THỰC HIỆN MỤC TIÊU GIÁO DỤC THẨM MỸ TRONG NHÀ TRƢỜNG PHỔ THÔNG Khảo sát chủ yếu ở bậc tiểu học tại địa bàn TP Hồ Chí Minh và 4 tỉnh, thành Đồng Nai, Bình Dƣơng, Lâm Đồng, Đà Nẵng
TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC do Trƣờng Đại học Sƣ phạm TP Hồ Chí Minh quản lý Chủ nhiệm đề tài: Tiến sĩ Lâm Vinh
TP Hồ Chí Minh 1999 - 2000
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
THỰC HIỆN MỤC TIÊU GIÁO DỤC THẨM MỸ
TRONG VIỆC GIẢNG DẠY CÁC BÔ MÔN NGHỆ THUẬT
Ở NHÀ TRƢỜNG PHỔ THÔNG
: Trƣờng Đại học Sƣ Phạm TP Hồ Chí Minh : Liên ngành khoa học cơ bản (mỹ học, nghệ thuật học) và khoa học
giáo dục.
: PTS Lâm Vinh - Bộ môn Mỹ học - Nghệ thuật học Khoa Ngữ văn,
ĐHSP.TP.HCM. : Ông Võ Văn Nam Giảng viên khoa tâm lý - giáo dục ĐHSP - TP.HCM. Bà Nguyễn Hoa Mai Trƣởng phòng Phổ thông Tiểu học, Sở GDĐT-TP.HCM Các cán bộ quản lý giáo dục Tiểu học thuộc các sở giáo dục Đồng
Nai, Bình Dƣơng, Lâm Đồng, Đà Nẵng.
: PGS.PTS, nhạc sĩ Thế Bảo Họa sĩ, nhà phê bình mỹ thuật Trịnh Cung
Cơ quan chủ quản Loại đề tài Chủ nhiệm đề tài Thành viên cộng tác Cố vấn chuyên môn
Nội dung cơ bản của đề tài: 1. Nghiên cứu lý thuyết về mục liêu giáo dục thẩm mỹ qua giảng dạy nghệ thuật. 2. Điều tra, miêu tả tình hình dạy và học các môn nghệ thuật ở nhà trƣờng phổ thông
(chủ yếu ở bậc tiểu học) :
- Về lình hình thực hiện việc giảng dạy các mồn đã đƣợc qui định (nhạc, hát, mỹ
thuật, kỹ thuật).
- Về tình hình đội ngũ giáo viên (số lƣợng, chất lƣợng, chuyên trách, kiêm nhiệm
nhiều môn)
1
- Những sáng kiến của địa phƣơng nhằm giải quyết khó khăn về thực hiện chƣơng
trình, về chuẩn bị đội ngũ .... để nhằm đảm bảo giáo dục toàn diện - Những đề xuất về chƣơng trình, giáo khoa, đào tạo bồi dƣỡng giáo viên, và về khoa
học giáo dục nói chung.
Qua các hình thức điều tra - thống kê cơ bản, tọa đàm, tham quan, dự giờ để thực hiện
những yêu cầu nội dung trên.
Địa bàn thực hiện: TP. Hồ Chí Minh (địa bàn chính), và một số tỉnh miền Nam
(Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Dƣơng, Đà Nẵng).
Thời gian thực hiện: Từ tháng 4.1998 đến tháng 4.1999 (1 năm)
Từ tháng 4.98: triển khai tại TP.HCM
Từ tháng 12.98: triển khai tại các tỉnh
Theo dự kiến ban đầu, đề tài nhằm đối tƣợng cả ba cấp học trƣờng phổ thông và thực
hiện những bƣớc khảo sát đầy đủ ở địa bàn 4 tỉnh thành, về sau do điều kiện, phƣơng tiện và
nhân lực không đáp ứng đƣợc, nên có điều chỉnh: trọng tâm nghiên cứu ở bậc tiểu học và lấy
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh làm trọng điểm, đồng thời cố gắng mở rộng ở một số mặt tại
4 tỉnh: Đồng Nai, Bình Dƣơng, Lâm Đồng, TP Đà Nẵng. Quá trình tập hợp tƣ liệu ở diện
rộng và phức tạp và những hạn chế chủ quan của ngƣời nghiên cứu đã kéo dài việc tổng kết
đề tài này
Mục tiêu của đề tài đã đƣợc đề ra từ đầu gồm hai phần: Những quan điểm lý thuyết và
khảo sát thực tế. Đó cũng là bố cục của bản Tổng kết này.
PHẦN 1: NHỮNG QUAN ĐIỂM LÝ THUYẾT
Một quan niệm giáo dục toàn diện trong nhà trƣờng phổ thông đƣợc qui tụ trong một công thức mang tính truyền thống và cổ điển, đó là trí dục, đức dục, thể dục và mỹ dục. Không biết từ bao giờ và ai đã phát minh ra công thức đó, với một nội dung hoàn chỉnh, một cấu trúc hữu cơ, chặt chẽ, liên hoàn, đẹp nhƣ một bộ tranh tứ bình về cảnh tứ thời (xuân, hạ, thu, đông), tứ hữu (mai, lan, cúc, trúc), khó cắt rời, khó thêm bớt. Hoàn chỉnh, vì nó phản ánh đƣợc cả ba loại hình giá trị chân, thiện, mỹ, thêm vào thể dục - hội đủ mục tiêu giáo dục ngƣời học sinh toàn diện. Hữu cơ, chặt chẽ vì trong mỗi mặt của giáo dục phải có cả ba mặt kia, chúng đều "có trong nhau": trong trí dục phải bao hàm cả đức dục. mỹ dục, và cả giáo dục thể chất. Đức dục phải thấm nhuần trong nội dung cả ba mặt kia...Liên hoàn. vì nó phản ánh trình tự líu tiên của từng mặt đối với chức năng của trƣờng phổ thông: dạy văn hóa, giáo dục đạo đức, rèn luyện thể chất và giáo dục thẩm mỹ. Mỹ dục, đứng ở cuối bảng, nhƣ là nét vẽ cuối cùng tạo nên sự toàn mỹ của bức tranh giáo dục, cũng là tạo nên sự hoàn thiện của phẩm chất con ngƣời.
Giáo dục con ngƣời phát triển toàn diện vừa là một mục tiêu của giáo dục, vừa là một ƣớc mong, nguyện vọng của con ngƣời và của xã hội. Nhƣng mục tiêu giáo dục toàn diện lại là một phạm trù có tính biện chứng - lịch sử, không phải nhất thành bất biến. Mỗi dân lộc, mỗi giai cấp, mỗi thời đại có thể có những yêu cầu khác nhau về giáo dục toàn diện. Trong thực hành cụ thể, nội dung, mức độ bƣớc đi của giáo dục toàn diện cũnng khác nhau, tùy theo điều kiện của nền kinh tế, cơ sở vật chất, tùy theo hoàn cảnh chiến tranh hay hòa bình. Tuy nhiên, bất kì một nền giáo dục chân chính nào cũng phải nhằm đào tạo con người vươn tới sự hài hòa của ba giá trị chân, thiện, mỹ (giáo dục trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ). Kinh nghiệm lịch sử và thực tiễn đời sống đã cho thấy, một nơi nào, một cộng đồng nào, một con ngƣời nào, khi không quan tâm một trong ba mặt đó, sẽ đƣa đến tình trạng mất cân bằng, thậm chí méo mó, hụt hẫng. Vì vậy, ngƣời ta phải thƣờng xuyên điều chỉnh tạo thế cân bằng mới cho những trồi sụt, giao động giữa ba loại giá trị đó. Và trong giáo dục học đuờng, việc đó càng thể hiện rõ hơn. Vài năm gần đây, Bộ giáo dục - đào tạo qui dinh phải dạy đủ 9 môn ở bậc tiểu học, trong đó có nhạc, họa, kĩ thuật, đó là sự điều chỉnh. Vừa qua Bộ trƣởng, lại nhấn mạnh "phải giáo dục, rèn luyện nhiều mặt khác ngoài học tập văn hóa" đối với học sinh tiểu học (Báo Tuổi trẻ 17/3/1998). Đó cũng là một sự điều chỉnh để tạo nên sự cân bằng hài hòa của những phẩm chất - giá trị cần có đối với thế hệ học sinh nhỏ tuổi.
Trí, đức, thể, mỹ là bốn phạm trù, bốn bình diện của tri thức và kĩ năng phải đạt đƣợc, không phải là bốn môn học. Nhƣng để thực hiện đuợc bốn mặt đó có những môn học cụ thể. Trong nhà trƣờng phổ thông, các môn "văn hóa" (toán, văn,
2
khoa học, sử, địa...) thực hiện chủ yếu mục tiêu trí dục, các môn nghệ thuật (hát - nhạc, mỹ thuật, kỹ thuật) thực hiện chủ yếu mục tiêu mỹ dục. Trong hệ thống các môn học ở tiểu học và trung học cơ sở (cấp I và cấp II), các môn "văn hóa" và nghệ thuật đều là chính khóa, kiến tạo một mặt bằng tri thức và kĩ năng rộng rãi, đa dạng giúp cho tuổi nhỏ có một hành trang đủ vƣợt qua tuổi vị thành niên đi vào hƣớng nghiệp, đi vào cuộc sống. Vì vậy, âm nhạc và hội họa tuy là môn thứ yếu nhƣng với tuổi nhỏ, vẫn là môn cơ bản hình thành con ngƣời toàn diện.
Hát - nhạc, mỹ thuật, kĩ thuật cùng với văn chƣơng không bao gồm toàn bộ nội dung mỹ dục nhƣng đóng vai trò nòng cốt thực hiện mục tiêu mỹ dục. Những môn "văn hóa" thiên về giáo dục trí tuệ, nâng cao hiểu biết, những môn về nghệ thuật thiên về giáo dục tình cảm, nâng cao tâm hồn. Qua nhạc, múa, vẽ, nặn, thêu thùa, đan lát, các em tiếp xúc với cái đẹp, với âm thanh và màu sắc trong nghệ thuật, trong cuộc sống, trong thiên nhiên, rèn luyện cảm xúc và óc tƣởng tƣợng, rèn luyện giác quan và sự linh nhạy, khéo léo để đi vào lao động và giao tiếp xã hội. Không phải âm nhạc và hội họa chỉ có vai trò mỹ dục, giáo dục tình cảm, nó còn góp phần rèn luyện trí lực, bồi dƣỡng trí thông minh, sáng tạo. Không có ranh giới tuyệt đối giữa khoa học và nghệ thuật. Nhà bác học Anhxtanh đã có lần phát biểu rằng Đôtxtôiepxki dã đem lại cho ông " nhiều hiểu biết hơn bất cứ một nhà khoa học nào, kể cả Gauss" ngƣời vốn đƣợc mệnh danh là "ông vua của toán học".
Điều ai cũng biết, sau khi thoái khỏi nền giáo dục giáo điều thời trung cổ, các quốc gia đi vào nền giáo dục mới, đã mở rộng mọi tầm nhìn thế giới cho con ngƣời. Ở nhiều nƣớc, âm nhạc và hội họa đƣợc dạy từ mẫu giáo đến hết cấp 3. Và không chỉ có âm nhạc, cả múa và các nghệ thuật khác, trong nội và ngoại khóa, cùng với văn chƣơng, trở thành một chƣơng trình mỹ dục hoàn chỉnh. Các sách giáo khoa văn học có in kèm các bức danh họa và học sinh phải làm bài tập phân tích tranh. Trong các bảo tàng mỹ thuật, ngƣời ta thƣờng gặp thầy cô giáo dắt từng tốp học sinh đi xem tranh, tƣợng và các em luôn phải trả lời những câu hỏi của thầy cô về các tác phẩm, về các nhà danh họa. Tại Nhật Bản, học sinh đƣợc học vẽ và học cách chọn màu theo phong cách dân tộc. Tại Trung Quốc, học sinh đƣợc học thứ kí âm phổ cập bằng con số nên đã tự ghi nhạc và xƣớng âm dễ dàng. Trƣờng Đại học sƣ phạm của một tỉnh nhƣ Quảng Tây (lại Quế Lâm) có một khoa Nghệ thuật rất qui mô, chuyên đào tạo giáo viên âm nhạc và mỹ thuật.
Ở nƣớc ta, ngay trƣớc năm 1945, tuy nền giáo dục bị thực dân thao túng, nhƣng vì phải dựa theo chƣơng trình có sẵn từ chính quốc - một nƣớc phát triển, nên bậc tiểu học, trung học cơ sở đã dạy các môn nghệ thuật. Lớp ngƣời lớn tuổi hiện nay đã trải qua các nhà trƣờng thời đó vẫn chƣa quên những môn học này, cùng với những bài "quốc văn giáo khoa thƣ" có tác dụng mỹ cảm nhƣ thế nào ở tuổi thơ ấu của mình.
Trải qua nửa thế kỉ của nền giáo dục, phần vì chiến tranh, phần vì sự tác động của
những quan niệm phiến diện, biệt lập về mục tiêu giáo dục, làm cho vai
3
trò của các môn nghệ thuật và hoạt động mỹ dục chịu cảnh "có cũng không", vất vƣởng, thăng trầm.
