intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Ngôn ngữ trần thuật trong hồi ký Tô Hoài

Chia sẻ: Phong Tỉ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:32

47
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận án là qua khảo sát ngôn ngữ cụ thể (từ ngữ, câu) được Tô Hoài sử dụng trong ngôn ngữ trần thuật hồi ký, chúng tôi chỉ ra được các đặc điểm về mặt sử dụng ngôn ngữ trên phương diện từ, câu của nhà văn. Các kết quả nghiên cứu ngôn ngữ trần thuật qua các tác phẩm hồi ký của Tô Hoài góp phần làm rõ hơn đặc điểm ngôn ngữ thể loại hồi ký.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Ngôn ngữ trần thuật trong hồi ký Tô Hoài

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH NGUYỄN THỊ ĐÀO NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT TRONG HỒI KÝ TÔ HOÀI Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam Mã số: 922 01 02 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
  2. 2 NGHỆ AN ­ 2018 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Trong số  các tên tuổi hàng đầu của văn xuôi hiện đại Việt Nam, Tô  Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào, bền bỉ và đa dạng vào bậc nhất. Tô Hoài   đóng góp cho nền văn học hiện đại Việt Nam bằng một khối lượng tác phẩm đồ  sộ, đến nay ông đã cho in trên 200 cuốn. Sáng tác của Tô Hoài lại đa dạng về đề  tài và thể loại, ở đề tài và thể loại nào, ông cũng tạo được những dấu ấn riêng rõ   nét. Cho nên, nghiên cứu tác phẩm của Tô Hoài, dù  ở  đề  tài, thể  loại nào cũng là  sự cần thiết đối với sáng tác của ông nói riêng đối với văn học Việt Nam hiện đại   nói chung. 1.2. Hồi ký là thể văn sở trường, đặc sắc nhất của Tô Hoài, in đậm dấu ấn   cảm quan con người của nhà văn. Đối với Tô Hoài, hồi ký là thể loại chiếm vị trí   quan trọng trong sáng tác của ông. Đọc các hồi ký của Tô Hoài, ta mới thấy hết   cảm quan nghệ thuật và công phu chữ nghĩa của ông. Tô Hoài quan niệm sáng tạo   văn chương là thứ lao động nghiêm túc, đòi hỏi một tinh thần trách nhiệm cao. Có  được quan niệm đó, bởi vì, ông sống rất kĩ lưỡng với đời sống quanh mình, từ  chuyện riêng tư  đến chuyện bạn bè, chuyện làm nghề  đến những công việc cách  mạng, chuyện gì cũng đưa vào hồi kí để  trở  thành văn chương. Ông cũng hết sức   kĩ lưỡng trong lựa chọn và sử dụng ngôn từ để đụng đâu cũng ra văn, một thứ văn  của một bậc thầy tiếng Việt. Cho nên, nghiên cứu văn chương của Tô Hoài thì hồi   ký của ông có lẽ đó là một đối tượng cần được quan tâm hàng đầu. 1.3. Đối với thể  loại hồi ký, trần thuật là phương thức đặc trưng. Vì vậy,   nghiên cứu về hồi ký của Tô Hoài, không thể không tìm hiểu nghệ thuật ngôn ngữ  của ông, đặc biệt là ngôn ngữ trần thuật. Sự tìm tòi, sáng tạo trong nghệ thuật hồi   ký của Tô Hoài chủ yếu thuộc lĩnh vực ngôn từ. Mạch văn, cách dùng chữ của ông  có một lối đi riêng, tạo nên một tiếng nói, một cách nhìn, một cá tính độc đáo.  Trong khả năng vận dụng ngôn ngữ ấy thì lời văn trần thuật giữ vai trò chủ đạo.  Từ  những lí do trên, chúng tôi chọn đi sâu tìm hiểu  Ngôn ngữ  trần thuật   trong hồi ký Tô Hoài  nhằm làm nổi rõ sự  đa dạng, tính phức điệu của ngôn từ 
  3. 3 trần thuật, yếu tố  góp phần không nhỏ  cho sự  thành công của thể  loại hồi ký và  sự nghiệp văn chương của ông.  2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu  Thực hiện đề tài Ngôn ngữ trần thuật trong hồi ký Tô Hoài chúng tôi hướng   đến những mục đích sau: ­ Qua khảo sát ngôn ngữ  cụ  thể  (từ  ngữ, câu) được Tô Hoài sử  dụng trong  ngôn ngữ  trần thuật hồi ký, chúng tôi chỉ  ra  được các đặc điểm về  mặt sử  dụng  ngôn ngữ trên phương diện từ, câu của nhà văn. ­ Các kết quả nghiên cứu ngôn ngữ trần thuật qua các tác phẩm hồi ký của   Tô Hoài góp phần làm rõ hơn đặc điểm ngôn ngữ thể loại hồi ký. ­ Góp phần cho thấy những đóng góp của Tô Hoài đối với sự  phát triển từ  vựng tiếng Việt thế kỷ XX.  2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận án hướng đến thực hiện những nhiệm vụ sau: ­ Tổng quan tình hình nghiên cứu về  ký nói chung và hồi ký nói riêng. Xác   định cơ sở lý thuyết đề tài, ngôn ngữ thể loại và khái niệm liên quan đến đề tài. ­ Khảo sát, thống kê, phân loại, miêu tả một số lớp từ, một số trường nghĩa  đặc sắc trong lời văn trần thuật trong các tác phẩm hồi ký Tô Hoài thể  hiện sự  chọn lựa của tác giả và vai trò, hiệu quả của chúng. ­ Khảo sát, miêu tả  câu trên phương diện cấu tạo, chức năng cũng như  3.  Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Ngôn ngữ trong lời trần thuật hồi ký Tô Hoài (từ, câu và các biện pháp tu từ  cú pháp nổi bật). 3.2. Phạm vi khảo sát và nghiên cứu ­ Phạm vi ngữ liệu khảo sát: Các tác phẩm hồi ký của Tô Hoài bao gồm:  Cỏ  dại  (1944);  Tự  truyện  (1978);  Những gương mặt (1988);  Cát bụi chân ai  (1992);  Chiều chiều (1999). ­ Phạm vi nghiên cứu: Luận án chỉ  giới hạn  ở  việc khảo sát từ  ngữ  và câu  trong ngôn ngữ trần thuật hồi ký Tô Hoài. 4. Phương pháp, thủ pháp nghiên cứu Thực hiện đề  tài này, chúng tôi chủ  yếu sử  dụng các phương pháp và thủ  pháp nghiên cứu sau: 4.1. Phương pháp phân tích diễn ngôn 
