (Điều 13). Ngoài ra còn

nghiêm cấm các hành vi: “Tiết lộ thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước, bí mật đời

tư của cá nhân và bí mật khác theo quy định của pháp luật; Thông tin sai sự thật, xuyên

tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân;

quy kết tội danh khi chưa có bản án của Tòa án...” (Điều 9).

Giống với báo chí, điện ảnh cũng là một kênh tuyên truyền, phản ánh hiện thực

cuộc sống bằng nghệ thuật, bằng phim ảnh. Trên thực tế, hầu như ít khi xảy ra câu

chuyện kiện tụng hay những hành vi được xem là xâm phạm bí mật đời tư bởi nó là

một phần xã hội thu nhỏ, phản ánh nhiều khía cạnh của con người và xã hội, bất cứ cá

39

nhân nào cũng thấy ít nhiều hình ảnh của mình ở đó, nhà sản xuất cũng không dại gì

sử dụng tên thật, việc thật cho các nhân vật trong phim. Tuy nhiên, khi làm phim về

những nhân vật nổi tiếng, đem cuộc sống của cá nhân lên màn ảnh thì tình tiết phải

chân thật, tránh thêm thắt, xuyên tạc làm mất uy tín, danh dự người đó, hơn nữa những

gì thuộc về bí mật đời tư cá nhân phải được sự đồng ý của họ. Nhưng nếu họ đã là một

nhân vật lịch sử, phải được sự đồng ý của ai? Nếu bị làm sai đi với hình tượng vốn có

của nhân vật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, uy tín của cá nhân bởi tính nhạy

cảm của nó thì sẽ xử lý ra sao? Những sai phạm này có thể coi như xâm phạm đời tư

cá nhân, nhưng cho tới nay vẫn chưa được pháp luật quy định rõ ràng. Khoản 1 Điều 4

Nghị định 158/2013/NĐ-CP mới chỉ có quy định phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến

10.000.000 đồng đối với hành vi: “Sản xuất phim có nội dung tiết lộ bí mật đời tư của

người khác mà theo quy định của pháp luật phải được sự đồng ý của người đó nhưng

nhà sản xuất không xin phép hoặc không được sự đồng ý của người đó”.

­ Trong đời sống hàng ngày:

 Liên quan đến hình ảnh của cá nhân

Điều 32 BLDS 2015 quy định về quyền của cá nhân đối với hình ảnh: “Cá nhân

có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được

người đó đồng ý”. Hành vi quay phim, chụp ảnh, công bố những cảnh quay hoặc

những bức ảnh mà cá nhân đã quay, đã chụp cũng được xác định là hành vi xâm phạm

quyền riêng tư của người khác nếu như không được sự đồng ý của người đó, thậm chí

ở góc độ nào đó cũng được xác định là hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư.

 Liên quan đến chỗ ở của cá nhân

Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở là một quyền Hiến định được quy định tại

Điều 22 Hiến pháp 2013: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai

tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý. Việc khám xét chỗ ở

do luật định”. Điều 12 Luật Cư trú ghi nhận: “Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện

hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú”. Như vậy, chỗ ở của một người là nơi

người đó sống đời sống riêng thường ngày, cũng là nơi họ có thể sống theo thiên

hướng tự do của chính mình, sống như mình mong muốn, nơi đây “ẩn chứa” những bí

mật thuộc về đời sống riêng tư, bí mật của cá nhân, của gia đình (bí mật đời tư). Chỗ ở

của cá nhân có thể được xác lập thông qua nhiều cách khác nhau như mua, thuê,

40

mượn, ở nhờ nhưng dù xác lập thông qua bất cứ hình thức nào thì chỗ ở của cá nhân

cũng được xác định là bất khả xâm phạm, cá nhân được toàn quyền cho phép hoặc

không cho phép người khác vào nơi ở của mình.

Xét trên phương diện nào đó hành vi xâm phạm chỗ ở là hành vi xâm phạm

quyền riêng tư như: hành vi xâm nhập chỗ ở trái phép (cố tình xâm nhập vào chỗ ở của

cá nhân khi không được sự đồng ý của cá nhân đó), hành vi cản trở trái pháp luật tới

việc thực hiện quyền của cá nhân đối với chỗ ở của mình (hành vi của chủ thể nhằm

ngăn cản cá nhân thực hiện quyền đối với chỗ ở của mình như dùng khóa khóa nhà ở

của cá nhân đó)... Ít khi thấy hành vi xâm phạm chỗ ở dưới góc độ xâm phạm bí mật

đời tư, trừ trường hợp thu thập, công bố các thông tin liên quan đến chỗ ở, địa chỉ nhà

ở mà bản thân cá nhân muốn giữ bí mật. Hành vi này chúng ta thường ít để ý nhưng

đối với một số quốc gia trên thế giới như Pháp, Úc, Mỹ... thì hành vi này không những

xâm phạm quyền riêng tư của cá nhân mà còn xâm phạm bí mật đời tư của họ.

Bản thân cá nhân muốn sống tự do, không bị can thiệp đời sống riêng tư nên giữ

kín chỗ ở của mình tránh sự dòm ngó, làm phiền từ người khác. Do đó nếu không nhận

được sự đồng ý từ người có nhà ở mà một người nào đó có hành vi tiết lộ địa chỉ chỗ ở

của người đó thì hành vi này cũng được xác định là hành vi xâm phạm bí mật đời tư

của cá nhân đối với chỗ ở.

 Trên thực tế, trong một số trường hợp, hành vi thu thập thông tin cá nhân có

thể coi là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận nhưng hành vi công bố những thông tin

đó lại là hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư của cá nhân.

Chẳng hạn, hành vi thu thập thông tin liên quan đến tình trạng sức khỏe, bệnh tật,

tinh thần của người bệnh là trách nhiệm nghề nghiệp của bác sỹ - là hành vi được phép.

Tuy nhiên công bố những thông tin đó lại bị coi là hành vi xâm phạm quyền bí mật đời

tư. Có thể xác định tương tự đối với người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng

khi thực hiện hành vi khám, xét nơi ở, thư tín của người có hành vi phạm tội.

Đối với người có nhiệm vụ lưu giữ các thông tin của cá nhân (theo quy định pháp

luật hoặc được xác định theo hợp đồng có điều khoản “bảo mật thông tin” giữa người

có thông tin và người giữ thông tin) mà bản thân người này lại tiết lộ những thông tin

đó cho những người không được phép tiếp cận thông tin thì hành vi này cũng bị coi là

xâm phạm bí mật đời tư. Ví dụ, nhân viên ngân hàng không được phép tiết lộ số dư tài

41

khoản tiền gửi của khách hàng, nhân viên viễn thông không được phép cung cấp lịch

sử cuộc goi, nội dung tin nhắn từ số thuê bao của khách hàng, luật sư không được công

bố các thông tin mình biết được do quá trình tác nghiệp được thân chủ cung cấp trừ

trường hợp theo quan hệ hợp đồng hoăc theo quy định pháp luật là được phép tiết lộ...

 Ngoài việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin của cá nhân được

sự đồng ý của cá nhân đó sẽ không bị coi là hành vi xâm phạm bí mật đời tư thì trong

một số trường hợp việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin của cá nhân

cũng được coi là hợp pháp như:

­ Thu thập, công bố... thông tin theo quy định của pháp luật hoặc theo quyết

định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền

Đối với trường hợp thu thập, công bố... thông tin của cá nhân theo quy định của

pháp luật có thể được áp dụng đối với một số đối tượng bắt buộc. Ví dụ, Luật Phòng

chống tham nhũng 2005 sửa đổi 2012, Nghị định 78/2013/NĐ-CP về minh bạch tài

sản, thu nhập quy định một số đối tượng nhất định phải kê khai tài sản hoặc phải chịu

xác minh tài sản. Việc kê khai tài sản, thu nhập được áp dụng đối với một số đối tượng

đảm nhiệm những chức vụ “nhạy cảm”, rất dễ có điều kiện tham nhũng, việc xác minh

tài sản, thu nhập phục vụ cho việc bổ nhiệm, bầu cử, cách chức, miễn nhiệm, kỷ luật

cán bộ. Tuy nhiên những trường hợp này chỉ bị thu thập thông tin và những thông tin

này được coi là bí mật mà không được phép công bố, trừ trường hợp pháp luật quy

định. Theo Nghị định này một trong các hành vi bị nghiêm cấm đó là: “Tiết lộ thông

tin của hồ sơ xác minh tài sản, thu nhập khi chưa được phép của người có thẩm

quyền”.

Đối với trường hợp thu thập, công bố... thông tin của cá nhân theo quyết định của

cơ quan Nhà nước có thẩm quyền: thông thường đây là trường hợp vì lợi ích quốc gia,

vì đảm bảo an ninh và trật tự an toàn xã hội, phục vụ công tác đấu tranh và phòng ngừa

tội phạm mà có thể có sự thu thập và công bố thông tin được coi là bí mật đời tư, tuy

nhiên phải tuân theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định. Chẳng hạn BLTTHS

2015 đã xác định nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống

riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín

của cá nhân tại Điều 12, nhưng bên cạnh đó cũng quy định nếu “có căn cứ để nhận

định trong người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện có công cụ, phương tiện

42

phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, dữ liệu điện tử, tài

liệu khác có liên quan đến vụ án; khi cần phát hiện người đang bị truy nã, truy tìm và

giải cứu nạn nhân; trong thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử có công

cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản liên quan đến vụ án” thì có thể khám

xét người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện, tài liệu, đồ vật, thư tín, điện tín,

bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện

tử (Điều 192).

