intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Bào chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:28

4
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học "Bào chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự Việt Nam" được nghiên cứu với mục đích: Góp phần làm sáng tỏ hệ thống lý luận và thực tiễn áp dụng bào chữa bắt buộc tại Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Bào chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự Việt Nam

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN PHÚ LÂM BÀO CHỮA BẮT BUỘC TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 9380104 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Hà Nội, 2024
  2. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. HỒ TRỌNG NGŨ Phản biện 1: PGS.TS. Trần Đình Nhã Phản biện 2: PGS.TS. Trương Quang Vinh Phản biện 3: PGS.TS. Đồng Đại Lộc Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện tại: Học viện khoa học xã hội Vào hồi ...... giờ, ngày ....... tháng ...... năm 2024 Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Học viện Khoa học xã hội
  3. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ 1. Nguyễn Phú Lâm (2023), “Chế định bào chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Quản lý nhà nước Số 335 tháng 12/2023. 2. Nguyễn Phú Lâm (2023), “Một số vấn đề về quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát số 10/2023. 3. Nguyễn Phú Lâm (2023), “So sánh chế định bào chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức: Kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội số 11/2023.
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam trong định hướng cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật với mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN mà ở đó, quyền con người được bảo vệ, không chỉ trong các tuyên bố chính trị mà còn được bảo vệ trong thực tế. Quyền bào chữa của người bị buộc tội là một quyền cơ bản của con người trong TTHS. Trong đó Bào chữa bắt buộc được coi như là một thủ tục tố tụng đặc biệt dành những chủ thể có thiệt thòi hơn những chủ thể khác vì gặp phải những khó khăn nhất định khiến họ không thể tự bảo vệ họ trước những cáo buộc, tuy nhiên chế định này ngay cả trong lý luận và thực tiễn áp dụng đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Bào chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài để nghiên cứu luận án tại Học viện Khoa học Xã hội. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của Luận án góp phần làm sáng tỏ hệ thống lý luận và thực tiễn áp dụng bào chữa bắt buộc tại Việt Nam 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ vấn đề lý luận, thực trạng, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bào chữa bắt buộc trong TTHS tại Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận án là bào chữa bắt buộc cho người bị buộc tội trong TTHS Việt Nam (trong phạm vị luận án này tác giả chưa có điều kiện để nghiên cứu sâu sắc hơn về các chủ thể bị buộc tội là pháp nhân thương mại) thời gian 11 năm (từ năm 2013 đến năm 2023) 3.2. Phạm vi nghiên cứu Quy định của pháp luật TTHS Việt Nam, quy định của pháp luật TTHS một số nước trên thế giới về bào chữa bắt buộc từ năm 2013 đến 2023. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận Phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin 4.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu: phương pháp mô tả, lịch sử, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, phỏng vấn, tổng kết kinh nghiệm, nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu hồ sơ vụ án điển hình... Trong đó, phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý giữ vị trí chủ đạo 5. Kết quả nghiên cứu của luận án Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên ở bậc tiến sĩ về bào chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự ở Việt Nam, sẽ đạt các kết quả như: Làm rõ những vấn đề lý luận, 1
  5. làm rõ thực trạng áp dụng, đề xuất các giải pháp có tính khả thi nâng cao chất lượng bào chữa bắt buộc. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án Luận án làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của bào chữa bắt buộc, kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, nâng cao nhận thức là nguồn tài liệu tham khảo trong công tác sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp luật 7. Kết cấu của Luận án Luận án được bố cục thành 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Những vấn đề lý luận về bào chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự Việt Nam Chương 3: Thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng bào chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự Việt Nam Chương 4: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và tăng cường bảo đảm bào chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự Việt Nam CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước 1.1.1. Nhóm tài nghiên nghiên cứu về quyền bào chữa, quyền của người dưới 18 tuổi trong TTHS - Luận án tiến sĩ “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự” của tác giả Hoàng Thị Sơn tại Đại học Luật Hà Nội năm 2003; Luận án tiến sĩ “Thực hiện quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay” của tác giả Đặng Trần Thanh Ngọc tại Học viện khoa học xã hội năm 2016; Luận án tiến sĩ “Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Cao Thị Ngọc Hà năm 2019 tại Học viện khoa học xã hội. Sách chuyên khảo “Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên”, nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2022. Tác giả Nguyễn Thị Phương Hoa và Lê Huỳnh Tấn Duy; Sách chuyên khảo “Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi trên cơ sở khung pháp lý của Liên Hợp Quốc”, nhà xuất bản Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, năm 2018. Luận án tiến sĩ “Bảo đảm quyền của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự ở Việt Nam” tác giả Lê Minh Thắng tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2012; Luận án tiến sĩ “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam” tác giả Trần Hưng Bình tại Học viện khoa học xã hội năm 2013; Luận án tiến sĩ “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự ở Việt Nam” tác giả Nguyễn Hữu Thế Trạch tại Trường đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2014; Luận án tiến sĩ “Chính sách hình sự 2
