
TIỂU LUẬN:
HỌC THUYẾT MÁC VÀ VẤN ĐỀ HOÀN
THIỆN CÁC YẾU TỐ CỦA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Dựa trên quan điểm của học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội nói chung, về
phát triển lực lượng sản xuất nói riêng, trong bài viết này, tác giả đã làm rõ một số
nguyên tắc, phương châm cơ bản trong việc vận dụng quan điểm của C.Mác nhằm
phát triển và hoàn thiện các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện
nay.
1. Quan niệm duy vật về lịch sử trong triết học của C.Mác được coi là bước ngoặt có
tính cách mạng trong toàn bộ lịch sử triết học của nhân loại, trong đó có quan điểm
về sự tồn tại và vận động của xã hội. Cùng với lập trường duy vật biện chứng lấy thế
giới để giải thích sự tồn tại và phát triển của chính nó, C.Mác và người cộng sự của ông
- Ph.Ăngghen còn trình bày những quan niệm duy vật về lịch sử, khẳng định xã hội là xã
hội của con người, con người xuất hiện và tạo ra xã hội của họ, gắn liền với các hoạt
động sản xuất vật chất. Chính sản xuất xã hội của con người với năng lực, trình độ, cơ
chế hợp tác khác nhau… là những yếu tố căn bản nhất đóng vai trò quyết định trong
việc tạo ra các chế độ xã hội khác nhau cũng như sự khác biệt giữa chúng.
Bằng phương pháp biện chứng và lập trường duy vật về lịch sử, C.Mác, lần đầu tiện
trong lịch sử triết học, đã trình bày những nhận thức khoa học về lịch sử, xã hội qua
học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Theo đó, loài người đã trải qua các giai đoạn
phát triển cao thấp khác nhau, với những tiêu chí, tiêu chuẩn khác nhau. Nhưng tiêu
chuẩn cơ bản nhất để nhận biết, phân biệt các chế độ xã hội khác nhau chính là dựa
vào sự khác nhau thông qua các yếu tố cấu thành trong quan hệ về hình thái kinh tế -
xã hội, một xã hội cụ thể trong một giai đoạn với một phương thức sản xuất đặc
trưng (với một lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phù hợp); một xã hội với cơ
sở hạ tầng nhất định và kiến trúc thượng tầng phù hợp.
Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội được C.Mác trình bày không phải là sản phẩm của
óc tưởng tượng thuần tuý, nó được ông nhận thức, kế thừa, phát hiện và khái quát từ

chính đời sống của xã hội. Ông đưa ra một kết luận khái quát có tính khoa học rằng, sự
vận động của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Với óc
khái quá hoá và trừu tượng hoá độc đáo, C.Mác vạch rõ tính quy luật và quy luật vận
động, phát triển của một số hiện tượng xã hội cấu thành trong sản xuất, trong sinh hoạt
xã hội và hoạt động của thể chế.
Cùng với phát hiện có tính lịch sử về sự vận động của các hình thái kinh tế - xã hội,
với phương pháp luận đi từ trừu tượng đến cụ thể, từ khái quát đến các yếu tố của sự
vật và hiện tượng, C.Mác đã kế thừa các học thuyết triết học xã hội trước đó và
khẳng định rằng, phương thức sản xuất ra của cải vật chất của con người là những
yếu tố quan trọng và quyết định nhất, đồng thời là tiêu chí cơ bản thể hiện trình độ
của tiến bộ xã hội, phân biệt các chế độ xã hội khác nhau. Với phương pháp luận
này, C.Mác không dừng lại ở việc nhận thức vai trò to lớn của phương thức sản xuất
đối với lịch sử, mà còn tiếp tục “giải phẫu” cấu trúc của phương thức sản xuất. Ông
chỉ ra rằng, phương thức sản xuất xã hội là sự thống nhất của lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, các yếu tố này tác động biện chứng lẫn nhau; trong đó, lực lượng
sản xuất đóng vai trò quyết định còn quan hệ sản xuất cũng có tác động trở lại đối
với lực lượng sản xuất. Sự tác động biện chứng giữa chúng là quy luật cơ bản, xuyên
suốt toàn bộ lịch sử vận động và phát triển của các phương thức sản xuất cho đến
ngày nay và nó vẫn hoàn toàn đúng, nếu chúng ta xem xét ở bất kỳ quốc gia nào. Với
phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể, bằng những sự kiện của lịch sử trong sản
xuất xã hội và các quá trình xã hội khác, chúng ta có thể làm sáng tỏ thêm rằng, chính
mối quan hệ, sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
quyết định sự phát triển của các phương thức sản xuất và do vậy, quyết định sự vận
động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử.
Triết học tiến bộ phải có vai trò to lớn, mà như C.Mác khẳng định, đó là chức năng
cải tạo thế giới. Vậy, lý luận của C.Mác về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và
mối quan hệ biện chứng giữa chúng có đóng góp gì cho viêc phát triển nền sản xuất
xã hội, mang lại sự tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội của Việt Nam ngày nay?
Đây là vấn đề rộng lớn mà trong bài viết này, tác giả chỉ trình bày một số nội dung
cơ bản trong sự vận dụng quan điểm của C.Mác về lực lượng sản xuất vào quá trình
hoàn thiện thể chế kinh tế và hội nhập của Việt Nam.

