Phát triển kiến trúc thương hiệu-phần3

Bài viết này dựa trên những khảo sát về kiến trúc thương hiệu của

Paul Temporal và David Aaker, sau đó tác giả nghiên cứu bổ sung

những vấn đề mới hơn dựa trên kinh nghiệm tư vấn thương hiệu của

chuyên gia trong hoạt động hiện nay tại Cowan Australia, nhất là vấn

đề kiến trúc nhận diện thương hiệu và kiến trúc tên thương hiệu,

những vấn đề mà hấu hết các tập đoàn hay tổng công ty hiện đang rất

quan tâm.

Kiến trúc chia sẻ thương hiệu (shared branding)

Phương thức chủ đạo của phương pháp chia sẻ thương hiệu là sử dụng

một Thương hiệu mạnh khác gắn tên sản phẩm của mình vào. Mô thức

này phổ biến trong quá trình nhượng quyền thương hiệu.

Microsoft Window là trường hợp tiêu biểu của shared branding. Thương

hiệu sản phẩm đối tượng chính là Window luôn xuất hiện với sự bảo trợ

song hành một cách mạnh mẽ và trực quan bởi thương hiệu mẹ là

Microsoft. Hơn nữa trong quá trình tồn tại của cặp thương hiệu chúng ta

thấy có sự chia sẻ giá trị hay bảo trợ lẫn nhau giữa hai thực thể nhãn hiệu.

Khi thương hiệu James Bond đã nổi tiếng, người ta nghĩ ra các phương

thức khai thác giá trị thương hiệu James Bond vào rất nhiều sản phẩm

khác nhau, nhắm vào cùng nhóm khách hàng của James Bond gốc (những

người thích phim James Bond). Điển hình của việc chia sẻ nhãn hiệu

James Bond là các đồ dùng cá nhân mang ấn tượng nam tính (bật lửa,

đồng hồ, dây nịt, ví da...). Đây chính là cơ hội kinh doanh cho những nhà

sản xuất và kinh doanh nhỏ không đủ khả năng xây dựng hay sở hữu một

thương hiệu mạnh.

Ưu điểm:

Có lẽ ưu điểm đáng kể nhất của phương thức này là sự tiết kiệm chi phí

ban đầu. Trong tình huống sống còn của doanh nghiệp ở những thời điểm

nhất định, phương thức này vẫn đáng để xem xét. Trong trường hợp hai

hay nhiều doanh nghiệp có một cơ chế sở hữu "song hành" đối với một

thương hiệu, với sự phân định sản phẩm, ngành nghề kinh doanh rõ ràng;

hoặc là trong cơ chế "thương hiệu tập thể" của các hiệp hội ngành nghề;

phương thức chia sẻ thương hiệu sẽ chứng minh được sức mạnh của nó.

Nhược điểm:

Cách thức chia sẻ thương hiệu cũng được xem như một phương pháp

tung sản phẩm mới hiệu quả. Tuy nhiên nó có thể sẽ bộc lộ nhược điểm

trong suốt thời gian sống lâu dài của thương hiệu sản phẩm sau này.

Hạn chế rõ rệt nhất của phương pháp này đó là thương hiệu mới không có

đủ một thực thể hoàn chỉnh về hình ảnh cá tính của mình, xét cả về mặt

pháp lý, để được tồn tại và phát triển độc lập.

Kiến trúc bảo chứng thương hiệu (endorsement branding)

Thương hiệu bảo trợ (hay bảo chứng) có một đặc điểm rất dễ phân biệt đó

là nó không gắn liền trong tên gọi của thương hiệu sản phẩm tạo ra một

thực thể độc lập mà thường nó đứng riêng hay tách rời khỏi nhóm tên

nhãn hiệu sản phẩm. Ví dụ nhãn hiệu Unilever không gắn liền vào tên

thương hiệu sản phẩm (OMO, hay P/S) mà được gắn ở một góc bao bì,

hay một góc màn hình TV ở cuối các đoạn hình ảnh quảng cáo truyền

hình. Về mặt pháp lý một endorsement brand là độc lập với thương hiệu

mà nó bảo chứng.