  6. đối với người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay” tác giả Hoàng Minh Đức tại Học viện khoa học xã hội năm 2016; 1.1.2. Nhóm đề tài nghiên cứu liên quan đến người bào chữa trong TTHS - Luận án tiến sĩ “ Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Phan Trung Hoài tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2003; Luận án tiến sĩ “Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Huỳnh Huyện tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2012; Luận án tiến sĩ “Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” của tác giả Ngô Thị Ngọc Vân, bảo vệ năm 2016 tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa của luật sư” năm 2013, tại Trường Đại học Luật Hà Nội, tác giả Phan Thị Thanh Mai; Sách “Thể chế về luật sư và hành nghề luật sư trong nhà nước pháp quyền” tác giả Nguyễn Văn Tuân, xuất bản năm 2021, tại Nhà xuất bản Tư pháp, Sách giáo trình “Kỹ năng của luật sư khi tham gia giải quyết các vụ án hình sự” tác giả Ngô Thị Ngọc Vân và Lê Thị Thúy Nga đồng chủ biên. Nhà xuất bản tư pháp xuất bản năm 2020; Bài viết với tiêu đề “Thực trạng khó khăn, vướng mắc của luật sư khi tham gia bào chữa trong VAHS từ khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật” năm 2021 trong Kỷ yếu hội thảo – Kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật từ thực tiễn tranh tụng hình sự của luật sư sau khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật, tác giả Lê Lan Chi; “Kỹ năng hành nghề luật sư - Kỹ năng tranh tụng” do TS. Phan Hữu Thư chủ biên, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội, 2012; “Địa vị pháp lý và mối quan hệ của người bào chữa với bị can, bị cảo trong tố tụng hình sự”- TS. Nguyễn Văn Tuân, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 5 (134)/2003... 1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu dưới góc độ so sánh giữa Việt Nam với các nước trên thế giới về các chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền bào chữa - “Bảo đảm quyền có người bào chữa của người bị buộc tội - So sánh giữa luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ của tác giả Lương Thị Mỹ Quỳnh, Luận án tiến sĩ, 2011; Sách chuyên khảo “Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên” nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2022. Các tác giả Đinh Văn Đoàn, Hà Ngọc Quỳnh Anh; “Report on the right to counsel in criminal law and practice in Việt Nam” (Báo cáo quyền bào chữa trong pháp luật hình sự và thực tiễn tại Việt Nam) do nhóm nghiên cứu Nguyễn Hưng Quang và cộng sự thực hiện và hoàn thành năm 2012; “Khảo sát Luật sư chỉ định theo pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn tại Việt Nam” do Văn phòng luật sư Nguyễn Hưng Quang và Cộng sự thực hiện năm 2012; “Báo cáo tham khảo pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới (Pháp, Đức, Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc)” do Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện năm 2015; “Những điểm mới về chế 3
  7. định bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Phan Trung Hoài, Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2016; 1.2. Tinh hình nghiên cứu ở nước ngoài 1.2.1. Nhóm đề tài nghiên cứu về luật pháp quốc tế đảm bảo quyền con người, quyền bào chữa - “Towards an international criminal procedure” (Hướng tới một thủ tục tố tụng hình sự quốc tế) của TS. Christoph Safferling, 2013; UNICEF với cuốn sách “Justice for children: Detention as a Last Resort - Innovative Initiatives in the East Asia and Pacific Region - Tư pháp cho trẻ em: Giam giữ là biện pháp cuối cùng - Các sáng kiến tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương”; Cuốn sách “Juvenile Justice: A Guide to Theory, Policy, and Practice - Tư pháp vị thành niên: Hướng dẫn chính sách, lý luận và thực tiễn” của các tác giả Steven M. Cox, Jennifer M. Allen, Robert D. Hanser, John J. Conrad, năm 2013; Các bài viết: “Basic principles on the role of Lawyers” (Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư), 2019; “Basic Principles on the Independence of the Judiciary (Các nguyên tắc về tính độc lập của toà án), 2015 “Body of Principles for the protection of all persons under any from of detention or imprisonment” (Tập hợp các nguyên tắc bảo vệ tất cả những người bị giam hay cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào), 2018; “United Nations Convention against Torture and Other Cruel, Inhuman or Degrading Treatment or Punishment” (Công ước chống tra tấn và trừng phạt hoặc đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo làm mất phấm giá người khác), 2014. 1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới gắn liền với mô hình tố tụng đặc trưng, vai trò của luật sư và hoạt động bào chữa trong tố tụng hình sự - “Major legal systems in world today” (Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại) của Rene David, John E.C.Brierly, The Free Press, 2017; “Comparative Law” (Luật so sánh) của Michal Bogdan, Do Khiwer Norstedts Juridik lano, 2014, “Tư pháp hình sự so sánh” của Philip.L.Reichel do Viện nghiên cứu Khoa học Pháp lý biên dịch năm 2019. Công bố khoa học “Criminal Defense Attorney: Ethical Obligations - Luật sư bào chữa hình sự - Nghĩa vụ đạo đức” của Ukessays đăng trên tạp chí Business Bliss Consultants FZE, năm 2018, Luận án tiến sĩ “A Study of How Different Incentive Systems Can Impact Criminal Defense - Nghiên cứu về cách thức các hệ thống khuyến khích khác nhau có thể tác động đến việc bào chữa hình sự”. của Benjamin Schwall, bảo vệ tại Đại học Clemson, Hoa Kỳ, năm 2017, Bài viết “Role of the Defense Attorney: Not Just an Advocate - Vai trò của luật sư bào chữa: Không chỉ là người biện hộ”, tác giả Roberta Kemp Flowers đăng trên tạp chí Luật hình sự, Đại học Stetson, bang Ohio, Hoa Kỳ công bố năm 2010, “The Role of Defense Counsel in Ensuring a Fair Justice System - Vai trò của luật sư bào chữa trong việc đảm bảo một hệ thống tư pháp công bằng” tác giả Richard Klein, năm 2012, Bài tham luận “Luật tổ tụng hình sự Đức và Việt Nam” của luật sư Erich Joester, 2012; 4
