1
Thủy điện chạy bằng năng lượng sóng biển
Lê Vĩnh Cẩn
Nước ta nước bờ biển rất i, dài đến 3.260 km. Quanh năm
sóng biển vỗ bờ. Khi bão hoặc áp thấp nhit đới, ng biển thường rất
mnh trong nhiều ngày liên tiếp. Trong những ngày có gió đông bắc hoặc
gió tây nam, sóng biển trên nhiều vùng biển ở nước ta cũng rất lớn. Nước
ta lại nhiều hải đảo. Quanh đảo biển. Vì vậy năng lượng của ng
bin ở ven bờ biển nước ta rất lớn. Có thể nói nguồn năng lượng đó
tận. Nhiều ớc trên thế giới không được thuận li như thế. Rất tiếc
rằng ta đã chưa khai thác được lợi thế đó.
Nhưng ng biển cũng gây sạt lđất nhiều nơi. Một số đê,
cũng có nguy bị sạt lở do ng biển. Khi bão hoặc áp thấp nhiệt
đới, sóng biển thường rất mnh, u thuyền rất cần nơi trú n an toàn cho
qua cơn nguy hiểm.
Trong thời gian vừa qua ngành điện nước ta phát triển rất nhanh,
nhưng vẫn không đáp ứng đủ điện cho nn kinh tế đang ng trưởng
nhanh nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Ngành điện đã phải nhập khẩu
thêm điện của Trung Quốc mà vẫn n thiếu đin nghiêm trọng, ảnh
hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Biến đổi khậu, nước biển dâng, thiên tai ngày ng khốc liệt n
do li người đã sử dụng qnhiều nhiên liệu hóa thạch. Nước ta một
trong những nước chịu nhiều thiệt hại nhất do biến đổi khí hậu, nước biển
dâng. Nếu mực nước biển cao tm 1 m t gần 40% đồng bằng ng
Cửu Long, 10% đồng bằng ng Hồng,… sẽ b ngập chìm trong ớc
bin. Các nước tn thế giới đang phải m mọi cách sử dụng ng lượng
tái tạo để phát đin, nhưng chưa được bao nhiêu giá thành phát điện
còn cao hơn nhiu so với các loại điện khác.
1. Nội dung ca thủy điện chạy bằng năng lượng sóng biển:
Từ cuối năm 2011, tôi đã nghĩ đến chuyện sau khi phần chuyển lực
trong điện ng biển đã biến chuyển động quay đi, quay lại thành chuyển
động quay theo một chiều nhất định, thể cho chạy máy m nước để
m nước biển lên một hồ nước ở trên cao. Ta có thể xây nhà máy điện ở
phía dưới để phát điện giống như một công trình thủy điện. Nhưng i
không đi theo hướng này vì khi đó tôi nghĩ như sau:
- Phải xây dựng hồ chứa nước lớn chiếm nhiều đất và rất tốn kém.
- Một phần nước trong hồ bị hao hụt do bay hơi và ngấm xuống đất.
- Đường ống dẫn ớc phải lớn hơn đường ống dẫn khí nén rất nhiều.
2
- Nước biển độ ăn mòn cao nhưng máy m phải m nước bin
tuabin phát điện phi quay trong nước biển.
- Tạo một hồ chứa nước mn cao hơn những vùng đất gần đó. Vậy sau
này nước mặn ngấm xuống đất có làm cho những vùng đất gần đó dần
dần bị nhiễm mặn hay không?
Vừa qua một thành viên trên Diễn đàn Kỹ sư Công trình biển có
gii thiệu với i i: Ý tưởng ng nghệ sử dụng năng lượng thủy
triều”. Trong i này tác giả dùng các bong bóng cao su tạo ra khí nén khi
thủy triều lên để chạy máy bơm m nước lên hồ chứa trên cao dự trữ thế
năng. Sau đó dùng nguồn thế năng này để chạy máy phát điện c
mục đích khác. Đọc i đó làm tôi nhớ lại những suy nghĩ trước đây của
tôi.