­ Thu thập, công bố... thông tin thuộc những trường hợp liên quan tới quyền tự

do thông tin

Quyền tự do thông tin cũng là một quyền cơ bản, theo đó cá nhân có quyền

tiếp cận, thu thập và phân phối thông tin. Vấn đề quan trọng là xác định khi nào các

thông tin của cá nhân có thể mặc nhiên được chủ thể khác tiếp cận mà không chịu bất

kỳ rào cản nào về quyền riêng tư (bí mật đời tư)? Ví dụ như mối quan hệ giữa quyền

của cá nhân đối với hình ảnh và quyền bí mật đời tư. Hình ảnh của cá nhân là vấn đề

thuộc về quyền riêng tư của cá nhân, nếu không được sự đồng ý của cá nhân đó không

chủ thể nào được quyền sử dụng hình ảnh của cá nhân. Do vậy, khi một chủ thể nhất

định tự ý thu thập và công bố những hình ảnh này nghĩa là họ đã xâm phạm quyền của

cá nhân đối với hình ảnh cũng như xâm phạm quyền riêng tư. Tuy nhiên, sẽ không bị

coi là xâm phạm đời sống riêng tư, quyền bí mật đời tư của cá nhân nếu người thu thập

thông tin đang ở trong vùng thông tin hợp pháp và và bản thân người bị thu thập, công

bố thông tin cũng thuộc trường hợp mặc nhiên bị khai thác thông tin. Chẳng hạn

những thông tin liên quan đến Chủ tịch nước khi tham quan, làm việc tại một địa

phương nào đó hoặc hình ảnh Chủ tịch nước đọc bài phát biểu trước công chúng hay

thông tin, hình ảnh về một cuộc hội nghị, hội thảo, thi đấu thể thao trong đó có hình

ảnh cá nhân tham gia hoặc chụp cùng những cá nhân khác... Phóng viên có quyền ghi

lại những hình ảnh đó và đăng tải trên các báo, tạp chí khác nhau mà không cần xin

phép bởi mặc nhiên trong trường hợp này các phóng viên được quyền khai thác thông

tin, hành vi của họ không hề bị coi là xâm phạm quyền bí mật đời tư, xâm phạm quyền

riêng tư.

43

3.1.2.2. Hành vi xâm phạm bí mật đời tư liên quan đến thư tín, điện tín, cơ sở dữ

liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân

Thư tín, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư

khác của cá nhân là một trong những phương tiện truyền tải hoặc lưu giữ thông tin liên

lạc giữa cá nhân với những người khác. Hành vi xâm phạm bí mật đời tư liên quan đến

thư tín, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác

của cá nhân bao gồm các hành vi: thu thập, công bố thông tin được truyền tải, ngăn

cản hoặc làm gián đoạn sự truyền tải thông tin, tiêu hủy thông tin.

Hành vi thu thập thông tin liên quan đến thư tín, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và

các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân mà không được cá nhân

đồng ý cũng như không được pháp luật cho phép, đó là các hành vi như tự ý bóc mở,

tráo đổi thư, bưu kiện, bưu phẩm của cá nhân; hành vi đọc, nghe trộm, thu trộm thông

tin trên mạng viễn thông, trộm cắp, sử dụng trái phép mật khẩu, khóa mật mã và thông

tin riêng của cá nhân khác.

Hành vi công bố các thông tin thu thập được liên quan đến thư tín, điện tín, cơ sở

dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân chính là

hành vi tiếp theo của hành vi thu thập thông tin trái phép, chủ thể tiếp cận thông tin đã

công khai tiết lộ nội dung thông tin cho chủ thể khác. Việc công khai có thể được thực

hiện bởi nhiều biện pháp và cách thức khác nhau, tuy nhiên, có thể khẳng định đây là

hành vi xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân rất nghiêm trọng, nghiêm trọng hơn cả

hành vi thu thập thông tin trái phép, bất kể nhằm mục đích gì.

Hành vi ngăn cản, làm gián đoạn thông tin liên lạc của cá nhân thông qua các

hình thức thư tín, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác là hành vi tác động của

chủ thể làm gián đoạn tính liên tục hoặc tính trọn vẹn của thông tin. Chủ thể có hành vi

xâm phạm dùng mọi thủ đoạn, mọi biện pháp như làm nhiễu sóng, dùng thiết bị vô

hiệu hóa các phương tiện thông tin, phát tán virus để phá hoại thông tin liên lạc thông

qua các phương tiện điện tử...

Hành vi chiếm đoạt, làm mất, tiêu hủy thư tín, điện tín của cá nhân: Đây cũng là

những hành vi tương đối phổ biến xâm phạm đời tư của cá nhân. Trong đó hành vi

chiếm đoạt thư tín, điện tín của cá nhân là hành vi giữ lại thư tín, điện tín không cho cá

nhân được tiếp cận thư tín, điện tín đó mà lẽ ra họ có quyền được nhận; hành vi làm

44

mất thư tín, điện tín là hành vi được thực hiện với lỗi vô ý làm cho thư tín, điện tín bị

mất và không đến tay người nhận; hành vi tiêu hủy thư tín, điện tín là hành vi cố ý của

một chủ thể nhằm làm cho thư tín, điện tín không còn tồn tại bằng cách đốt, xé, vứt

bỏ...

Những hành vi trên đây có thể được thực hiện với bất cứ động cơ, mục đích gì

tuy nhiên vẫn được xác định là hành vi xâm phạm quyền riêng tư, quyền bí mật đời tư

của cá nhân.

3.1.3. Các biện pháp bảo vệ quyền bí mật đời tư

Các biện pháp bảo vệ quyền bí mật đời tư rất đa dạng, đó có thể là biện pháp

tự bảo vệ hoặc các biện pháp pháp lý khác theo quy định của pháp luật dân sự, hành

chính, hình sự. Mỗi biện pháp bảo vệ quyền bí mật đời tư có những đặc thù riêng, trên

cơ sở đó mỗi biện pháp này có vai trò khác nhau trong việc đảm bảo quyền bí mật đời

tư của chủ thể.

3.1.3.1. Bảo vệ quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự

Điều 11 BLDS 2015 đã quy định “Các phương thức bảo vệ quyền dân sự”

như sau:

“Khi quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền

tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan hoặc yêu cầu cơ quan,

tổ chức có thẩm quyền:

1. Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của mình;

2. Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm;

3. Buộc xin lỗi, cải chính công khai;

4. Buộc thực hiện nghĩa vụ;

5. Buộc bồi thường thiệt hại;

6. Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm

quyền;

7. Yêu cầu khác theo quy định của luật.”

Theo đó, có hai phương thức cơ bản để bảo vệ quyền dân sự đó là: 1. Tự bảo vệ;

2. Yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện các phương thức nhất định.

Việc tự bảo vệ được thực hiện theo quy định của BLDS và các quy định tại luật

khác có liên quan. Việc tự bảo vệ này thể hiện được tính hòa giải, thỏa thuận giữa các

45

bên chủ thể trong quan hệ dân sự. Tuy nhiên, tính bắt buộc, áp dụng chế tài của biện

pháp này không cao. Do đó, thường khi các bên chủ thể không tự bảo vệ hoặc đã áp

dụng phương thức tự bảo vệ, nhưng không hiệu quả, họ thực hiện việc yêu cầu cơ

quan, tổ chức có thẩm quyền sử dụng quyền lực nhà nước để can thiệp.

Việc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền với mục đích bảo vệ quyền dân sự

của cá nhân nói chung và quyền bí mật đời tư nói riêng của các chủ thể được thực hiện

qua các phương thức được liệt kê ở trên. Trong phạm vi đề tài xin phân tích một vài

phương thức được sử dụng phổ biến:

 Yêu cầu người xâm phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổchức có thẩm quyền buộc

người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai

Theo biện pháp này, người bị xâm phạm bí mật đời tư có thể trực tiếp yêu cầu

người có hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư của mình phải chấm dứt hành vi xâm

phạm, xin lỗi, cải chính công khai. Nếu người bị xâm phạm quyền bí mật đời tư đã

trực tiếp yêu cầu người xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính

công khai mà người này vẫn không thực hiện một trong các hành vi đó thì người bị

xâm phạm quyền bí mật đời tư có quyền yêu cầu Toà án buộc người có hành vi xâm

phạm bí mật đời tư phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai.

Trình tự, thủ tục khởi kiện tại Toà án để yêu cầu chủ thể xâm phạm quyền bí mật đời

tư được thực hiện theo thủ tục tố tụng dân sự, đây là tranh chấp dân sự thuộc thẩm

quyền giải quyết của Toà án.

Như vậy, có thể người bị xâm phạm quyền bí mật đời tư hoặc trực tiếp hoặc gián

tiếp thông qua Toà án yêu cầu người xâm phạm bí mật đời tư phải thực hiện một trong

các hành vi sau:

­ Chấm dứt hành vi xâm phạm: Tuỳ thuộc vào biểu hiện của hành vi xâm phạm

bí mật đời tư mà người xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm theo nhiều cách

khác nhau. Nếu hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư là hành vi thu thập, công bố

thông tin thì người thu thập, công bố thông tin phải dừng lại việc thu thập và công bố.

Hoặc hành vi chấm dứt có thể là không được tiếp tục xâm phạm bất hợp pháp chỗ ở

của người khác. Đối với hành vi cản trở trái pháp luật tới việc thực hiện việc đàm

thoại, tiếp nhận thông tin liên lạc thì phải chấm dứt các hình vi cản trở đó...

46

­ Xin lỗi: Người xâm phạm có thể trực tiếp gặp người bị xâm phạm bí mật đời

tư để xin lỗi hoặc xin lỗi dưới các hình thức khác theo yêu cầu của người bị xâm phạm

(gửi thư, đăng báo...).

­ Cải chính công khai: Bản thân người xâm phạm quvền bí mật đòi tư của người

khác sẽ phải cải chính lại các thông tin trước đâv mình đã đưa ra, việc cải chính này có

thể thực hiện trực tiếp nhưng cũng có thể cải chính thông qua các phương tiện thông

tin đại chúng (báo, đài phát thanh, đài truyền hình).

 Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc

người vi phạm bồi thường thiệt hại

Khi hành vi xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân gây thiệt hại, người bị xâm

phạm có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải bồi thường thiệt hại hoặc yêu

cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quvền buộc người vi phạm phải bồi thường thiệt hại.

Bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quvền bí mật đời tư có thể là trách nhiệm

bồi thường thiệt hại theo hợp đồng nhưng cũng có thể là trách nhiệm ngoài hợp đồng.

Việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng hay ngoài hợp đồng khi

có hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư cũng có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định

hành vi xâm phạm, mức bồi thường...

Để buộc người gây thiệt hại bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm bí mật

đời tư phải thoả mãn các điều kiện sau đây:

­ Có thiệt hại xảy ra:

Thiệt hại là những tổn thất thực tế mà bản thân người bị xâm phạm quyền bí mật

đời tư phải gánh chịu. Thiệt hại ở đây có thể là những thiệt hại về vật chất hoặc những

thiệt hại về tinh thần. Nguyên tắc xác định, tính toán thiệt hại được áp dụng theo quy

định của BLDS. Tuy nhiên, để có cơ sở yêu cầu người có hành vi xâm phạm bí mật

đời tư bồi thường thiệt hại do hành vi của họ gây ra thì người bị xâm phạm phải đưa ra

các chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu bồi thường thiệt hại của mình lả có căn cứ.

­ Có hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân:

Hành vi xâm phạm có thể là hành vi vi phạm các cam kết, thoả thuận về việc giữ

bí mật đời tư nhưng cũng có thể là hành vi vi phạm các quy định của pháp luật liên

quan đến quyền bí mật đời tư của cá nhân.

47

­ Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật đời tư

với thiệt hại xảy ra

Hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư là nguvên nhân và thiệt hại được xác

định là hậu quả. Như vậy, xét trong mối quan hệ nhân quả thì hành vi xâm phạm

quyền bí mật đời tư phải có trước và thiệt hại có sau. Việc xác định mối quan hệ nhân

quả có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định mức bồi thường khi có nhiều hành vi trái

pháp luật của nhiều chủ thể xâm phạm quyền bí mật đời tư hoặc khi bản thân người

xâm phạm và người bị xâm phạm đều có lỗi.

­ Có lỗi của người gây thiệt hại

Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi và hậu quả do hành vi đó

mang lại. Người có hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền bí mật đời tư phải chịu

trách nhiệm về hành vi của mình khi hành vi đó được thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý.

3.1.3.2. Bảo vệ quyền bí mật đời tư theo quy định của một số ngành luật khác

Bên cạnh các biện pháp bảo vệ quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật

dân sự, pháp luật còn quy định nhiều biện pháp khác nhau trong việc bảo vệ quyền bí

mật đời tư, đó là biện pháp hành chính và biện pháp hình sự.

 Biện pháp hành chính

Hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư của cá nhân nếu chưa đến mức độ truy

cứu trách nhiệm hình sự thì người có hành vi đó có thể bị xử lý vi phạm hành chính.

Nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thời hạn... xử lý vi phạm hành chính được áp dụng

theo Luật xử lý vi phạm hành chính 2012. Khoản 1 Điều 2 của Luật này quy định: “Vi

phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định

của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của

pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”.

Hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư của cá nhân có thể phải chịu hình thức

xử phạt vi phạm hành chính sau:

– Cảnh cáo: Được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không

nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định thì bị áp dụng hình thức xử phạt

cảnh cáo hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ

14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản.

48

– Phạt tiền: Tùy thuộc vào hành vi vi phạm hành chính nói chung, xâm phạm

quyền bí mật đời tư nói riêng trong từng lĩnh vực cụ thể mà người vi phạm có thể bị

phạt tiền từ 50.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng

Đối với hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư của cá nhân ngoài áp dụng hai

hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền còn có thể có hình phạt bổ sung như:

– Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn: Được áp

dụng đối với cá nhân vi phạm nghiêm trọng các hoạt động được ghi trong giấy phép,

chứng chỉ hành nghề. Chẳng hạn như trong quá trình hành nghề luật sư, luật sư vi

phạm nghiêm trọng đạo đức nghề nghiệp, xâm phạm quyền bí mật đời tư của cá nhân

khác thì có thể bị thu hồi chứng chỉ hành nghề, thu hồi thẻ luật sư. Ngoài ra còn bị xử

lý kỷ luật theo hình thức xóa tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn Luật sư. Trong thời

gian bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, cá nhân không được tiến

hành các hoạt động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề.

– Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm

hành chính : Là việc sung vào ngân sách nhà nước vật, tiền, hàng hoá, phương tiện có

liên quan trực tiếp đến vi phạm hành chính, được áp dụng đối với vi phạm hành chính

nghiêm trọng do lỗi cố ý của cá nhân. Ví dụ, trong quá trình tác nghiệp phóng viên sử

dụng máy ghi âm, máy ảnh... xâm phạm quyền bí mật đời tư của người khác thì có thể

bị tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.

– Trục xuất: là hình thức xử phạt buộc người nước ngoài có hành vi vi phạm

hành chính tại Việt Nam phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam.

Ngoài các biện pháp xử phạt, cá nhân vi phạm hành chính liên quan đến hành

vi xâm phạm quyền bí mật đời tư còn có thể bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu

quả sau: Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện; Buộc

tiêu hủy văn hóa phẩm có nội dung độc hại; Buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc

gây nhầm lẫn; Các biện pháp khắc phục hậu quả khác do Chính phủ quy định.

Bên cạnh đó, Luật xử lý vi phạm hành chính còn quy định các biện pháp xử lý

hành chính khác như: Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Đưa vào trường giáo

dưỡng; Đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

49

 Biện pháp hình sự

Người có hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư của cá nhân có dấu hiệu của

tội phạm, thoả mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì bị xử lý bằng biện pháp

hình sự.

Hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến quyền bí mật đời tư của cá nhân

sẽ bị xử lý hình sự với các hình phạt do BLHS quy định, bao gồm các hình phạt chính

là: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo không giam giữ; Trục xuất; Tù có thời hạn; Tù chung

thân; Tử hình. Ngoài ra, người thực hiện hành vi phạm tội có thể phải chịu những hình

phạt bổ sung khác như: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc

nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân; Tịch thu tài sản; Phạt

tiền hoặc trục xuất khi không áp dụng là hình phạt chính.

Liên quan đến hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư, BLHS 2015 có quy

định một số loại tội phạm cụ thể như:

­ Hành vi xâm phạm chỗ ở của người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình

sự theo quy định tại Điều 158 BLHS. Theo đó, hành vi xâm phạm chỗ ở của người

khác là hành vi khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác, dùng vũ lực, đe doạ

dùng vũ lực, gây sức ép về tinh thần hoặc thủ đoạn trái pháp luật khác buộc người

khác phải rời khỏi chỗ ở hợp pháp của họ; dùng mọi thủ đoạn trái pháp luật nhằm

chiếm, giữ chỗ ở hoặc cản trở trái phép, không cho người đang ở hoặc quản lý hợp

pháp chỗ ở được vào chỗ ở của họ; tự ý xâm nhập chỗ ở của người khác mà không

được sự đồng ý của chủ nhà hoặc người quản lý hợp pháp... Tuỳ từng mức độ xâm

phạm, tùy từng trường hợp cụ thể mà người thực hiện hành vi xâm phạm chỗ ở của

công dân có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng

đến 2 năm (Khoản 1, Điều 158) hoặc có thể bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm (Khoản 2,

Điều 158). Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định

từ một năm đến năm năm.

­ Đối với hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc

hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác: Nếu những hành vi này đầy đủ các

yếu tố cấu thành tội phạm, thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu được mô tả tại Điều 159 BLHS

thì bị cảnh cáo, phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, cấm đảm nhiệm

những chức vụ nhất định trong một thời hạn từ 1 đến 5 năm. Các hành vi được mô tả cụ

thể như chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được 50

truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ hình thức nào; cố ý làm hư

hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thông tin, nội dung của thư tín, điện báo, telex, fax hoặc

văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông; nghe,

ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật; hoặc có hành vi trái pháp luật khác xâm phạm bí

mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác.

­ Cá nhân thực hiện hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ của mình để xâm

phạm quyền bí mật đời tư của cá nhân khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự

theo Điều 331 BLHS. Ngoài ra, trong hoạt động xuất bản nếu cá nhân có các hành vi

xâm phạm quyền bí mật đời tư thì có thể bị truy cứu trách nhiệm theo Điều 344 của

BLHS.

­ Trong hoạt động nghề nghiệp của mình, nếu cá nhân có các hành vi cố ý làm

lộ bí mật công tác; chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu huỷ tài liệu bí mật công tác thì bị

truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 361 BLHS.

Có thể nói, BLHS 2015 có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền bí mật đời

tư của cá nhân bằng việc quy định các hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm

khi các hành vi đó xâm phạm tới quyền nhân thân nói chung, quvền bí mật đời tư nói

riêng của cá nhân. Việc xử lý các hành vi xâm phạm quvền bí mật đời tư của cá nhân

theo biện pháp hình sự ngoài mục đích trừng trị người có hành vi vi phạm pháp luật

còn nhằm mục đích răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Đây cũng chính là chính

sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật

hình sự.

Tóm lại trong việc bảo vệ quyền bí mật đời tư của cá nhân, mỗi ngành luật đều

có vai trò khác nhau căn cứ vào đặc điểm, tính chất của từng ngành luật. Các biện

pháp đa dạng bảo vệ quyền nhân thân nói chung, quyền bí mật đời tư nói riêng sẽ tạo

điều kiện xử lý các hành vi xâm phạm quyền bí mật đòi tư một cách tốt nhất.

3.2. THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ Ở VIỆT NAM

Quyền bí mật đời tư được đề cập dưới nhiều góc độ: những bí mật đời tư liên

quan đến đời sống tình cảm, vật chất, những bí mật đời tư liên quan đến nghề nghiệp,

quan hệ xã hội khác... Chịu ảnh hưởng bởi nhiều phong tục, tập quán và thói quen nên

nhiều người Việt Nam không có quan niệm hoặc ít để ý đến vấn đề xâm phạm quyền

bí mật đời tư của người khác, mặc dù trên thực tế có thể hành vi xâm phạm đã từng

xảy ra trong một số lĩnh vực, trên một số địa bàn. Đây cũng chính là một trong những 51

lý do cho thấy các vụ khiếu kiện về xâm phạm quyền bí mật đời tư ở Việt Nam chưa

nhiều, tuy nhiên tính chất của các vụ xâm phạm thì rất phức tạp.