  8. 2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu 2.1; 2.2; 2.3: Về lý luận; Về thực tiễn; Về giải pháp - Những kết quả đạt được: phần lớn các công trình khoa học đã công bố đều tập trung nghiên cứu và chủ yếu nghiên cứu về quyền bào chữa, chức năng bào chữa, chính sách pháp luật TTHS cho trẻ vị thành niên và hoạt động bào chữa của luật sư trong các giai đoạn tố tụng. Những vấn đề còn chưa thống nhất:chưa có những chỉ dẫn khoa học về phương pháp tiếp cận đa ngành, liên ngành trong nghiên cứu về bào chữa bắt buộc 3. Câu hỏi nghiên cứu và giả thiết nghiên cứu 3.1. Câu hỏi nghiên cứu: Chính sách pháp luật về bào chữa bắt buộc ở Việt Nam đã phát huy hiệu quả, bảo đảm quyền và lợi ích cho các chủ thể bị buộc tội hay chưa? Chuẩn mực quốc tế về bào chữa bắt buộc quy định như thế nào? Thực tiễn được thể hiện như thế nào? Các giải pháp cần triển khai ra sao? 3.2. Giả thuyết nghiên cứu: Quy định của pháp luật chưa hoàn thiện, thực tiễn còn vướng mắc, các giải pháp chưa đồng bộ KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÀO CHỮA BẮT BUỘC TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 2.1. Khái niệm, vai trò, đặc điểm và ý nghĩa của bào chữa bắt buộc trong Tố tụng hình sự Việt Nam 2.1.1. Khái niệm quyền bào chữa trong Tố tụng hình sự Việt Nam Quyền bào chữa (QBC) là một tập hợp của nhiều quyền khác nhau mà pháp luật cho phép công dân sử dụng để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Bào chữa là hành vi của người đưa ra các tình tiết và chứng cứ chứng minh cho sự không có lỗi hoặc giảm lỗi của họ, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau. Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu những điểm tích cực chúng tôi đưa ra khái niệm về QBC trong công trình nghiên cứu này như sau: “Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là tổng hợp các hành vi tố tụng mà pháp luật công nhận, cho phép chủ thể bị buộc tội được sử dụng để phản biện, bác bỏ, phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội nhằm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm của họ trong vụ án hình sự”. Quyền bào chữa trong TTHS từ trước đến nay được ghi nhận dưới hai hình thức là: Tự bào chữa và Nhờ người khác bào chữa. 2.1.2. Khái niệm bào chữa bắt buộc trong Tố tụng hình sự Việt Nam Khái niệm về bào chữa bắt buộc có phạm vi rộng hơn và phức tạp hơn rất nhiều so với quyền bào chữa hay nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa vì nó còn kèm theo tình trạng của chủ thể bị buộc tội, thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ, chủ thể thực hiện chức năng bào chữa, trách nhiệm, cơ chế của Nhà nước trong việc cung cấp người bào chữa cho chủ thể bị buộc tội. 5
  9. Bào chữa bắt buộc trước hết là quyền của các chủ thể bị buộc tội do gặp phải những khó khăn, thiệt thòi hơn những chủ thể thông thường khác mà chính những khó khăn này dẫn đến việc họ bị hạn chế hoặc mất đi hoàn toàn khả năng tự bào chữa để bảo vệ mình trong TTHS. Chính vì vậy Nhà nước phải đảm bảo cho họ có được sự giúp đỡ, bảo vệ từ người khác. Quyền của các chủ thể bị buộc tội trong bào chữa bắt buộc là quyền bào chữa. Quyền này hoàn toàn khác biệt với Quyền được trợ giúp pháp lý trong TTHS ở Việt Nam, mặc dù nó có một số điểm tương đồng như đều được Nhà nước cung cấp cho người bào chữa miễn phí hoặc những chủ thể là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần... Và bào chữa bắt buộc không chỉ xuất phát từ tính nhân đạo nhằm bảo vệ quyền lợi của người bị buộc tội mà nó còn là một chế định để bảo vệ công lý, bảo vệ trật tự TTHS, bảo vệ pháp chế XHCN công bằng xã hội. Nghiên cứu này cũng làm rõ và chỉ ra rằng bào chữa bắt buộc là một hình thức thực hiện quyền bào chữa trong TTHS, điểm mới này của luận án đã khẳng định thêm rằng quyền bào chữa trong TTHS được thực hiện bởi ba hình thức là “tự bào chữa”, “nhờ người khác bào chữa” và “chỉ định người bào chữa”. Bổ sung về tư duy pháp lý ở Việt Nam từ trước luôn cho rằng quyền bào chữa trong TTHS chỉ được thực hiện dưới hai hình thức là tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa. “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa” [Khoản 3, điều 31 Hiến pháp 2013]; “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa” [Điều 16, BLTTHS năm 2015]. Từ những phân tích và lập luận trên chúng tôi mạnh dạn đưa ra khái niệm về bào chữa bắt buộc trong công trình nghiên cứu này như sau: “Bào chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự là quyền tố tụng của những chủ thể bị buộc tội có khó khăn trong việc tự bào chữa nên nhà nước phải có trách nhiệm cung cấp người bào chữa cho họ để bảo vệ các quyền lợi chính đáng của họ, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ công lý, lợi ích nhà nước, pháp chế XHCN” 2.1.3. Đặc điểm của bào chữa bắt buộc + Đặc điểm về chủ thể bị buộc tội trong bào chữa bắt buộc Những chủ thể bị buộc tội gặp phải những khó khăn dẫn đến việc hạn chế hoặc mất hoàn toàn khả năng tự bào chữa, là những: “khó khăn về tâm lý”; “Khó khăn về nhận thức do độ tuổi”; “Khó khăn về thể chất và tinh thần mà không thể tự bào chữa” đây cũng là nguyên nhân làm ảnh hưởng rất lớn đến công tác giải quyết nhanh, gọn, thấu đáo, minh bạch một vụ án hình sự, gây khó khăn trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, có nhiều khả năng để lọt tội phạm và làm oan người vô tội. + Đặc điểm về phạm vi, thời điểm của bào chữa bắt buộc trong tố tụng hình sự: Bào chữa chỉ xuất hiện từ khi có hành vi buộc tội. Thời điểm kết thúc hành vi bào chữa được xác định khi không còn sự buộc tội. Còn thời điểm của bào chữa bắt 6
