SỐ 4 - KHÔNG BBUỘC LÀM NÔ L
Quyền được bảo vệ để khỏi bị
bắt làm lhay dịch trước
hết được đề cập trong Điều
4 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân
quyền (UDHR), trong đó nêu
rằng: Không ai bbắt làm
l hoặc b cưỡng bức làm việc
như lệ; mọi hình thc l
và buôn bán nô lđều bị cấm.
Điều 8 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính tr (ICCPR) c
thhóa quy định trong Điều 4 UDHR, trong đó nêu rõ: Không ai bbắt làm lệ;
mọi hình thức lệ và buôn bán lđều bị cấm. Không ai bị bắt làm dịch.
Không ai bị yêu cầu phải lao động bắt buộc hoặc cưỡng bức.
Xét nội dung, Điều 8 ICCPR bao trùm tt cả c tình huống mà một người
có thbị buộc phải phụ thuộc vào người khác, kể cả trong những bối cảnh như mại
dâm, buôn bán ma túy hoặc trong một sdạng lạm dụng m 1[1]. Tuy nhiên,
liên quan đến vấn đề lao động cưỡng bức, Khoản 3 Điều 8 liệt kê những trường
hợp loại trừ, bao gồm: (i) Lao động cưỡng bức theo bản án của một tòa án
thẩm quyền những nước còn áp dụng hình phạt m lao động cưỡng bức n
một hình phạt đối với tội phạm; (ii) Những công việc hoặc sự phục vụ thông
thường đòi hỏi một người đang bị giam giữ theo quyết định hợp pháp của toà án
hoặc một người khi được trả tự do điều kiện phải làm; (iii) Những sự phục vụ
mang tính chất quân svà bất kỳ sphục vụ quốc gia nào do luật pháp của một
nước quy định đối với những người từ chối làm nghĩa vụ quân sự vì do lương
tâm, trong trường hợp quốc gia đó cho phép tchối thực hiện nghĩa vụ quân sự vì
do lương tâm; (iv)Những sự phục vụ được yêu cầu trong trường hợp khẩn cấp
hoặc thiên tai đe doạ đến tính mạng hoặc đời sống của cả cộng đồng; (v) Những
công việc hoặc sự phục vụ là một phần của các nghĩa vụ dân sự thông thường.
Cũng cần lưu ý những quy định về loại trphải được áp dụng một cách bình
đẳng, không phân biệt đối xử với bất kỳ chủ thể nào, và phải phù hp với các quy
định khác có liên quan của ICCPR2[2].
Ngoài ICCPR, trước sau công ước này còn nhiều điều ước quốc tế do
Hội Quốc Liên, Liên hợp quốc ILO thông qua có liên quan đến quyền được bảo
vkhông bị bắt làm lhay dịch. Những điều ước này đã đề cập đến những
biện pháp toàn diện mà các quốc gia thành viên phải tiến hành nhằm ngăn chặn và
xóa bchế độ lệ, những thể thức tương tự như chế độ lệ và việc cưỡng bức
lao động. Một số điều ước tiêu biểu có liên quan là: Công ước về nô lệ, 1926 (Hội
Quốc Liên); Nghđịnh thư năm 1953 sửa đổi Công ước về Nô lệ 1926 (Liên hợp
quốc); Công ước bổ sung về xóa bỏ chế độ nô lệ, việc buôn bán lệ và các th
chế, tập tục khác tương tchế độ lệ, 1956 (Liên hợp quốc); Công ước về lao
động cưỡng bức (Công ước số 29 của ILO), 1930; Công ước về xóa bỏ lao động
cưỡng bức (Công ước số 105 của ILO), 1957; Công ước về trấn áp việc buôn
bán người và bóc lột mại dâm người khác, 1949 (Công ước số 29 của ILO);
Công ước về chống buôn bán người và bóc lột mại dâm người khác, 1949 (Liên
hợp quốc); Nghị định thư về việc ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc
buôn bán người, đặc biệt là buôn bán ph nvà trem, bổ sung Công ước của
Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, 2000...
Tương tự như vấn đề chống tra tấn, việc chống nô lệ và các hình thức nô lệ,
dịch được coi là một quy phạm tập quán quốc tế về quyền con người, do đó,
những tiêu chuẩn quốc tế về vấn đề này hiệu lực ràng buộc với mọi quốc gia
trên thế giới, bất kể việc quốc gia đó là thành viên của các điều ước quốc tế kể
trên hay không.