Mặc dù vậy, đã có những vụ việc dù chưa xảy ra tranh chấp nhưng đã nhận

được sự quan tâm của dư luận và suy nghĩ, trăn trở của những người làm công tác

pháp luật, vẫn có những tranh luận, những vướng mắc và những quan điểm nhất định

xung quanh việc có hay không có hành vi xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân. Nhất

là khi văn bản pháp luật không có quy định cụ thể thế nào là bí mật đời tư (hay đời

sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình) nên thực tiễn rất khó xác định các hành

vi xâm phạm quyền bí mật đời tư.

Dưới đây là một số hành vi xâm phạm đời tư phổ biến hoặc vụ việc cụ thể còn

gây nhiều tranh cãi:

3.2.1. Việc cung cấp các thông tin liên quan đến bản thân, gia đình cho cơ

quan sử dụng lao động

Để có thể tham gia thi tuyển vào một cơ quan Nhà nước hoặc được tuyển dụng

vào một vị trí nhất định làm việc cho cơ quan sử dụng lao động, những cơ quan này

thường yêu cầu các ứng viên phải có “Sơ yếu lý lịch” trong hồ sơ. Xung quanh vấn đề

này có một số nội dung khá nhạy cảm:

­ Những thông tin nào buộc phải được công khai trong sơ yếu lý lịch?

­ Những thông tin được khai trong sơ yếu lý lịch có được coi là “bí mật đời tư”

hay không ?

­ Trách nhiệm của cơ quan tuyển dụng, của cán bộ trực tiếp thực hiện công việc

tuyển dụng trong việc đảm bảo tính bí mật của các thông tin của người dự tuyển,

người lao động ?

Hiện nay, chúng ta chưa có một cơ chế pháp lý cụ thể quy định về những nội

dung này. Tuy nhiên, theo tác giả thì có mấy vấn đề sau đây:

­ Thứ nhất, không phải mọi thông tin liên quan đến cá nhân đều phải được kê

khai trong sơ yếu lý lịch nếu như những thông tin này không ảnh hưởng đến công việc

mà người kê khai đang dự tuyển và sẽ đảm trách sau này. Chẳng hạn: Cơ quan tuyển

dụng lao động có thể yêu cầu người lao động phải đáp ứng các tiêu chí về giới tính,

sức khoẻ, học vấn...nhưng người lao động vẫn có thể không công khai về tình trạng

hôn nhân của mình (ví dụ: người này đã từng kết hôn hoặc ly hôn...). Ngay cả trường

52

hợp bản thân người lao động đã từng phạm tội trong quá khứ thì anh ta cũng không

nhất thiết phải công khai thông tin này nếu bên tuyển dụng không yêu cầu và thậm chí

nếu yêu cầu đó không chính đáng thì họ cũng có thể từ chối. Luật pháp một số nước

trên thế giới (Úc, Anh...) có quy định việc không công khai tình trạng phạm tội của

một người trong quá khứ đối với cơ quan tuyển dụng hoặc sử dụng lao động trừ một số

ngành nghề nhạy cảm đặc biệt mà bản thân người lao động phải công khai như làm

công việc liên quan đến trông giữ trẻ, làm việc ở một số cơ quan công quyền...

­ Thứ hai, những thông tin được mô tả trong sơ yếu lý lịch của cá nhân cũng

được coi là những bí mật của họ nếu thực sự bản thân người đó không muốn công khai

hoá các thông tin này. Công khai hoá ở đây được hiểu là sự biết đến của người thứ ba

ngoài yêu cầu mang tính bắt buộc của cơ quan tuyển dụng. Thực tế cơ quan tuyển

dụng biết được những thông tin này nhưng bản thân người lao động, người tuyển dụng

cũng không muốn công khai thông tin này cho người khác.

­ Thứ ba, chính vì những thông tin được khai trong sơ yếu lý lịch được coi là

những thông tin mang tính “bí mật” nên cơ quan tuyển dụng cán bộ công chức, cơ

quan sử dụng lao động phải có trách nhiệm giữ bí mật những thông tin này. Mọi hành

vi cung cấp thông tin liên quan đến người lao động (số điện thoại, địa chỉ, tình trạng

bệnh tật đã và đang mắc phải...) đều bị coi là xâm phạm bí mật đời tư.

3.2.2. Về việc liệu có tồn tại bí mật đời tư trong đời sống hôn nhân?

Tóm tắt vụ việc: “Một tòa án ở Thành phố Hồ Chí Minh vừa giải quyết vụ ly hôn

khá lạ. Người chồng có trong tay nhiều tin nhắn mùi mẫn từ điện thoại di động của vợ gửi

cho một Việt kiều đang ở nước ngoài, người này in ra toàn bộ, nộp cho Tòa án và lấy đó

làm căn cứ để đề nghị Tòa án cho ly hôn vì vợ dành tình cảm cho người khác” [2]

Trong vụ việc này, chưa xét đến việc toà án có chấp nhận chứng cứ do người

chồng đưa ra để giải quyết ly hôn hay không, vấn đề đặt ra là việc chồng xem trộm tin

nhắn của vợ thậm chí sao chép lại có phải là hành động xâm phạm bí mật đời tư hay

không? Trên thực tế, những hành động tương tự như vậy đang diễn ra khá phổ biến

giữa nhiều cặp vợ chồng: có trường hợp tự mình hoặc thuê thám tử theo dõi vợ

(chồng), đặt máy ghi âm, camera, định vị, lấy cắp mật khẩu hộp thư điện tử, mật khẩu

Facebook để xem thư, đọc tin nhắn, thậm chí công bố lên mạng xã hội... Liệu có được

coi là xâm phạm bí mật đời tư hay không?

53

Xung quanh vấn đề này có một số ý kiến khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng việc

chồng đọc lén thư tín, ghi âm điện thoại của vợ... khi không được vợ đồng ý là hành

động can thiệp thô bạo vào đời tư của người khác, có ý kiến lại cho rằng hai vợ chồng

"tuy hai mà một" nên có quyền được biết những gì xảy ra với người kia do vậy không

có sự xâm phạm bí mật đời tư khi người này đọc tin nhắn, xem thư tín của người kia.

Quan điểm của tác giả cho rằng, việc vợ chồng đọc tin nhắn của nhau rõ ràng là

sự xâm phạm bí mật đời tư của người kia. Bởi lẽ, xét trên phương diện tình cảm, tập

tục của người Việt thì việc vợ chồng xem trộm tin nhắn của nhau là chuyện vẫn diễn ra

hằng ngày ở nhiều gia đình, thậm chí người trong cuộc coi đó là chuyện bình thường.

Phải lưu ý là quan hệ vợ chồng trong xã hội của chúng ta không chỉ chịu sự chi phối và

điều chỉnh của pháp luật mà còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều tập tục, quan niệm đã hình

thành từ lâu đời, nhiều khi còn lấn át pháp luật.

Tuy nhiên, xét trên quan điểm pháp luật, mặc dù vợ chồng là mối quan hệ gắn bó

trên nhiều mặt và được pháp luật bảo vệ, tuy nhiên giữa vợ chồng vẫn có sự riêng tư,

độc lập nhất định. BLDS 2005 và BLDS 2015 đều quy định: Thư tín, điện thoại, điện

tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được đảm bảo an toàn và bí mật.

Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá

nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định phải có quyết định của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, BLDS đã quy định rõ bí mật thư tín, điện

thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được đảm bảo tuyệt

đối (trừ trường hợp cá nhân đồng ý hoặc pháp theo quyết định của pháp luật). Điều đó

có nghĩa, không ai, kể cả vợ, chồng được phép xâm phạm bí mật đời tư của người

khác. Trong quan hệ vợ chồng, tuỳ hoàn cảnh, tuỳ trường hợp mà người vợ hoặc

chồng cần phải có sự riêng tư nhất định, không thể viện bất kì lý do gì để vợ hoặc

chồng xâm phạm bí mật đời tư của người kia. Hơn nữa, thực chất xét trên phương diện

tình cảm thì quan hệ vợ chồng sẽ bền vững trên cơ sở tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau,

việc kiểm tra điện thoại của người khác chỉ càng làm tăng thêm mối bất hoà và sự nghi

ngờ trước đó.

Từ sự phân tích trên có thể thấy người vợ trong tình huống trên hoàn toàn có

thể kiện người chồng về việc xâm phạm bí mật đời tư, tuy nhiên trên thực tế, do quan

niệm, phong tục của người Á Đông mà những vụ kiện như vậy ở nước ta rất hiếm,

thậm chí chưa từng xảy ra.

54

3.2.3. Tiết lộ, rao bán thông tin khách hàng

Khi khoa học kỹ thuật ngày càng hiện đại, khả năng bị lộ những thông tin

được coi là bí mật của cá nhân ngày càng trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Ngay cả khi

chúng ta truy cập vào một số trang Web, các trang này đều có những cam kết bảo vệ

quyền riêng tư, nhưng điều đó khó có thể thực hiện bởi nhiều trường hợp địa chỉ, số

điện thoại, số tài khoản... của chúng ta vẫn bị người khác biết được.