Vì đất nƣớc nghèo, không mở đƣợc trƣờng lớp, không có tiền trả lƣơng thầy giáo, điều đó đúng. Nhƣng vì đất nƣớc nghèo, không dạy hát dạy vẽ đuợc trong nhà trƣờng liều học, trong khi các môn khác vẫn dạy đuợc, điều đó lài khó thuyết phục.
Còn do chiến tranh ? Trong hoàn cảnh chiến đấu, vẫn có "tiếng hát át tiếng bom". Học sinh đi học làm đƣợc những chiêc mũ rơm rất đẹp đế đội đầu che mảnh đạn, đào hầm đắp ụ đủ kiểu, sao không thể học hát, lập vẽ, tập nặn đất sét, làm thủ công?
Hơn hai mƣơi năm sau ngày chấm dứt chiến tranh, công cuộc đổi mới đã trải qua mấy năm, vậy mà bậc trung học cơ sở vẫn chƣa có chƣơng trình và sách giáo khoa chính thức cho môn nhạc, họa, chỉ mới có chƣơng trình thử nghiệm.
Hội nghị chuyên đề về đào tạo giảo viên nhạc họa do Bộ triệu lập năm 1995 đã đề ra chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2000 sẽ có 8000 giáo viên nghệ thuật cho cấp Il. Nhửng tính đến đầu năm 1998, cả nƣớc chỉ mới có khoảng một ngàn giáo viên nhạc họa cho tổng số mấy vạn nƣờng cấp I, II. Nếu tính cả hai cấp học, cả nƣớc còn thiếu 3- 4 vạn, hiện nay "có tỉnh, thị xã hầu nhƣ vẫn vắng bóng" giáo viên nhạc họa (Giáo dục và Thời Đại, ngày 22/3/1998)
Năm 1993, khi Bộ đề ra dạy đủ các môn nghệ thuật cho bậc tiểu học, thì ngoảnh lại không có giáo viên chuyên nghiệp, thầy cô liều học không đuợc đào tạo cũng phải "dạy ép" các môn này cho đủ 9 môn, hoặc cho học sinh mang bài về nhà làm, và điểm môn học sẽ không còn là điểm của học sinh.
Cuộc trao đổi ý kiến trên báo Tuổi trẻ hồi thƣợng tuần tháng 3-1998 về tình trạng học nặng các môn văn hóa, tạo nên sự đồng tình rộng rãi và nhanh chóng, là một chứng minh rõ rệt kết quả của nhiều năm thực hiện mục tiêu giáo dục một cách phiến diện. Đó mới là việc của cấp I, cấp II, chƣa nói mỹ dục còn phải tiến hành suốt lừ mẫu giáo lên đại học, còn là câu chuyện dài hơn nữa. Qua các cuộc thi tìm hiểu về âm nhạc vừa qua lại Thành phố Hồ Chí Minh dành cho sinh viên, học sinh, ngƣời xem đã chứng kiến có các đội mà đại đa số thành viên không biết kí xƣớng âm, vì trƣớc đây ở phổ thông chƣa từng đuợc học qua. Trên giảng đƣờng khi thầy giáo hỏi, đại đa số sinh viên không biết Tô Ngọc Vân là ai, Môna Lida là tác phẩm gì, của ai, họ gọi nhầm đàn nguyệt là đàn tranh, và không biết thành phố này có một Bảo làng Mỹ thuật.
Nhƣng hậu quả không chỉ đến đó. Một chuyện "thâm cung bí sử" đăng trên tuổi trẻ số ra ngày 30-10-1997: 90% ca sĩ hoàn toàn không biết nhạc lý, kí xƣớng âm, chỉ học truyền miệng. Khi cần thu băng, thu đĩa (!) thì học truyền miệng, đƣợc câu nào thu câu ấy. Điều thật khó tƣởng tƣợng đƣợc về trình độ văn hóa âm nhạc của một nƣớc đang đi vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa! Nếu các ca sĩ này đƣợc học mỗi tuần một tiết âm nhạc lừ cấp I lên cấp II thời còn đi học thì đâu đến nỗi. Thế là gieo sao gặt vậy, đó là hậu quả dây chuyền từ mấy mƣơi năm để lại
4
Ở đây hoàn loàn chƣa nói đến giáo dục mỹ cảm qua văn chƣơng. Khi ở cấp I lấy môn tiếng (Tiếng Việt) đại diện cho cả môn văn, và một xu hƣớng "lí trí hóa", "chƣơng trình hóa" tác phẩm văn chƣơng trong một số giờ giảng văn ở các cấp phổ thông, đã đƣa môn văn trở thành xa lạ với mục tiêu mỹ dục, chỉ còn tác dụng trí dục hay đức dục.
Tuy nhiên, cuộc sống vẫn nhƣ một dòng chảy, xu thế chung của công cuộc đổi mới vẫn lôi cuốn lớp trẻ tham gia vào các hoạt động văn hóa nghệ thuật thật sôi nổi. Mặc cho con thuyền giáo dục nghệ thuật trong nhà trƣờng còn cắm neo chờ đợi, họ kéo nhau đến các nhà văn hóa, câu lạc bộ, lận dụng các phƣơng tiện nghe nhìn, phƣơng tiện truyền thông, mày mò học hỏi và học lẫn nhau. Nhiều dấu hiệu về tình yêu nghệ thuật và tài năng đang đƣợc phát hiện qua các phong trào đó. Tuy nhiên sự học hỏi không bài bản ngoài nhà trƣờng đã đƣa đến tình trạng học tủ, học lỏi và học đƣợc của nƣớc ngoài nhiều hơn là học từ dân tộc mình. Còn với ngành giáo dục, phải ghi nhận sự cố gắng của một số địa phƣơng, một số trƣờng và thầy cô giáo rất tâm huyết, chủ động chăm lo giáo dục nghệ thuật cho học sinh, tuy đó còn là hiện tƣợng thƣa thớt và cá biệt giữa một cao trào dạy chữ, luyện thi vì các con số chỉ tiêu.
Sự điều chỉnh vài năm nay của ngành giáo dục về việc biên soạn chƣơng trình, xuất bản sách giáo khoa nghệ thuật, khuyến khích địa phƣơng tự lo đào tạo, bồi dƣỡng giáo viên... đang cải thiện dần tình hình. Nhƣng mỹ dục vẫn còn là một khoảng trống vắng rất lâu dài trên bức tranh giáo dục toàn diện, nếu không có một "quyết tâm chiến lƣợc" để xoay chuyển tình hình.
Không thể bƣớc vào thế kỉ 21 với những ca sĩ học hát truyền miệng nhƣ những nghệ nhân dân gian thời trung cổ và những sinh viên đại học không biết đọc nổi nhạc, không biết thành phố mình có một nhà Bảo tàng Mỹ thuật.
Quan hệ giữa giáo dục thẩm mỹ và giáo dục nghệ thuật Giáo dục nghệ thuật cũng hƣớng về mục tiêu thẩm mỹ, nhƣng giáo dục thẩm mỹ có nhiệm vụ rộng lớn hơn giáo dục nghệ thuật vì nội dung của giáo dục thẩm mỹ là cái đẹp trong toàn bộ cuộc sống, trong đó nghệ thuật chỉ là một bộ phận của cái đẹp, dù là bộ phận quan trọng nhất.
Giáo dục thẩm mỹ với mục tiêu làm phong phú đời sống tâm hồn tình cảm, làm cho nhân cách hài hòa, giáo dục nghệ thuật làm cho khả năng sáng tạo và thƣởng thức nghệ thuật đƣợc phát triển.
Vậy giáo dục nghệ thuật là một bộ phận quan trọng nhất của giáo dục thẩm mỹ.
5
Nội dung của giáo dục nghệ thuật trong nhà trƣờng bao gồm hai hình thức: giảng dạy
nội khóa và giáo dục ngoại khóa.
Nội dung chƣơng trình giáo dục đào tạo của Bộ giáo dục nƣớc ta trƣớc nay có ghi việc dạy nhạc, họa, thủ công vào chƣơng trình cấp 1 (tiểu học) và cấp 2 (trung học cơ sở). Cấp trung học phổ thông trƣớc nay không có chƣơng trình nghệ thuật trong nội khóa. Sự thực, ở cấp 1 và cấp 2 trong nhiều chục năm chỉ có ghi, chƣa có thực thi đầy đủ, đã để lại những khoảng trống rất đáng tiếc ở trình độ thẩm mỹ - nghệ thuật trong nhiều thế hệ học sinh
6
PHẦN 2: KHẢO SÁT THỰC TẾ
Tìm hiểu thực tế giáo dục thẩm mỹ qua các môn nghệ thuật cấp Tiểu học tại 5 địa phƣơng: Thành phố Hồ Chí Minh, Tỉnh Đồng Nai, Tỉnh Bình Dƣơng, Tỉnh Lâm Đồng, TP Đà Nẵng, thông qua các tài liệu sau:
- Các báo cáo Thống kê tình hình môn học và giáo viên nhạc hoạ của các địa phƣơng
(cấp Sở, Phòng GDĐT).
- Các thông tin ghi theo Phiếu điều tra về các trƣờng. - Các báo cáo tổng hợp của cấp lãnh đạo Sở - Phòng. Những tài liệu trên thực hiện theo mẫu của BCN đề tài đƣa đến làm việc với địa
phƣơng.
(Kèm theo những văn bản tổng hợp, tóm tắt là các tài liệu thu trực tiếp từ các địa
phƣơng nói trên ).
Những cán bộ công tác trực tiếp với đề tài: - TP Hồ Chí Minh : TP. GD Tiểu học , Phó phòng GDTH, chuyên viên phụ trách bộ
môn.
- Đồng Nai : Q. Trƣởng Phòng GDTH. - Bình Dƣơng : Trƣởng Phòng GDTH. - Lâm Đồng : Trƣởng Phòng GDTH. - Đà Nẵng : P. Giám đốc Sở GD, Trƣởng Phòng GDTH
7
PHẦN 2 KHẢO SÁT THỰC TẾ A. NHÌN LẠI MỘT QUÁ TRÌNH - CÁI NHÌN TOÀN CỤC Từ ý kiến của vị Bộ trƣởng
Đông đảo phụ huynh học sinh và những ngƣời có quan tâm đến giáo dục rất hoan nghênh cuộc trao đổi ý kiến về tình trạng dạy và học ở nhà trƣờng tiểu học trên báo Tuổi Trẻ vào thƣợng tuần tháng 3 vừa qua (*) nhất là có hồi âm kịp thời của hộ trƣởng Bộ Giáo dục - Đào tạo: "ngành sẽ có những sửa đổi, bổ sung về nội dung, chương trình và phương pháp của các bậc học, trong đó có bậc tiểu học". Với học sinh cấp 1, bộ trƣởng cho rằng "ngoài học tập văn hóa, các em còn phải được giáo dục rèn luyện nhiêu mặt khác mà ngành chúng tôi đang quan tâm" (TT 17/3). Các phụ huynh học sinh và các nhà giáo dục trong cuộc trao đổi này đã gay gắt chỉ ra tình trạng học hành nặng nề và phiến diện của lứa tuổi nhỏ, không chỉ ảnh hƣởng đến sức khỏe mà còn ảnh hƣởng đến sự phái triễn - hoàn thiện nhân cách của trẻ em. Ở đây chúng tôi muốn góp một vài ý kiến để ngành giáo dục tham khảo nhân ý kiến của Bộ trƣởng lƣu ý về những mặt khác ngoài học tập văn hóa ở nhà trƣờng tiểu học. Đây cũng là ý kiến đồng tình với lời của một phụ huynh mong con em mình "trong cái học vẫn có cái chơi" (TT 5/3) và lời của giáo sƣ Nguyễn Lân "để cho học sinh tiểu học vừa học vừa chơi" (TT 14/3). Theo chúng tôi hiểu, nội dung học tập "văn hóa" - theo nghĩa hẹp, là các "môn học văn hóa", học trên chữ - ở tiểu học hiện nay đƣợc qui định trong các môn: Tiếng việt, Toán, Đạo đức, Sức khỏe (của lớp 1,2,3); Tiếng việt, Toán, Đạo đức, Khoa, Sử, Địa, Sức khỏe (của lớp 4,5). Còn lại các môn kĩ thuật. mỹ thuật, hát - nhạc, thể dục, chúng tôi tạm gọi là các môn ngoài học văn hóa, vì không học trên chữ, chủ yếu học qua thao tác, qua hoạt động tiếp xúc với ngoại giới nhiều, có thể "vừa học vừa chơi".