  10. buộc chỉ phát sinh từ khi chủ thể bị buộc tội hoặc người thân thích của họ không nhờ người khác bào chữa, còn nếu trong trường hợp chủ thể bị buộc tội nhờ người khác bào chữa thì cũng sẽ không có bào chữa bắt buộc và bào chữa bắt buộc cũng sẽ kết thúc khi không còn sự buộc tội. + Đặc điểm về chủ thể thực hiện chức năng bào chữa trong bào chữa bắt buộc Chủ thể thực hiện hành vi bào chữa trong bào chữa bắt buộc được Nhà nước chỉ định là: luật sư, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý. Cơ sở pháp lý để tham gia vào vụ án là quyết định cử, phân công của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền + Đặc điểm về trách nhiệm của nhà nước trong bào chữa bắt buộc Trách nhiệm của Nhà nước trong việc cung cấp người bào chữa trong bào chữa bắt buộc thông qua cơ chế giao nhiệm vụ cho các CQCTQTHTT và các tổ chức thuộc thể chế Nhà nước như Đoàn luật sư, Trung tâm TGPLNN, Mặt trận tổ quốc hoặc các tổ chức thành viên của Mặt trận tổ quốc cử người bào chữa. Trách nhiệm của Nhà nước trong bào chữa bắt buộc còn thể hiện qua đặc điểm chi trả chi phí bào chữa trong vụ án bào chữa bắt buộc. 2.1.4. Vai trò và ý nghĩa của bào chữa bắt buộc trong Tố tụng hình sự - Vai trò của bào chữa bắt buộc trong TTHS + Bào chữa bắt buộc có vai trò trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, bảo vệ quyền con người. Bào chữa bắt buộc còn là công cụ hữu hiệu để xác định sự thật của vụ án, đảm bảo việc giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật, đảm bảo không làm oan người vô tội. + Bảo vệ nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc xét xử công bằng trong TTHS, đảm bảo quá trình vận hành đúng đắn cả một hệ thống TTHS, góp phần trong công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. + Bào chữa bắt buộc là một chế định để Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, Bảo vệ công lý, Bảo vệ pháp chế XHCN và công bằng xã hội. - Ý nghĩa của bào chữa bắt buộc trong TTHS + Ý nghĩa về mặt pháp lý Bào chữa bắt buộc góp phần khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước và pháp luật Việt Nam + Ý nghĩa về mặt chính trị Bào chữa bắt buộc thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước Việt Nam, xây dựng Nhà nước pháp quyền ngày càng hoàn thiện hơn. Bào chữa bắt buộc là một khẳng định mạnh mẽ của Việt Nam với quốc tế việc tuân thủ những Công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết tham gia. 2.2. Nội dung bào chữa bắt buộc trong Tố tụng hình sự việt nam 2.2.1 Chủ thể bị buộc tội trong bào chữa bắt buộc ở Việt Nam Trong phạm vị luận án này tác giả chỉ giới hạn làm rõ về những chủ thể bị buộc tội trong bào chữa bắt buộc là người bị buộc tội chứ chưa có điều kiện để nghiên 7
  11. cứu sâu sắc hơn về các chủ thể là các pháp nhân thương mại bị buộc tội. (1). Chủ thể bị buộc tội là bị can, bị cáo về tội mà quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình. Tâm lý của người bị phạm tội khi phải đối diện với những khung hình phạt cao thường không ổn định, bị hoang mang, bị chi phối bởi nhiều nguyên nhân khác nhau (như lo ngại cho số phận, mạng sống của mình...) dẫn đến khủng hoảng về tinh thần nên thường buông xuôi, chấp nhận “số phận”, chống đối, bất hợp tác gây nhiều khó khăn cho công tác điều tra vì vậy họ thực sự cần có sự trợ giúp về tâm lý, pháp lý của người bào chữa. Trong trường hợp này, sự tham gia của người bào chữa không những là bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội mà còn góp phần cùng CQCTQTHTT dễ dàng, nhanh chóng tìm ra sự thật khách quan của vụ án, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, tránh được những sai sót có thể xảy ra trong quá trình tố tụng, giúp cho việc giải quyết vụ án công minh, chính xác, đúng pháp luật. (2). Chủ thể bị buộc tội là người có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa và người có nhược điểm về tâm thần. + Người có nhược điểm về thể chất Khuyết tật về thể chất là một hiện tượng phức tạp và có biểu hiện rất đa dạng, phản ánh sự suy giảm về khả năng tương tác xã hội của một cá nhân mà xuất phát từ những vấn đề bất ổn nảy sinh trong chức năng của cơ thể của cá nhân đó do tình trạng thể chất (như mù, lòa, câm, điếc, tàn tật nặng…). + Người có nhược điểm về tâm thần (khuyết tật về trí tuệ) Một người có nhược điểm về tâm thần được xem xét thông qua hai khía cạnh về năng lực, đó là khả nâng nhận thức (khả năng học tập, đưa ra các quyết định và giải quyết các vấn đề,...) và khả năng thích ứng (những kĩ năng cần thiết trong cuộc sổng hằng ngày như là giao tiếp, tương tác và quan tâm tới người khác). (3). Chủ thể bị buộc tội là người dưới 18 tuổi Độ tuổi của người phạm tội là từ 14 đến dưới 18 tuổi. Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về mặt thể chất và tinh thần. Trong quá trình phát triển về thể chất, các đặc điểm tâm lý cũng được hình thành và phát triển tuy nhiên do đặc trưng lứa tuổi và sự phát triển chưa đầy đủ về thể chất, tinh thần, kinh nghiệm sống ít ỏi mà ở họ tồn tại những đặc điểm tâm sinh lý riêng biệt. Chính sách hình sự của Việt Nam đã nhìn nhận thủ tục TTHS đối với người dưới 18 tuổi là một trong những thủ tục tố tụng đặc biệt chủ yếu liên quan đến năng lực chịu TNHS, Đồng thời để thống nhất với tư tưởng chủ đạo trong CƯQT về quyền trẻ em mà Việt Nam đã ký kết, tham gia. Chính vì vậy, bắt buộc phải có sự tham gia của NBC trong những vụ án đối với người dưới 18 tuổi để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi cũng như góp phần vào việc xác định nhanh sự thật khách quan của vụ án, không để oan sai, không bỏ lọt tội phạm. 2.2.2. Chủ thể có nghĩa vụ chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội trong bào chữa bắt buộc ở Việt Nam 8