Trên thực tế, nhiều thông tin được coi là bí mật đời tư (quan hệ gia đình, vợ

chồng, con,...) nhưng lại bị công khai hóa bởi một số chủ thể nhất định, những chủ thể

này xác lập quan hệ hợp đồng, giao dịch hoặc những quan hệ khác với chủ sở hữu

thông tin. Đơn cử như trường hợp hàng triệu thông tin thuê bao di động thuộc các nhà

mạng VinaPhone, Viettel, MobiFone đang bị rao bán công khai trên mạng, đã đẩy chủ

thuê bao trở thành nạn nhân của những tin nhắn “rác”, những cuộc gọi “rác” làm phiền

đến từ các ngân hàng, công ty bảo hiểm, bất động sản, thẩm mỹ viện… Có thể nói tình

trạng tiết lộ thông tin cá nhân của khách hàng diễn ra khá phổ biến ở thời điểm hiện

nay, những thông tin này dần trở thành một loại hàng hóa và được rao bán tràn lan trên

mạng internet. Chỉ cần vài trăm ngàn cho đến vài triệu đồng, người mua dễ dàng nắm

được “sơ yếu lý lịch” của những người chưa hề quen biết nhằm phục vụ cho những

mục đích riêng của mình, giống như trường hợp trên đây. Việc này đã gây không ít

phiền toái và những hậu quả tai hại cho người bị lộ thông tin. Một điều thấy rõ là quy

chế về bảo mật thông tin của khách hàng, đối tác vẫn còn lỏng lẻo, chưa thực sự được

chú trọng, bên cạnh đó không thể không kể đến sự vô trách nhiệm, bất chấp chữ “Tín”

của một số nhà cung cấp dịch vụ.

Xin đưa thêm một vụ việc cụ thể: “Về việc Mobifone làm lộ thông tin khách

hàng”. Tóm tắt vụ việc như sau: “Chị Mai Thị H (trú tại 47, NTX, phường Hiệp Hoà

Bắc, Quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng) khiếu nại về việc Mobifone làm lộ bí mật khách

hàng khiến gia đình chị tan vỡ. Chị H sử dụng dịch vụ MobiCard được 2 năm. Ngày

21/11/2015, chồng chị mang về những bảng in chi tiết số điện thoại của chị từ tháng

5/2015 đến tháng 9/2015. Trong đó, chồng chị gạch rõ từng ngày chị thực hiện bao

nhiêu cuộc gọi, gọi vào những số nào, giờ nào? Chồng chị còn truy ra hơn 20 số điện

thoại của những người đàn ông gọi cho chị, gọi điện đến từng người tra hỏi tên, tuổi,

địa chỉ... Cuối cùng, chị H phải kí vào đơn ly dị mặc dù không hề mong muốn. Chị H

đã tìm đến bộ phận chăm sóc khách hàng của MobiFone tại Đà Nẵng, tuy nhiên bất

55

bình trước lời giải thích không thỏa đáng của nhân viên Mobifone, chị H đã làm đơn

khởi kiện công ty này tại TAND quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng. Theo nội dung đơn

kiện, chị H cho rằng mình đã bị xâm phạm bí mật đời tư khi mạng Mobifone tiết lộ

nhật ký cuộc gọi của chị cho chồng chị, dẫn đến gia đình chị tan vỡ và yêu cầu phía

Mobifone phải bồi thường và xin lỗi chị.

Ngày 5/1/2016, HĐXX đã tuyên án. Theo đó, HĐXX xét thấy có hành vi xâm

phạm bí mật đời tư chị H của mạng di động Mobifone, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia

đình chị, vi phạm Điều 38 BLDS 2005 về quyền bí mật đời tư, Điều 6 Luật Viễn thông

2009, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là chị H yêu cầu mạng di động Mobifone

bồi thường thiệt hại. Ngoài ra, HĐXX cũng đưa ra lời cảnh cáo với mạng di động

Mobifone không được tiết lộ bí mật của khách hàng khi không có sự cho phép và yêu

cầu đơn vị này xin lỗi chị H về hành vi của mình” [1]

Theo quan điểm của tác giả, cách giải quyết của TAND quận Liên Chiểu là hợp

lí và có căn cứ pháp luật. Khoản 3 Điều 38 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định: “Thư tín,

điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an

toàn và bí mật”. Bản kê chi tiết danh sách gọi chính là một trong những hình thức

“thông tin điện tử khác của cá nhân” do vậy cũng được pháp luật bảo vệ. Điều 6 Luật

Viễn thông 2009 về bảo đảm bí mật thông tin cũng quy định rõ: “Doanh nghiệp viễn

thông không được tiết lộ thông tin riêng liên quan đến người sử dụng dịch vụ viễn

thông, bao gồm tên, địa chỉ, số máy gọi, số máy được gọi, vị trí máy gọi, vị trí máy

được gọi, thời gian gọi và thông tin riêng khác mà người sử dụng đã cung cấp khi giao

kết hợp đồng với doanh nghiệp”. Thông tin về "Chi tiết cuộc gọi gốc", sơ đồ di chuyển

của các thuê bao di động (vị trí của các thuê bao tại các thời điểm) và các bảng kê cuộc

gọi của khách hàng được liệt vào danh sách thông tin mật. Những thông tin này không

được cung cấp cho bất kỳ ai ngoài chủ thuê bao (hoặc một số trường hợp được chủ

thuê bao uỷ quyền) hoặc trừ khi cơ quan điều tra yêu cầu với những lý do chính đáng.

Như vậy, Mobifone không có quyền cung cấp bản kê chi tiết các cuộc gọi của chị H

cho bất kì ai, kể cả chồng chị H khi không có sự đồng ý của chị.

56

CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN

THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÍ

MẬT ĐỜI TƯ



4.1. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN` THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÍ

MẬT ĐỜI TƯ

Hoàn thiện pháp luật về quyền bí mật đời tư là một trong những nội dung cần

được gắn liền với hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật dân sự nói riêng

(đặc biệt là trong các quy định về quyền nhân thân), đồng thời nên theo sát chủ trương,

đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Trước đây, khi nền kinh tế kém phát triển, thước đo đối với giá trị cuộc sống của

con người dường như được chú trọng bởi những lợi ích vật chất cụ thể. Nhưng nay khi

điều kiện kinh tế xã hội có nhiều thay đổi, cuộc sống hiện đại đang trên đà phát triển

thì thước đo giá trị cuộc sống của con người lại được chú trọng vào những giá trị tinh

thần - mà một trong những sự biểu hiện giá trị này là các quyền nhân thân được pháp

luật quy định. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về quyền bí mật đời tư trong hệ thống

các quyền nhân thân không tách rời khỏi mục tiêu hướng tới các giá trị đích thực của

con người, coi con người là trung tâm.

 Những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện quyền

nhân thân nói chung, quyền bí mật đời tư nói riêng cũng như cơ chế bảo vệ quyền

bí mật đời tư của cá nhân

Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng các quyền của con người, trong đó có các

quyền nhân thân, quyền bí mật đời tư. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp

luật về quyền nhân thân nói riêng là mục tiêu, là nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước ta

luôn coi là nhiệm vụ trọng tâm trong công cuộc cải cách, phát triển kinh tế, xây dựng

và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân – do đó

pháp luật luôn hướng tới việc bảo đảm các quyền nhân thân của con người trong đó có

quvền bí mật đời tư. Tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng một Nhà nước pháp

quyền hiện đại là nội dung quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước

tuy nhiên, điều đó được đặt trong mối liên hệ với việc không ngừng mở rộng dân chủ

XHCN của Đảng và Nhà nước ta. Các nguyên tắc bảo đảm quyền nhân thân nói

57

chung, quyền bí mật đời tư nói riêng của Nhà nước ta thể hiện sự ghi nhận của Nhà

nước về các quyền của con người, thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với Nhà nước,

thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân được điều chỉnh bằng pháp luật.

Trong bối cảnh phức tạp của đời sống chính trị - pháp lý hiện nay, khi mà một số

thế lực thù địch luôn luôn có những luận điệu xuyên tạc, vu khống trắng trợn đối với

việc thực thi các quyền con người ở nước ta thì việc ghi nhận và bảo đảm các quyền

nhân thân, trong đó có quyền đối với bí mật đời tư có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đây

không chỉ là sự khẳng định dưới góc độ luật pháp về việc bảo vệ các quyền nhân thân

của con người mà còn là sự minh chứng cho những giá trị đích thực của quyền con

người được Nhà nước tôn vinh và đảm bảo thực hiện.

 Hoàn thiện pháp luật về quyền bí mật đời tư trên cơ sở nguyên tắc thống

nhất với các quyền nhân thân và các nội dung cụ thể của quyền nhân thân trong

BLDS và các văn bản pháp luật khác

Các quyền nhân thân trong tổng thể hệ thống quyền nhân thân đều có mối liên hệ

tác động qua lại lẫn nhau. Trong một số trường hợp cụ thể, việc thực hiện nội dung của

quyền nhân thân này chính là sự biểu hiện của quyền nhân thân khác. Chẳng hạn,

trong việc quy định quyền của cá nhân đối với hình ảnh, nếu một người có hành vi

xâm phạm hình ảnh của một cá nhân thì có thể hành vi đó cũng chính là hành vi xâm

phạm quyền bí mật đời tư (với những hình ảnh mà bản thân cá nhân không đồng ý

công bố công khai...). Do đó, đồng thời với việc quy định thế nào là bí mật đời tư của

cá nhân thì khi quy định về quyền của cá nhân đối với hình ảnh, pháp luật cũng cần

quy định cụ thể thế nào là các hành vi bị coi là xâm phạm quyền của cá nhân đối với

hình ảnh, mức độ xử lý... Nếu hoàn thiện các quy định về quyền bí mật đời tư và bảo

vệ quyền bí mật đời tư đặt trong mối liên hệ tổng thể với việc hoàn thiện các quyền

nhân thân khác sẽ đảm bảo một cách tốt nhất cho việc thực hiện và bảo vệ quyền bí

mật đời tư của cá nhân nhưng cũng đồng thời đảm bảo cho việc thực hiện tốt hơn các

quvền nhân thân khác của cá nhân.