Hoàn cảnh y giờ trước đây của i đã khác nhau rất nhiều.
Trước đây, khi những suy nghĩ đó, i chưa tính được khả năng phát
đin của ng lượng ng biển, chưa thể biết được khả năng phát điện
theo từng tháng trong năm ra sao, chưa xác định được ng suất lắp máy
cho điện ng biển chưa tích lũy được nhiều thông tin như hiện nay.
Nhưng cuối tháng 12 năm 2011, tôi đã nghĩ ra được phương pháp tính
toán khả năng phát điện của năng lượng sóng biển có thể tính được
khả năng phát điện theo tng tháng trong m. Sau đó đầu năm 2013 i
li nghĩ ra phương pháp mới để thay thế cho phương pháp cũ. Tháng 9
năm 2012, tôi đã sưu tầm ng suất lp máy khả năng sản xuất điện
hàng m của những nhà máy thủy điện lớn nhất nước ta (công suất lắp
máy từ 300 MW trở lên) hin đã và đang xây dựng. Qua đó tôi thấy
chỉ duy nhất Nhà y Thủy điện Yali bình quân năm sử dụng 58,35%
công suất lắp máy. Tất cả các Nhà máy Thủy đin n lại bình quân m
chỉ sdụng dưới 50% ng suất lắp máy. Trong đó có 2 Nmáy Thủy
đin bình quân m chỉ sử dụng dưới 40% ng suất lắp máy m
Thuận + Đa Mi và Đồng Nai 4. Nvậy ta thể tính ng suất lắp máy
của điện sóng biển lớn gấp đôi ng suất bình quân năm. Khi đó khối
lượng dự trkhí nén không cn phải quá nhiu. Khi đã chạy hết tất cả
các tổ máy phát điện, lượng k nén dự trữ chỉ ng n chủ yếu trong
tháng 1 mà thôi.
Vấn đề bây giờ làm thế nào để có thể bơm nước bin lên cho thật
cao, m được ng cao càng tốt nếu m được nước biển lên ng
cao thì hồ chứa nước biển ng thể nhỏ n đường ng dẫn nước
bin cũng ng thể nhỏ hơn. Rất may khi mmng máy tính, i đã
thy nhiều i những loại m thể bơm nước lên khá cao. T d
như: ng ty Cphần Chế tạo m Hải Dương m ly m nhiều cấp
trục ngang LTC105-49x7 lưu lượng 105 m3/h, cột áp 343 m; ngay bơm ly
3
m một cấp trục ngang cũng m LT200-125 lưu lượng 160-220
m3/h, cột áp 140-105 m.
Trong các nhà máy thủy điện, phạm vi hoạt động của các tổ y
phát điện t mực nước chết trong hồ chứa nước cho đến mc nước
dâng tối đa. Đối vi các ng trình thủy điện lớn, chênh lệch này thể
lên đến vài chục mét. T dụ như Nmáy Thủy điện Hòa Bình mực
nước ng tối đa 120 m, mực nước chết 80 m, cnh lệch nhau tới
40 m, nhưng các tổ máy phát điện vn hoạt động tốt. Đó do chúng
được tự động điều chỉnh tốc độ tuabin thủy lực.
Từ đó tôi có suy nghĩ về nhà máy thủy điện chạy bằng năng lượng
sóng biển như sau:
Nhà máy thủy điện chạy bằng năng lượng sóng biển nên được xây
dựng i cao ráo ngay cạnh biển. Nhà máy những tổ máy phát
đin chạy bằng ớc áp suất cao một vài tổ máy phát điện chạy
bằng nước áp suất thấp. Các ty phát đin y đều được tđộng
điu chỉnh tốc độ tuabin thủy lực. Tổng công suất của những tmáy phát
đin chạy bằng nước áp suất cao nên gấp đôi công suất phát điện bình
quân năm. Nhà máy cần cửa xả c để khi tất ccác tổ máy phát
đin chạy bằng nước áp suất cao đều chạy, nhưng vẫn còn thừa nước,
ta có thm dần cửa xả để nước thoát ra ngoài và giảm bớt áp lực ớc.