  12. - Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng Nghĩa vụ, trách nhiệm của CQCTQTHTT bắt đầu từ sự chủ động bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội thông qua hình thức ban hành văn bản yêu cầu hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền cử người bào chữa cho người bị buộc tội. - Đoàn luật sư Đoàn luật sư có vai trò luật định đó là phân công tổ chức hành nghề luật sư cử người bào chữa hoặc chỉ định trực tiếp đối với luật sư hành nghề cá nhân tham gia bào chữa theo yêu cầu của các CQCTQTHTT. - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước Trung tâmTGPLNN cử Trợ giúp viên pháp lý, luật sư cộng tác viên bào chữa cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý tại địa phương nơi Trung tâm TGPLNN đó đặt trụ sở. - Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cử bào chữa viên nhân dân bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình 2.2.3. Chủ thể thực hiện việc bào chữa trong bào chữa bắt buộc ở Việt Nam Chủ thể thực hiện việc bào chữa được gọi là Người bào chữa (NBC) trong các vụ án bào chữa bắt buộc thì chỉ có 03 diện người được chỉ định làm người bào chữa.a) Luật sư; b) Trợ giúp viên pháp lý; c) Bào chữa viên nhân dân; do Người bào chữa chỉ định là người bào chữa được cơ quan, tổ chức cử tham gia tố tụng để tham gia vào các vụ án này thì người bào chữa chỉ định phải có một văn bản, quyết định cử tham gia của đơn vị chủ quản. Người bào chữa chỉ định trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bào chữa sẽ phải tuân thủ nghiêm các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa thông thường theo luật định, bên cạnh đó họ cũng sẽ phải thực hiện những quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy định riêng theo từng ngành nghề của họ giúp cho việc chứng minh thân chủ vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, và tuyệt đối không được làm xấu hơn tình trạng của người bị buộc tội. NBC có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án, nếu phát hiện những những vi phạm pháp luật của NCTQTHTT thì NBC phải kịp thời đưa ra những kiến nghị nhằm chấm dứt vi phạm đó. Những hoạt động bào chữa được thực hiện thông qua việc sử dụng các quyền khác nhau của chủ thể bào chữa. Các chủ thể bào chữa sử dụng các quyền năng pháp lý của mình với mục đích bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cho người bị buộc tội, thông qua các hoạt động bào chữa. 2.2.4. Chi phí bào chữa cho các vụ án bào chữa bắt buộc ở Việt Nam Chi phí bào chữa trong bào chữa bắt buộc sẽ do nhà nước chi trả. Thông thường bao gồm 2 loại: Thù lao cho người bào chữa và các khoản chi phí hợp lý cho hoạt động bào chữa. 2.3. Bào chữa bắt buộc trong Tố tụng hình sự một số nước trên thế giới 2.3.1. Bào chữa bắt buộc trong Tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Đức 9
  13. Cộng hòa liên bang Đức là một điển hình của mô hình tố tụng thẩm vấn, tuy nhiên, giống với rất nhiều quốc gia khác ở Châu Âu, Ngày nay, Đức là quốc gia có mô hình tố tụng hỗn hợp, Bộ luật hình sự (StGB) Cộng hòa liên bang Đức quy định ba cấp độ tội phạm: Tội nghiêm trọng (Verbrechen); Tội ít nghiêm trọng (Vergehen); Tội vi cảnh (Ordnungswidrigkeiten) (Điều 12 Bộ luật hình sự - StGB) Bộ luật tố tụng Hình sự Liên bang Đức (StPO) quy định trong những trường hợp bắt buộc có sự tham gia của người bào chữa, người bị buộc tội không được tự bào chữa. Thẩm phán xét xử phải chỉ định người bào chữa cho bị cáo ngay sau khi có kết luận buộc tội, đó là khi việc điều tra kết thúc (Điều 141.1 StPO). Trong những trường hợp sau (quy định tại Điều 140 StPO), bắt buộc phải có người bào chữa: “Tại phiên tòa sơ thẩm của Tòa án tối cao khu vực (Oberlandesgericht); Người bị buộc tội bị cáo buộc về tội nghiêm trọng; Thủ tục tố tụng dẫn đến việc cấm hành nghề; Người bị buộc tội là người câm điếc; Người bị buộc tội bị tạm giữ ít nhất 3 tháng bởi lệnh của Tòa án; Người cần phải kiểm tra về tình trạng tinh thần; Ngoài ra, thủ tục bắt buộc có sự tham gia của người bào chữa phải được áp dụng đối với người chưa thành niên và người bị khiếm khuyết về tâm thần”. Để bảo đảm quyền có người bào chữa của người chưa thành niên, người đại diện hợp pháp hoặc người giám hộ của họ có thể tham gia bào chữa cho họ. Đức quy định khá rộng về đốí tượng là người bào chữa. Họ có thể là luật sư hoặc các giáo sư dạy luật tại các trường Đại học, Hiện tại ở Đức có tổng cộng khoảng 155.000 luật sư. Ngoài ra, những người khác cũng có thể được Tòa án cho phép tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, bao gồm vợ (chồng) hoặc người đại diện hợp pháp của bị cáo. Trong trường hợp người bào chữa vắng mặt trong phiên tòa xét xử, Thẩm phán ngay lập tức phải chỉ định người bào chữa khác cho họ. Thẩm phán phải quyết định hoãn phiên tòa nếu người bào chữa mới được chỉ định tuyên bố anh ta không tham gia phiên tòa do không có đủ thời gian chuẩn bị việc bào chữa. Nếu sự vắng mặt là do lỗi chủ quan của người bào chữa, anh ta có thể phải bị phạt tiền. Về kinh phí bào chữa: người bào chữa được chỉ định bởi Tòa án sẽ được thanh toán chi phí bào chữa bằng ngân sách của Nhà nước trong các vụ án nghiêm trọng. Nhưng điều này không có nghĩa tất cả mọi vụ việc bào chữa chỉ định đều do Nhà nước chi trả. Nhà nước hỗ trợ chi phí bào chữa được áp dụng đối với những trường hợp nhất định và phải dựa trên mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội hoặc trong trường hợp hạn chế về năng lực tâm thần hay hạn chế về thể chất của người bị buộc tội. Những nhà làm luật Đức cho rằng việc bảo đảm cho người bị buộc tội có ngay một người bào chữa để bảo vệ quyền lợi cho họ, bảo vệ công lý mới cần thiết còn việc xác định ai sẽ là người phải chịu các khoản chi phí cho người bào chữa sẽ được giải quyết sau. Quyền lựa chọn người bào chữa chỉ định của chủ thể bị buộc tội trong luật Đức được quy định rất hạn chế nếu sự tham gia của người bào chữa là chỉ định thì người bị buộc tội bắt buộc phải lựa chọn một người bào chữa trong danh sách do 10