  4. 4 Phương pháp phân tích diễn ngôn là phương pháp chủ đạo để phân tích ngôn  ngữ  trần thuật trong hồi ký Tô Hoài gồm cách sử  dụng từ  ngữ, trường nghĩa, câu   và biện pháp tu từ cú pháp. 4.2. Phương pháp miêu tả Dựa vào số  lượng các loại từ  và câu trong ngôn ngữ  trần thuật của hồi kỹ  Tô Hoài được thống kê, phân loại, luận án đi sâu vào miêu tả  đặc điểm về  ngữ  nghĩa, các nhân tố  chi phối đến sự  hành chức của ngôn ngữ  trần thuật. Các nhận  định, đánh giá được luận án rút ra đều dựa trên sự  miêu tả, phân tích số  liệu cụ  thể. Tần số  lặp lại cao hay thấp của số liệu thống kê là cơ  sở  quan trọng phản  ánh tính quy luật của đối tượng, giúp chúng tôi chỉ  ra và lý giải những đặc điểm  ngôn ngữ trần thuật trong hồi ký của ông. 4.3. Thủ pháp thống kê phân loại Luận án thống kê các lớp từ ngữ về cấu tạo và một số lớp từ ngữ về phong   cách, các trường nghĩa nổi bật, câu và các biện pháp tu từ cú pháp trong ngôn ngữ  trần thuật ở 5 tác phẩm hồi ký của Tô Hoài. Từ nguồn tư liệu này, chúng tôi tiến  hành phân loại các lớp từ  ngữ, trường nghĩa, câu và biện pháp tu từ  cú pháp dựa   vào những tiêu chí cụ thể. 4.4. Thủ pháp so sánh Luận án so sánh một số  điểm tương đồng và khác biệt giữa ngôn ngữ  trần  thuật của Tô Hoài với một số tác giả cùng thời để làm nổi rõ những nét riêng trong  phong cách ngôn ngữ hồi kí của Tô Hoài. 5. Đóng góp của luận án ­ Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu hồi ký Tô Hoài một cách hệ  thống từ góc nhìn ngôn ngữ học. Các kết quả của luận án nhằm làm nổi rõ những   nét đặc sắc trong ngôn ngữ hồi ký của nhà văn Tô Hoài; ghi nhận những đóng góp  của ông trong sự phát triển ngôn ngữ ký nói riêng, ngôn ngữ nghệ thuật nói chung. ­ Luận án góp phần chỉ  ra vai trò của Tô Hoài trong việc sử  dụng đa dạng  các loại ngôn ngữ đời sống vào ngôn ngữ nghệ thuật, sự kết hợp giữa phong cách   truyền thống và phong cách hiện đại; khẳng định những đóng góp của nhà văn đối  với sự phát triển của thể hồi kí nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung luận án triển  khai thành 3 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết của đề tài Chương 2: Từ trong lời trần thuật hồi ký Tô Hoài
  5. 5 Chương 3: Câu trong lời trần thuật hồi ký Tô Hoài
  6. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT  1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu  1.1.1. Nghiên cứu về ngôn ngữ trần thuật Điểm lại lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ trần thuật trong và ngoài nước, chúng  tôi thấy, ngôn ngữ trần thuật là một vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều học giả  có tên tuổi trong lĩnh vực lý luận văn học và ngôn ngữ học quan tâm. Lý thuyết về  ngôn ngữ  trần thuật  đã được soi chiếu từ  nhiều góc độ  khác nhau, và ngày càng  được hoàn thiện.  1.1.2. Nghiên cứu về hồi ký Điểm  qua tình hình  nghiên cứu  hồi ký  ở  thế  giới và Việt Nam, chúng tôi  thấy, hồi ký là một vấn đề mới được quan tâm của các nhà nghiên cứu, bắt đầu từ  thế kỷ XIX, chủ yếu là các tác giả người Nga. Ở Việt Nam cuối thế kỷ XX, thể  loại hồi ký mới được quan tâm nghiên cứu.   1.1.3. Tình hình nghiên cứu hồi ký Tô Hoài Điểm qua các công trình nghiên cứu, chúng tôi thấy, các công trình đứng từ  góc độ ngôn ngữ học để nghiên cứu về hồi ký Tô Hoài, cho đến nay chưa có nhiều  và chủ yếu là khóa luận, luận văn ở  các trường đại học. Một số  bài viết của các  nhà nghiên cứu  tuy có quan tâm đến đặc điểm ngôn ngữ  trong hồi ký của ông,  nhưng cho đến thời điểm này, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu  một cách công phu, độc lập, toàn diện và có hệ thống. Đặc biệt, vấn đề ngôn ngữ  trần thuật trong hồi ký Tô Hoài, chưa được tác giả nào quan tâm, nghiên cứu.  1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài 1.2.1. Ngôn ngữ trần thuật 1.2.1.1. Khái niệm  Ngôn ngữ  trần thuật là ngôn ngữ  của người kể  chuyện, kể  lại diễn biến  của câu chuyện theo một cách thức nào đó.  1.2.1.2. Ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ nhân vật  Ngôn ngữ trần thuật (lời người kể chuyện) và ngôn ngữ nhân vật (lời nhân  vật) đều là các thành phần cơ  bản của ngôn ngữ  nghệ  thuật. Mỗi thành phần lại  có những đặc điểm và chức năng riêng.  1.2.1.3. Người kể chuyện  
  7. 7 Với thể loại hồi kí, người thuật (kể) là tác giả  (nhà văn) nên ngôn ngữ  trần   thuật của hồi kí là ngôn ngữ  tác giả, tức là cách nhà văn tổ chức lời kể: 1/ Lời kể  của chính tác giả (có thể xưng “Tôi”, hoặc không xưng tôi; 2/ Lời kể là lời người  khác (hay còn gọi là lời kể phi sở hữu), do kể lại lời người khác, tức là không đổi  vai kể chuyện.  1.2.2. Thể loại ký trong văn học 1.2.2.1. Giản yếu về thể ký a. Khái niệm Ký là một thể văn học phản ánh hiện thực đời sống một cách nghệ thuật mà   chân xác, linh hoạt, bộc lộ những ý nghĩ, cảm xúc trực tiếp của cá nhân và những   sự  việc, sự vật, con người, cuộc đời vừa có giá trị  thẩm mĩ, có ấn tượng lớn với   cá nhân, vừa có tính thời sự được xã hội quan tâm. b. Đặc điểm của thể ký Ký là một loại hình văn học không thuần nhất. Đó là lĩnh vực văn học bao   gồm nhiều loại, chủ yếu là văn xuôi ghi chép, miêu tả và biểu hiện những sự việc,   con người có thật trong cuộc sống: ký sự, phóng sự, nhật ký, hồi ký, bút ký, tùy bút,   du ký, kỷ hành, truyện ký, tản văn, tạp văn, tạp bút,...  Ngôn từ trong tác phẩm ký chủ yếu là ngôn ngữ trực tiếp của tác giả ­ người  chứng kiến và tái hiện các hiện tượng đời sống. Ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm   ký thường rất linh hoạt về  giọng điệu. Ký thường không chỉ  trần thuật, mà cùng   với trần thuật là phân tích, khái quát ý nghĩa của các hiện tượng đời sống được đề  cập, phản ánh trong tác phẩm. Trước hết, ngôn từ  nghệ  thuật của ký hướng vào  miêu tả  phong tục qua những đặc điểm môi trường hoặc những nét tính cách tiêu  biểu của cuộc sống. Vì thế, nó vừa cụ thể, sinh động, đậm chất đời thường, vừa có  tính khái quát.  1.2.2.2. Hồi ký a. Khái niệm “Hồi ký là sáng tác thuộc nhóm thể tài ký, là một thiên trần thuật từ ngôi tác  giả  (người xưng tôi là tác giả, chứ  không phải là tôi hư  cấu như   ở  nhiều tiểu   thuyết, truyện ngắn), kể  về  những sự  việc có thực xảy ra trong quá khứ  mà tác   giả tham dự hoặc chứng kiến” [70, tr.646­647]. b. Đặc điểm của hồi ký Hồi ký cũng mang những đặc trưng của ký nhưng khác với ký; hồi ký là thể  loại ghi chép về những gì xảy ra trong quá khứ trên cơ sở hồi tưởng mà người viết   ­ bình diện thứ  nhất của tác phẩm hồi ký, ghi lại bằng những  ấn tượng, hồi  ức   trực tiếp của mình. Hồi ký là ghi chép sự việc diễn ra trong quá khứ; cho nên, một  