Dựng khung đỡ trong khoảng 1 km2 mặt biển thể cung cấp năng
lượng chạy các tổ máy phát điện với tổng công suất vài trăm MW.
Khung đỡ như thế nào? Cách đưa khung đỡ xuống biển ra sao? Trên
khung đỡ những gì? Các thiết bị đó vận hành ra sao? Cách tính và kết
quả tính toán khả ng phát đin của năng lượng ng biển khi sdụng
khoảng 1 km2 mặt biển ra sao? Tôi đã tả những điều đó trong i:
”Nguồn đin cùng to ln krẻ?” trên Diễn đàn webdien.com
Cầu nối dân điện ngày 25/03/2013 trong mục Hệ thống năng lượng mi.
Phía dưới biển cũng khung đỡ, các phao, bộ phận giữ phao,
phần chuyển lực như đin sóng biển. Nhưng m nén khí được thay
bằng m nước áp lực cao, các đường ống dẫn knén được thay bằng
các đường ng dẫn nước biển. Bơm nước áp lực cao đây chỉ cần đầu
m, không cần động đã sẵn nguồn lực rất ln từ ng bin rồi.
Độ cao của khung đỡ chỉ n khoảng gần 10 m m nước nên đặt
tầng liên kết dưới để việc m nước được dễ dàng. Đầu m nước, xin
nhờ các chuyên gia về máy m nước chọn giúp cho hiệu quả nhất.
Nước ta đã những i sn xuất máy m nước. Khi thủy điện chạy
bằng năng lượng ng biển thành công, nhu cầu đầu bơm nước áp lực cao
rất lớn. Khi đó ta thể nêu c u cu kỹ thuật cthể đặt hàng để
sản xuất hàng loạt lớn loại bơm này ở trong nước.
4
Khi sử dụng khoảng 1 km2 mặt biển, gần 9.000 m lớn cùng hoạt
động scho ra khối lượng nước lớn như nước của một dòng ng. Phải
làm sao đưa được ng nước lớn áp lực cao đó về nhà máy để chạy
các tổ máy phát điện? Chắc nhiều người những cách hay để làm
việc này, riêng i, i cũng đã trình y suy nghĩ của i trong i:
Đường dẫn nước của thủy điện chạy bằng năng lượng ng biển” trên
các Diễn đàn webdien.com Cầu nối n đin i nguyên nước Việt
Nam ngày 07/05/2013.
Trong i đó i đã chuyển khung đỡ sang hình bình hành gồm 7
hàng bơm, mỗi hàng có 1.279 m, tổng cộng 8.953 m và khung đỡ
sẽ chiếm diện tích 999.580 m2 mặt biển. Hình bình hành đó đáy
14.964,9 m chiều cao 66,79 m. Như vậy trên khung đỡ s1.279
ống dẫn nước, mi ống sẽ gom nước ca 7 m và cho chảy ra đường dẫn
nước chính. Đường dẫn nước như một đường hầm lớn bằng ng i
đến 15 km, n ta phải cắt ra thành 1.279 đon, mỗi đoạn i 11,7 m
trên đầu gắn ống thép để hàn nối ống dẫn nước từ khung đỡ vào.
Đường hầm lớn đó, mới đầu nhỏ, sau to dần do càng về sau ng nhận
được nhiều nước n. Nhưng ta kng thể đặt đường dẫn nước đó xuống
bin vì ở dưới nước rất khó xây để nối các đoạn bê tông đó lại với nhau.