58

Mặt khác, khi quy định về một quyền nhân thân cụ thể của cá nhân trong đó có

quyền bí mật đời tư thì các văn bản pháp luật chuyên ngành cũng đề cập dưới một góc

độ nhất định liên quan đến quyền đó. Chẳng hạn, nếu pháp luật dân sự quy định về bí

mật đời tư của cá nhân liên quan đến thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử

và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân thì BLTTHS có đề cập

đến việc khám, xét, bóc mở thư tín... hoặc pháp luật về bưu chính, viễn thông có đề

cập đến việc mở, kiểm tra bưu kiện hoặc nghe các cuộc đàm thoại, cung cấp nhật ký

cuộc gọi, tin nhắn...của cá nhân. Do đó, hoàn thiện pháp luật về quyền bí mật đời tư

và bảo vệ quyền bí mật đời tư cần chú ý đến mối tương quan, liên hệ với các ngành

luật khác.

 Hoàn thiện pháp luật về quyền bí mật đời tư cần chú ý đến sự phát triển của

điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và phong tục, tập quán

Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, chịu ảnh hưởng rất lớn bởi

điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội. Do đó, hoàn thiện pháp luật về quyền bí

mật đời tư cần chú ý đến sự thay đổi của điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội.

Nếu như trước đây, khi xã hội còn chưa phát triển, công nghệ kỹ thuật số, điện

thoại di động, internet... còn chưa được biết đến thì dường như bí mật đời tư của cá

nhân ít bị xâm phạm và mức độ của sự xâm phạm còn trong một phạm vi hẹp. Tuy

nhiên, hiện nay với sự phát triển như vũ bão của các công cụ, phương tiện hỗ trợ cần

thiết để truyền tải và truy cập thông tin một cách nhanh chóng thì dường như các hành

vi xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân có thể được thực hiện một cách dễ dàng và

mức độ xâm phạm có thể nghiêm trọng hơn rất nhiều. Chẳng hạn, với các thiết bị nghe

lén nhỏ, gọn thì người ta có thể dễ dàng tiếp cận và thu thập các thông tin bí mật của

cá nhân một cách tốt nhất. Sẽ tương tự như vậy với những máy ảnh kỹ thuật số tối tân,

người ta có thể ghi lại những hình ảnh nhạy cảm nhất của cá nhân và bất cứ lúc nào,

người ta cũng có thể dễ dàng phát tán những hình ảnh này trong môi trường internet...

Mức độ lan rộng của những thông tin bí mật nếu bị tiết lộ sẽ được thực hiện một cách

nhanh chóng nếu điều đó xảy ra ở xã hội hiện đại – so với thời gian trước đây, Do đó,

quy định về sự tổn thất, mức bồi thường, cách thức khôi phục tình trạng ban đầu... khi

có hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư cũng là vấn đề cần được chú ý. Xuất phát từ

những lý do trên nên khi hoàn thiện pháp luật về bí mật đời tư, bảo vệ quyền bí mật

59

đời tư thì chúng ta cần thiết phải chú ý đến sự thay đổi của điều kiện kinh tế, chính trị,

văn hoá - xã hội.

Bên cạnh đó, phong tục tập quán cũng có những ảnh hưởng nhất định tới hành vi

xử sự của cá nhân trong xã hội. Tính cộng đồng, văn hoá làng xã ít nhiều có sự ảnh

hưởng đến hành vi xử sự của con người trong cuộc sống hàng ngày và ở mức độ nhất

định, các hành vi đó có thể ảnh hưởng và xâm phạm đến quyền bí mật đời tư của cá

nhân. Do đó, hoàn thiện pháp luật về bí mật đời tư của cá nhân phải chú ý đến yếu tố

này để hạn chế đến mức thấp nhất các hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư của cá

nhân.

 Hoàn thiện pháp luật về quyền bí mật đời tư trong điều kiện hội nhập kinh

tế quốc tế

Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề quyền con người, không những trong

phạm vi quốc gia mà còn trên phương diện quốc tế, thể hiện ở việc Việt Nam hiện là

quốc gia thành viên tham gia một số các công ước quốc tế về quyền con người. Trong

điều kiện quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng, sự giao lưu trên mọi lĩnh vực ngày

càng tăng, có thể nói toàn cầu hóa trở thành một xu thế khách quan, chúng ta cần chú

trọng hơn nữa việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, các quy định về quyền bí

mật đời tư của cá nhân trong mối tương quan giữa pháp luật quốc gia và pháp luật

quốc tế. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta sao chép pháp luật của quốc

gia khác vào pháp luật của Việt Nam dưới góc độ liên quan đến bí mật đời tư mà cần

có sự tham khảo một cách chọn lọc.

4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU

QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ

4.2.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền bí mật đời tư

Hoàn thiện pháp luật về quyền bí mật đời tư nói riêng, quyền nhân thân nói

chung là một trong những trọng tâm cần được chú ý trong quá trình hoàn thiện hệ

thống pháp luật dân sự. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền bí mật đời tư cần chú

ý đên hai phương diện:

­ Một là, hoàn thiện các quy định của BLDS về quyền bí mật đời tư

­ Hai là, cần chú ý đến việc hoàn thiện pháp luật có liên quan trực tiếp đến việc

đảm bảo, thực hiện quyền bí mật đời tư của cá nhân.

Các giải pháp về pháp luật liên quan đến quyền bí mật đời tư bao gồm: 60

 Sửa đổi quy định của BLDS về quyền bí mật đời tư, bảo vệ quyền bí mật đời tư

Hiện nay, “Quyền bí mật đời tư của cá nhân” được quy định tại Điều 38 của

BLDS 2005 đã được sửa đổi thành “Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí

mật gia đình” tại Điều 38 BLDS 2015 cho phù hợp với quy định của Hiến pháp 2013.

Tuy đã sửa đổi theo hướng mở rộng và cụ thể hơn nhưng điều luật này vẫn còn tồn tại

những hạn chế nhất định. Những hạn chế này ảnh hưởng rất lớn đến việc áp dụng pháp

luật để giải quyết những tranh chấp liên quan đến vấn đề bí mật đời tư của cá nhân.

Chẳng hạn như, chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về bí mật đời tư hay đời

sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, do đó xác định như thế nào là đời sống

riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là một trong những nội dung cần phải được

chú ý, đây là cơ sở để Toà án xác định một thông tin cụ thể có được coi là thuộc về đời

sống riêng tư, bí mật cá nhân hay bí mật gia đình hay không. Ngoài ra, BLDS cần phải

quy định rõ các hành vi bị nghiêm cấm liên quan đến việc bảo vệ đời sống riêng tư, bí

mật của cá nhân, của gia đình. Quy định này mang tính bắt buộc đối với các chủ thể

nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân. BLDS có

quy định liên quan đến “giới hạn” của quyền bí mật đời tư của cá nhân - đó là trường

hợp có thể thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin về đời tư của cá nhân

(“trường hợp pháp luật có quy định khác”, không cần tới sự đồng ý của chủ sở hữu

thông tin). Tuy nhiên, quy định này khá chung chung, không tính đến những trường

hợp có thể làm ảnh hưởng tới quvền lợi của người thứ ba, đây cũng là vấn đề cần chú

ý khi sửa đối BLDS về quyền bí mật đời tư.

Như vậy, để có cơ sở pháp lý hoàn chỉnh, chính xác, khách quan và thống nhất

trong việc áp dụng pháp luật liên quan đến xác định hành vi xâm phạm bí mật đời tư

của cá nhân cần phải sửa đổi điều luật này theo hướng:

­ Xác định rõ thế nào là đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình?

­ Phạm vi, giới hạn và nhận diện những thông tin nào thuộc vào phạm vi “bất

khả xâm phạm” của đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình?

­ Các hành vi bị cấm (liên quan đến xâm phạm bí mật đời tư), bổ sung thêm

hành vi tiêu hủy, làm mất thông tin của cá nhân.

­ Ngoài ra bổ sung quy định về việc được phép thu thập, lưu trữ, sử dụng, công

khai thông tin về đời tư của cá nhân nhưng nếu ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ

61

ba thì phải được người thứ ba đồng ý trừ trường hợp theo quyết định của cơ quan, tổ

chức có thẩm quyền.

 Ban hành văn bản dưới luật hướng dẫn về quyền bí mật đời tư và bảo vệ

quyền bí mật đời tư

Ban hành văn bản dưới luật hướng dẫn về quyền bí mật đời tư là hết sức cần

thiết, nhất là trong bối cảnh chúng ta vừa xây dựng và ban hành BLDS 2015 (có hiệu

lực từ 01/01/2017). Trong đó quy định của BLDS về quyền bí mật đời tư (nay được

sửa đổi là “Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình”) chỉ là những

quy định mang tính chất chung nhất, BLDS không thể liệt kê hết các thông tin được

coi là bí mật đời tư, các hành vi bị coi là xâm phạm bí mật đời tư cũng như các biện

pháp bảo vệ quyền bí mật đời tư của cá nhân. Trước mắt, Hội đồng Thẩm phán - Toà

án nhân dân Tối cao cần ban hành Nghị quyết hướng dẫn quy định của BLDS về

“Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình”, từ đó có thể tiến tới

việc Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành BLDS về “Quyền về đời sống

riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình”. Sự lúng túng của một số Toà án trong việc

giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền bí mật đời tư trong thời gian qua là một

trong những minh chứng và yêu cầu của việc hướng dẫn quy định liên quan đến quyền

bí mật đời tư (đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình). Văn bản hướng dẫn

liên quan đến quyền bí mật đời tư phải có các nội dung chủ yếu sau đây:

­ Khái niệm : Cần giải thích rõ khái niệm để mọi người dễ dàng hiểu được thế

nào là đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình

­ Những thông tin được coi là thuộc về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật

gia đình: Văn bản hướng dẫn cần khái quát chung các đặc điểm liên quan đến thông tin

được coi là thuộc về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình. Sau đó có thể

có sự liệt kê các thông tin được coi là bí mật đời tư liên quan đến đời sống riêng tư, bí

mật cá nhân, bí mật gia đình.

­ Các hành vi bị coi là xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia

đình: Cần xác định rõ các hành vi bị coi là xâm phạm đời sống riêng tư, bí mật cá nhân

và gia đình. Ngoài ra, cần xác định giới hạn của bí mật đời tư cũng như những hành vi

không bị coi là xâm phạm bí mật đời tư trong những trường hợp cụ thể.