  8. 8 trong những đặc trưng cơ bản nhất thể hồi ký là tính xác thực của đối tượng miêu  tả  và tính trung thực của người hồi tưởng. Xét  ở  phương diện nghệ  thuật, một   trong những đặc trưng nổi bật nhất của thể hồi ký là cách kể  chuyện theo dòng  hồi tưởng, nhớ đến đâu kể đến đó và thường không sử dụng thủ pháp cốt truyện.  c. Ngôn ngữ hồi ký Ngôn ngữ trong hồi ký chủ yếu là ngôn ngữ trần thuật.  Do phản ánh hiện thực cuộc sống mang tính chân xác nên ngôn ngữ  hồi ký   đòi hỏi phải sáng sủa, ngắn gọn, súc tích, ít lời, không cầu kỳ.  Trong hồi ký, ngôn ngữ miêu tả cũng rất quan trọng, nó làm tái hiện vẻ đẹp  muôn màu của cuộc sống, song nó thường chú trọng nhất, quan tâm nhất đến cái   đẹp của chân lý, đạo đức.  Đến với tác phẩm hồi ký, chúng ta còn bắt gặp kiểu ngôn ngữ giàu cảm xúc  của nhà văn. Trong hồi ký, ta thấy có vai trò đặc biệt của cái tôi tác giả ­ một cái  tôi chứng kiến, một cái tôi giãi bày. 1.3. Tô Hoài và hồi ký 1.3.1. Con người và sự nghiệp sáng tác Tô Hoài (tên khai sinh: Nguyễn Sen; sinh ngày 27 tháng 9 năm 1920 ­ 6 tháng  7  năm  2014).  Qua hơn 75 năm lao động nghệ  thuật không mệt mỏi, nhà văn Tô  Hoài đã để  lại khối di sản khổng lồ  vơi h ́ ơn 200 tác phẩm thuộc nhiều thể loại  khác nhau.  1.3.2. Vị trí của hồi ký trong sáng tác của Tô Hoài Hơn nửa thế kỉ lao động nghệ thuật, Tô Hoài đã có những đóng góp rất quan   trọng cho nền văn học nước nhà. Ở  mảng sáng tác nào, ông cũng có những thành   công và tạo được dấu ấn riêng. Riêng ở thể hồi ký, ông cũng đã khẳng định được  tài năng và sức sáng tạo mãnh liệt của mình.  1.3.3. Đặc điểm hồi ký Tô Hoài Hồi ký là lối văn nói về chính cái tôi, nói về  bản thân tác giả. Song với Tô  Hoài, trong hồi ký còn rất nhiều cuộc đời.  Hồi ký Tô Hoài là cảm hứng hướng  ngoại, thể  hiện một cái tôi giản dị, tỉnh táo, điềm tĩnh. Hồi ký Tô Hoài giàu chất   “truyện” và chất “tiểu thuyết” trong kết cấu mạch lạc, rõ ràng, mang tính tự  sự,  trong giọng điệu “đa âm” và ngôn ngữ  chính xác, linh hoạt. Hồi ký Tô Hoài có sự  lựa chọn sự kiện trong cách kể chuyện khách quan, tỉnh táo và chân thực bằng một   giọng điệu dí dỏm, khôi hài pha chút bông đùa, mỉa mai tinh quái, nhưng cũng rất  nghiêm trang và thâm thúy. Ngôn ngữ trần thuật trong hồi ký của Tô Hoài là “ngôn  ngữ văn xuôi” ­ một thứ ngôn ngữ đa dạng, lắm cung bậc và nhiều sắc thái. Trong 
  9. 9 các tác phẩm hồi ký, Tô Hoài thiên về  tự  sự. Nhà văn trần thuật con người, sự  việc, hay xây dựng chân dung các nghệ sĩ theo hướng khách quan.  1.4. Tiểu kết chương 1 Qua nội dung trình bày trên, chúng tôi rút ra một số kết luận chính như sau: Dựa vào sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài, những ý kiến đánh giá của các nhà  nghiên cứu về tác phẩm của ông, chúng tôi chỉ ra trong sáng tác Tô Hoài hồi ký là  thể  loại sở  trường của tác giả, thể hiện tài năng tác giả  rõ nhất, vì thế  chúng tôi  lựa chọn hồi ký làm đối tượng nghiên cứu của luận án. Tô Hoài là một nhà văn hiện đại nổi tiếng, có khối lượng tác phẩm đồ  sộ.  Trong số  các tác phẩm  đó, có nhiều tác phẩm thuộc thể  loại hồi ký (viết về  chuyện đời, chuyện nghề của nhà văn) nổi bật, mang những dấu ấn riêng. Từ góc  độ  phê bình văn học, đã có nhiều học giả  có tên tuổi và những người quan tâm   khác công bố những kết quả nghiên cứu của mình về nghệ thuật sử dụng ngôn từ  của Tô Hoài trong các sáng tác văn xuôi nói chung và cả trong thể loại ký nói riêng.  Tuy vậy, đứng từ  góc độ  ngôn ngữ  học để  nghiên cứu thì chưa có công trình nào   nghiên cứu ngôn ngữ  trần thuật trong hồi ký Tô Hoài một cách đầy đủ  và hệ  thống.  Đã có những khảo sát, nghiên cứu bước đầu về  ngôn ngữ  trần thuật qua  hồi ký của Tô Hoài. Tuy nhiên, các công bố  đó có phạm vị  nghiên cứu còn hẹp,  dựa trên dung lượng tư liệu còn nhỏ. Xác định hướng tiếp cận ngôn ngữ  học, cụ  thể  là hướng nghiên cứu ngôn ngữ  đặc trưng cho thể  loại trong các sáng tạo văn  chương của một nhà văn là một hướng đi mới mẻ, dự  báo có tiềm năng đối với  việc việc khẳng định đặc điểm ngôn ngữ thể loại và phong cách ngôn ngữ của nhà  văn cho nên luận án chọn đề tài khảo sát ngôn ngữ  trần thuật, loại ngôn ngữ  tiêu  biểu của thể ký nói chung dựa vào 5 cuốn hồi ký của nhà văn Tô Hoài (viết từ năm  1944 đến năm 1999). Từ  chỗ  đưa ra quan niệm của các tác giả  về  ký và hồi ký chúng tôi thống  nhất hồi ký là sáng tác thuộc nhóm thể tài ký, kể về những sự việc có thực xảy ra  trong quá khứ mà tác giả tham dự hoặc chứng kiến.  Qua việc trình bày đặc điểm ngôn ngữ  ký và hồi ký, chúng tôi thấy: ngôn   ngữ  trong hồi ký chủ  yếu là ngôn ngữ  trần thuật. Do trần thuật người thật việc   thật nên tác phẩm hồi ký có giá trị cung cấp tri thúc về cuộc sống và có giá trị như  tư  liệu lịch sử. Do phản ánh hiện thực cuộc sống mang tính chính xác nên ngôn   ngữ  hồi ký đòi hỏi phải sáng sủa, ngắn gọn, súc tích, kết cấu rõ ràng. Tác phẩm  hồi ký còn có kiểu ngôn ngữ giàu cảm xúc của nhà văn, thể hiện vai trò cảu cái tôi   tác giả ­ cái tôi giãi bày.