Trong số 4 môn "vừa học vừa chơi" nói trên, chia làm hai: một nhóm (kỹ thuật - xƣa kia gọi là môn "thủ công", mỹ thuật, hát - nhạc) gọi chung là các môn nghệ thuật, còn lại là môn thể dục, một nhóm riêng. Hai nhóm này thuộc loại hình giáo dục đƣợc xếp thứ tự ba và bốn trong 4 loại hình trí, đức, thể, mỹ. Trong vài năm nay, và cũng chỉ mới vài năm nay, bộ qui định phải dạy đủ 9 môn (ở lớp 1,2,3) và 11 môn (ở lớp 4,5), là một chủ trƣơng đúng, một quan niệm đầy đủ về giáo dục toàn diện ở phổ thông tiểu học, tức cũng trở về với mục tiêu giáo dục trí, đức, thể, mỹ theo quan niệm cổ điển.
Trong phạm vi nghiên cứu của mình, tôi chỉ xin bàn về vấn đề mỹ dục, đi cụ thể về các môn kĩ thuật, mỹ thuật, hát - nhạc, đã đƣợc liệt vào các "môn phụ'" bên cạnh thể dục, ở tiểu học hiện nay.
(*) 3.19998
8
Chuyện vừa qua và hiện nay: "môn phụ" không dạy, và không dạy đƣợc, do đâu ?
Giáo sƣ Dƣơng Thiệu Tống cho rằng, để khắc phục tình trạng học nặng ở tiểu học hiện nay, điều cần chú ý "quan trọng nhất vẫn là vấn đề chƣơng trình bậc tiểu học" (TT 10/3) (*) Bộ trƣởng cũng nêu nội dung chƣơng trình là chỗ cần "sửa đổi" "bổ sung" đầu tiên. Ngành giáo dục vẫn xem chƣơng trình là cƣơng lĩnh, là pháp qui, nơi đầu mối của mọi cải cách, đó là hiển nhiên. Nhƣng nhìn lại chƣơng trình tiểu học hiện hành, thể hiện qua 9 môn học, nếu thực hiện đúng và đủ, thì mục tiêu giáo dục tiểu học vẫn có thể đạt đƣợc một cách tốt đẹp, nghĩa là vẫn đào tạo đƣợc những trẻ em phát triển toàn diện, đặc biệt là có thể vừa học vừa chơi, vì ngoài 5 môn "văn hóa", còn có 4 môn nghệ thuật và thể dục. Hơn nữa, theo Nhà giáo ƣu lú Chu Xuân Thành, nếu thực hiện đƣợc môn toán đúng nhƣ chƣơng trình đã hƣớng dẫn, thì ngay môn học văn hóa cũng rất nhẹ nhàng, học sinh không cần học thêm! (TT 12/3). Nghĩa là con em không phải gò lƣng gần 8 tiếng một ngày, ngoài hai buổi ở trƣờng còn buổi thứ ba ở nhà cô (TT 5/3), mà có thể học hai buổi trong ngày, 5 ngày trong tuần, có toán có văn, có hát có vẽ, có nặn tƣợng thêu thùa và thể dục thể thao. Khi hát múa và thể thao, có thể kết hợp sinh hoạt ngoài trời, và thứ năm chủ nhật thỉnh thoang đi cắm trại, tham quan. Đó là trong khuôn khổ của chuơng trình hiện hành, đâu có nặng ! Thực tế, công bằng mà nói, không phải không có những trƣờng, những hiệu trƣởng và thầy cô không làm đƣợc việc đó. Không phải đa số trẻ em cấp I đều vẹo cột sống vì ngồi 8 tiếng một ngày, không phải số nhiều các cháu đã mắc bệnh,hiểm nghèo do thức khuya dậy sớm. Thế nhƣng sự vận dụng chƣơng trình, theo đúng mục tiêu giáo dục nhƣ vậy chƣa phổ biến bằng hiện tƣợng học nặng, học lệch, học tủ, chỉ học chữ, và học để thi, để đoạt giải, đạt chỉ tiêu (dù giả hay thật), lại đang phổ biến.
Chƣơng trình đề ra giáo dục toàn diện (9, 11 môn) nhƣng trên thực tế việc chỉ đạo thực hiện chƣơng trình lại cho phép xem nặng môn này nhẹ môn khác, trƣờng có quyền dạy hoặc không dạy một môn nào đó, và 9 môn rốt cuộc còn 6 môn, 5 môn. Các môn kia nếu có điểm là điểm giả (vì bài kĩ thuật, vẽ học sinh đem về nhờ ngƣời khác làm). Nếu có trƣờng nghiêm túc thực hiện 9 môn, thì không tránh khỏi tình trạng ép dạy và dạy ép; thầy cô không hát đƣợc vẫn dạy hát, thầy giáo đi dạy thêu, thầy dạy thể dục không thạo động tác... "Nhiều chuyện cƣời ra nƣớc mắt dành cho các thầy cô có ý thức trách nhiệm chấp hành" (Tuổi Trẻ, 3.1.98 bài "Ai dạy ?"). Tất nhiên không thể đặt ngang bằng tầm quan trọng của các môn, cần có môn chính, môn phụ vì chức năng của trƣờng phổ thông trƣớc hết là dạy chữ, dạy văn hóa (nghĩa hẹp), là nhằm giáo dục trí dục (loại hình trí dục để hàng đầu là vậy). Nhƣng giáo dục toàn diện là mục tiêu phải hoàn tất, mới có con ngƣời toàn diện.Chấp nhận có môn phụ, nhƣng phụ môn
(*) 3.1998
9
phụ, gạt môn phụ lại là việc hoàn toàn khác, thuộc quan điểm giáo dục, không còn là chƣơng trình hay phƣơng pháp giáo dục nữa.
Mục tiêu giáo dục con ngƣời toàn diện là một khái niệm biện chứng lịch sử, không phải là một khái niệm cứng nhắc, bất biến. Mỗi thời, mỗi dân tộc mỗi đất nƣớc có thể có mẫu ngƣời toàn diện khác nhau, tùy theo yêu cầu và điều kiện giáo dục. Thời phong kiến, đàn ông, con trai phải văn võ toàn tài, cầm kì thi họa, con gái phải đủ công dung ngôn hạnh. Thời đất nƣớc có chiến tranh khái niệm toàn diện bị thu hẹp lại, vì có những mặt không có điều kiện thực hiện. Nhƣng bất cứ thời nào, nơi nào, muốn giáo dục con ngƣời chân chính cũng phải vƣơn tới ba giá trị chân - thiện - mỹ, giáo dục học sinh phải đủ 4 mặt trí đức, thể, mỹ. Xã hội và con ngƣời thiếu đi một trong ba và bốn loại hình giá trị đó, sẽ không thể hoàn thiện, trở thành méo mó, hụt hẫng.
Kỹ thuật, mỹ thuật, hát - nhạc cùng với văn chương trong nhà trƣờng là những môn học cụ thể, không bao gồm toàn bộ nội dung mỹ dục, nhƣng đóng vai trò nòng cốt thực hiện mỹ dục. Những môn "văn hóa" thiên về giáo dục trí tuệ, nâng cao hiểu biết, những môn nghệ thuật thiên về giáo dục tình cảm, nâng cao tâm hồn. Qua nhạc, múa, vẽ, thêu thùa, các em tiếp xúc với âm thanh và màu sắc trong nghệ thuật, trong cuộc sống, trong thiên nhiên, rèn luyện cảm xúc và óc tƣởng tƣợng, rèn luyện sự khéo léo trong lao động và giao liếp xã hội. Tuy là những môn phụ, nhưng với tuổi chín, mười, là những môn đánh thức khêu gợi năng khiếu ban đầu, hình thành nhân cách. Cùng với những "môn chính", nâng cao rèn dũa trí tuệ, những "môn phụ" có tác dụng góp phần hoàn thiện con người. Ngay với các cấp phổ thông trung học cơ sở, phổ thông trung học và cả bậc đại học, vẫn còn vị trí cho các "môn phụ" đó, nhƣ nhiều nƣớc trên thế giới đang làm, không phải chỉ với bậc học.
Cần nói thêm một điều, tại sao không gọi là quốc văn mà gọi là Tiếng Việt ? Đó cũng là một quan niệm về giáo dục: môn văn có tác dụng giáo dục tình cảm, môn tiếng chủ yếu là vũ trang cho tƣ duy và trí tuệ. Thế là trong mỹ dục ở tiểu học, không có nghệ thuật văn chƣơng. Xƣa kia, nhiều bài trong Quốc văn giáo khoa thƣ đã từng gây ấn tƣợng từ tuổi thơ đến suốt một đời ngƣời, vì ở đó có tiếng và có cả văn, có trí tuệ và có tình cảm. Do một quan niệm nào đó đƣa đến việc luyện văn dạy văn ở nhiều nơi đang rơi vào tình trạng trí tuệ hóa văn chƣơng, "chƣơng trình hóa" các bài dạy, để cuối cùng học sinh chỉ biết làm tốt văn bản, không còn cảm xúc.
Nói rộng là mục tiêu mỹ dục, nói hẹp là thực hiện chƣơng trình dạy cái môn nghệ thuật, từ nhận thức không toàn diện đƣa đến bỏ rơi các môn này hàng mấy thập kỷ. Đến lúc cần dạy thì không có thầy hoặc thầy không đƣợc chuẩn bị
Việc không chỉ tới đó. Nhìn rộng ra ngoài trƣờng, thế hệ thanh niên hiện nay đang bộc lộ những gì đã lừng đƣợc giáo dục trong nhà trƣờng phổ thông Nhiều ca sĩ trở chuyên nghiệp không hề biết nốt nhạc, chỉ học truyền khẩu đi
10
lên biểu diễn, một điều khó tƣởng tƣợng đối với một nƣớc đang đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chỉ vì ở trƣờng, ở nhà trƣớc đây họ không đƣợc học qua âm nhạc ("Chuyện thâm cung bí sử: có đến hơn 90% ca sĩ tay ngang hoàn toàn không biết nốt sol, nốt re nằm ở đâu": TT 30/10/97, bài: "Ca sĩ mù nhạc thật ƣ ?") Đầu năm 1998 có cuộc thi "Âm nhạc và giới "trẻ" đƣợc truyền hình trực tiếp. Khán giả theo dõi và chứng kiến những tập thể đội tuyển của các trƣờng đại học đƣợc cử lên bao gồm những đại biểu sinh viên sành nhạc nhất, có thể kể và hát thông thạo những bài hát tiếng Anh nhƣng không một ai xƣớng âm nổi đƣợc một câu nhạc đơn giản viết trên bảng. Dƣ luận có tỏ nhiều lời khen khả năng "uyên bác" về âm nhạc của các sinh viên dự thi, nhƣng đi vào thực chất mọi khả năng âm nhạc đều học theo lối nghe theo và truyền miệng. Chứng tỏ, nhờ kinh tế thị trƣờng, các phƣơng tiện nghe nhìn phát triển đã giúp cho lớp trẻ học chay, học truyền miệng, học lỏi đƣợc những tri thức về nghệ thuật. Công đó là của phƣơng tiện nghe nhìn, không thuộc về nhà trƣờng. Cái thiếu của họ là trình độ tối thiểu về khoa học - văn hóa âm nhạc. Một số nhạc sĩ lớn tuổi ƣu tú của ta có ngƣời không qua nhạc viện, nhƣng tuổi nhỏ của họ đã từng đƣợc học âm nhạc đầy đủ ở nhà trƣờng và gia đình. Việc không đƣợc học mà vẫn hoạt động âm nhạc, khiến cho cả một lớp ngƣời trẻ trở thành những nghệ nhân ca hát truyền khẩu, lùi về hình thái âm nhạc dân gian thời trung cổ. Một điều đáng buồn và khó tin, nhƣng đó là sự thật. Không lấy làm lạ khi lên lớp các giờ mỹ học, nghệ thuật học, giảng viên hỏi có biết Tô Ngọc Vân là ai, thì cả giảng đƣờng im lặng. Hỏi đến bức tranh Lajocond, hiện đang có phiên bản ở nhiều cửa hàng, là của tác giả nào, thời nào, rất nhiều sinh viên không hề biết
Bao nhiêu năm, do quan niệm thiếu sót về mục tiêu giáo dục con ngƣời toàn diện, không quan tâm đến các mặt khác ngoài việc dạy văn hóa, dạy chữ, đã đƣa đến hậu quả hiện nay cả trong nhà trƣờng và ngoài xã hội. Những hụt hẫng vẫn sẽ còn tiếp tục bộc lộ trong trình độ dân trí về văn hóa nghệ thuật. Nhà trƣờng tiểu học không có giáo viên đủ năng lực giảng dạy, dù là yêu cầu ở mức độ tƣơng đối, về các môn nghệ thuật. Cần bổ sung giáo viên chuyên dạy về nghệ thuật, thì cấp 2 cũng thiếu vắng nói chi cấp 1.
Do đó chƣơng trình 9 môn, 11 môn ở tiểuu học tuy là một bƣớc tiến, nhƣng tiếc thay, đó chỉ là một chƣơng trình lý tƣởng, nếu không nói là ảo tƣởng, khi đem đối chiếu với khả năng thực hiện.
Một giải pháp chậm chạp, nửa vời: dạy hay không dạy, đào tạo hay không đào tạo ?