  14. Tòa án cung cấp. Trong TTHS Đức không có điều khoản nào quy định về việc người bị buộc tội được từ chối người bào chữa chỉ định, hay nói cách khác khi một người bào chữa đã được chỉ định để bảo vệ quyền lợi của người bị buộc tội thì anh ta dù muốn hay không muốn cũng phải chấp nhận người bào chữa đó, không được từ chối. Những quy định về bào chữa bắt buộc trong luật Đức gần như là một chế định bắt buộc cả chủ thể bị buộc tội cũng phải tuyệt đối tuân thủ điều này và dường như nó không được coi là một quyền hay biện pháp đảm bảo quyền cho người bị buộc tội mà mục đích chính là đảm bảo cho sự minh bạch, tính hiệu quả của tư pháp hình sự Đức chứ không vì mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích của người bị buộc tội. 2.3.2. Bào chữa bắt buộc trong Tố tụng hình sự Hoa Kỳ Hoa Kỳ là đặc thù về mô hình tố tụng tranh tụng, các án lệ của Tòa án tối cao Hoa Kỳ mới là nguồn được áp dụng chủ yếu để bào chữa cho người bị buộc tội. Chế định bào chữa bắt buộc không ngừng được ghi nhận và mở rộng về chủ thể bị buộc tội trong lịch sử lập pháp ở Hoa Kỳ và phạm vi áp dụng từ Tòa án cấp Liên bang cho tới Tòa án cấp Tiểu bang. Tòa án có nghĩa vụ phải chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội trong một số trường hợp như: Người bị buộc tội là người nghèo; Bị buộc tội có thể dẫn tới hình phạt tù trở lên; Người bị buộc tội là trẻ vị thành niên hoặc người bị mắc bệnh tâm thần hoặc bị thiểu năng về trí tuệ khác. Quy định số 44 của Bộ quy tắc Hoa Kỳ về TTHS đã nhấn mạnh một cách rõ ràng rằng cả Tòa án Liên bang và Tiểu bang đều phải có nghĩa vụ chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội không có khả năng thuê người bào chữa trong tất cả các giai đoạn tố tụng cho tới khi phúc thẩm. Mặc dù nhà nước Hoa Kỳ có nghĩa vụ phải cung cấp người bào chữa trong phần lớn các vụ việc hình sự nhưng không phải tất cả người bị buộc tội đều chấp nhận sự cung cấp đó. Một số người muốn tự đại diện cho mình, một số người không hài lòng với người bào chữa chỉ định và muốn đổi người bào chữa. Trong trường hợp này, Tòa án phải chỉ định người bào chữa khác, việc lựa chọn ai là người bào chữa trong từng vụ án cụ thể là công việc của các tổ chức luật sư bào chữa công. Hoa Kỳ cũng công nhận người bị buộc tội có quyền từ chối người bào chữa chỉ định. Tuy nhiên, ở Hoa Kỳ việc từ chối người bào chữa chỉ định được áp dụng một cách hạn chế, một số tiểu bang không cho phép hoặc hạn chế một cách tối đa việc người bị buộc tội là người vị thành niên, người cao tuổi hoặc do hạn chế về khả năng trí tuệ được từ chối người bào chữa chỉ định. Một lực lượng phổ biến và chủ đạo đảm trách thực hiện việc bào chữa là mô hình luật sư công và luật sư tư. Các tổ chức bào chữa công (luật sư công) hoạt động không vì lợi nhuận với đội ngũ nhân viên được trả lương làm việc toàn thời gian, Với mô hình người bào chữa theo hợp đồng (luật sư tư) được Tòa án chỉ định từ một danh sách chính thức hoặc không chính thức của Tòa án và tiến hành bào chữa cho các vụ án theo một mức phí cố định theo giờ hoặc theo vụ việc. 2.3.3. So sánh bào chữa bắt buộc trong TTHS của Việt Nam, Đức và Hoa Kỳ 11
  15. + Về chủ thể bị buộc tội được quy định trong bào chữa bắt buộc: Cả hai hệ thống Hoa Kỳ và Đức đều lấy phân loại tội phạm làm căn cứ để xác định chủ thể bị buộc tội còn ở Việt Nam sẽ lấy khung hình phạt làm căn cứ để xác định chủ thể bị buộc tội. Ở Hoa Kỳ quyền từ chối người bào chữa được khuyến cáo hạn chế trong những trường hợp có nghi vấn về năng lực tâm thần của người bị buộc tội hay trường hợp người bị buộc tội là người chưa thành niên. Quyền lựa chọn người bào chữa trong luật Đức được quy định rất hạn chế. Người bào chữa sẽ được chỉ định trong danh sách các luật sư làm việc tại Tòa án. Người bị buộc tội chỉ được chọn ra một người trong số những luật sư được đề nghị. Trong TTHS Đức người bị buộc tội không có quyền từ chối người bào chữa Trong khi đó, Việt Nam người bị buộc tội vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa chỉ định. Tuy nhiên chủ thể bị buộc tội theo pháp luật Việt Nam là tương đối hẹp cả về đối tượng và phạm vi. Có thể cho rằng, những ghi nhận của luật Hoa Kỳ về nội dung này chứa đựng nhiều yếu tố hợp lý hơn. + Về trách nhiệm của nhà nước trong việc cung cấp người bào chữa: Cả 3 hệ thống pháp luật đều ghi nhận Nhà nước có trách nhiệm cung cấp người bào chữa cho người bị buộc tội. Điểm khác biệt là Hoa Kỳ chỉ định người bào chữa dựa trên tình trạng của người bị buộc tội và vì quyền lợi của người bị buộc tội và Nhà nước chi trả các khoản chi phí bào chữa cho mọi trường hợp, khác biệt với Hoa Kỳ ở Đức nhà nước cung cấp người bào chữa là nhằm bảo đảm lợi ích của công lý và đảm bảo cho việc vận hành quá trình tố tụng một cách thông suốt và trách nhiệm chỉ định người bào chữa không đồng nghĩa với trách nhiệm chi trả các khoản chi phí bào chữa. Nhà nước chỉ trả chi phí bào chữa trong một số trường hợp nhất định. Cùng quan điểm với Đức. TTHS Việt Nam cũng quy định bào chữa bắt buộc không chỉ bảo vệ quyền lợi của người bị buộc tội mà còn nhiệm vụ bảo vệ trật tự tố tụng, bảo vệ pháp chế, công bằng xã hội, ở Việt Nam các khoản chi phí bào chữa hoàn toàn được Nhà nước chi trả. + Về chủ thể thực hiện bào chữa trong bào chữa bắt buộc: Cả ba hệ thống pháp luật đều sử dụng luật sư là NBC chính, bên cạnh đó ở Đức sử dụng đội ngũ giáo sư dạy luật tại các trường Đại học và người đại diện hợp pháp hoặc người giám hộ của họ cũng có thể tham gia bào chữa, còn tại Mỹ sử dụng cả hai mô hình luật sư công và luật sư tư cùng tham gia nên sẽ không gặp nhiều khó khăn trong việc thiếu hụt lực lượng NBC. Về chất lượng bào chữa, ở Hoa Kỳ, người bị buộc tội có quyền có được người bào chữa hiệu quả. chúng tôi cho rằng đây là một ưu điểm nổi trội trong TTHS Hoa Kỳ rất đáng để học hỏi. KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 12