  10. 10 Chỉ  ra cơ sở lý thuyết của đề  tài chúng tôi không những chỉ  ra lý thuyết về  hồi ký mà còn đưa ra lý thuyết về  ngôn ngữ trần thuật trong văn học nói chung và  trong  thể  loại hồi ký  nói riêng.  Ngôn ngữ  trần thuật là ngôn ngữ  của người kể  chuyện, kể  lại diễn biến của câu chuyện theo một cách thức nào đó. Ngôn ngữ  trần thuật trong tác phẩm văn học vừa là phương tiện biểu đạt nội dung vừa là sự  phản ánh ngôn ngữ  đời sống. Nó thể  hiện trí tuệ, sự  sáng tạo và cá tính của nhà  văn. Qua việc tìm hiểu ngôn ngữ  trần thuật, chúng ta có thể  tìm thấy dấu  ấn cá   nhân của từng nhà văn qua từng tác phẩm văn học.
  11. 11 Chương 2 TỪ NGỮ TRONG LỜI TRẦN THUẬT HỒI KÝ TÔ HOÀI 2.1. Từ trong ngôn ngữ và từ trong tác phẩm nghệ thuật 2.1.1. Từ trong ngôn ngữ Chúng tôi chọn định nghĩa của Đỗ Hữu Châu làm cơ sở để khảo sát từ trong   hồi ký Tô Hoài. 2.1.2. Từ trong tác phẩm nghệ thuật Từ  trong tác phẩm nghệ  thuật là từ  trong hoạt động (hành chức) và là một  dạng hành chức mang tính đặc trưng ­ nghệ thuật. Từ tồn tại trong hệ thống ngôn  ngữ   ở  trạng thái tĩnh, trừu tượng, còn từ  trong hành chức mang tính cụ  thể  và có  thể mang những sắc thái mới.  2.2. Từ ngữ trong lời văn trần thuật trong hồi ký Tô Hoài 2.2.1. Các lớp từ xét về mặt cấu tạo Chúng tôi đã khảo sát toàn bộ lời văn trần thuật trong 5 tác phẩm hồi ký của   Tô Hoài từ Cỏ dại đến Chiều chiều.  2.2.1.1. Từ đơn ­ Số lượng từ đơn là động từ chiếm tỉ lệ lớn trong hồi ký  Tô Hoài, có 236 từ  chiếm 27%.  Với 3906 lần xuất hiện. Thứ nhất, sự xuất hiện liên tiếp các từ đơn  chỉ  hành động (động từ) làm cho câu văn trần thuật chứa đựng nhiều thông tin.  Thứ hai, Tô Hoài cũng dùng nhiều động từ để vẽ chân dung của nhân vật một cách  sinh động. Thứ ba, các từ đơn là động từ đóng vai trò trung tâm ngữ nghĩa của câu  văn.  ­  Bên cạnh động từ, danh từ  là từ  đơn tiết chiếm tỉ  lệ  nhiều nhất 315 từ,  chiếm 36,1%.  Là hồi ký tác giả  trần thuật, miêu tả, những sự  kiện, đối tượng  xung quanh mình, gắn với mình,... nên sử dụng từ đơn danh từ nhiều. ­ Đặc biệt, khi khảo sát từ đơn trong hồi ký Tô Hoài, chúng tôi thấy trong hệ  thống từ  đơn là đại từ  thì từ  “tôi” có tần số  xuất hiện nhiều với 8353 lần. Điều  này chứng tỏ, người trần thuật trong hồi ký chính là nhà văn, xưng tôi (phù hợp   với đặc điểm thể loại hồi ký, vai người kể chuyện/ người trần thuật chính là tác  giả). ­ Khi khảo sát lời văn trần thuật (lời kể, câu kể), chúng tôi bắt gặp không ít   tình thái từ  như: ô,  ầy, ôi, quá, lắm,… có 342 lần xuất hiện. Chính điều này tạo  nên một kiểu ngôn ngữ giàu cảm xúc của người nghệ sĩ. Từ đó giúp chúng ta thấy  được vai trò đặc biệt của cái tôi tác giả ­ cái tôi giãi bày. Bên cạnh các từ đơn chủ  yếu là thuần Việt, chúng tôi còn gặp một một số 
  12. 12 từ  phiên âm (gốc Pháp) (Trong luận án này chúng tôi xếp là từ  đơn) được ông sử  dụng: cu li san, đốc tờ, ghi đông, coóc sê, xì líp, sa lông, sơ mi, xi măng, lắc lê, xúc   xích,  ,…Sự  xuất hiện của các từ  phiên âm trong hồi ký cũng giúp ông dựng lại   hiện thực xã hội Việt Nam những năm Pháp thuộc một cách chân thực. 2.2.1.2. Từ phức  a. Từ ghép ­ Về  số lượng, trong 5 tập hồi ký, Tô Hoài sử  dụng 1199 từ  ghép, trong đó   từ  ghép phân nghĩa 951 từ  chiếm tỉ  lệ  lớn 79,3%, từ  ghép hợp nghĩa có 248 từ,   chiếm tỉ lệ thấp hơn, chỉ 20,7%. Số lượng từ ghép phân nghĩa xuất hiện nhiều hơn   (18523 lần) điều đó cho thấy đối tượng được kể  trong hồi ký của Tô Hoài mang   tính cụ thể, tính biệt loại rõ ràng.  ­ Trong số  từ  ghép phân nghĩa Tô Hoài dùng, có nhiều từ  ghép mới xuất   hiện, thể hiện giai đoạn đất nước ta có những thay đổi ­ sau cải cách. Đó là những   từ ghép phân nghĩa sau: chơi chua, sở gốc, sở mới, phòng nhất, phòng nhì, lò may,   cụ nội, cụ ngoại, mờ chồng, sắc đọng, nhà bàn, nhà tàu, nhà buồng,… b. Từ láy ­ Về số lượng, trong hồi ký Tô Hoài có 1834 từ láy được sử dụng, với 9873   lần xuất hiện.  ­ Về cách sử dụng từ láy trong đoạn văn, Tô Hoài đã sử dụng từ láy với tần  số cao, có nhiều câu xuất hiện ba, bốn từ láy nhiều trang xuất hiện trên 10 từ láy.  Đặc biệt có nhiều từ láy được tác giả dùng nhiều lần như trong  Cát bụi chân ai,  các từ láy sau đây xuất hiện nhiều:  thỉnh thoảng (21 lần), lặng lẽ (13 lần), thong   thả (20 lần), v.v. ­ Về  nguồn gốc, bên cạnh những từ  láy toàn dân  quen thuộc, Tô Hoài còn  dùng những từ láy rất mới, lạ như: thả lã, bùm tum, lở tở, léng téng, lôm lam, nhịu   nhảm, nhấp nhem, mờ  mừ, nhua nhúa, lướp nhướp,... Chẳng hạn: (14) Các dì tôi  ngạc nhiên xiết bao, khi thấy tôi biết nhặt rau muống cọ nồi thổi cơm thạo  ve vé  [I, tr.91]. ­ Từ  láy trong hồi ký của Tô Hoài tập hợp thành trường nghĩa, được dùng  theo chủ đề, bối cảnh của câu chuyện: + Từ láy được dùng gắn với ngữ cảnh, miêu tả khung cảnh thiên nhiên:  + Dùng từ láy để miêu tả không gian + Dùng từ láy để tả ngoại hình nhân vật.  + Dùng các từ láy để miêu tả tâm trạng chính mình và tâm trạng nhân vật.  + Dùng từ láy để miêu tả cảnh sắc, âm thanh 