Thông tin năm 1993: "Hiện cả nước có khoảng 13 000 trường PTCS, nhưng cấp 1 hầu như không có giáo
viên nhạc họa; cấp 2 có 328 giáo viên dạy nhạc và 217 giáo viên
11
họa... Nếu mỗi trường cần một giáo viên họa và một giáo viên nhạc thì con số giáo viên hai môn này thiếu lên đến hàng vạn...
" Theo đề án giáo dục đến năm 2000, Sở GDĐT TP Hồ Chí Minh có đưa ra quyết tâm bảo đảm đến năm 2000 có đủ giáo viên nhạc họa" (Tuổi trẻ CN, 19/9/93, bài " Giáo viên nhạc, họa, người ở đâu bây giờ ?)
Thật trớ trêu, giáo viên thiếu đến nhƣ vậy nhƣng vẫn có giáo viên nhạc, họa thất nghiệp. Sau bài báo trên, chỉ hai tuần sau, Tuổi trẻ đã nhận đƣợc tín hiệu phản hồi từ Nha Trang:
" Chúng tôi là những giáo viên nhạc, họa tốt nghiệp khóa 1 khoa sư phạm nhạc, họa "khóa thử nghiệm toàn miền Trung" (theo cách gọi của các vị có trách nhiệm), tụi trường Trung cấp nghệ thuật Khánh Hòa. Sau 3 năm dùi mài, ra trường từ 1989 đến nay đã 5 khóa học phổ thông nhưng chúng tôi không thể nào xin được đi dạy bộ môn mình theo đuổi ! Đã 5 năm, chúng tôi phải làm đủ thứ nghề để kiếm sống và chờ đợi..." (TTCN 10/10/93)
Bộ vẫn cố đào tạo giáo viên nhạc họa cho cấp 2, bằng cách liên kết với ngành văn hóa mở lớp tại trƣờng đào tạo của ngành văn hóa, nhƣ trƣờng hợp các giáo viên này. Nhƣng đào tạo rồi để thất nghiệp, trong khi các trƣờng (ngay ở Nha Trang) chƣa từng có giáo viên đƣợc đào tạo chính qui nhƣ họ. Vì sao ? Vì số phận của giáo viên lệ thuộc vào số phận của môn học bị xem là những "môn phụ", không cần thiết. Không đƣa môn học này vào chƣơng trình, không cần dạy, thì cân gì ngƣời dạy. Hầu hết giáo sinh nhạc, họa tốt nghiệp từ các trƣờng cao đẳng sƣ phạm đều không đƣợc đón nhận niềm nở, vì nhƣ vậy. Nhiều ngƣời bị sử dụng làm công tác đoàn, đội và các việc khác trong trƣờng, không dạy môn của mình hoặc chỉ dạy ngoại khóa, dạy "cho có". Trƣờng Cao đẳng Sƣ phạm TP Hồ Chí Minh mỗi năm phải hạ thấp các tiêu chuẩn mới tuyển nổi vài chục sinh viên cho khoa nhạc họa. Năm học vừa qua, chỉ có một tỉnh gởi một học sinh theo chế độ cử tuyển.
Hai năm sau : "Hội nghị chuyên đề" năm 1995: " Trong các ngày ở và 7 tháng 11 năm 1995 , Bộ Giáo dục và đào tạo đã tổ chức hội
nghị chuyên đề về đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng giáo viên âm nhạc và mỹ thuật.
" Các háo cáo đề dẫn, báo cáo bổ sung và tham luận đều khẳng định tâm quan trọng của giáo dục nghệ thuật thông qua môn âm nhạc và mỹ thuật trong việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ".
" Phải nghiêm chỉnh thực hiện qui định của nhà nước vê triển khai giảng dạy âm nhạc và mỹ thuật ở các trường phổ thông. Triển khai giảng dạy tất cả các môn học ở tiểu học từ năm học 1997-1998 (trong đó có hai môn nhạc, họa). Đại bộ phận các trường THCS phải có giáo viên ".
" Từ nay đến năm 2000 toàn ngành phải có 8000 giáo viên (trong đó 4000 giáo viên
nhạc, 4000 giáo viên họa).
12
Đến hôm nay, cuối tháng 3 năm 1998, báo "Giáo dục và thời đại" ra số trọng tâm về giáo dục âm nhạc, có bài gần nhƣ tổng hợp tình hình, do một nhạc sĩ chuyên gia của Bộ về giáo dục âm nhạc, đã lạc quan nhận định sự "chuyển biến mạnh mẽ" "về nhận thức và hành động" của Bộ và các địa phƣơng, và "triển vọng của sự nghiệp giáo dục âm nhạc trong nhà trường đã thấy sáng lên tốt đẹp"(!) Nhƣng về con số, thì bài báo không thể không ghi lại: số lƣợng giáo viên nhạc, họa toàn ngành giáo dục "đã lên tới cả ngàn ngƣời, số giáo viên đó tập trung ở một số thành phố lớn, thị xã ... có nơi tới hàng trăm ngƣời. Tuy vậy, có tỉnh, thị xã hầu nhƣ vẫn vắng bóng". "Làm sao có thể có ngay hàng vạn giáo viên cho các trƣờng (tiểu học) dù mỗi trƣờng có khi có đến 30 - 40 lớp chỉ xin một ngƣời" (GDTĐ 22 - 3 - 1998)
Vậy là: thành phố lớn mới có số trăm, cả nƣớc mới chạm tới số ngàn, và cả nƣớc còn thiếu tới hàng vạn... Nhƣng, giá nhƣ có phép thần thông đào tạo đƣợc ngay vài vạn giáo viên nghệ thuật trong vài tháng, có ngay bây giờ nhƣng quan niệm về mục tiêu giáo dục vẫn không thay đổi, chiều môn chính, phụ môn phụ, thì liệu có gì đảm bảo là hàng vạn thầy cô giáo nghệ thuật đó không trở thành đội quân thất nghiệp?
Không phải mới vài năm nay, mà cách đây đã bốn mƣơi năm, trong chƣơng trình và thời khóa biểu ở nhà trƣờng cấp I, II đã từng hiện diện các môn nhạc, họa. Nhƣng việc giáo dục nghệ thuật trong các trƣờng phổ thông "thường bị coi nhẹ, thả nổi, không có chiến lược cho môn học, nhiều nơi bỏ trống hoàn toàn," và đó là "một vướng mắc "kinh niên" kéo dài suốt 30 - 40 năm" (GDTĐ 22 - 3 - 98)
Tình trạng thiếu vắng giáo viên ở cấp II đã nghiêm trọng, nói chi cấp I, giáo viên chuyên trách hoàn toàn không có. Nhƣng do ảnh hƣởng dây chuyền, các giáo viên cấp I trƣớc đây không đƣợc đào tạo toàn diện (môn nhạc họa học hiếu lệ và không xem là môn thi tốt nghiệp), nay không thể có đủ khả năng để dạy cả văn hóa và hát, nhạc, vẽ, thủ công ... Do sự thúc bách của chỉ thị dạy 9 môn, các trƣờng "ép dạy", và các thầy cô phải "dạy ép", thế là "nhiều chuyện cười ra nước mắt dành cho các thầy cô có ý thức trách nhiệm chấp hành”, vì không hát đƣợc phải dạy hát, phải đi dự lớp bồi dƣỡng âm nhạc, thầy phải thay cô dạy trò thêu thùa, dạy thể dục thì thầy quên động tác v.v... (TT 3-1-1998, bài "Đi dạy?") Để đỡ phiền thầy cô, lại có thêm giờ dạy "môn chính", thầy cô ra đề về nhà làm, kết quả là điểm kỹ thuật và vẽ rất khả quan, vì các em nhờ các "chuyên gia" ở nhà làm hộ. Lại một sự bẽ bàng cho thân phận của môn phụ: vừa ở vị trí lẽ mọn, vừa đeo mề đay giả (TT 12-1997, bài "Đi học?", TY 5-3-98, bài "Khổ quá...")
13
Tất nhiên không thể đặt bằng tầm quan trọng của các môn. Không chỉ cấp I, II, mà bậc học nào cũng có môn chính, môn phụ. Trí dục đặt trƣớc thể dục, mỹ dục là vậy. Nhƣng trên thực tế, môn phụ đã trở thành môn "tùy nghi thực hiện", lại là việc khác hoàn toàn.
Trong tình thế phải thực hiện chỉ thị "dạy đủ", bao nhiêu cán bộ quản lí và giáo viên có trách nhiệm đã phải lo lắng trăn trở, tìm cô tìm thầy, bố trí thời gian để dạy có kết quả, nhƣng rồi nơi này làm tốt, nơi khác không làm, cũng chẳng sao. Áp lực về các môn văn hóa, "môn chính", các cuộc thi, lại tiếp tục lôi cuốn làm nản lòng những nhà trƣờng và thầy cô có ý thức giáo dục toàn diện.
Chỉ có chỉ thị phải dạy các môn nghệ thuật, nhƣng không có sự khẳng định vị trí các môn này trong bảng điểm thi cử, lên lớp. Thực tế việc dạy các môn nghệ thuật hiện nay vẫn tùy thuộc ở mỗi địa phƣơng, mỗi trƣờng, làm đƣợc đến đâu hay đến đấy, không làm đƣợc cũng không sao. Việc đào tạo và bồi dƣỡng cho đủ hàng vạn giáo viên, việc làm cho các môn nghệ thuật đƣợc có vị trí xứng đáng, trở thành một mục tiêu còn xa lắm mới đạt đƣợc, khiến cho bản chƣơng trình 9 môn của tiểu học không thể thực hiện đƣợc trên thực tế, trở thành một chƣơng trình lý tƣởng, nếu không nói là ảo tƣởng.
Một khoảng trống tồn tại nhiều năm, nếu không có một chiến lược cho môn học thật sự mạnh mẽ, kiên quyết để bù đắp lại, thì khoảng trống đó sẽ càng ngày càng lan rộng, gây hậu quả dây chuyền...
Trong lịch sử ngành giáo dục của ta không phải chỉ lần đầu và chỉ riêng mô nghệ thuật lâm vào cảnh "có cũng không". Bao năm bộ môn ngoại ngữ trong nhà trƣờng phổ thông cũng từng bƣớc thăng trầm, đã để lại cho hôm nay một lớp trí thức ở tuổi năm mƣơi, sáu mƣơi, nếu không đƣợc đi học nƣớc ngoài không học qua đại học ngoại ngữ, hoặc không có nghị lực tự học lấy, thì hầu nhƣ không biết ngoại ngữ. Trong khi các trí thức khác chỉ học hết bằng thành chung (cấp II) trƣớc năm 1945 khi đi vào cách mạng hoặc kháng chiến họ vẫn dùng đƣợc một ngoại ngữ bên cạnh tiếng mẹ đẻ của mình. Sự chi phối của những quan niệm giáo dục có tính biệt lập không theo quy luật chung nhƣ vậy tất sẽ để lại những ảnh hƣởng lâu dài.
Nhƣng môn ngoại ngữ có số phận may mắn hơn âm nhạc và hội họa,vì gặp đƣợc thời đổi mới, mở cửa, kinh tế thị trƣờng, đã đƣợc khắc phục một các nhanh chóng. Ba mƣơi năm một trƣờng Cao đẳng Sƣ phạm Nghệ thuật của cả nƣớc vẫn tồn tại trong tình trạng "nhỏ bé" (Theo thông báo 1470/VPBộ) không lên nổi đại học, nhƣng ngoại ngữ với tin học, quản trị kinh doanh mới rộ lên mấy năm đã có hàng loạt đại học ra đời.
14
B. ĐẾN 5 TỈNH - THÀNH PHỐ Tƣờng thuật: Tại Tp Hồ Chí Minh, BCN đề tài làm việc với Phòng Giáo dục Tiểu học (Trƣởng Phòng, Phó Phòng, chuyên viện phụ trách bộ môn). Qua những lần trao đổi, tìm hiểu tình hình giảng dạy các môn nghệ thuật, phòng đã giúp BCN đề tài gửi đến các Phòng Giáo dục trong thành phố thu thập tƣ liệu về tình hình giáo viên và số liệu trƣờng lớp.
Đặc biệt Phòng Giáo dục Tiểu học cùng BCN tổ chức một chuyến đi tham quan giao lƣu với Phòng GD Tiểu học tỉnh Đồng Nai trong dịp Đồng Nai tổ chức chung khảo ca múa nhạc họa của học sinh tiểu học toàn tỉnh. Đoàn của TpHCM có các cán bộ lãnh đạo và chuyên viên Phòng GDTH, Ban chủ nhiệm đề tài với các công tác viên là cán bộ giảng dạy, hoạ sĩ ... Qua cuộc giao lƣu, thấy đƣợc sự nỗ lực của Đồng Nai trong tổ chức Giáo dục ngoại khoá về nghệ thuật và những vấn đề khó khăn còn lại của giáo dục nội khoá. Phó Giám đốc Sở GDĐT tỉnh Đồng Nai đã đến dự và tiếp xúc với Đoàn TPHCM.