vậy ta phải làm trước đoạn đê cao n mực nước biển khoảng 2
m đến 3 m, sườn đê được bao phủ bằng bê tông để đặt đường dẫn nước
lên trên đó. Đoạn đê y hình chữ L gồm 2 đoạn: đoạn đầu dài 15 km để
đặt đường dẫn nước thu nước từ khung đỡ sang, đoạn sau nối từ đoạn đầu
tới nhà máy điện trên đó cũng đặt đường dẫn nước, nhưng tn đoạn y
không thu thêm nước nữa. Tại vùng biển từ Tĩnh đến Ninh Thuận,
khung đỡ cần đặt ngay gần bờ và song song vi hướng của đường bờ biển
vậy khung đỡ chỉ cn đặt i biển sâu khoảng từ 5 m đến 6 m. Mở
rộng ra các vùng biển khác, khung đỡ cũng phải đặt như vậy. Đê làm
phía trong khung đỡ cách khung đỡ khoảng gần chục mét. Gtrong
bão hoặc áp thấp nhiệt đới quay ngược chiều kim đồng hồ, vì thế tùy theo
từng vùng bin nhà máy phần hở của đoạn đê hình chữ L này
th đặt những vị trí khác nhau. Theo tôi nghĩ khi m đoạn đê này cần
lưu ý đến cả 2 yêu cầu sau:
- Sóng càng ln càng m được nhiều nước càng phát ra được nhiều
đin. Khung đỡ được đặt phía ngoài gần đê, ngay chỗ sóng tới
sóng phn xgặp nhau, vậy mặt đón ng của đê cần bố trí sao cho
sóng ở vùng có khung đỡ càng lớn càng tốt.
- Vốn đầu tư không nên quá ln.
Khi ng biển nhỏ, lực bơm nước không mạnh, cho chạy 1 hoặc
một số tổ máy phát điện chạy bằng nước có áp suất thấp. Khi ng bin
ln, lực m nước mạnh, đã đáp suất để chạy tổ máy phát điện chạy
5
bằng ớc có áp suất cao, ta cho chạy 1 tổ máy phát điện loại y cho
tất cả các tổ máy phát đin chạy bằng nước áp suất thấp ngừng chạy.
Nếu còn thừa nước, ta cho chạy thêm tổ máy phát điện chy bằng ớc có
áp suất cao. Khi ng biển rất mnh, tất cả các tổ máy phát điện chạy
bằng nước áp suất cao đều chạy, nhưng vẫn n thừa nước, ta thể
mdần cửa xả để ớc thoát ra ngoài gim bớt áp lực nước. Do tổng
công suất của những tổ máy phát điện chạy bằng nước áp suất cao gấp
đôi công suất phát điện bình quân năm nên ít khi phải mcửa xả. Nếu t
lệ đó lên tới 2,5 t rất ít khi phải mở cửa xả. Khi sóng bin bớt mạnh, áp
lực nước giảm, ta đóng cửa xả li. Khi sóng biển yếu hơn, ta giảm dần
việc hoạt động của các tổ máy phát điện chạy bằng nước áp suất cao.
Khi ng tiếp tục yếu hơn nữa ta chỉ cho các tổ máy phát đin chạy bằng
nước áp suất thấp hoạt động. Các tỷ lệ 2 và 2,5 vừa nêu trên không
phải qlớn đại bộ phận các nhà máy thủy điện ln nhất nước ta
(công suất lắp máy từ 300 MW trở n) tlệ đó đều lớn hơn 2, riêng 2
nhà máy thủy điện Hàm Thuận + Đa Mi Đồng Nai 4 tỷ lệ đó ln n
2,5.
Như vậy, việc bảo dưỡng, sửa chữa các tổ máy phát điện chạy bằng
nước áp suất cao nên m trong a sóng nhỏ. Ngược lại, việc bảo
dưỡng, sửa chữa các tổ máy phát điện chạy bằng nước có áp suất thp nên
làm trong mùa sóng lớn.
Trong phần bổ sung cuối i:”Nguồn điện cùng to ln k
rẻ?”, tôi đã có biểu:
Các số liệu trong biểu này được nhờ việc tính toán độ cao sóng
bin của 777 bản tin dự báo ng biển của Trung m Dự báo Khí tượng
Thủy văn Trung ương mà i đã thu thập được trong tháng 12 m 2011