
BÀI THUYẾT TRÌNH TRIẾT HỌC
Đề tài:
Tư tưởng biện chứng trong triết học Trung Hoa cổ đại.
Ảnh hưởng của nó đến tư duy của người Việt Nam
Giáo viên hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng
Nhóm học viên thực hiện: Lê Thùy Dương
Đinh Thị Sính
Bùi Minh Thắng
Phan Thị Hằng Nga
Đỗ Kim Thư
Vũ Thị Thu Hà
Mạc Như Thế
Sukhavong

Bài thuyết trình triết học Nhóm 6 – C ao học 20V
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
NỘI DUNG ........................................................................................................................... 2
A - KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG........................ 2
1. Triết học ..................................................................................................................... 2
2. Phép biện chứng ....................................................................................................... 4
B- TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC TRUNG HOA
CỔ ĐẠI.............................................................................................................................. 8
1. Điều kiện kinh tế - xã hội của Trung Hoa cổ đại ............................................. 8
2. Đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ đại ........................................................ 10
3. Tư tưởng biện chứng trong triết học Trung Hoa cổ đại ............................... 11
C- ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT
HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI ĐẾN TƯ DUY CỦA NGƯỜI VIỆT NAM .. 26
1. Triết lý Âm Dương – Ngũ hành trong đời sống văn hóa Việt .................... 26
2. Ảnh hưởng của Nho giáo đến tư duy của người Việt Nam......................... 34
3. Vận dụng tư tưởng pháp gia trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ................................................................................................... 51
KẾT LUẬN......................................................................................................................... 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 55

Bài thuyết trình triết học Nhóm 6 – C ao học 20V
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn có lịch sử lâu đời. Những biểu
hiện tôn giáo, triết học cũng như tư tưởng biện chứng đã xuất hiện rất sớm, đặc
biệt là từ thời kỳ Xuân Thu - Chiến quốc trở đi. Nguyên nhân là do xã hội Trung
Hoa thời bấy giờ là xã hội đánh dấu sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ, hình
thành các quan hệ xã hội phong kiến hết sức phức tạp. Chính trong quá trình ấy
đã sản sinh ra các tư tưởng lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá
hoàn chỉnh. Đặc điểm của các trường phái này là lấy con người và xã hội làm
trung tâm của sự nghiên cứu, có xu hướng chung là giải quyết những vấn đề
thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội, trong đó tiêu biểu là những hệ thống tư
tưởng có ảnh hưởng tới mãi về sau này trong lịch sử phong kiến Trung Quốc
như Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Thuyết Âm Dương – Ngũ hành.
Phép biện chứng trong triết học Trung Hoa cổ đại nói riêng và ở các trung
tâm triết học khác nói chung còn mang tính tự phát và ngây thơ. Các nhà triết
học cổ đại ngh iên cứu sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong bức
tranh chung , chỉnh thế về thế giới, song do trình độ khoa học còn thấp kém,
phép biện chứng cổ đại mới chỉ là những quan điểm biện chứng mộc mạc, mang
tính suy luận, phỏng đoán trên cơ sở những kinh ngh iệm trực giác mà chưa
được minh chứng bằng các tri thức khoa học. Tuy còn nhiều hạn chế, những tư
tưởng b iện chứng trong triết học Trung Hoa chính là những cơ sở vững chắc để
phép biện chứng phát triển lên các hình thức cao hơn và hoàn thiện hơn