Đến Sở GDĐT tỉnh Bình Dƣơng và Lâm Đồng các đồng chí Trƣởng Phòng nhiệt tình đón tiếp và giao hẹn tích cực hợp tác thực hiện mục tiêu của đề tài. Những biểu mẫu của đề tài đƣợc các trƣởng phòng giáo dục các huyện thị thực hiện điều tra thống kê rất nghiêm túc.
Tại Đà Nẵng, Phó Giám đốc Sở GDĐT trực tiếp làm việc với đề tài và đã huy động cán bộ các Phòng giúp đề tài thực hiện các công việc điều tra nghiên cứu, ý kiến tổng kết cũng do Phó Giám đốc Sở trực tiếp phát biểu.
Công việc nghiên cứu của đề tài tiến hành cụ thể nhƣ sau: - Soạn các biểu mẫu để cấp Phòng (Quận, huyện) thống kê tình hình trƣờng lớp dạy nhạc, hoạ, kỹ thuật và số lƣợng giáo viên hiện diện đến thời điểm 1998 (gồm chuyên trách và hợp đồng, tốt nghiệp sƣ phạm chính quy hoặc qua bồi dƣỡng . . . )
- Soạn các Phiếu phỏng vấn - tìm hiểu ở cấp trƣờng, cử ngƣời trực tiếp đến tận nơi gặp Ban Giám hiệu để làm việc (có sự giới thiệu của Phòng Giáo dục Tiểu học), Về phỏng vấn cấp trƣờng, chủ yếu thực hiện ở TPHCM và Bình Dƣơng
15
Kết quả Các quận, huyện đã làm thống kê về tình hình giảng dạy và tình hình giáo viên các
môn nghệ thuật:
18 quận huyện 9 huyện 10 huyện, thành phố 4 huyện thị 6 quận huyện
. TP Hồ Chí Minh : . Đồng Nai: . Lâm Đồng: . Bình Dƣơng: . Đà Nẵng: Tổng cộng: 47 thành phố thị xã quận huyện đã làm thống kê gởi cho đề tài. Các trường PT Tiểu học đã ghi trả lời phỏng vấn đánh giá tình hình dạy và học các
môn nghệ thuật:
20 trƣờng 1 trƣờng 9 trƣờng
. Tại TP Hồ Chí Minh: . Tại Lâm Đồng: . Tại Bình Dƣơng: Tổng cộng: 30 trường đã trả lời đánh giá tình hình dạy và học.
16
TÌNH HÌNH GIÁO DỤC NGHỆ THUẬT Ở BẬC TIỂU HỌC TẠI TP HỒ CHÍ MINH Năm học 1997-1998 Tổng hợp của ban chủ nhiệm đề tài
I. Tình hình chung Theo báo cáo tổng kết của Phòng Giáo dục Tiểu học, thuộc sở Giáo dục - Đào tạo TP
Hồ Chí Minh ngày 09 - 9 - 1998, thì:
1. Năm học 1997 - 1998, thành phố đã có chuyển biến đáng kể về việc thực hiện dạy
đủ 9 môn theo đúng quy định chỉ thị năm học của Bộ Giáo dục - Đào tạo:
Trong đó có: "-Kiểm tra thống nhất toàn trƣờng với các môn: Kỹ thuật, Mỹ thuật. Hát
(Nhạc). Thể dục và các môn tự chọn" (tr.7)
"-Tổ chức hội thảo, tập trung chú ý vào các môn vừa thay sách vừa ít tiết, nhƣ Khoa,
Sử Địa, Nhạc, Hoa ..." (tr.8)
"-Đặc biệt chuyện đề Múa tập thể sân trƣờng đã đƣợc nhiều quận huyện chú ý hƣớng
- Loai Giỏi : 1996-1997 1997-1998
Mỹ thuật 16,6 19,9
Hát Nhạc 28,3 33,3
dẫn các trƣờng thực hiện có hiệu quả (Quận 3, 4, 5, 6, 8)" (tr.8) 2. Đối chiếu học sinh xếp loại ở từng môn học:
(trg.11)
Mỹ thuật 1,1 0,5
- Loại Yếu : 1996-1997 1997-1998
Hát Nhạc 0,6 0,3
Cả 2 môn đều tăng tỷ lệ học sinh giỏi
(trg.11)
Cả 2 môn đều giảm tỷ lệ học sinh yếu 3. "Qua thống kê cho thấy còn nghịch lý cần phải nghiêm túc xem xét trong việc tiến hành dạy đủ 9 môn bắt buộc. Các môn học mà nhiều giáo viên đang kêu khó thì tỷ lệ học sinh đạt điểm giỏi khá cao (Kỹ thuật, Mỹ thuật, Hát Nhạc)" (tr.12)
Họa: 1,70%
II Tình hình giáo viên dạy các môn 1. Trình độ chuyên môn Dạy chuyên: Nhạc : 1,32% → Giáo viên đƣợc đào tạo chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn "Thực tế việc đào tạo giáo viên tiểu học có cố gắng để đáp ứng nhu cầu 9 môn nhƣng thực tế đội ngũ của chúng ta do lịch sử để lại đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau, dù có chuẩn hóa nhƣng đối với những môn đòi hỏi năng khiếu và sức trẻ cũng khó đòi hỏi 100% giáo viên tiểu học đáp ứng nổi. Vì vậy, phải có giải pháp bổ sung" (tr. 19)
17
2. Theo báo cáo tổng hợp từ các Phòng Giáo dục-Đào tạo các quận huyện và con số thống kê chƣa đầy đủ (còn thiếu quận 8, quận 10, quận Phú Nhuận) của ngƣời viết bài này, thì:
Hiện nay toàn thành còn thiếu: 397 Giáo viên Nhạc và 413 Giáo viên Mỹ thuật
Nếu có thêm số liệu từ 3 quận còn thiếu thì có lẽ con số trên sẽ xấp xỉ năm trăm giáo viên cho mỗi môn. Nghĩa là cả 2 môn Nhạc và Mỹ thuật còn thiếu một ngàn (1000) giáo viên chuyên trách!
NHẬN ĐỊNH RÚT RA TỪ CUỘC ĐIỀU TRA - PHỎNG VẤN 20 TRƢỜNG TIỂU HỌC TRÊN ĐỊA BÀN TP HỒ CHÍ MINH
1. Các trƣờng đều cố gắng huy động khả năng tự có về giáo viên và phƣơng tiện để dạy các môn nghệ thuật (không có giáo viên biên chế, trƣờng mời giáo viên hợp đồng, tự tạo phƣơng tiện dạy học).
2. Tất cả các trƣờng đều thiếu giáo viên. Trừ hai trƣờng có giáo viên biên chế, 18
trƣờng không có giáo viên biên chế.
3. Tất cả các trƣờng đều đề nghị nhƣ nhau: đề nghị đào tạo giáo viên chuyên trách dạy các môn nghệ thuật. Loại giáo viên đó hầu nhƣ vắng bóng. Dạy kiêm nhiệm gƣợng ép không thể có chất lƣợng và không gây hứng thú cho học sinh
4. Hầu hết các trƣờng đều thiếu tài liệu, thiếu những phƣơng tiện dạy học (mẫu vẽ,
tranh minh họa, bài hát cũ không đƣợc thay, không có băng nhạc, đặc biệt là nhạc cụ...)
5. Chƣơng trình nhiều chỗ chƣa hợp lý (quá nặng nhƣ nhạc lớp 1, vẽ lớp 1, 2... với học sinh thành phố hoặc nông thôn cùng một loại bài không có những bài cho hoàn cảnh, đối tƣợng riêng (Thí dụ: 'Mục Vƣờn Trƣờng' hoàn toàn không có ở nhiều trƣờng đô thị)
18
UBND THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
SỞ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
Độc lập - Tự Do - Hạnh phúc
********* -----------------
Đà Nẵng, ngày 4 tháng 6 năm 1999
TỔNG HỢP TÌNH HÌNH GIẢNG DẠY & GIÁO DỤC NGHỆ THUẬT CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
I- Nhận định chung về vai trò, vị trí của các môn nghệ thuật trong nhà trƣờng Tiểu học do Bộ đề ra qua các thời kỳ (thời kỳ trước và sau khi có chủ trương dạy đủ 9 môn).
Bậc học Tiểu học là bậc học nền tảng, đậm đặc tính sƣ phạm. Thế nên, trong trƣờng Tiểu học, các môn nghệ thuật (Hát - Nhạc, Kĩ thuật, Mĩ thuật) có vai trò, vị trí hết sức quan trọng. Mỗi một môn có một yêu cầu riêng, song mục đích chung vẫn là góp phần hình thành và giáo dục các em phát triển toàn diện. Cụ thể :
- Cung cấp cho các em một số vốn văn hóa phổ thông cơ bản và toàn diện, đáp ứng
yêu cầu tha thiết của các em, làm cho đời sống tâm hồn của các em thêm phong phú.
- Cung cấp các em những kiến thức sơ đẳng về mĩ thuật, kĩ thuật và âm nhạc và qua
đó rèn cho các em các kĩ năng tối thiểu :
Biết quan sát, tìm tòi, hiểu biết tính chất và qui luật phát triển của cuộc sống xã hội. Biết hát đúng âm điệu những bài hát phù hợp với độ tuổi, qua đó tạo cho các em thói
quen hát tập thể, hát đồng đều và hòa giọng.
Biết sử dụng với mức độ nhất định các công cụ thô sơ nhƣ dao kéo, bút chì, compa,
kim chỉ để vận dụng tốt vào đời sống thực tiễn.
- Bồi dƣỡng năng lực trí tuệ, óc quan sát, sức chú ý, năng lực suy xét, phán đoán,
tƣởng tƣợng, tính chính xác, tƣ duy kĩ thuật, tƣ duy kinh tế, khiếu thẩm mĩ.
- Bồi dƣỡng tình cảm đạo đức trong sáng, phẩm chất tốt đẹp, phát triển năng lực trí tuệ, có đời sống tinh thần sôi động, tâm hồn lành mạnh, tự tin, lạc quan; biết yêu cuộc sống lao động góp phần tích cực vào việc hoàn thành mục tiêu giáo dục giúp các em phát triển toàn diện.
Trong những năm trƣớc đây (khi chưa có chủ trương dạy đủ 9 môn) do nhận thức chƣa đầy đủ, việc giảng dạy các môn này còn tùy tiện, hiệu quả chƣa cao; hơn nữa do chƣơng trình chƣa hợp lý và ổn định, công tác chỉ đạo và đánh giá còn xem nhẹ. Vì vậy, hiệu quả giảng dạy chƣa đạt yêu cầu, chƣa đáp ứng mong muốn chung.
19
Từ khi có chủ trƣơng dạy đủ 9 môn, việc giảng dạy đi vào nề nếp và từng bƣớc nâng
cao hiệu quả giảng dạy các bộ môn nghệ thuật này.
II/- Tổng hợp tình hình và số liệu về vấn đề: Tình hình trƣờng lớp, tình hình thực
hiện chƣơng trình, tình hình đội ngũ giáo viên.
Toàn thành phố có 80 trƣờng. Trong đó, có 76 trƣờng Tiểu học, 1 trƣờng PTCS, 1 trƣờng Tiểu học, THCS - PTTH và 2 trƣờng Khuyết tật. Tất cả các trƣờng trừ trƣờng Tƣơng Lai (Tật câm điếc) đều dạy đủ 9 môn bắt buộc do Bộ qui định. Hếu hét, do giáo viên không chuyên giảng dạy. Riêng đối với 1 số trƣờng dạy chƣơng trình 2 buổi/ngày - bán trú, việc giảng dạy các môn nghệ thuật này đƣợc chú ý hơn, trƣờng dã tự tìm nguồn và hợp dồng giáo viên chuyên giảng dạy.
Việc thực hiện chƣơng trình các bộ môn nghệ thuật, cho tới nay, đã đi vào nề nếp, đảm bảo tƣớng đối các yêu cầu kiến thức - kĩ năng do Bộ qui định : dạy đủ tiết, không cắt xén, dồn ghép tiết; tuy nhiên chất lƣợng chƣa thật đồng đều, chƣa thật cao.
III. Những thuận lợi - khó khăn - những cố gắng lớn trong quản lý các cấp: giáo
viên - phụ huynh trong việc thực hiện kế hoạch, mục tiêu giáo dục toàn diện:
1. Thuận lợi: - Từ sau ngày chia tách địa bàn hành chính, thành phố Đà Nắng đƣợc thu gọn, địa bàn
quản lý hẹp.
- Các trƣờng nội thành có nhiều điều kiện, trang bị khá đầy đủ các thiết bị dạy học của
các bộ môn.
- Phu huynh quan tâm đến việc học lập của con em. - Thiết bị, đồ dùng dạy học và dụng cụ học tập phục vụ cho các bộ môn này tƣơng đói
phong phú: dàn, các bô lắp ráp kĩ thuật, bộ mạch diện, vở vẽ, màu, sách vở...
- Về phía đội ngũ, có nhận thức đầy đủ hơn, thay đổi cách nghĩ không còn xem các bộ môn này là " môn phụ ", " dạy thế nào cũng được "; việc đánh giá các bài tập, các sản phẩm cũng đƣợc chú ý đúng mức.