  13. 13 + Dùng từ láy để miêu tả hành động nhân vật 2.2.2. Các lớp từ xét về mặt phong cách 2.2.2.1. Lớp từ Hán Việt Nhà văn đã có những cách kết hợp từ  độc đáo, tạo nên những từ  Hán Việt  chuyên biệt: quân sự, kinh tế ­ chính trị, văn học trong các tác phẩm của ông. a. Lớp từ Hán Việt thuộc lĩnh vực văn học ­ liên quan đến nghề văn Số lượng từ Hán Việt thuộc lĩnh vực văn học ­ liên quan đến nghề văn được  sử  dụng tương đối nhiều trong tác phẩm hồi ký Tô Hoài, có 320 từ  với 1833 lần   xuất hiện. Đó là những từ như: tiểu thuyết (219 lần), văn học (110 lần), văn đoàn   (22 lần), tự truyện (25 lần), văn xuôi (13 lần), bản thảo (62 lần) ,... Những từ Hán  Việt thuộc loại này xuất hiện nhiều nhất trong hồi ký Những gương mặt, khi Tô  Hoài kể chuyện về các nhà văn, với 793 lần xuất hiện.   Đặc biệt, với Cỏ dại viết về tuổi thơ nên từ Hán ­ Việt chỉ nghề văn, thuộc  lĩnh vực văn học không xuất hiện trong tác phẩm. b. Lớp từ Hán Việt thuộc lĩnh vực quân sự Đó là những lớp từ  như: quân cảnh, thiết quân luật, chiến khu, quân dịch,   chiến sĩ, tiểu đoàn, cứ điểm, tiểu khu, võ trang,...; có 299 với 1405 lần xuất hiện.  c. Lớp từ Hán Việt thuộc lĩnh vực kinh tế ­ chính trị Đó là các từ: kinh doanh, hợp đồng, thương nhân, ngân sách, kế  toán, hợp   tác xã, xã viên,... cũng xuất hiện tương đối nhiều trong hồi ký, đặc biệt là ở hồi ký  Chiều chiều khi tác giả viết về thời kỳ đất nước bước vào thời ký đổi mới, thực   hiện cải cách ruộng đất,... 2.2.2.2. Lớp từ khẩu ngữ a. Số liệu thống kê Theo quan điểm của Cù Đình Tú về phân loại lớp từ khẩu ngữ [181, tr 133­ 137],  chúng tôi tiến hành khảo sát hồi ký Tô Hoài và đã thu được kết quả cụ thể,   từ các lời văn trần thuật có 1389  từ  khẩu ngữ với 9715 lần xuất hiện. b. Mô tả từ khẩu ngữ trong hồi kí Tô Hoài Qua bảng thống kê trên ta thấy Tô Hoài đã sử dụng từ ngữ khẩu ngữ với tần   số cao và bằng nhiều kiểu loại khác nhau: b1. Thêm yếu tố b2. Bớt yếu tố b3. Biến yếu tố b4. Dùng nguyên từ  khẩu ng ữ  ho ặc th ổ  ng ữ, trong  đó có những từ  như   tiếng lóng
  14. 14 c. Vai trò từ khẩu ngữ trong lời văn trần thuật trong hồi kí Tô Hoài Dùng từ khẩu ngữ để  nhẩn nha, thong thả tái hiện muôn mặt của đời sống  đầy biến động.  Dùng các từ  khẩu ngữ để  tạo nên giọng văn mộc mạc, gần gũi, chân thực,   đời thường, thôn quê.  Trong nhiều trường hợp, các từ  khẩu ngữ  trong câu văn Tô Hoài như  những   điểm nhấn làm cho lời văn kể chuyển mang hơi thở đời sống dân giã, gần gũi, sinh  động.  Xoá mờ khoảng cách ranh giới giữa người nổi tiếng với những người bình  thường, từ những chân dung văn học.  Sử dụng những từ ngữ giàu hơi thở đời sống để diễn đạt những khái niệm,  vấn đề, sự  việc phức tạp thành giản dị, dễ  hiểu, đồng thời, bày tỏ  thái độ, tình  cảm chân thành, sâu sắc. Chẳng hạn: (52) “Có lẽ  xưa nay văn nghệ  văn nghẽo   vẫn thế, bảo là cần thì cần lắm, mà là thường thì cũng thường thôi. Dong duổi đó  đây thích hơn” [I,tr.437]. Trong các tác phẩm hồi ký, Tô Hoài sử dụng từ ngữ địa phương không nhiều  nhưng cũng có vai trò, có tác dụng làm tinh tế hoá ý nghĩa, làm giàu thêm cho tiếng   nói dân tộc. Đọc hồi ký của Tô Hoài, người đọc có thể lập ra một trường từ vựng   của người Kẻ Bưởi, từ những danh từ gọi tên đồ  vật, sự vật đến những động từ,   tính từ  và cả  những lời nói của người dân Kẻ  Bưởi cũng được tác giả  trích dẫn  trực tiếp vào tác phẩm: xơi (ăn), ẵm (bồng), thầy u/anh chị  (bố  mẹ), đích (đúng),  mướn (thuê),...  2.2.3. Các trường từ vựng nổi bật trong Hồi ký Tô Hoài 2.2.3.1. Số liệu thống kê 2.2.3.2. Mô tả các trường từ vựng nổi bật trong hồi kí Tô Hoài a. Trường từ vựng chỉ màu sắc a1. Số liệu thống kê Trong các tác phẩm hồi ký của Tô Hoài,  bên cạnh  những lớp từ  chỉ  màu  quen thuộc, tác giả còn sáng tạo ra những từ ngữ chỉ màu sắc mới, góp phần làm  phong phú thêm từ  chỉ  màu sắc tiếng Việt như: xanh cứng, xanh mỡ, xanh eo éo,   vàng rượi, vàng nhờn, vàng nhòe, vàng ròn, trắng sương, trắng nhọt, màu đói, màu   đau gan, màu phong lưu, màu bệnh gan, màu sốt rét, màu ốm, màu say,… a2. Vai trò của lớp từ ngữ chỉ màu sắc trong hồi ký Tô Hoài ­  Vẽ  nên  bức  tranh  thiên nhiên  đa  dạng,  sinh  động, lung linh  mang hồn   người, tạo nên cảm xúc mạnh mẽ, khơi gợi trí tưởng tượng của người đọc. 