  16. CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN VỀ BÀO CHỮA BẮT BUỘC TẠI VIỆT NAM 3.1. Thực trạng quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về bào chữa bắt buộc 3.1.1 Quy định của pháp luật về bào chữa bắt buộc trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự. - Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954: Thời kỳ pháp luật mới chỉ quy định về quyền bào chữa của bị cáo mà chưa có văn bản nào quy định về bào chữa bắt buộc. - Giai đoạn từ năm 1955 đến khi có BLTTHS năm 1988. Trong giai đoạn này tuy bào chữa bắt buộc đã được đặt ra, ghi nhận trách nhiệm của nhà nước trong bào chữa bắt buộc, tuy nhiên vẫn còn rất sơ khai, vẫn còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân một phần do mô hình tố tụng của Việt Nam lúc bấy giờ thuần theo tố tụng thẩm vấn. Một phần do điều kiện lịch sử Việt Nam vừa thoát khỏi hai cuộc chiến tranh, còn nhiều khó khăn và thách thức. 3.1.2. Quy định của pháp luật về bào chữa bắt buộc trong các Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam qua các thời kỳ - BLTTHS năm 1988 Với Bộ luật này bào chữa bắt buộc đã được quy định cụ thể hơn, chính thức nhấn mạnh tới nghĩa vụ của nhà nước trong việc cung cấp NBC. Chủ thể thực hiện chức năng bào chữa là luật sư. Giai đoạn này bào chữa viên nhân dân không được công nhận là chủ thể thực hiện chức năng bào chữa trong bào chữa bắt buộc và chủ thể bị buộc tội là bị can, bị cáo về tội có khung hình phạt cao nhất là tử hình; người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần và trong giai đoạn này thời điểm NBC tham gia từ sau khi có quyết định khởi tố bị can. - BLTTHS năm 2003 Bộ luật này gần như đã kế thừa và phát triển một chút về bào chữa bắt buộc so với BLTTHS năm 1988. Mở rộng thêm về chủ thể thực hiện chức năng bào là bào chữa viên nhân dân. Hạn chế quyền thay đổi hoặc từ chối của một số chủ thể bị buộc tội là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất [Nghị quyết 03/2004/NQ-HĐTP] - BLTTHS năm 2015 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đã có sự sửa đổi đáng kể, chi tiết, rõ ràng hơn về bào chữa bắt buộc, trong đó chủ thể bị buộc tội trong bào chữa bắt buộc đã được mở rộng tới người bị buộc tội (bao gồm cả người bị bắt, người bị tạm giữ), mở rộng chủ thể bị buộc tội với bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình so với BLTTHS năm 2003 chủ thể bị buộc tội có mức hình phạt là tử hình. Mở rộng chủ thể thực hiện chức năng 13
  17. bào chữa là Trợ giúp viên pháp lý và chi tiết hơn về người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất là “không thể tự bào chữa” 3.2. Thực tiễn về bào chữa bắt buộc ở Việt Nam 3.2.1. Khái quát về tình hình bào chữa bắt buộc hiện nay Theo báo cáo của ngành Tòa án cho thấy chỉ riêng trong 6 năm (2018-2023) kể từ sau khi BLHS năm 2015 và BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành được áp dụng trong thực tiễn các TAND đã thụ lý 482.209 vụ với 833.627 bị cáo; đã giải quyết, xét xử được 478.370 vụ với 817.716 bị cáo. Với thực tiễn này NBC để thực hiện chức năng bào chữa trong bào chữa bắt buộc hiện nay là thiếu nghiêm trọng Theo báo cáo của Cục trợ giúp pháp lý , Bộ tư pháp. Trong 06 năm kể từ khi Luật TGPL năm 2017 có hiệu lực. Các Trung tâm TGPLNN trên toàn quốc đã cử Trợ giúp viên pháp lý cùng các luật sư là cộng tác viên tham gia bào chữa theo yêu cầu TGPL so với vụ việc do cơ quan Tòa án giải quyết còn thấp; Năm 2018, có 9.609/80.566 vụ án hình sự; năm 2019 có 11.938/ 80.280 vụ án hình sự; năm 2020 có 14.798/ 87.770 vụ án hình sự; năm 2021 có 19.269 /79.409 vụ án hình sự; năm 2022 có 21.750/91.312 vụ án hình sự; năm 2023, có 25.506/ 94.161 vụ án hình sự Theo thống kê của Liên đoàn luật sư Việt Nam trong vòng 11 năm (từ 2013-2023) luật sư cả nước tham gia giải quyết một số lượng lớn án hình sự, cụ thể: Số vụ án luật sư được mời và chỉ định tham gia bào chữa trước khi BLTTHS 2015 có hiệu lực (2013-2017) Số vụ án có luật sư Số vụ án hình sự có Số vụ án có tham gia bào chữa Năm luật sư tham gia bào luật sư được Tỷ lệ % Tỷ lệ % theo yêu cầu của cơ chữa mời quan CTQTHTT 2013 8.698 3914 45% 4784 55% 2014 10.893 4272 42,72 % 6621 66,21% 2015 11.960 5.310 44,39% 6.650 55,61% 2016 13. 078 6.884 52,63% 6.194 47,37% 2017 18.700 12.795 68,42% 5.905 31,58% (Nguồn: Liên đoàn luật sư Việt Nam) 14
  18. Số vụ án luật sư được mời và chỉ định tham gia bào chữa sau khi BLTTHS 2015 có hiệu lực (2018-2023) Số vụ án có luật sư Số vụ án hình sự có Số vụ án có tham gia bào chữa theo Năm luật sư tham gia bào luật sư được Tỷ lệ % Tỷ lệ % yêu cầu của cơ quan chữa mời CTQTHTT 2018 12.450 5.022 41% 7.428 59% 2019 13.240 6.015 46 % 7.225 54% 2020 14.530 6.732 47% 7.798 53% 2021 10.320 3.051 30,5% 7.269 69,5% 2022 16.370 6620 41% 9750 59% 2023 14.811 6296 44% 8155 56% (Nguồn: Liên đoàn luật sư Việt Nam) Thực tiễn bào chữa bắt buộc ở Việt Nam hiện nay hầu hết không ghi nhận có Bào chữa viên nhân dân tham gia trong tất cả các giai đoạn của TTHS. Trải qua quá trình nghiên cứu, Tác giả cho rằng những số liệu trên phần nào đã phản ánh đúng thực trạng thiếu NBC trầm trọng hiện nay. Tại báo cáo tổng hợp tình hình hoạt động TGPL của Cục trợ giúp pháp lý, Bộ tư pháp, Cơ quan này cũng thẳng thắn thừa nhận số vụ việc tham gia bào chữa bào chữa bắt buộc hiện nay vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Mặc dù các đơn vị, lực lượng bổ trợ tư pháp ở Việt Nam hiện nay vẫn không ngừng nỗ lực hoàn thiện và phát triển tuy nhiên vẫn phải thừa nhận rằng lực lượng người bào chữa tham gia công tác chỉ định hiện nay còn qua mỏng, thiếu so với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn. - Theo Báo cáo của Liên đoàn luật sư Việt Nam hiện nay số lượng luật sư của cả nước là: 18.016 luật sư (Số liệu tính đến 31/12/2023). Số lượng luật sư tăng đều hàng năm, trung bình mỗi năm tăng hơn 700 luật sư. Sự phát triển về luật sư nhưng chủ yếu vẫn tập trung ở các thành phố lớn, đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh chiếm hơn 2/3 tổng số luật sư của cả nước. Còn lại 61 Đoàn luật sư có số lượng luật sư là 4.350 luật sư, chiếm 30,7%. Số lượng luật sư ở các tỉnh, thành phố trong toàn quốc là không đồng đều, tốc độ phát triển luật sư vẫn còn chậm so với yêu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của xã hội, nếu chia bình quân đầu người theo dân số của Việt Nam thì với gần 100 triệu dân mới có 14.178 luật sư (tỷ lệ xấp xỉ là 01 luật sư/7050 người dân). Vấn đề thiếu luật sư ở các khu vực 15