2. Khó khăn: - Do chƣa dƣợc đào tạo nghiệp vụ kĩ, nhiều giáo viên chƣa nắm vững phƣơng pháp
đặc trƣng của các bộ môn nói trên.
- Đội ngũ GV chuyên rất mỏng. - Nhiều trƣờng có nhiều cơ sở lẻ, cơ sở lại xuống cấp một số trƣờng ngoại thành có nhƣng khó khăn nhất định, nhiều trƣờng không có phòng chức năng gây khó khăn - không ít cho việc phân công giảng dạy và đầu tƣ trang thiết bị.
20
- Kế hoạch đào tạo giáo viên chƣa đáp ứng nhu cầu thực tế của ngành về số lƣợng
cũng nhƣ chất lƣợng.
3. Những cố gắng lớn trong công tác quản lý các cấp: a. Sở GD - ĐT: Nhận thức dƣợc vai trò vị trí của các bộ môn nghệ thuật trong trƣờng Tiểu học, để từng bƣớc nâng cao hiệu quả việc thực hiện đồng bộ chƣơng trình dạy đủ 9 môn bắt buộc; sở GD - ĐT Đà Nẵng đã khắc phục mọi khó khăn, tập trung chỉ đạo, cụ thể:
- Đã xây dựng kế hoạch, chỉ đạo sâu sát việc thực hiện chƣơng trình, tăng cƣờng việc
kiểm tra, luôn đôn đốc, nhắc nhở, rút kinh nghiệm.
- Tổ chức bồi dƣỡng phƣơng pháp nghiệp vụ và rèn kĩ năng cho giáo viên, trong hè
1998 dà mời các chuyên viên của Vụ Tiểu học bồi dƣỡng cho giáo viên cốt cán.
- Tổ chức thao giảng, dự giờ, rút kinh nghiệm - Kết hợp với trƣờng Trung học nghệ thuật đào tạo gần 150 giáo viên (âm nhạc - mĩ
thuật), sẽ ra trƣờng vào đầu năm học tới.
- Phân công chuyên viên theo dõi, chỉ đạo trực tiếp việc thực hiện chƣơng trình việc
đánh giá xếp loại môn học theo đúng tinh thần TT 15.
b.Phòng GD-ĐT: - Cũng nhƣ ở Sở, các PGD - ĐT đều cử chuyên viên theo dõi, chịu trách nhiệm nắm
tình hình việc tổ chức giảng dạy và thực hiện chƣơng trình.
- Thƣờng xuyên thao giảng, rút kinh nghiệm giải đáp thắc mắc và từng bƣớc giúp giáo viên (không chuyên) khắc phục các khó khăn trong giảng dạy để nâng cao hiệu quả các giờ dạy.
c. Trường Tiểu học: - Những trƣờng có điều kiện đều tổ chức hợp đồng các giáo viên chuyên giảng dạy các bộ môn nghệ thuật này. Đầu tƣ kinh phí (bằng nhiều nguồn: kinh phí ngành - kinh phí huy động của PHHS ...) mua sắm trang thiết bị, xây dựng phòng bộ môn ... Nhờ vậy chất lƣợng dạy - học đã có chuyển biến khá rõ nét.
- Ở những trƣờng chƣa có điều kiện, lãnh đạo trƣờng đã đi sâu đi sát chỉ đạo; không để giáo viên tự cắt xén giờ giấc, nghiêm cấm việc dạy qua loa lấy lệ bắt học sinh hoàn thành sản phẩm ở nhà. Chỉ đạo chặt chẽ việc đánh giá bài làm sản phẩm của các em tại lớp.
- Tổ chức cho các em tham gia cuộc thi vẽ tranh theo đề tài; tổ chức triển lãm tranh.
21
d. Phụ huynh học sinh: - Quan tâm đến việc học tập của con em, mua sắm khá đầy đủ các dụng cụ học tập.
Các trƣờng nội thành, 80% học sinh có bộ lắp ráp kĩ thuật, bộ mạch diện.
- Thƣờng xuyên góp ý cho nhà trƣờng, giáo viên trong việc giảng dạy, đánh giá bài
làm.
- Đóng góp kinh phí cho trƣờng dể xây dựng các phòng chức năng. IV. Nhận định chung về kết quả giảng dạy, giáo dục và những đề xuất, đề nghị
với cấp trên:
Trong những năm qua, do đƣợc đầu tƣ và quan tâm đúng mức, chất lƣợng giảng dạy các bộ môn nghệ thuật dƣợc nâng lên rõ rệt, đặc biệt là ở các trƣờng nội thành, các trƣờng dạy 2 buổi/ngày, các trƣờng chuẩn Quốc gia.
- Việc thực hiện chƣơng trình đảm bảo theo yêu cầu qui định. - Việc cải tiến nội dung chƣơng trình và phƣơng pháp giảng dạy đã đƣợc chú ý đúng
mức giúp giáo viên từng bƣớc gỡ rối những thắc mắc và khó khăn trong chuyên môn.
- Việc tổ chức các Hội thi : Tiếng hát học sinh Tiểu học, thi triển lãm tranh, thi chọn sản phẩm khéo tay kĩ thuật đã đẩy mạnh việc giảng dạy có chất lƣợng các bộ môn nghệ thuật. Tuy nhiên, do không chuyên môn hóa nên chất lƣợng giảng dạy đại trà chƣa thật cao, chƣa đồng đều. Ở các vùng khó khăn, việc trang bị đầu tƣ cơ sở vật chất chƣa đảm bảo yêu cầu, để có thể tổ chức dạy tốt.
V. Những đề xuất đối với cấp Bộ: - Điều chỉnh, cân đối lại chƣơng trình ở từng khối lớp cho hợp lý và phù hợp voi tình
hình thực tiễn ổ địa phƣơng của từng bộ môn.
- Cải tiến nội dung dào tạo tại các trƣờng sƣ phạm. - Xây dựng kế hoạch đào tạo cụ thể đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển của bậc học Tiểu
học ở từng vùng - miền.
- Đầu tƣ kinh phí thích đáng cho giáo dục, trang bị các thiết bị, dụng cụ dạy học phục
KT. GIÁM ĐỐC SỞ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO TP.ĐÀ NẴNG
PHÓ GIÁM ĐỐC
vụ các bộ môn nghệ thuật một cách thiết thực hơn.
HUỲNH VĂN HOA
22
DANH SÁCH CÁC TRƢỜNG ĐÃ ĐIỀU TRA CƠ BẢN Thành phố Hồ Chí Minh
Stt 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 l1 12 13 14 15 16 17 18 19 20 Trƣờng tiểu học Nguyễn Thi Nguyễn Việt Hồng Trần Quang Diệu Rạch Ông Nguyễn Nhƣợc Thị Bình Đông Trần Nguyên Hãn Thiên Hộ Dƣơng Hồ Thị Kỷ Ngô Thời Nhiệm Dƣơng Minh Châu Trần Quang Cơ An Lạc 3 Đa Phƣớc Tân Tạo Bình Chánh Kim Đồng Phan Chu Trinh Trần Quốc Toản Lƣơng Thế Vinh Quận 3 3 3 8 8 8 8 10 10 10 10 10 Bình Chánh Bình Chánh Bình Chánh Bình Chánh Gò Vấp Gò Vấp Gò Vấp Gò Vấp Địa chỉ 448/6 Lê Văn Sĩ 300 CMT8 388 Lê Văn Sĩ 248 Dƣơng Bá Trạc P2 2 Bến Nguyễn Nhƣợc Thị 58 Bến Phú Định P16 45 Trần Nguyên Hãn P13 157 Tô Hiến Thành P12 8359512 425 Đƣờng 3-2 72B Nguyễn Lâm 438 Ngô Gia Tự 288 Hùng Vƣơng nối dài Xã Đa Phƣớc Xã Tân Tạo Ấp 3 xã Bình Chánh 1A Quang Trung P10 Đƣờng Thống Nhất P16 18/138 Nguyễn Du
23
Các bảng Thống kê tình hình giảng dạy và giáo viên các môn thể dục, nghệ thuật, kỹ
CÁC VĂN BẢN - TÀI LIỆU DO CÁC SỞ GIÁO DỤC Thực hiện theo yêu cầu của đề tài
thuật thuộc các trƣờng tiểu học năm học 1997-1998 TP Hồ Chí Minh
1 Quận 1 2 Quận 2 3 Quận 3 4 Quận 4 5 Quận 5 6 Quận 6 7 Quận 7 8 Quận 9 9 Quận 11 10 Quận 12 11 Quận Tân Bình 12 Quận Bình Thạnh 13 Quận Gò Vấp 14 Huyện Củ Chi 15 Huyện Hóc Môn 16 Huyện Cần Giờ 17 Huyện Bình Chánh 18 Huyện Nhà Bè Tỉnh Đồng Nai
1 TP Biên Hòa 2 Huyện Thống Nhất 3 Huyện Long Khánh 4 Huyện Vinh Cửu 5 Huyện Nhơn Trạch 6 Huyện Tân Phú 7 Huyện Long Thành 8 Huyện Định Quán 9 Huyện Xuân Lộc Tỉnh Lâm Đồng
1 TP ĐàLạt 2 Huyện Bảo Lộc 3 Huyện Đơn Dƣơng 4 Huyện Cát Tiên 5 Huyện Đat'eh 6 Huyện Đa Hoai 7 Huyện Lâm Hà 8 Huyện Bảo Lâm 9 Huyện Di Linh 10 Huyện Lạc Dƣơng
Tỉnh Bình Dƣơng
1. Sở Giáo dục - Đào tạo Bình Dƣơng: - Tình hình thực hiện việc giảng dạy 3 môn hát nhạc, mỹ thuật, kỹ thuật ở bậc tiểu học
(báo cáo tổng kết của Phòng tiểu học Sở Giáo dục)
- Bảng Thống kê tổng hợp của Phòng tiểu học Sở Giáo dục (Bảng 1) - Bảng Thống kê tổng hợp của Phòng tiểu học Sở Giáo dục (Bảng 2)
24
2. Thị xã Thủ Dầu Một 3. Huyện Tân Uyên 4. Huyện Thuận An 5. Huyện Bến Cát
Thành phố Đà Nẵng
1. Sở Giáo dục - Đào tạo Đà Nẵng: - Bảng báo cáo tổng hợp tình hình giảng dạy và giáo dục nghệ thuật cho học sinh tiểu
học của Giám đốc sở Giáo dục - Đào tạo
- Bảng thống kê tình hình giảng dạy và giáo viên các môn nghệ thuật thuộc các trƣờng
tiểu học và phổ thông cơ sở
2. Báo cáo của các huyện đã tập hợp thành một văn bản thống kê nói trên gồm các
quận: Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu và huyện Hòa Vang
25
SỐ TIẾT DẠY HÀNG TUẦN KHỐI PTCS & PTTH
Môn
Văn Tiếng Việt Sử Địa GDCD Ngoại ngữ Tóan Lý Hóa Sinh KTPT TDQS Nghệ thuật Tin học Cộng Lớp 6 3 3 1 2 1 4 5 0 0 2 2 2 2 27 Lớp 8 2 2 2 1 1 3 5 2 1 2 2 2 2 27 Lớp 9 2 3 2 1 1 3 4 2 2 3 2 2 0 27 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 2 2 1 2 1-2 3 5 3 2 1-2 2 2 26-28 1 2 1 2-1 3 5 3 2 2-1 2 2 27-25 2 1 1 1 3 5 3 2 1 2 2 25
Lớp 7 2 3 1 2 1 3 5 2 0 2 2 2 2 27 SỐ TIẾT DẠY CẢ NĂM Môn
KTCN KTNN Nữ công Lớp 6 66 Lớp 7 50-17 17-50 Lớp 8 42-24 24-42 Lớp 9 66-51 Lớp 10 Lớp 11 Lóp 12 32 32 48 16 32 32
26
TỔNG HỢP SỔ GIÁO VIÊN TIÊU HỌC NĂM HỌC 1997-1998
Thời điểm: Cuối năm học
Trong đó giáo viên
Trình độ chuyên môn
Xếp loại chuyên môn
THSP
Nữ
Quận Huyện
Biên chế
Tỷ lệ gv/lớp
Tỷ lệ hs/gv
Tốt
Hợp đồng
Dạy Nhạc
CĐS P
9+3 12+1 12+2
Tổng số Giáo viên
Dạy Họa
Đạt yêu cầu
Dạy Thể dục
Dạy Kỹ thuật
Dạy phổ cập
Đạt yêu cầu khá
Chƣa đạt yêu cầu
Đại học
Chƣa SP hoặc đang học
(1) Quận 1 Quận 2 Quận 3 Quận 4 Quận 5 Quận 6 Quận 7 Quận 8 Quận 9 Quận 10 Quận 11 Quận 12
(2) 834 271 701 362 630 669 297 787 403 642 614 404 Bình Thạnh 1077 665 397 1181 891 320 1280 733 294 531
O) 577 215 601 301 521 502 230 687 346 532 490 334 759 567 351 972 28 659 215 180 920 104 1 0 218 482
(5) (4) 151 647 48 223 77 598 44 312 147 435 23 590 49 228 189 629 49 305 44 588 49 524 131 273 50 802 83 537 387 10 1047 129 863 105 71 0 154 57
(6) 22 5 13 1 7 5 2 2 10 22 10 5 5 7 3 9 2 1 41 13 0 0
(13) 56 37 26 16 30 21 31 45 21 35 17 41 58 59 33 79 103 28 141 192 8 13
(17) 155 73 282 74 213 203 80 280 100 162 159 86 206 346 122 15 199 0 223 117 66 146
(16) 18 7 30 30 7 42 48 39 27 17 18 42 194 3 36 86 29 26 37 236 106 39
(14) 347 107 305 179 264 305 82 115 72 243 157 110 282 301 209 354 213 17 492 152 25 125
(15) 233 109 256 122 207 226 116 519 240 170 316 145 247 211 91 558 507 119 380 83 151 258
(18) 395 116 271 165 231 358 103 345 148 253 299 164 485 223 210 20 356 32 499 328 78 222
(19) 159 64 146 89 104 89 104 133 120 171 87 152 160 90 63 0 327 267 274 259 134 63
Gò Vấp Phú Nhuận Tân Bình Bình Chánh Cần Giờ Củ Chi Hóc Môn Nhà Bè Thủ Đức Cộng
0 140 459 13983 10444 10008 2523 185
(7) 18 2 10 0 4 8 2 0 10 23 11 2 1 2 0 5 2 2 40 8 0 0 150
(8) 40 7 8 9 16 27 2 3 1 29 20 23 4 11 4 9 2 9 50 44 0 0 311
(9) 29 0 0 16 1 1 0 0 0 0 0 1 0 4 0 0 0 0 14 0 0 0 66
(10) 23 32 7 40 7 47 7 141 33 35 22 7 0 16 0 0 21 7 17 0 2 49 513
(12) 89 4 60 8 54 50 6 48 4 91 78 5 45 41 9 90 36 1 30 16 2 5 772 1090 4456 5264 1117 3307 5301 3055
(20) 6 0 2 4 11 5 1 0 0 4 4 2 2 2 0 0 9 21 8 5 16 2 104
(21) 1.39 1.19 1.28 1.13 1.25 1.19 1.24 1.14 1.17 1.47 1.19 1.21 1.51 1.18 1.25 1.12 1.20 1.14 1.30 1.22 1.21 1.18 1.24
(22) 0.32 0.29 0.28 0.34 0.35 0.32 0.28 0.30 0.29 0.26 0.34 0.31 0.27 0.36 0.29 0.37 0.28 0.24 0.23 0.28 0.26 0.30 0.30
(11) 61 3 24 6 29 23 6 l 1 5 34 15 0 14 26 4 14 4 1 5 2 2 12 301
Số GV khác cấp dạy tiểu học (23) 17 4 21 2 18 15 3 0 3 57 60 1 15 0 77 2 13 0 0 0 308
27
TỈNH BÌNH DƢƠNG
Sau khi chủ nhiệm đề tài đến trực tiếp trao đổi với Trƣởng phòng Giáo dục tiểu học
thuộc sở GDĐT, phòng đã nhiệt tình hƣởng ứng và tiến hành khảo sát tại 4 huyện thị:
- Thị xã Thủ Dầu Một - Huyện Thuận An - Huyện Tân Uyên - Huyên Bến Cát Tại
mỗi huyện.chọn 3 trƣờng để nghiên cứu.