  15. 15 ­ Miêu tả, phản ánh hiện tượng, sự vật cụ thể. ­ Làm cho câu văn tươi mới đầy sắc thái. b. Trường từ vựng chỉ hoạt động b1. Số liệu thống kê Khảo sát 5 hồi ký của ông, chúng tôi thấy lớp từ  vận động có 25682 lần   xuất hiện; trong đó:  Cỏ  dại,  3425 lần;  Tự  truyện,  8017 lần;  Những gương mặt,  3225 lần; Cát bụi chân ai, 5534 lần; Chiều chiều, 5481 lần.  b2. Vai trò của trường từ vựng chỉ hoạt động trong Hồi ký Tô Hoài ­ Thế  giới được hồi tưởng là những sự  kiện, thời gian đáng nhớ  được nhà   văn chắt lọc và sắp xếp đầy dụng ý nghệ  thuật vì vậy mạch văn, mạch cảm xúc  của Tô Hoài cứ trôi theo với nhớ, còn nhớ, nhớ lại, kể, kể lại.  ­ Yếu tố đặc sắc thể hiện được phong cách và tài năng của Tô Hoài về khả  năng quan sát rất đặc biệt; khả năng ấy giúp nhà văn quan sát cặn kẽ đến mức bật  ra được nét đặc sắc của đối tượng, rồi từ đó, lựa chọn từng chi tiết cụ thể, chính  xác. Đây là thế mạnh trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả. ­ Khi đi vào khảo sát cụ thể lớp từ vận động trong hồi ký cuả ông, chúng tôi  nhận thấy, khi miêu tả  hành động nhân vật, Tô Hoài đã sử  dụng lớp từ  chỉ  hoạt  động có cấu tạo đa âm tiết. Ông thấy được giá trị của từ láy có khả năng gợi hình,   gợi cảm rất cao, nên nhà văn đã khai thác triệt để khả năng này của từ láy làm định  ngữ, bổ ngữ cho động từ trung tâm.  c. Trường từ vựng chỉ thời gian c1. Số liệu thống kê Lớp từ chỉ thời gian trong hồi ký Tô Hoài rất đa dạng (chỉ thời gian cụ thể,  thời gian ước lượng ­ không cụ thể, thời gian quá khứ, thời gian hiện tại,...) nhưng  với đặc điểm của hồi ký là hồi tưởng, hoài niệm về thời gian đã qua  mà tác giả là  người kể  lại, viết lại nên lớp từ  ngữ  chỉ  thời gian quá khứ  (ngày trước, ngày  ấu   thơ, ngày xưa, một hồi, thuở  nhỏ, dạo  ấy ,  lúc nãy, năm ngoái, mọi khi,...)  xuất  hiện nhiều nhất, với 1723 lần, tiếp đó là lớp từ ngữ chỉ thời gian gắn với sự kiện   xuất hiện 982 lần; dạng như: Cái hồi Trúc Đường thôi dạy học  ở  Hà Đông;Cái   năm đi chiến dịch Tây Bắc 1952; Năm 1946, hơn hai mươi năm trước khi tôi làm   phóng viên báo vào mặt trận nam Trung Bộ,...   Khi viết về  thời gian, thời điểm  trong ngày như  sáng, trưa, chiều,  tối thì tác giả  hay nói về  thời gian buổi tối và  buổi chiều; từ nhớ xuất hiện 547 lần, kể xuất hiện 377 lần, đặc biệt, từ viết xuất  hiện 843 lần. Còn lại, là các từ  chỉ  thời gian khác xuất hiện trong tác phẩm như  thời gian cụ  thể  (chủ  nhật, ba tháng, năm 1954, ba giờ  sáng,...),  thời gian  ước 
  16. 16 lượng (nhiều năm, những ngày, mấy tháng,...),...  c2. Vai trò của lớp từ ngữ chỉ thời gian trong hồi ký Tô Hoài ­ Lớp từ chỉ thời gian quá khứ: Phản ánh đúng đặc điểm thể loại hồi ký: hồi  cố, hồi tưởng, nói về những sự việc, hiện tượng đã qua. ­ Lớp từ chỉ đêm tối: Phản ánh số phận éo le của con người thời kỳ đó, đồng   thời bộc lộ nội tâm, tâm trạng nhà văn/thời gian của sự chiêm nghiệm. ­ Thời gian hồi tưởng: Phản ánh đúng đặc điểm thể loại hồi ký: hồi cố, hồi   tưởng, nói về những sự việc, hiện tượng đã qua. ­ Thời gian đồng hiện:nhằm đi đến tận cùng, đánh thức và làm sống dậy  những kí ức, hoài niệm quá khứ trong vai trò người kể chuyện. 2.3. Những sáng tạo trong cách sử dụng từ ngữ Tìm hiểu hồi ký Tô Hoài, chúng tôi không những thấy nhà văn có một vốn từ  phong phú, sâu rộng, sử dụng linh hoạt, tài tình chất liệu ngôn ngữ của dân tộc để  miêu tả, kể  lại, hồi cố những gì mình đã trải qua, những điều mắt thấy tai nghe,  mà còn thấy được sự  sáng tạo, sự  phá cách của ông trong sử  dụng từ  ngữ. Có  nhiều từ ngữ, tác giả sáng tạo bằng cách kết hợp, tách, hoặc do chính tác giả nghĩ   ra (tuy nhiên sự sáng tạo của tác giả cũng theo quy luật cấu tạo của từ tiếng Việt)   để  chuyển tải nội dung sự  việc, hiện tượng mình muốn nói một cách hiệu quả  nhất.  ­ Kết hợp 1 yếu tố của từ đa tiết này với 1 yếu tố của từ đa tiết kia để tạo   thành từ mới: nhẵn trơn (nhẵn thĩ + trơn tru), ẩm nhớp (ẩm thấp + nhớp nháp), sợ   run (sợ sệt + run rẩy),...; nghĩa của chúng chính là nghĩa tổng hợp của hai yếu tố  gốc trong các từ đa tiết.  Ngoài ra Tô Hoài còn kết hợp hai yếu tố đơn có nghĩa, vốn có thể dùng độc  lập để  tạo thành đơn vị  mới theo dạng ghép như:  vui thương, viết khuya,  trắng   sương, trắng bột, nhớ  mới, nhớ  vui, sắc đọng, ... Điều này cho thấy đề  tài phản  ánh và đối tượng giao tiếp có tác dụng chi phối đối với từ vựng của nhà văn.  ­ Tách một từ đa tiết ra thành hai từ hoặc lược bỏ một yếu tố của từ đa tiết   thành từ đơn tiết: hình ­ bóng (hình bóng), ưa ­ thích (ưa thích), gà ­ vịt (gà vịt), lăn  ­ chuyển (lăn chuyển),… Việc tách các từ tạo nên sự đăng đối của câu văn, tạo nên   chất thơ cho câu văn. ­ Lược bỏ một từ tố trong từ ghép: hiện (xuất hiện), biến (biến mất), hậu  (hậu đãi), chững (chững chạc), kiết (túng kiết), tươm (tươm tất),...; những từ này  thường là từ ghép đẳng lập, 2 yếu tố của từ đều có nghĩa riêng, khi kết hợp lại thì  chúng có nghĩa tổng hợp. Ở đây, tác giả tách ra tạo cách nói khẩu ngữ gợi nên sự  gần gũi, suồng sã trong cách kể chuyện, đồng thời, tạo giá trị cao trong chuyển tải  
