
TIỂU LUẬN:
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY

Nói về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay, trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và luận giải ba vấn đề có tính thời sự, song
cũng rất phức tạp, đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu. Ba vấn đề đó là:
1) Vấn đề thiết kế mô hình cụ thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2) Vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. 3) Vấn đề tạo lập những
điều kiện, cơ sở cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng là bước đột phá trong đổi mới tư duy
chính trị của Đảng ta, đánh một dấu mốc quan trọng trong đổi mới hệ thống chính trị
nói chung, đổi mới Nhà nước ở nước ta nói riêng.
Khi chủ nghĩa xã hội bước vào cải tổ, cải cách, đổi mới, một số nhà lý luận, chính trị
gia xã hội chủ nghĩa đã đề xuất xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền. Đề xuất này
đã làm nảy sinh những ý kiến chỉ trích, phản ứng từ không ít người. Khi đồng nhất
nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản, một số người đã cho rằng, xây dựng nhà
nước pháp quyền là từ bỏ chủ nghĩa xã hội. Có người lại coi việc xây dựng nhà nước
pháp quyền là thừa nhận sự phân lập các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, mà
quyền lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thống nhất, không phân chia, và do vậy,
không phù hợp. Cũng có người đặt vấn đề, khi đề cập tới nhà nước kiểu mới, các nhà

kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin không hề nói tới nhà nước pháp quyền và do
vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền trong chủ nghĩa xã hội là không theo quan điểm
của các nhà kinh điển, v.v.. Từ một phía khác, có ý kiến lại cho rằng, trong nhà nước
pháp quyền, mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, đó là nhà nước của dân,
do dân, vì dân và do vậy, không cần phải phân biệt nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa với nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa nữa.
Sự xuất hiện những ý kiến như vậy trong giai đoạn đầu cải tổ, cải cách, đổi mới ở các
nước xã hội chủ nghĩa cũng là điều dễ hiểu. Một mặt, vấn đề nhà nước pháp quyền
tuy không phải là mới, nhưng phải nói rằng, trước đây, ở các nước xã hội chủ nghĩa,
vấn đề này chưa được quan tâm nghiên cứu một cách đúng mức. Sự chuẩn bị về mặt
lý luận để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới chỉ là bước đầu,
chưa có sự chín muồi cần thiết, những ý kiến đề xuất mô hình nhà nước pháp quyền
vẫn chỉ trên sách báo. Mặt khác, đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị đòi hỏi cũng
phải có thời gian. Bởi lẽ, đây là lĩnh vực không chỉ mang tính “nhạy cảm cao”, mà
còn là lĩnh vực mà sự thay đổi không phải “một sớm một chiều”. Đó là chưa nói đến
tư duy giáo điều còn ảnh hưởng không nhỏ đối với cả giới nghiên cứu lý luận lẫn
những chính khách ở các nước xã hội chủ nghĩa.
Trong học thuyết chuyên chính vô sản, đúng là C.Mác và Ph.Ăngghen chưa sử dụng
thuật ngữ nhà nước pháp quyền. Nhưng những tư tưởng cốt lõi về nhà nước pháp
quyền lại được các nhà kinh điển đề cập sâu sắc trong các chủ trương xây dựng nhà
nước kiểu mới, chế độ dân chủ mới, chế độ dân chủ vô sản. Đó là chủ trương xây
dựng nhà nước hợp hiến, hợp pháp; là nhà nước dân chủ cao nhất, triệt để nhất, dân
chủ “do nhân dân tự quy định”; là bước chuyển từ xã hội thần dân sang xã hội công
dân, từ “nhân dân của nhà nước” sang “nhà nước của nhân dân”. Đó là chế độ dân
chủ xuất phát từ con người và pháp luật cũng vì con người. Đó là nhà nước đảm bảo
cho “tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Nhà nước đó xây dựng và phát triển một xã hội có khả năng tạo ra những điều kiện
cơ bản để “giải phóng cá nhân” theo phương châm “xã hội sẽ không thể giải phóng
cho mình được, nếu không giải phóng mỗi cá nhân riêng biệt”… Những tư tưởng cốt lõi
đó của C.Mác và Ph.Ăngghen đã được V.I.Lênin vận dụng và phát triển trong sự phân
tích, đánh giá nhà nước tư sản, chế độ cộng hoà dân chủ tư sản, cũng như trong thực tiễn