Trong tình huống nêu trên, thương hiệu bảo trợ (endorser brand) là

Unilever và thương hiệu được bảo trợ (endorsee brand) là OMO hay P/S.

Các nhãn OMO hay P/S tự nó đã có vị trí độc lập cả về mặt pháp lý nhãn

hiệu. Trong thực tế có nhiều hình thức và mức độ bảo chứng đa dạng và

với nhiều mục đích khác nhau.

Nhận xét:

Thương hiệu bảo trợ thường đóng góp vào việc khẳng định uy tín hay lời

cam kết về chất lượng và uy tín kinh doanh với khách hàng (nhà phân

phối, nhà bán lẻ). Đối với công chúng người tiêu dùng, có khi người ta

không nhận rõ vai trò của nhãn bảo trợ, nếu không có những thông điệp

đúng và lượng truyền thông thích đáng. Bảo trợ Thương hiệu cũng được

áp dụng vào phương thức kinh doanh nhượng quyền; trong mua bán và

sáp nhập thương hiệu hay mua bán sáp nhập doanh nghiệp.

Mức độ bảo trợ thương hiệu rất khác nhau, nhà quản trịvà các chủ thương

hiệu cần phân tích kỹ các tác động tích cực và tiêu cực trong các mức độ

đó để xác lập cơ chế phù hợp, dựa trên các yếu tố ảnh hưởng như tài

chính, khách hàng, hình ảnh thương hiệu, cơ cấu định vị, các nguồn lực

cần thiết trong phát triển.

Mô thức gắn nhãn công ty (corporate branding)

Có một xu hướng đáng kể trong việc áp dụng các thương hiệu tên công ty

vào các dòng sản phẩm mà điển hình gần đây là chiến lược tập trung hóa

của Proctor & Gamble (từ thời A.G. Lafley). Những lý do hình thành xu

hướng nói trên bao gồm: (1) Tập trung giá trị gốc và uy tín của thương hiệu

công ty để bao bọc lấy thương hiệu sản phẩm; (2) Người tiêu dùng tin

tưởng và không bị nhầm lẫn, nếu họ đã tin vào Thương hiệu Công ty; (3)

Có nhiều cơ hội mở rộng thương hiệu và khả năng tiết kiệm ngân sách

quảng cáo; (4) Có thể giúp gia tăng giá trị của thương hiệu công ty thể hiện

bằng các chiến lược quản bá thương hiệu tổng thể của công ty và hoạt

động quan hệ cộng đồng.

Ngài Akio Morita, người sáng lập tập đoàn và thương hiệu Sony đã từng

nói: "Tôi luôn luôn tâm niệm rằng Thương hiệu Công ty là cuộc sống của

cả doanh nghiệp. Thương hiệu mang trách nhiệm và cam kết bảo đảm

chất lượng cho các sản phẩm".

Tinh thần của Corporate Branding không chỉ thể hiện ở chiến lược định vị

thương hiệu sản phẩm mà cần chú ý hơn, đó là "ý chí" phát triển một "tập

đoàn" dưới cùng một ngọn cờ thương hiệu, tập trung sức mạnh vào một

thương hiệu lớn duy nhất. Tinh thần này có thể được nhìn thấy ở Sony,

Samsung, Nokia và Virgin Group.

Vấn đề quản trị chiến lược mở rộng cơ cấu thương hiệu

Không một thương hiệu đơn lẻ nào có thể bao phủ tất cả mọi ngóc ngách

của thị trường và khách hàng mục tiêu khác nhau. Một chiến lược cơ cấu

thương hiệu hợp lý giúp doanh nghiệp tận dụng tối đa năng lực cạnh tranh

và chiến lĩnh thị trường với mức độ rộng khắp, chinh phục khách hàng ở

nhiều khúc tuyến khác nhau: khách hàng công ty (B2B) hay l khách hàng

tiêu dùng (B2C); khách hàng công nghiệp hay khách hàng đại chúng...

Tuy nhiên "không có một mô thức định sẵn cho việc áp dụng kiến trúc

thương hiệu!"