Sau đây là bản bán cáo tổng kết của trƣởng phòng tiểu học gửi cho chủ nhiệm đề tài,
kèm theo các bản báo cáo của các huyện và các trƣờng nói trên.
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN VIỆC GIẢNG DẠY 3 MÔN: HÁT- NHẠC, MỸ THUẬT, KỸ THUẬT Ở BẬC TIỂU HỌC
I. TÌNH HÌNH KHẢO SÁT Tiến hành khảo sát 4 huyện thị .Mỗi huyện , thị chọn 3 trƣờng tiêu biểu : trƣờng
mạnh, trƣờng nhỏ,trƣờng trung bình .
Mƣời hai trƣờng tiểu học tiêu biểu cho 107 trƣờng tiểu học trong tỉnh. Căn cứ kết quả,
phòng giáo dục tiểu học có những nhận định sau:
Toàn tỉnh đều thực hiện dạy đƣợc đủ 9 môn học , trong đó dạy hát nhạc ,mỹ thuật , kỹ thuật hầu hết giáo viên chủ nhiệm đều dạy tất cả các môn. Rải rác một vài trƣờng hợp mới có giáo viên chuyên trách môn hát_ nhạc , mỹ thuật (môn kỹ thuật chƣa có đào tạo lớp nào từ trƣớc đến nay),
II. TÌNH HÌNH GIẢNG DẠY Do không có giáo viên chuyên trách nên đa số giáo viên dạy không đạt yêu cầu ở ba
môn này:
Môn hát_ nhạc: giáo viên chỉ dạy cho học sinh thuộc bài hát và hát đƣợc, còn phần
nhạc lý thì không dạy đƣợc .
Môn mỹ thuật: giáo viên chỉ đƣa vật và tranh vẽ để học sinh xem và vẽ. Môn kỹ thuật: giáo viên còn gặp nhiều khó khăn. Vì thiếu trang thiết bị, đồ dùng
dạy học , đất vẽ.
III. NHẬN ĐỊNH CHUNG Giáo dục toàn diện là mục tiêu chung của nền giáo dục Việt Nam. Trong mấy năm qua, các trƣờng tiểu học đều cố gắng dạy đủ 9 môn trong đó có các môn hát_ nhạc, mỹ thuật và kỹ thuật. Song với đội ngũ giáo viên chuyên trách qua thiếu thì chất lƣợng giảng dạy ở ba môn này rất thấp dẫn đến việc đào tạo con ngƣời mất cân bằng.
Bình Dƣơng ngày 22_03_1999
Trƣởng phòng tiểu học Bùi Văn Bảy
28
DANH SÁCH CÁC TRƢỜNG ĐÃ ĐIỀU TRA CƠ BẢN Tỉnh Bình Dƣơng
Trƣờng tiểu học Quận, huyện Địa chỉ (đt)
Stt Chánh Mỹ 1 Nguyễn Du 2 Phú Hoà 3 Hội Nghĩa 4 Tân Vĩnh Hiệp A 5 Uyên Hƣng 6 Trần Quốc Tuấn 7 8 Long Nguyên 9 Mỹ Phƣớc B 10 Dĩ An 1 1 Bình Nhân 12 Bình Chuẩn Tx Thủ Dầu Một Tx Thủ Dầu Một Tx Thủ Dầu Một H. Tân Uyên H. Tân Uyên H. Tân Uyên H. Bến Cát H. Bến Cát H. Bến Cát H. Thuận An H. Thuận An H. Thuận An 829138 827679 828766 856723 859756 853671 864804 864001 852011 853781 840263
Huyện Tân Uyên: trƣờng Hội Nghĩa, Tân Vĩnh Hiệp A, Uyên Hƣng Huyện Bến Cát: trƣờng Trần Quốc Tuấn, Long Nguyên, Mỹ Phƣớc B Huyện Thuận An: trƣờng Dĩ An, Bình Nhân, Bình Chuẩn
KẾT QUẢ PHỎNG VẤN 9 TRƢỜNG TIỂU HỌC TỈNH BÌNH DƢƠNG Các vấn đề rút ra: Tƣơng tự nhƣ tình trạng các trƣờng ở TP HCM: giáo viên thiếu nghiêm trọng, tất cả các trƣờng đều đề nghị đào tạo giáo viên chuyên trách, về tài liệu, thiết bị, đồ dùng dạy học cũng thiếu nghiêm trọng
29
Đề tài NCKH 1998 - 2000 Đại học Sƣ phạm TP Hồ Chí Minh
Phụ lục . Tài liệu tham khảo . Các biểu mẫu (của đề tài)
30
Đề tài Giáo dục thẩm mỹ trong nhà trƣờng phổ thông (qua các môn nghệ thuật) PHỤ LỤC
TÌM HIỂU THÀNH PHẨM CỦA GDPT - SINH VIÊN CAO ĐẲNG - ĐẠI HỌC
31
Thống Kê Tình Hình Học Nghệ Thuật Cấp I, Cấp II Của Học Sinh CDSPMG TW 3
HỌC NHẠC HỌC HỌA XEM TRIỂN LÃM
TỈNH + -
CẤP I + - 31 7 14 3 16 1 17 12 1 8 3 1 4 7 3 1 l 1 1 2 5 2 4 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 5 4 1 5 1 2 CẤP II - + 44 1 1 2 1 1 2 1 2 1 1 1 1 1 1 CẤP I - + 33 14 14 3 17 1 13 3 10 2 7 2 3 1 3 2 5 1 3 1 1 1 1 1 2 5 2 4 2 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 4 1 4 1 5 1 1 2 CẤP II - + 35 1 3 2 1 1 1 3 1 1 1 14 4 3 2 0 2 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 1 0 1 0 0 57 14 14 14 15 7 3 2 5 6 3 1 1 1 1 1 2 5 2 4 3 3 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 6 4 5 2 2 ST T 1 Tp.Hồ Chí Minh 2 Vũng Tàu 3 Tiền Giang 4 Đồng Nai 5 Lâm đồng 6 Bình Thuận 7 Bình Dƣơng 8 Nam Định 9 Tây Ninh 10 Thái Bình 1 1 Bình Phƣớc 12 Trà Vinh 13 Sóc Trăng 14 Chơn Thành 15 Anh Giang 16 Hóc Môn 17 Huế 18 Long An 19 Nghệ An 20 Vĩnh Long 21 Hà Nội 22 Vĩnh Phú 23 Ninh Bình 24 Hải Phòng 25 Đà Lạt 26 Định Thành - BD 27 Hậu Giang 28 Bình Giã 29 Đà Nẵng 30 Quảng Trị 31 Kiên Giang 32 Tây Lý Tây - TG 33 Cần Thơ 34 Thanh Hóa 35 Ninh Thuận 36 Đồng Tháp 37 Bến Tre 38 Sông Bé
32
TÌNH HÌNH HỌC NHẠC HOẠ Ở CẤP I, II CỦA SV CĐSP MẦM NON KHOÁ 11 (LỚP 1C)
Vẽ Địa phƣơng SỐ TT Tổng số
1 NGHỆ AN 2 HÀ NỘI 3 THANH HOA 4 BÀ RỊA - VŨNG TÀU 5 HUẾ 6 THÁI BÌNH 7 BÌNH DƢƠNG 8 BÌNH THUẬN 9 VĨNH LONG 10 TÂY NINH 1 1 LONG AN (KG) 12 ĐỒNG THÁP 13 NAM ĐỊNH 14 BẾN TRE 15 CẦN THƠ 16 QUẢNG TRỊ 17 NINH THUẬN 18 TIỀN GIANG 19 LÂM ĐỒNG 20 ĐỒNG NAI 21 TPHCM 22 NHA TRANG 23 ĐÀ NẴNG 24 VĨNH PHÚ 25 NINH BÌNH + 1 2 1 1 1 2 1 1 1 1 44 1 Xem triển lãm + Cấp I + 2 1 1 2 - 1 - 2 - 2 - 1 - - - - - 1 - 2 3 1 3 1 1 2 3 7 19 2 7 8 9 4 6 8 5 2 3 3 1 5 19 15 19 83 1 1 1 1 Nhạc Cấp I Cấp II - + - - - - - - - - - - 1 - - - - - - - - - - 4 - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - Cấp II + - - - 3 - - - - 2 - - - 2 - 1 - - - 1 - - - 3 - - 2 - 15 - - - - -
33
THỐNG KÊ VỀ TRÌNH ĐỘ KIẾN THỨC NGHỆ THUẬT CỦA SINH VIÊN KHOA NGỮ VĂN NĂM THỨ II ĐHSP TP HCM (LỚP ĐH CỘNG ĐỒNG ĐÀ LẠT - 1999)
125 bài
33 sv 6 sv 3 sv 36 sv 15 sv 3 sv 3 sv 6 sv 2 sv 2 sv 2 sv 1 sv 1 sv 1 sv 2 sv 1 sv 2 sv 6 sv
I. Tổng số bài trả lờin II. Sinh viên ở 18 địa phƣơng: 1. Lâm Đồng - Đà Lạt 2. Đắc Lắc 3. Kon Tum 4. Quảng Ngãi 5. Ninh Thuận 6. Nghệ An 7. Bình Định 8. Phú Yên 9. Đồng Nai 10. Khánh Hoà 11. Quảng Bình 12. Hà Tĩnh 13. Thanh Hoá 14. Thái Bình 15. Hải Dƣơng 16. Hà Bắc 17. Nam Định 18. Không ghi địa chỉ III. Phần trả lời câu hỏi. 1. Bức tranh La Joconde của Léonard de Vinci: Gọi đúng tên tác giả: Gọi sai tên tác giả: Không biết tên tác giả: 40 sv 9 sv 76 sv
34
12 sv 41 sv 74 sv
Gọi đúng tên bức tranh: Gọi không đúng tên bức tranh Không biết tên bức tranh: 2. Nhạc sĩ nổi tiếng thế giới: "Bethoven:" "Moda:" "Đặng Thái Sơn:" Không biết: "Phác Tô Văng:" " Mimoda:" 19 sv 24 sv 6 sv 65 sv 1 sv 6 sv
Đề tài NCKH 1998 - 2000 Đại học Sƣ phạm TP Hồ Chí Minh
Phục lục Tài liệu tham khảo Các biểu mẩu (của đề tài)
35
ĐỀ CƢƠNG BÁO CÁO GIÁO DỤC THẨM MỸ TRONG NHÀ TRƢỜNG PHỔ THÔNG CƠ SỞ
Báo cáo của bà Tô Tuyết Dung, Trưởng phòng PTCS - Sở GD TP Hồ Chí Minh trong cuộc hội thảo "Giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường phổ thông tại TP Hồ Chí Minh" do Lâm Vinh làm Chủ nhiệm đề tài, Ban KHXH Thành ủy TP Hồ Chí Minh quản lý, năm 1989
I. LỜI NÓI ĐẨU Quan niệm về cái đẹp rất rộng. Các đẹp không chỉ là hình dáng, đƣờng nét bên ngoài mà là cả nội dung tâm hồn, tình cảm bên trong. Ta quan niệm cái gì đem lại cho con ngƣời những khoái cảm thẩm mỹ là cái đẹp. Cái đẹp từ thiên nhiên đem đến, từ con ngƣời tạo nên. Các ánh nắng rực rỡ, chan hòa của buổi bình minh, mặt trời lặn sau dãy núi còn để lại những tia nắng yếu ớt, vàng dịu "trên bầu trời, một lời nói, một cử chỉ, một hành vi đẹp đều đem lại cho con ngƣời những cảm giác dễ chịu, sảng khoái, phấn chấn tâm hồn.