  17. 17 nội dung sự vật, hiện tượng được nói đến.  ­ Dùng từ chỉ loại (danh từ chỉ đơn vị): Trong hồi ký, việc sử  dụng danh từ  chỉ loại của Tô Hoài cũng có điểm đặc biệt. Một số cấu trúc từ ngữ tác giả không   đi theo cái thông thường mà kết hợp theo cách của mình như:  cục chữ, hạt chữ,   món chữ, cái núi, miếng sống, miếng nghề, chiếc mặt trời, lò may,…  + Có những cụm từ do ông sáng tạo nên như:  gầy phờ người, sợ cúp hai tai,  chạy nháo đèn cù, rét cóng cá,…  + Tách, xen, thêm, bớt, thay đổi một số  yếu tố  trong cụm từ  (thành ngữ,  quán ngữ) trở  thành cách nói, cách dùng của Tô Hoài như:  cành cao lá dài  (cành  vàng lá ngọc), mọc như  cua bò (mọc như nấm), búng ra sái thuốc phiện (búng ra  sữa), tôi ngồi đáy giếng (ếch ngồi đáy giếng),...  + Khi nói về  thời thời gian, tác giả  cũng có cách nói riêng của mình: thuở  thiếu niên, từ khi tôi bé, ngày cũ, xưa sau, lần xưa, ngày lớn, thuở trẻ, thời cũ,...  2.4. Tiểu kết chương 2 Qua khảo sát, thống kê, phân loại, phân tích – miêu tả  các lớp từ  ngữ  trong  lời trần thuật hồi ký Tô Hoài chúng tôi chỉ ra được: Lời văn kể chuyện trong hồi ký có sự tham gia tích cực của lớp từ  khẩu ngữ,  lớp từ Hán ­ Việt, lớp từ chỉ màu sắc, lớp từ  chỉ vận động, lớp từ  chỉ  thời gian, từ  đơn, từ  ghép, từ  láy. Mỗi lớp từ, qua cách sử  dụng của Tô Hoài đều phát huy hiệu  quả cao nhất.  Trong hệ  thống từ  đơn thì từ  đơn là động từ  xuất hiện nhiều nhất. Chính  những từ  này làm cho lời văn kể  chuyện trong hồi ký chắc nịch, góc cạnh và sâu   sắc. Từ tình thái và đại từ xưng hô “tôi” xuất hiệu với tần số cao trong hồi ký thể  hiện đặc trưng của thể loại hồi ký: cái tôi tâm sự ­ cái tôi giãi bày.  Lớp từ láy được sử dụng dày đặc trong các câu văn. Có những câu văn trong  hồi ký xuất hiện bốn, năm từ láy. Tô Hoài rất có ý thức dùng các từ láy để làm cho  câu văn trần thuật giàu hơi thở đời sống, gợi hình gợi cảm.  Lớp từ ghép, đặc biệt là những từ ghép mới cũng là những điểm nhấn trong   câu văn trần thuật của Tô Hoài.  Từ  ghép phân nghĩa chiếm số  lượng nhiều hơn  làm cho câu văn trần thuật mang tính cá thể, cụ  thể. Sự  xuất hiện từ  ghép mới   khẳng định đóng của Tô Hoài đối với sự phát triển từ vựng tiếng Việt thế kỷ XX. Nếu lớp từ  Hán ­ Việt giúp chuyển tải nội dung một cách chính xác và   khách quan nhất thì lớp từ  khấu ngữ  làm cho câu văn trần thuật giàu hơi thở  đời  sống, gần gũi và chân thật Nổi bật trong hồi ký Tô Hoài là sự  xuất hiện dày đặc của các lớp từ  thuộc   trường từ  vựng chỉ  màu sắc, trường từ  vựng chỉ  sự  vận động và trường từ  vựng 
  18. 18 chỉ thời gian. Cách dùng các từ ngữ theo các trường này đã mang lại hiệu quả nghệ  thuật đặc sắc. Lớp từ chỉ màu sắc, chỉ vận động đã góp phần miêu tả, đánh giá sự  vật, hiện tượng một cách rõ nét, chính xác và khách quan, thể  hiện con mắt quan   sát tài tình và sắc sảo của Tô Hoài. Lớp từ  chỉ  thời gian chính là dòng hồi tưởng,  hoài niệm của tác giả về những chuyện đã qua của chính bản thân mình, gia đình,   bè bạn hay lịch sử  đấu tranh và xây dựng đất nước,… đồng thời lớp từ  này làm  nổi bật đặc trưng thể  loại hồi ký chính là hồi tưởng.  Lớp từ  chỉ  sự  vận động  không chỉ  lột tả  được cuộc sống sinh hoạt, lao động mà còn cho người đọc thấy   được bản chất, tâm trạng, thái độ của nhân vật trong hồi ký. Đồng thời thấy được  cách miêu tả của tác giả chú trọng nhiều vào hoạt động, hành động nhân vật, phản   ánh hiện thực sinh động. Như  vậy, chính nội dung trần thuật phong phú, đa dạng nên bắt buộc Tô  Hoài sử dụng hết sức đa dạng, linh hoạt các lớp từ tiếng Việt kể cả mặt cấu tạo,   kể cả mặt phong cách. Đặc biệt là nhà văn dựa vào mô hình cấu tạo từ tiếng Việt   để  tạo ra những từ  của mình để  diễn tả  hoặc bổ  sung về  sắc thái ý nghĩa, hoặc   diễn tả sắc thái biểu cảm (thái độ  của nhà văn). Cách dùng từ của Tô Hoài nó sẽ  chi phối kiểu  cấu tạo  câu văn của ông. Bởi vì, sang tới chương 3, khi chúng tôi   khảo sát câu trong lời trần thuật hồi ký Tô Hoài, chúng tôi thấy câu văn của ông   hết sức đa dạng, độc đáo, linh hoạt, uyển chuyển. Tùy theo nội dung và mục đích  trần thuật mà Tô Hoài dùng câu đơn hay câu ghép, câu ngắn hay câu dài, câu bình  thường hay câu đặc biệt,... Để rõ hơn về câu, vai trò và đặc điểm c ủa câu trong lời  trần thuật hồi ký Tô Hoài chúng tôi triển khai tìm hiểu, phân tích, đánh giá  ở  chương 3 của luận án.