Điển hình của quyết định chiến lược cơ cấu nhãn hiệu linh hoạt là tình

huống Toyota khi hình thành dòng nhãn hiệu xe hơi cao cấp Lexus. Hiện

nay trong thị trường xe hơi, có thể nhật xét rằng Toyota là tập đoàn áp

dụng chiến lược cơ cấu & kiến trúc thương hiệu một cách vừa sâu sắc

nhất quán, lại vừa linh hoạt và uyển chuyển giữa chiến lược toàn cầu và

chiến lược tại từng địa phương. Điều này đã giúp Toyota phát triển vượt

qua hãng Ford lừng danh để dành vị trí thứ hai và tiếp tục thách thức vị trí

dẫn đầu toàn cầu.

Nestle tập trung vào cơ cấu 10 thương hiệu toàn cầu (global brand) với

những điều chỉnh và ngoại lệ áp dụng trong một số trường hợp ở một vài

địa phương, nơi mà các thương hiệu toàn cầu không thể thoả mãn cơ cấu

thương hiệu tại thị trường địa phương, xét dưới những góc độ chẳng hạn

như pháp lý, ngôn ngữ & văn hóa, các thương hiệu cạnh tranh, và mức độ

đa dạng về nhu cầu tại thị trường bản địa.

Trong không ít thời điểm cả P&G lẫn Unilever đều lúng túng trước việc có

quá nhiều nhãn hiệu. Chẳng hạn vào năm 1995 Unilever có trên 1000 nhãn

hiệu trên phạm vi toàn thế giới. Ngày nay có không ít nhãn hiệu của P&G

và Unilever đã bị loại bỏ hoặc duy trì ở cấp độ địa phương và các tập đoàn

này đang cố gắng hình thành một cơ cấu thương hiệu toàn cầu với số

lượng và tên nhãn hợp lý hơn và có những hướng dẫn cụ thể mang tính

chiến lược cho các nhà quản trị cấp địa phương hoạch định chiến lược cơ

cấu thương hiệu phù hợp cho thị trường mỗi quốc gia, nhằm mục đính tập

trung nguồn lực cho các thương hiệu mạnh và có giá trị ngày càng cao.

Chẳng hạn các thương hiệu có cùng một công dụng sản phẩm và khách

hàng mục tiêu là OMO và Comfort; Tide và Downy gần đây có khuynh

hướng nhập chung vào nhau.

Cấu trúc tên và nhận diện thương hiệu

Cấu trúc tên thương hiệu và cấu trúc nhận diện thương hiệu cũng là một

phần trong tổng hoà khái niệm cấu trúc thương hiệu.

a. Cấu trúc tên

Cấu trúc tên hình thành theo các mô thức gắn nhãn như đã trình bày. Đây

là cấp độ cấu trúc cơ bản của mọi hệ thống thương hiệu.

b. Cấu trúc nhận diện sơ cấp

Là sự hình thành các yếu tố nhận diện sơ cấp, bao quanh tên thương hiệu.

Bao gồm Logo riêng biệt, trong đó bộ ba "màu sắc – hình nét – chữ viết"

luôn luôn là yếu tố nhận diện sơ cấp và không thể thiếu đối với một thương

hiệu hay một hệ thống thương hiệu mạnh.

c. Cấu trúc nhận diện thứ cấp

Một yếu tố nhận diện được cho là 'thứ cấp' khi mà nó không thuộc tập hợp

của bộ ba cơ bản (hay sơ cấp) như trên nhưng vẫn luôn luôn xuất hiện

đồng hành với 'bộ ba' các yếu tố nhận diện cơ bản. Chẳng hạn nếu chúng

ta 'lặp lại' một yếu tố màu sắc, hình ảnh vào thiết kế bao bì hay môi trường

giao tiếp thương hiệu thì được xem là một yếu tố nhận diện thứ cấp.

d. Cấu trúc nhận diện trừu tượng

Bao gồm các dạng thức nhận diện thương hiệu mang tính trung gian làm

cầu nối liên kết giữa thương hiệu công ty và các thương hiệu trực thuộc là

công ty con hay các dòng sản phẩm. Ngoài ra còn hình thành những

'thương hiệu hình tượng' hay mascot thương hiệu để liên kết các thương

hiệu với nhau và giao tiếp với môi trường bên ngoài.