62

­ Các biện pháp bảo vệ quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia

đình: Các biện pháp bảo vệ quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình

phải được mô tả chi tiết với những yêu cầu cụ thể liên quan đến việc áp dụng các biện

pháp này để bảo vệ quyền lợi cho chủ thể liên quan đến quyền bí mật đời tư.

 Cần sớm ban hành Luật về Quyền riêng tư

Quyền riêng tư và quyền bí mật đời tư là hai khái niệm không đồng nhất. Quyền

bí mật đời tư bao hàm quyền riêng tư nhưng những yếu tố thuộc về riêng tư lại có thể

không phải là bí mật đời tư. Dưới góc độ quyền con người, quyền riêng tư là quyền mang

tính tự do của con người, được sống, sinh hoạt, làm việc vui chơi... hoàn toàn theo sở

thích và nguyện vọng của cá nhân. Trong một số trường hợp, xâm phạm quyền riêng tư

lại là hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư của cá nhân. Đã có nhiều quốc gia trên thế

giới có luật về quyền riêng tư, từ đó các cá nhân, tổ chức sẽ có những ứng xử chuẩn mực

trong việc tôn trọng quyền riêng tư của con người. Theo tác giả, việc ban hành Luật về

Quyền riêng tư là vấn đề hết sức cần thiết, bởi những lý do sau đây:

­ Ban hành Luật về Quyền riêng tư là một trong những nội dung cơ bản để xác

định quyền bí mật đời tư của cá nhân

­ Luật về Quyền riêng tư sẽ là cơ sở để khai thác thông tin đời tư, nhưng cũng là

cơ sở để xác định giới hạn của việc khai thác thông tin đời tư của cá nhân.

Khi ban hành Luật về Quyền riêng tư có thể tham khảo pháp luật của một số

quốc gia khác như Úc, Nga, Hoa Kỳ... đồng thời có tính đến những yếu tố đặc thù của

pháp luật Việt Nam để có những quy định cho phù hợp.

 Khẩn trương ban hành Luật về Quyền tiếp cận thông tin

Quyền tiếp cận thông tin là một trong những nội dung cơ bản của quyền con

người, quyền này đã được thừa nhận trong Công ước của Liên Hợp Quốc. Trong mối

quan hệ với quyền bí mật đời tư, quyền tiếp cận thông tin lại có ảnh hưởng rất lớn:

Một quyền thể hiện ở việc được phép tiếp cận thông tin (quyền tiếp cận thông tin), một

quyền được thể hiện ở quyền được giữ bí mật thông tin (quyền bí mật đời tư). Quyền

được thông tin phải được thừa nhận trong một xã hội văn minh, đây là một yêu cầu hết

sức cần thiết. Tuy nhiên, ban hành Luật về Quyền tiếp cận thông tin không thể không

chú ý đến quyền bí mật đời tư của cá nhân - nói cách khác là chúng ta cần có cơ chế

63

phù hợp liên quan đến “quyền được thông tin” trong mối tương quan với “bí mật đời

tư”.

Công ước quốc tế về Quyền dân sự và chính trị năm 1966 (Việt Nam tham gia

năm 1982) khi quy định về quyền được thông tin cũng có đặt ra những giới hạn cụ thể

của quyền này. Theo đó, ngoài lợi ích quốc gia thì việc thực hiện quyền được thông tin

phải “Tôn trọng các quyền và uy tín của người khác” (Điều 19, Khoản 3, Điểm a).

Khi xây dựng Luật về Quyền tiếp cận thông tin, cần xác định rõ những giới hạn của

quyền này trong đó có những giới hạn cụ thể liên quan đến bí mật đời tư của cá nhân.

 Hoàn thiện và sửa đổi các quy định trong các văn bản pháp luật chuyên

ngành có liên quan đến việc thực hiện các nội dung cụ thể của quyền bí mật đời tư

Quyền bí mật đời tư được quy định cụ thể trong BLDS, tuy nhiên sự biểu hiện

cụ thể của quyền này lại có thể được liệt kê trong một số văn bản pháp luật chuyên

ngành khác như Bộ luật Hình sự, BLTTHS, BLTTDS, Bộ luật Lao động, Luật Báo

chí, Luật Xuất bản, các văn bản pháp luật về y tế, bưu chính, viễn thông, công nghệ

thông tin...

Đồng thời với việc sửa đổi BLDS về quyền bí mật đời tư, bảo vệ quyền bí mật

đời tư, cần rà soát các văn bản pháp luật có liên quan liên quan đến các quy định về bí

mật đời tư của cá nhân và có cơ chế, quy định cụ thể để đảm bảo một cách tốt nhất về

quyền bí mật đời tư của cá nhân.

Chẳng hạn:

­ Trong quy định về cấp trích lục, sao bản án, cung cấp thông tin về người phạm

tội (đã bị Toà án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật) cần có những quy định cụ

thể: Không được phép cung cấp thông tin về người phạm tội trong trường hợp nào và

trường hợp nào được phép cung cấp thông tin.

­ Trong Bộ luật Lao động cũng không quy định về trách nhiệm của bên sử dụng

lao động trong việc bảo mật các thông tin liên quan đến người lao động. Điều này

cũng xảy ra tương tự trong các quy định về tuyển dụng cán bộ, công chức vào làm việc

trong các cơ quan nhà nước. Thông thường để có thể được tuyển dụng vào cơ quan

nhà nước hoặc tham gia lao động theo chế độ hợp đồng lao động thì cơ quan Nhà nước

hoặc bên sử dụng lao động yêu cầu người tham gia thi tuyển, người lao động phải

cung cấp sơ yếu lý lịch hoặc những tờ khai khác liên quan đến bản thân và gia đình họ.

Những thông tin trong sơ yếu lý lịch, tờ khai...cũng có thể là những bí mật riêng tư mà 64

bản thân ngưòi khai không muốn tiết lộ cho người khác biết. Do đó, pháp luật cần có

những quy định cụ thể về trách nhiệm giữ bí mật thông tin của cán bộ tuyển dụng,

người lao động đối với các cơ quan tuyển dụng cán bộ, bên sử dụng lao động.

­ BLTTHS, Luật Báo chí, Luật Xuất bản cũng cần có các quv định cụ thể liên

quan đến việc khai thác thông tin liên quan đến người thực hiện hành vi phạm tội hoặc

“bị cho là thực hiện hành vi phạm tội”. Trên nguyên tắc một người chỉ bị coi là có tội

khi có bản án kết tội có hiệu lực của Toà án, do đó nếu chưa có bản án có hiệu lực

pháp luật của Toà án thì một cá nhân vẫn được coi là chưa có tội. Thực tế thời gian

qua cho thấy có những trường hợp bản thân một người bị cho là thực hiện hành vi

phạm tội, nhưng sau quá trình điều tra thì thấy rằng việc khởi tố là không có căn cứ.

Tuy nhiên, trước đó mọi thông tin, hình ảnh liên quan đến người này đã bị báo giới

khai thác một cách triệt để, bất luận đó là thông tin gì liên quan đến người bị “cho là

thực hiện hành vi phạm tội”. Đây cũng chính là sự biểu hiện của sự tuỳ tiện trong việc

khai thác thông tin, hình ảnh của cá nhân mà một trong những biểu hiện cụ thể là hành

vi xâm phạm quyền bí mật đời tư. Do đó, theo tác giả cần có những quy định cụ thể về

những trường hợp này trong các văn bản pháp luật có liên quan để hạn chế đến mức

tối đa các hành vi bị coi là xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân.

­ Ngoài ra pháp luật về thuế, pháp luật về ngân hàng cũng cần có những quy

định cụ thể hơn trong việc quy định trách nhiệm của cơ quan thuế, tổ chức tín dụng

trong việc bảo mật các thông tin của người nộp thuế, thông tin của khách hàng. Chẳng

hạn, cần quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế là không được tiết lộ

thông tin liên quan đến người nộp thuế, hoặc tổ chức tín dụng không được cung cấp

bất cứ thông tin nào liên quan đến khách hàng - trừ những trường hợp đặc biệt do pháp

luật quy định.

­ Pháp luật về bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin cũng cần có quy định

đảm bảo sự bảo mật đối với các thông tin của khách hàng, những người tham gia vào

các giao dịch thông qua cơ sở dữ liệu, thông điệp điện tử. Thời gian qua đã có những

vụ việc cán bộ có thẩm quyền của đơn vị cung cấp dịch vụ viễn thông tiết lộ bí mật

của khách hàng cho những người khác biết. Đây không chỉ là vấn đề đơn thuần xâm

phạm đến bí mật đời tư mà cần phải coi đó là hành vi phạm tội để xử lý theo quy định

của pháp luật.

65

Có thể nói, việc hoàn thiện pháp luật về quyền bí mật đời tư không những chỉ

chú trọng vào việc sửa đổi, bổ sung BLDS trong các quy định tương ứng mà cần thiết

phải sửa đổi, bổ sung quy định có liên quan trong các văn bản pháp luật chuyên ngành.

Có như vậy, quyền bí mật đời tư của cá nhân mới được tôn trọng và bảo vệ một cách

có hiệu quả.

 Tham gia ký kết các điều ước quốc tế có liên quan đến quyền bí mật đời tư

Mặc dù chúng ta đã tham gia một số công ước quốc tế về quyền con người nhưng

vẫn cần thiết phải có sự mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật dân sự nói

chung, pháp luật liên quan đến quyền bí mật đời tư của cá nhân nói riêng.

Một trong những biểu hiện quan trọng của việc mở rộng hợp tác quốc tế trong

lĩnh vực liên quan đến đảm bảo quyền bí mật đời tư của cá nhân là tham gia ký kết các

điều ước song phương hoặc đa phương về quyền nhân thân, trong đó có quyền bí mật

đời tư. Bên cạnh đó, các yếu tố liên quan đến chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, phong

tục tập quán cũng cần được chú ý trong việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực này.