  19. có điều kiện kinh tế kém hơn là một đòi hỏi cấp bách hiện nay. Từ thực trạng về luật sư như vậy Việt Nam cần phải có các biện pháp khuyến khích để đảm bảo công tác bào chữa chỉ định của luật sư tại các địa phương vùng sâu, vùng xa. - Với các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước phần nào đáp ứng được ‘quyền được trợ giúp pháp lý” của người dân tuy nhiên với bào chữa bắt buộc các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước với đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý còn non trẻ vẫn chưa thể đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của các CQCTQTHTT trong việc cử NBC và với chất lượng bào chữa chưa cao các TGVPL cũng chưa thể đảm trách được chức năng bào chữa “gỡ tội” trong TTHS hiện nay. Luật sư vẫn là lực lượng chính và quan trọng nhất thực hiện vai trò của NBC trong bào chữa bắt buộc. 3.2.2. Thực tiễn công tác chỉ định người bào chữa và vai trò của các cơ quan cử người bào chữa - Công tác chỉ định: Công tác chỉ định người bào chữa phải được các CQCTQTHTT tiến hành thông qua Đoàn luật sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước hoặc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận. Tuy nhiên, trên thực tế việc chỉ định này được thực hiện rất tùy tiện, ngẫu hứng. NTHTT liên lạc trực tiếp với Tổ chức hành nghề luật sư hay thẳng với luật sư là chỗ “quen biết” yêu cầu đơn vị, cá nhân đó tham gia bào chữa theo chỉ định cho người bị buộc tội mà họ đang thụ lý. Và sự “hợp tác” này cả hai bên cùng có lợi. NTHTT sẽ rất thuận lợi trong quá trình giải quyết vụ án còn người bào chữa cũng sẽ được hưởng những lợi ích vật chất nhất định (bao gồm cả lợi ích vật chất từ phía gia đình người bị buộc tội). Những tổ chức hành nghề luật sư hoặc các luật sư sau khi nhận được yêu cầu từ cơ quan tiến hành tố tụng thì sẽ đề nghị Đoàn luật sư tạo điều kiện để phân công vụ việc đó cho mình giải quyết. Hình thức này không bị Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư nào phản đối và không bị coi là vi phạm thủ tục tố tụng. Việc trực tiếp mời luật sư tham gia bào chữa chỉ định tạo nên sự thuận tiện cho cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, cơ chế mời trực tiếp này cũng đặt ra vấn đề về “tính khách quan” của luật sư khi tham gia vụ án do chính cơ quan tiến hành tố tụng mời. Và đây hoàn toàn có thể là điểm mấu chốt để phát sinh mờ ám, tiêu cực. Do đó, vấn đề này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan quản lý tổ chức hành nghề luật sư cũng như bản thân các luật sư cần phải nghiêm túc thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật. Tuy nhiên cũng có những quan điểm cho rằng cơ chế chỉ định thông qua Đoàn luật sư cũng sẽ tạo nên yếu tố tiêu cực khi Ban chủ nhiệm của Đoàn luật sư lựa chọn, giữ lại một số có lợi cho cá nhân mình và những người thân tín của mình để thực hiện, còn những vụ việc phức tạp, khó khăn, nguy hiểm mới chỉ định xuống cho các luật sư khác thực hiện. Có ý kiến còn khẳng định quy trình mời luật sư thông qua Đoàn luật sư sẽ mất nhiều thời gian và không bảo đảm được yêu cầu cấp bách của tố tụng mà nên đơn giản hóa bằng việc yêu cầu trực tiếp thông qua các tổ chức luật sư. 16
  20. Đối với các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước việc cử Trợ giúp viên pháp lý tham gia người bào chữa có phần minh bạch và rõ ràng hơn có lẽ các Trung tâm này là đơn vị công lập của nhà nước. Cơ chế hiện hành chưa mở rộng được nhiều tới các đối tượng khác tham gia vào công tác bào chữa chỉ định dẫn đến một số vụ án cần có luật sư tham gia bào chữa nhưng không có luật sư. Điều này gây trở ngại đáng kể cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm các yêu cầu của công tác tố tụng. - Vai trò của các cơ quan cử người bào chữa: + Đoàn luật sư Đoàn luật sư (ĐLS) có vai trò chỉ định (cử) luật sư tham gia bào chữa, quy trình phân công thường “công khai”. Tuy nhiên tại nhiều địa phương các ĐLS đã không phát huy được vai trò chỉ định luật sư theo yêu cầu của BLTTHS với nhiều lý do nhưng thường là vướng mắc ở vấn đề thù lao cho NBC còn rất thấp bên cạnh đó các hoạt động như tôn vinh, trao tặng những danh hiệu, động viên tinh thần còn hình thức thiếu thiết thực nên đã không thu hút được luật sư tham gia rất cần có cơ chế khuyến khích thích hợp. + Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước: Tại những địa phương mà ĐLS có ít luật sư, thì thường sẽ đề nghị TTTGPLNN trên địa bàn cử người bào chữa là trợ giúp viên pháp lý hoặc luật sư cộng tác viên tham gia công tác bào chữa chỉ định. TTTGPLNN được đánh giá là khá tốt so với ĐLS ở các Tỉnh vùng sâu, vùng xa và các TTTGPLNN có nguồn kinh phí hoạt động từ ngân sách nhà nước còn các ĐLS phải sử dụng ngân sách tự chủ nên khả năng “hôc trợ” cho người được cuwqr tham gia công tác bào chữa gặp nhiều khó khăn và eo hẹp hơn nhiều Các luật sư được phỏng vấn đều cho rằng TTTGPLNN nên là đầu mối cho các hoạt động chỉ định luật sư trong các vụ án bào chữa bắt buộc ở các Tỉnh mà ĐLS không phát triển. Ngoài ra, thủ tục thanh toán thù lao của TTTGPLNN cũng được đánh giá là đơn giản hơn thủ tục thanh toán thù lao của các CQCTQTHTT các TTTGPLNN thường giám sát chặt chẽ công tác bào chữa của TGVPL và luật sư cộng tác viên và có những quy định đơn giản hơn để chấm công, tính ngoài giờ thanh toán thù lao, công tác phí cho NBC, còn luật sư khi được ĐLS cử là người bào chữa chỉ định sẽ buộc phải tự chứng minh ngày công làm việc làm căn cứ để thanh toán thù lao. + Ủy ban Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận rất ít khi nhận được đề nghi cử bào chữa viên nhân dân tham gia tố tụng đó, Tuy nhiên trong các thành viên của MTTQ có một tổ chức là Hội luật gia mà ở đó các hội viên lại là những người rất am hiểu về pháp luật. Lãnh đạo các Hội Luật gia địa phương khẳng định đội ngũ đông đảo thành viên của họ có thể tham gia hiệu quả công tác bào chữa bắt buộc và họ cũng không chú trọng vào thù lao hay kinh phí. Tuy nhiên thực tiễn khảo sát vẫn ghi nhận rất ít trường hợp bào chữa viên nhân 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2