  19. 19 Chương 3 CÂU TRONG LỜI TRẦN THUẬT HỒI KÝ TÔ HOÀI 3.1. Câu trong ngôn ngữ và câu trong văn bản nghệ thuật 3.1.1. Câu trong ngôn ngữ Câu trong ngôn ngữ được quan niệm như là một đơn vị hằng thể, là mô hình  khái quát có tính trìu tượng.  3.1.2. Câu trong văn bản nghệ thuật Câu trong hoạt động hành chức là những phát ngôn cụ thể gắn với ngữ cảnh  và phong cách. Câu trong hoạt động được xem như là mặt biến thể, biểu hiện của   câu trong ngôn ngữ  (mặt hằng thể). Câu trong văn bản nghệ  thuật là câu trong  hành chức (hoạt động), một dạng hành chức đặc thù mang tính nghệ thuật. 3.1.2.1. Nhân tố chi phối a. Tác giả:  b. Ngữ cảnh, chu cảnh  3.1.2.2. Đặc điểm câu trong văn bản nghệ thuật a. Thường đa dạng các kiểu câu, đa dạng về cấu tạo, và đa dạng về các loại  câu tình thái;  b. Văn bản nghệ  thuật dung nạp nhiều câu “chệch chuẩn” khác với câu  trong ngôn ngữ do phép tách câu;  c. Trật tự thành phần câu có sự thay đổi linh hoạt;  d. Nội dung ngữ  nghĩa của câu phụ  thuộc vào các câu trước, sau nó và phụ  thuộc vào nội dung toàn văn bản. 3.2. Câu trong hồi ký Tô Hoài xét về cấu tạo 3.2.1. Số liệu thống kê Về  cấu tạo, câu văn tác giả  chủ  yếu là câu  đơn, có 19.946 câu (chiếm   85,7%). Câu ghép chiếm số lượng ít hơn, chỉ có 3.261 câu (chiếm 14,3 %).. 3.2.2. Câu đơn trong hồi ký Tô Hoài 3.2.2.1. Số liệu thống kê 3.2.2.2. Câu đơn bình thường a. Nhận xét chung Có thể nói, câu đơn bình thường là loại câu có tần số xuất hiện rất cao trong   hồi ký Tô Hoài chiếm tỷ lệ 81,5% trong tổng số câu đơn.  b. Các kiểu câu đơn bình thường trong hồi kí Tô Hoài
  20. 20 b1. Câu đơn bình thường chỉ có một nòng cốt C ­ V Đây là loại câu chỉ  có một chủ  ngữ  và một vị  ngữ, không có thêm bất kỳ  một thành phần phụ nào. Kiểu câu đơn này trong hồi ký Tô Hoài có 8137 câu. Đặc  điểm nổi bật của kiểu câu này là có đủ  các thành phần nhưng nội dung lại rất   ngắn gọn; đó là, những thông báo rõ ràng, những diễn tả  súc tích mà dễ  hiểu.   Trong hồi ký Tô Hoài, kiểu câu này thường chủ  ngữ  đứng trước vị  ngữ; nhưng   cũng có khá nhiều trường hợp Tô Hoài biến đổi câu bằng cách chuyển đổi vị  trí  chủ  ngữ ­ vị ngữ (96 câu). Khi đảo vị  ngữ  lên trước chủ  ngữ, nội dung thông báo  của câu được nhấn mạnh, gây sự chú ý cho người đọc. Ví dụ: (163) “Đi guốc mộc   và mặc bộ  đại cán ra đường và đã đứng tuổi // chỉ  có Trần Đức Thảo và bác sĩ  Phạm Ngọc Thạch” [II, tr.161].  b2. Câu đơn bình thường có các thành phần chủ  ngữ, vị  ngữ, bổ  ngữ, định   ngữ được mở rộng thành c ­ v Trong các kiểu câu có các thành phần mở rộng (tức là một thành phần câu có   kết câu c ­ v), Tô Hoài chủ yếu sử dụng những câu có thành phần bổ ngữ mở rộng   (có1373 câu). Kiểu câu này nhằm bổ sung ý nghĩa cho động từ, miêu tả rõ hơn các   hành động của nhân vật. Câu ngắn nhưng lại đủ ý cần diễn đạt. Điều này phù hợp  với câu trần thuật (dùng để kể chuyện) trong ký, làm cho người đọc dễ hiểu và dễ  tiếp nhận. Nhìn chung, các câu đơn có các thành phần mở rộng thường tương đối  dài. Sử dụng kiểu câu này, ngoài việc miêu tả, trần thuật sự việc, sự tình, nhà văn   còn thể hiện những bình luận, đánh giá và bộc lộ thái độ của mình. b3. Câu đơn có các thành phần phụ  Kiểu câu này được Tô Hoài sử dụng khá nhiều trong các tác phẩm hồi ký. Dĩ  nhiên, khi câu có thành phần phụ  thì sẽ  làm cho nội dung thông tin của câu được  bổ  sung, mở  rộng; lượng thông tin của câu nhiều hơn, phong phú và sinh động  hơn.  Trong hồi ký Tô Hoài, câu đơn có thành phần phụ  trạng ngữ  chỉ  thời gian   chiếm số lượng lớn nhất, gồm 1541 câu (chiếm 47,2 %).  3.2.2.3. Câu đơn đặc biệt  a. Số liệu thống kê b. Đặc điểm câu đơn đặc biệt trong hồi kí của Tô Hoài ­ Về cấu tạo, câu đơn đặc biệt của Tô Hoài có các dạng sau:  + Câu đơn đặc biệt chỉ có một từ; chẳng hạn: (205) “Báo động” [I, tr.632];  +  Câu   đơn  đặc   biệt   gồm  một  cụm  từ;  chẳng  hạn:  Cụm  danh  từ:  (206)   “Những năm tháng ấy” [I, tr.529]; Cụm động từ: (207) “Vẫn chưa hết tầm phơ” [I,   tr.645]; Cụm tính từ: (208) “Nhốn nháo bấn lên” [II, tr.315];  ­ Về vai trò trần thuật, tuy xuất hiện không nhiều nhưng loại câu này hướng 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1