lãnh đạo nhân dân Nga xây dựng nền pháp luật kiểu mới, nền pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Ở nước ta, tư tưởng nhà nước pháp quyền cũng đã được thể hiện rất đậm nét ở Hồ
Chí Minh, khi Người lãnh đạo nhân dân ta xây dựng nhà nước cách mạng. Đó là tư
tưởng về xây dựng một nhà nước dân chủ, một chế độ dân chủ thực sự theo phương
châm “bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền
từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra… Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”(1). Chính phủ là chính phủ của nhân dân, Chính phủ phải hứa
với dân: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết
sức tránh”(2). Đó là một nhà nước chịu sự kiểm soát của nhân dân, “tất cả các cơ
quan nhà nước đều phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe và
chịu sự kiểm soát của nhân dân” (Điều 6, Hiến pháp 1959). Trong quan hệ với nhân
dân, Hồ Chí Minh khẳng định, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Người viết: “Chế
độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân
dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ”(3). Tư tưởng nhà nước pháp quyền
của Người còn thể hiện trong quyết tâm xây dựng nhà nước hợp hiến, hợp pháp ngay
trong tình thế cách mạng đang “nghìn cân treo sợi tóc”. Chỉ một ngày sau khi đọc
“Tuyên ngôn độc lập”, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Hồ Chí
Minh đã đề nghị Chính phủ lâm thời xác lập nền tảng dân chủ và pháp quyền cho chế
độ nhà nước cách mạng, đó là tổ chức Tổng tuyển cử và xây dựng Hiến pháp dân
chủ. Người nói: “Trước đây chúng ta bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến
chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân
dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân
chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với
chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền
ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống, v.v.”(4).
Tuy nhiên, có thể nói, vì nhiều lý do khách quan và chủ quan, như chiến tranh, nội
chiến, quan niệm về chủ nghĩa xã hội một cách giản đơn và có phần cực đoan khi đối
lập một cách trừu tượng nhà nước tư sản với nhà nước xã hội chủ nghĩa, đồng nhất
nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản, coi mô hình nhà nước pháp quyền là
mang tính tư sản…, nên ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta, việc

nghiên cứu và vận dụng một cách có ý thức (chủ động, tự giác) mô hình nhà nước
pháp quyền có nhiều hạn chế, nếu không muốn nói là có thời kỳ bị lãng quên. Đó là
một trong những nguyên nhân khiến dân chủ ở các nước xã hội chủ nghĩa trở thành
“có vấn đề”. Dân chủ mang nặng tính hình thức; tình trạng độc đoán, chuyên quyền,
quan liêu có xu hướng phát triển đã làm suy yếu nhà nước. Tổ chức bộ máy cồng
kềnh, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả. Nhà nước quản lý, điều hành xã hội chủ yếu
bằng mệnh lệnh, chỉ thị, nghị quyết, bằng đạo lý, trong khi pháp luật thì bị coi nhẹ.
Chính vì vậy, vấn đề dân chủ đã được đặt ra một cách bức bách ở các nước xã hội
chủ nghĩa nói chung, ở nước ta nói riêng. Trong quá trình đổi mới tư duy về chính
trị, về chủ nghĩa xã hội, nhận thức về nhà nước pháp quyền của Đảng ta ngày càng
đầy đủ hơn, rõ ràng và cụ thể hơn; quyết tâm chính trị là xây dựng nhà nước xã hội
chủ nghĩa dưới hình thức nhà nước pháp quyền cũng ngày càng cao hơn.
Trong Văn kiện Đại hội VI, quan điểm, chủ trương đổi mới Nhà nước đã manh nha
một số nội dung về Nhà nước pháp quyền. Đó là sự khẳng định “quản lý nhà nước
bằng pháp luật, chứ không phải bằng đạo lý”; phải quan tâm xây dựng pháp luật;
từng bước bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật để bảo đảm cho bộ máy nhà
nước được tổ chức và hoạt động theo pháp luật(5). Đến Đại VII, quan điểm đổi mới
Nhà nước đã được bổ sung thêm nội dung: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”(6).
Như vậy, có thể nói, qua hai kỳ Đại hội của thời kỳ đổi mới, tư duy về đổi mới Nhà
nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền của Đảng đã có những bước tiến
quan trọng. Tuy nhiên, chỉ đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII
(1994), chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới được Đảng ta
chính thức khẳng định và thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” cũng mới lần đầu tiên
được sử dụng trong văn kiện của Đảng.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường ở nước
ta là việc làm mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử, hiểu biết của chúng ta còn ít, có
nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm. Điều này đòi hỏi chúng ta cần
phải thận trọng trong quyết định, cũng như trong tiến hành thực hiện. Trong Văn
kiện Đại hội VIII (1996), Đảng ta coi xây dựng Nhà nước pháp quyền như một trong