Bài thuyết trình triết học Nhóm 6 – C ao học 20V
2
NỘI DUNG
A - KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG
1. Triết học
1.1. Khái niệm triết học
Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến th ế kỷ thứ VI t rước Công
nguyên với các thành tựu rực rõ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp
cổ đại.
Từ khi ra đời đến nay, trải qua nh iều giai đoạn phát triển, các khái niệm
Triết học được đưa ra rất phong phú và đa dạng
Thời kỳ cổ đại, ba trung tâm triết học lớn của nhân loại là Trung Quốc, Ấn
Độ và Hy Lạp cổ đại đều đưa ra khái niệm triết học của riêng mình:
- Theo người Trung Quốc cổ đại, triết học là sự truy tìm bản chất của
đối tượng, là sự hiểu biết sâu sắc của con người, đi đến đạo lý của sự vật.
- Theo người Ấn Độ cổ đại, triết học là darshana, là sự chiêm ngưỡng
dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
- Theo người Hy Lạp cổ đại, triết học là ph ilosophia, có nghĩa là yêu
thích sự thông thái. Nhà triết học được coi là nhà thông thái, có khả năng nhận
thức được chân lý, làm sáng tỏ được bản chất của sự vật.
Có thể thấy rằng, ngay khi mới ra đời, dù ở Phương Đông hay Phương
Tây, Triết học đều được coi là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc về
thế giới, đi sâu nắm bắt được chân lý, quy luật và bản chất của sự vật.
Thời kỳ cận đại, có quan niệm cho rằng “Triết học là khoa học của mọi
khoa học”. Nguyên nhân sâu sa dẫn đến quan niệm này là do tại thời điểm đó,
tri thức của con người còn ít ỏi, chưa có sự phân chia giữa triết học với các
môn khoa học khác. Thêm vào đó, đối tượng nghiên cứu của Triết học thời
điểm đó rất phong phú và đa dạng, bao trùm lên mọi lĩnh vực của cuộc sống. Ở
Trung Hoa, triết học gắn liền với những vấn đề chính trị - xã hội; Ở Ấn Độ,
triết học gắn liền với tôn g iáo; ở Hy Lạp, triết học gắn với khoa học tự nhiên
và được gọ i là triết học tự nhiên. Quan niệm “Triết học là khoa học của mọi

Bài thuyết trình triết học Nhóm 6 – C ao học 20V
3
khoa học” thể hiện độ sâu sắc trong phản ánh thế giới của Triết học là cao hơn.
Song quan điểm này không chính xác vì mỗi một môn khoa học sẽ có một vị
trí và vai trò của riêng mình, việc quan niệm như vậy sẽ không cho thấy đúng
vai trò và vị trí của Triết học như một môn khoa học song song với các môn
khoa học khác, từ đó làm giảm giá trị của Triết học với tư cách là một môn
khoa học. Mặt khác, việc quan điểm như vậy còn dễ dẫn đến những quan điểm
sai lầm như chỉ cần học triết học là đủ hoặc chỉ cần học những môn khoa học
khác, không cần học triết học.
Thời kỳ hiện đại, vào những năm 40 của thế ký XIX, Triết học Mác đã ra
đời. Triết học Mác đã đoạn tuyệt với quan niệm “Triết học là khoa học của mọi
khoa học” và đưa ra một khái niệm Triết học rất cụ thể và rõ ràng: “Triết học là
một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân
con người và vị trí của con người trong thế giới đó”. Đối tượng nghiên cứu của
Triết học được xác định cụ thể là:
+ Tiếp tục giải quyết về vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên
lập trường duy vật
+ Ngh iên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, từ
đó định hướng cho hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn của con người
nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội theo con đường tiến bộ.
Có thể nói, vì là hệ thống t ri thức lý luận chung nhất nên Triết học là tri
thức “nghèo nàn” nhất và cần phải gắn với thực tế cuộc sống để làm nó trở nên
phong phú hơn. Chúng ta hoàn toàn có thể tìm thấy sự biểu hiện của Triết học
trong bất cứ lĩnh vực nào của đời sống xã hội. Triết học như một chiếc la bàn
định hướng cho chúng ta bước đi và các môn khoa học khác là công cụ và
phương pháp để chúng ta biết cách bước đi. Chính vì vậy, học Triết học phải
biết gắn nó với thực tế cuộc sống, đồng thời b iết kết hợp nó với các môn khoa
học khác để đạt được kết quả tốt nhất.
1.2. Tính quy luật về sự hình thành và phát triển của triết học
Sự hình thành và phát triển của Triết học có tính quy luật của nó.