Tóm lại, các giải pháp về pháp luật trong việc hoàn thiện quy định liên quan đến

quyền bí mật đời tư, bảo vệ quyền bí mật đời tư phải được thực hiện một cách đồng

bộ. Có như vậy, việc điều chỉnh pháp luật về đảm bảo quyền bí mật đời tư mới thực sự

có hiệu quả.

4.2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về quyền bí mật

đời tư

Giải pháp hoàn thiện pháp luật là giải pháp quan trọng tuy nhiên không phải là

giải pháp duy nhất trong việc bảo vệ quyền bí mật đời tư của cá nhân. Bởi lẽ, nếu chỉ

chú trọng đến giải pháp hoàn thiện pháp luật mà không chú trọng đến những giải pháp

nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật thì các quy định của pháp luật về quyền bí mật

đời tư của cá nhân cũng không thể đi vào thực tế cuộc sống. Do đó, theo tác giả còn

cần chú ý một số giải pháp sau:

 Tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật liên quan đến quyền bí mật

đời tư của cá nhân

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những nội dung không

thể xem nhẹ. Cá nhân có hiểu biết pháp luật mới có ý thức thực hiện pháp luật tốt, như

vậy mới giảm thiểu được hành vi xâm phạm đến quyền bí mật đời tư, đưa pháp luật

66

thực sự đi vào thực tế cuộc sống. Theo tác giả, hoạt động tuyên truvền, phổ biến và

giáo dục pháp luật về quyền bí mật đời tư phải chú ý những nội dung sau:

­ Đưa nội dung giảng dạy về quyền bí mật đời tư vào chương trình đào tạo bắt

buộc đối với một số ngành nghề mà việc thực thi công việc rất dễ có thể có hành vi

xâm phạm quyền bí mật đời tư như nhũng người làm các công việc điều tra, truy tố,

xét xử, thi hành án; nghề làm báo, nghề y, nghề quản lý nhân sự, quản trị mạng, những

người làm nghề về bưu chính, viễn thông...

­ Tuyên truyền bằng các hình thức nói chuyện pháp luật, đố vui pháp luật lồng

ghép trong các cuộc thi Tìm hiểu pháp luật... về quy định của pháp luật liên quan đến

bí mật đời tư.

­ Phát tờ rơi xuất bản các ấn phẩm định kỳ trong đó có chuyên mục vê đời tư, bí

mật đời tư...

 Bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ và chuyên môn cho các cán bộ Toà án trong

việc xét xử các vụ án liên quan đến bí mật đời tư

Trước thực tế một bộ phận cán bộ Tòa án chuyên môn nghiệp vụ còn yếu kém

nên nhiệm vụ cấp thiết được đặt ra đó là phải thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao

chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ Toà án cũng như những cán bộ làm công

tác pháp luật khác trong việc xét xử các vụ án liên quan đến bí mật đời tư. Hàng năm,

Toà án nhân dân Tối cao cần mở các lớp tập huấn bồi dưỡng về pháp luật chuyên

ngành theo các chuyên đề, trong đó có chuyên đề về bí mật đời tư cho các cán bộ trong

ngành. Qua đó, tổng kết rút kinh nghiệm đối với hoạt động xét xử những vụ án có liên

quan đến việc xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân...

Bên cạnh việc nâng cao chức năng, hiệu quả xử lý công việc của Tòa án trong

khi xử lý các vụ việc liên quan đến quyền bí mật đời tư, cần có sự liên kết chặt chẽ

giữa các bộ phận trong Tòa án như Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế... để xử lý

vụ việc triệt để, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người bị hại.

67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT

1. Báo Đại Đoàn kết.

2. Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Bộ luật Dân sự nước cộng Hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1995), Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4. Bộ luật Dân sự nước cộng Hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. Bộ luật Dân sự nước cộng Hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005), Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội

6. Bộ luật Dân sự Pháp (2005), Nxb Tư Pháp, Hà Nội.

7. Bộ luật Dân sự Nhật Bản (2010), Nxb Tư Pháp, Hà Nội

8. Bộ luật Hình sự nước cộng Hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2015), Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

9. Bộ luật Tố tụng Dân sự nước cộng Hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2015),

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

10. Bộ luật Tố tụng Hình sự nước cộng Hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2015),

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

11. Hiến pháp CHND Trung Hoa, Nxb Tư Pháp, Hà Nội

12. Chính phủ (2004), Nghị định số 60/2004/NĐ - CP ngày 03 tháng 9 năm 2004

quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Bưu chính, viễn thông về viễn

thông, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời

kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội”, Nxb Sự thật, Hà Nội.

14. Hiến pháp năm 1946 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

15. Hiến pháp năm 1960 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

16. Hiến pháp năm 1980 nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

17. Hiến Pháp 1992 nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (đã được sửa

đổi, bổ sung năm 2001) (2002), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

18. Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

19. Hội Luật gia Việt Nam (2007), “Pháp luật Quốc gia và Quốc tế về bảo vệ

quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

20. Luật Báo chí (2016)

21. Luật Bưu chính (2010)

22. Luật Công nghệ thông tin (2006).

23. Luật viễn thông (2009).

24. Luật Quản lý thuế (2006).

25. Luật Xuất bản (2012)

26. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), “Đại từ điển Tiếng Việt”, Nxb Văn hoá -

Thông tin, Hà Nội.

27. Lê Đình Nghị (2007), luận án tiến sĩ luật học “Quyền bí mật đời tư theo pháp

luật dân sự Việt Nam”, Trường Đại học Luật Hà Nội.

28. Nguyễn Văn Mạnh (1995), luận án phó tiến sĩ khoa học luật học “Xây dựng

và hoàn thiện đảm bảo pháp lý quyền con người trong điều kiện đổi mới ở nước ta

hiện nay”, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

29. Nhà pháp luật Việp - Pháp (1997), Kỷ yêu hội thảo: “Quyên nhân thân và

bảo vệ quyền nhân thân bằng pháp luật dân sự”, Hà Nội.

30. PGS.TS Nguyễn Văn Động (2005), “Quyền con người, quyền công dân trong

Hiến pháp Việt Nam”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

31. PGS.TS Trần Ngọc Đường (2003), “Bàn về quyền con người, quyền công

dân”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

32. PGS.TS Trần Ngọc Đường (2004), “Quyền con người, quyền công dân trong

Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

33. Quyền con người trong lịch sử nhân loại, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

1997.

34. Thời báo kinh tế Sài Gòn, số ra ngày 20/4/2007.

35. Thông tư liên tịch số 01/2006/TTLT-BCA-BBCVT ngày 5 tháng 5 năm 2006

hướng dẫn việc mở và kiểm tra thư, bưu phẩm, bưu kiện, kiện, gói hàng hoá gửi qua

mạng bưu chính công cộng và mạnn chuyên phát nhằm phát hiện tội phạm về ma tuý.

36. Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 01

tháng 6 năm 2006 hướng dẫn về việc thông báo, gửi, cung cấp thông tin, tài liệu liên

quan đến người phạm tội.

37. Toà án Nhân dân Tối cao (1997), Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ

“Vai trò của Toà án nhân dân trong việc bảo vệ quyền nhân thân của công dân theo

quy định của Bộ luật Dân sự”, số đăng ký: 96-98- 063/ĐT, Hà Nội.

38. Tống Đức Thảo (2001), luận văn thạc sĩ luật học “Hoàn thiện pháp luật bảo

vệ quyền con người ở nước ta hiện nay”, Trường Đại học Luật Hà Nội.

39. Trung tâm nghiên cứu quyền con người thuộc Học Viện Chính trị Quốc gia

Hồ Chí Minh, Hội nghiên cứu quyền con người Trung Quốc (2003), “Quyền con

người ở Trung Quốc và Việt Nam (truyền thống, lý luận và thực tiễn), Nxb Chính trị

Quốc Gia, Hà Nội.

40. Trung tâm nghiên cứu quyền con nguời, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí

Minh (1997) “Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị”, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

41. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), “Từ điển Luật học”, Nxb Công an nhân

dân, Hà Nội.

42. Tường Duy Kiên (2006), “Quốc hội Việt Nam vói việc bảo đảm quyền con

người”, Nxb Tư Pháp, Hà Nội.

43. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1995), Pháp lệnh về Pháp lệnh Phòng, chống

nhiễm vi rút gây ra hội chứng Suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS), Hà

Nội.

44. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2000), Pháp lệnh Thư viện, Hà Nội.

45. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2000), Pháp lệnh về Bảo vệ bí mật Nhà nước,

Hà Nội.

46. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh về Bưu chính Viễn thông, Hà

Nội.

47. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính. Hà

Nội.

48. Văn phòng Quốc hội (1998), “Hiến pháp năm 1946 và sự kế thừa, phát triển

trong các Hiến pháp Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

49. Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư Pháp (2006), “Từ điển giải thích

thuật ngữ Luật học”, Nxb Tư Pháp - Nxb Bách Khoa, Hà Nội.

50. Viện nghiên cứu quyền con người (2003), “Con người và phát triển con

ngườị trong quan niệm, của C.Mác và Ph. Ănghen”, Nxb Chính trị Quốbgia, Hà Nội.

51. Viện nghiên cứu quyền con người (2007), “Các văn kiện quốc tế và Luật của

một số nước về tiếp cận thông tin”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

52. Viện nghiên cứu quyền con người (2008), Sách tham khảo “Quyền tiếp cận

thông tin”, Hà Nội.

53. Vũ Ngọc Bình (2000), Sách tham khảo “Quyền con người trong quản lý tư

pháp”, Nxb Chính trị Quôc gia, Hà Nội.

 TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG ANH

54. Mar’yana Yarmolenko, “Antitrust Investigations and the Right to Privacy”,

Master thesis , Faculty of Law, University of Lund, 2003

55. “The Right to Privacy”, Warren and Brandeis, Harvard Law Review, Vol IV

December 15, 1890, No.5

 TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG ANH

56. Code Civil, 2007