2.
Như đã nêu trên, vấn đề lực lượng sản xuất xã hội là một trong những nội dung
trọng yếu trong triết học xã hội của C.Mác, đồng thời cũng là một trong những tiêu
chí phân biệt nhận thức sự vận động xã hội của những người mácxít với các quan
điểm triết học xã hội khác. Triết học Mác coi lực lượng sản xuất là yếu tố năng động
nhất trong các yếu tố cấu thành phương thức sản xuất xã hội, quyết định xu hướng,
tốc độ, nhịp độ vận động của các quan hệ sản xuất. Cho đến nay, quan điểm đúng
đắn đó vẫn còn nguyên giá trị, đồng thời là cơ sở nhận thức và khảo cứu thực tiễn,
xem xét những chính sách phát triển kinh tế - xã hội của các nước nói chung và của
Việt Nam nói riêng.
Vậy, vận dụng quan điểm của C.Mác về lực lượng sản xuất và vai trò của nó trong sản
xuất xã hội ở Việt Nam hiện nay như thế nào, phương pháp tiếp cận ra sao? Theo chúng
tôi, cần dựa trên các nguyên tắc căn bản sau:
- Nhận thức đúng đắn quan điểm của C.Mác (và V.I.Lênin - người kế tục xuất sắc
của ông);
- Không máy móc, giáo điều. Chính C.Mác và Ph.Ăngghen đã coi học thuyết của các
ông chỉ là kim chỉ nam. Học thuyết của Mác ra khỏi hoàn cảnh lịch sử đương thời
chắc chắn nó cần phải được vận dụng một cách sáng tạo sao cho có thể thích ứng với
một xã hội cụ thể, một quốc gia, dân tộc cụ thể (với quy mô dân cư, trình độ dân trí,
thể chế xã hội, tương quan trong nước và thế giới…).
- Vận dụng sáng tạo học thuyết Mác vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể sao cho có
thể hướng tới việc phát huy cao nhất các yếu tố vốn có, các yếu tố mới sáng tạo, các
nguồn lực của đất nước và dân tộc.
Cần xác định rõ vị trí và vai trò của lực lượng sản xuất trong xã hội, cũng như vị trí,
vai trò của từng yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất. Trong lực lượng sản xuất, con
người là yếu tố quan trọng hàng đầu. Đối với nước ta, ưu thế của nguồn lực con
người đã được khẳng định (thông minh, sáng tạo, cần cù và khéo léo…). Nhưng,
trước những yêu cầu mới, bối cảnh mới, cơ chế mới, nguồn lực đó đang bộc lộ
những hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động xã
hội (tác phong của người tiểu nông, kỷ luật lao động thấp; hạn chế về thể chất…).
Một số khiếm khuyết trong lao động của con người Việt Nam có thể do nguyên nhân
khách quan và chủ quan (xét theo hành vi chủ quan của con người và tác động bên

ngoài như cơ chế, chính sách, thể chế): lý luận, lý lẽ nhiều hơn thực tế, thực hành;
học tập vì bằng cấp hơn là để phục vụ công việc; (như giỏi thi ngoại ngữ nhưng rất
yếu, rất thiếu người dùng tốt ngoại ngữ để giao tiếp; người có bằng nhiều khi lại
không vượt qua các kỳ kiểm tra, sát hạch)... Những hạn chế đó là do ảnh hưởng
không nhỏ từ sự yếu kém trong phương thức, quy trình và nội dung đào tạo hiện
hành mà đến nay vẫn chưa có “phương thuốc” chữa một cách hiệu quả.
Các yếu tố khác trong cấu trúc của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện cũng đang có
những bất cập trước yêu cầu của xã hội và con người Việt Nam, nhất là yêu cầu hội
nhập thương mại:
- Đất đai là đối tượng lao động và tư liệu sản xuất hàng đầu đối với một nước mà sản
xuất nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng cao. Ở nước ta, nguồn lực này vốn đã ít lại có
xu thế ngày càng cạn kiệt, suy thoái và bị thu hẹp. Quá trình đô thị hoá - kiểu tổ chức
đời sống của thời đại khoa học và công nghệ phát triển, đã và đang làm cho đối
tượng lao động hàng đầu trong sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp và ô nhiễm nặng nề
do sản xuất công nghiệp và ứng dụng hoá học vào sản xuất và sinh hoạt. Cùng với
tốc độ đô thị hoá, quá trình hình thành các khu quy hoạch cho công nghiệp và sản
xuất dịch vụ cũng là nguyên nhân làm cho diện tích đất trồng ngày càng thu hẹp
(chưa nói tới việc sử dụng nguồn lực này hiệu quả hay không và sự hiện diện các khu
công nghiệp có bảo đảm việc chuyển đổi đó trong tư duy quản lý hiện nay là chính
xác hay không).
- Một số sản phẩm chỉ mang tính nguyên liệu cho sản xuất do trình độ thấp về khoa
học và công nghệ như hạt điều, hạt cà phê, hồ tiêu… Việc xuất khẩu nhiều mặt hàng
dưới dạng nguyên liệu, bán thành phẩm không mang lại giá trị cao. Điều đó giải
thích tại sao hàng hoá của Việt Nam phải “khoác” cái áo thương hiệu khác, thường là
thương hiệu uy tín không do con người Việt Nam sáng tạo ra mới có thể thâm nhập
vào các thị trường lớn thuộc các quốc gia ngoài Việt Nam.
Những yếu kém trên đều do trình độ và năng lực của con người. Điều đó cho thấy,
ngay trong cấu trúc của lực lượng sản xuất, các yếu tố luôn tác động lẫn nhau, trong
đó yếu tố quan trọng nhất là yếu tố con người (với ý thức, năng lực, trình độ và trách
nhiệm khác nhau).
3. Hệ thống luật pháp của Nhà nước và quyết sách chính trị của Đảng Cộng sản Việt