Phạm vi tôi trình bày là vấn đề giảng dạy các bộ môn thẩm mỹ hiện nay trong các trƣờng phổ thông cơ sở của Thành phố. Chúng tôi chƣa dám đề cập đến vấn đề giáo dục thẩm mỹ vì vấn đề quá rộng.
II. TÌNH HÌNH GIẢNG DẠY CÁC MÔN THẨM MỸ TRONG CÁC TRƢỜNG
Hát những bài hát thiếu nhi, có dân ca
PHỔ THÔNG CƠ SỞ A Chính khóa Các môn thẩm mỹ dạy trong các trƣờng cấp 1 và 2 là: nhạc, họa, thể dục, thủ công... Ở cấp 1 dạy từ lớp 1 đến lớp 5. Mỗi tuần 1 tiết Ở cấp 2 dạy từ lớp 6 đến lớp 7 từ trƣớc tới nay. Nay theo quyết định 305 sẽ dạy đến lớp 8. Mỗi tuần 2 tiết Nội dung Cấp 1 Vẽ tả thực, vẽ trang trí, xem tranh Quận 3 bắt đầu dạy thí điểm chƣơng trình cải cách âm nhạc từ năm 1980 đến nay ở cấp 1 và dừng lại đó. Ba năm nay, theo sự chỉ đạo nghiên cứu của Khoa Giáo Thành ủy, Sở giáo dục đã đƣa chƣơng trình nhạc dân tộc vào dạy thí điểm ở một số trƣờng trong các quận 3,10, Củ Chi (Triệu Thị Trinh, Lê Lợi...) ở các lớp 1, 2, 3 Năm học 1988-1989 sẽ dạy ở các lớp 4, 5 Cấp 2 Môn vẽ: Vẽ theo mẫu vật. Vẽ trang trí, cách đánh bóng, góc độ xa gần Môn nhạc : Có
nhiều phân môn :
1. Hát 2. Ký xƣớng âm 3. Âm nhạc thƣờng thức
36
Về giáo viên bộ môn Ở cấp I. Theo quyết định 243/QĐ của Hội đồng Bộ trƣởng thì có giáo viên chuyên trách dạy các bộ môn thẩm mỹ. Nhƣng thực tế, hầu hết chƣa nơi nào thực hiện đƣợc quyết định này mà giáo viên chủ nhiệm lớp đảm trách giảng dạy bộ môn này. Do đó hạn chế nhiều mặt:
- Phƣơng pháp giảng dạy lúng túng, tùy tiện. Giảng dạy cho đủ chƣơng trình, chƣa đạt
đƣợc yêu cầu bộ môn, chƣa có thể gọi là giáo dục thẩm mỹ thông qua các bộ môn thẩm mỹ
- Trừ có Q11, huyện Duyên Hải đã cố gắng bồi dƣỡng một số giáo viên chuyên trách
để dạy ở cấp I
Ở cấp II. Giáo viên giảng dạy bộ môn nhạc họa đƣợc đào tạo chính thống gồm nhiều
nguồn:
100 giáo viên đƣợc đào tạo trƣớc giải phóng 800 giáo viên do Sở Giáo dục đào tạo ngắn ngày (từ năm 1978 - 1980) 40 giáo viên do Nhạc viện và Trƣờng cao đẳng Mỹ thuật đào tạo * Số giáo viên này không đƣợc quan tâm chăm sóc, không đƣợc bồi dƣỡng trau dồi nghiệp vụ, bị sử dụng một cách lãng phí nhƣ đƣa dạy các bộ môn khác, làm công tác đời sống... Do đó, hiện nay mai một gần hết. Anh chị em xin thôi việc, bỏ nghề rất nhiều. Nay chi còn hơn 100 giáo viên nhạc (135) và 144 giáo viên mỹ thuật
Số giáo viên dạy nhạc họa bố trí không đều ở các quận. Huyện Duyên Hải, Nhà Bè gần nhƣ không có. Trong khi đó ở Q3 có đến 20 giáo viên mỹ thuật. Tân Bình có 19 giáo viên nhạc. Tính theo số lớp 6,7 hiện có thì số giáo viên còn thiếu mỗi môn hơn 200 ngƣời. Đó là chƣa kể đến số lớp 8 theo quy định của QĐ305
Giáo viên họa của Hóc Môn thiếu nên huyện đã giải quyết một cách tích cực bằng cách mở hệ đào tạo tại chức 3 năm. Mỗi năm học 3 tháng. Tiền học phí huyện đài thọ rất lớn: Mỗi ngƣời 1 tạ gạo trong một kỳ. Năm học 1988 - 1989, Cao đẳng sƣ phạm cho ra trƣờng độ 50 em 2 môn
Tóm lại Việc giảng dạy các bộ môn thẩm mỹ chƣa đƣợc coi trọng, nhất là ở cấp I. do trình độ nhận thức, do năng lực quản lý của các cấp chỉ đạo giáo dục và do chƣa có nguồn đào tạo giáo viên nhạc họa chính quy ở cấp I nhƣ cấp II. Mặt khác các phƣơng tiện giáo dục các bộ môn này quá thiếu, quá hiếm và giá cả quá cao nhƣ giấy croquis, bút chì, màu nƣớc. Nhạc cụ thì chỉ cố 2 loại đàn: guitar và mandoline
Mặt khác khá quan trọng là chƣơng trình hiện nay chƣa hợp lý, chƣa sát trình độ và điều kiện thực tế. Và trƣớc hết là sách giáo khoa cho học sinh, sách hƣớng dẫn giảng dạy cho giáo viên
B. Hoạt động ngoại khóa Các hoạt động ngoài giờ học nhƣ phong trào thể dục nhịp điệu, phong trào văn nghệ nhân các ngày lễ lớn, sinh hoạt đầu tuần, hát chuyển tiết, phong trào làm báo tập, báo tƣờng đã góp phần giáo dục thẩm mỹ cho học sinh không nhỏ. Một số Ban giám hiệu các trƣờng Võ Trƣờng Toàn, Chƣơng Dƣơng, Đinh Tiên Hoàng (Q1), Bến Cảng (Q4) Nguyễn
37
Thái Sơn, Đoàn Thị Điểm (Q3), Minh Đạo (Q5)... có nhãn quan thẩm mỹ nên đã coi trọng giáo dục thẩm mỹ cho các em thông qua các tổ chức sinh hoạt, sắp xếp chỗ làm việc, nơi sinh hoạt, trang hoàng lớp học đẹp đẽ, ngăn nắp. Từ lâu các trƣờng đã phấn đấu xây dựng môi trƣờng sƣ phạm theo khẩu hiệu : “Đẹp nhƣ công viên, sạch nhƣ bệnh viện”. Thực tế các Trƣờng trên đây đã thực hiện đƣợc một phần khẩu hiệu này
Môi trƣờng sƣ phạm của Võ Trƣờng Toản đã có tác dụng nhiều đến học sinh. Phòng truyền thống, lớp học trang trí hoa lá rất tƣơi mát. Sự sắp xếp đội ngũ, tổ chức nội dung sinh hoạt ngày thứ 2 hàng tuần của Trƣờng góp phần giáo dục thẩm mỹ cho học sinh đáng kể (dẫn chứng)
Trƣờng Nguyễn Thái Sơn lúc nào cũng sạch nhƣ ly nhƣ lau, suốt buổi học, suốt ngày học. Trong giờ học cả trƣờng im phăng phắc, không có một tiếng động nào ngoài tiếng giở vở của Trò, giảng bài của Thầy
Trƣờng Bến Cảng, Phan Tây Hồ, Chƣơng Dƣơng đều là những trƣờng ở một địa thế
chật hẹp nhƣng ai vào trƣờng cũng có cảm giác đó là những ngôi nhà trang nhã thanh lịch.
Phong trào báo tƣờng, báo tập, thể dục nhịp điệu, văn nghệ... chính là phong trào tập
thể, tạo nên cái đẹp về nhiều mặt từ nội dung cho đến hình thức
Có thể nói Ban giám hiệu nào có ý thức và coi trọng giáo dục thẩm mỹ sẽ có tác dụng rất lớn trong việc hình thành nhân cách, tình cảm thẩm mỹ cho các em, đem lại cho các em những niềm vui thẩm mỹ. Từ nhận thức và tình cảm thẩm mỹ đó, các em sẽ góp phần tạo nên cái đẹp trong cuộc sống. Và chính các em này khó có thể nào gây lên những tội ác, khó có thể nào có những hành vi không đẹp đƣợc.
Tuy nhiên, diện các trƣờng có mỹ quan này chƣa đƣợc nhiều, có nhiều biểu hiện và các nguyên nhân khác nhau: trƣờng học vẫn còn rác rƣởi, bàn ghế gãy nát, sắp xếp xộc xệch, lúc nào cũng ồn ào, ngƣời đi lại tấp nập... Chủ yếu là do nhận thức về mỹ dục, do thiếu điều kiện, thiếu nhân tố: ông thầy và sách vở
KIẾN NGHỊ Vì vậy, để giảng dạy tốt các bộ môn thẩm mỹ trong nhà trƣờng phổ thông cơ sở, với
tình hình kinh tế, xã hội hiện nay theo chúng tôi thì:
1. Cần tập trung giải quyết yêu cầu giáo dục thẩm mỹ trƣớc hết cho cấp I và trƣớc mắt: 2. Giải quyết chƣơng trình, sách giáo khoa cho trò, và sách hƣớng dẫn giảng dạy cho
giáo viên đủ
3. Bồi dƣỡng cho đội ngũ giáo viên cấp I, cho cán bộ quản lý chỉ đạo về vai trò, tác dụng giáo dục thẩm mỹ đối với thế hệ trẻ, về quan niệm, về nội dung và phƣơng pháp giáo dục và giảng dạy các môn thẩm mỹ
4. Về lâu dài phải có hệ giáo dục đào tạo giáo viên nhạc họa thể dục ở trƣờng Cao
đẳng sƣ phạm, có nội dung đầy đủ ở chƣơng trình đào tạo giáo viên cấp I
Có sách tham khảo cho các bậc phụ huynh
38
Giáo dục âm nhạc trong nhà trƣờng phổ thông, thực trạng và hƣớng tới
Nhạc sĩ HOÀNG LONG
Trong chƣơng trình giáo dục phổ thông ở các nƣớc phát triển cũng nhƣ nhiều nƣớc trên thế giới đều cố giảng dạy môn âm nhạc. Với tƣ cách là một môn bắt buộc nhƣ các môn văn hóa khác, âm nhạc góp phần không nhỏ vào việc giáo dục tình cảm, đạo đức, trí tuệ và thẩm mỹ cho học sinh. Âm nhạc trong trƣờng phổ thông, với nội dung và phƣơng pháp giảng dạy tốt, đem đến cho các em niềm vui, sự hứng khởi, tính lạc quan yêu đời, tính mạnh dạn, óc tƣởng tƣợng sáng tạo, sự linh hoạt dễ hòa nhập vào cộng đồng... Có nƣớc học sinh đƣợc học âm nhạc từ trƣờng mẫu giáo đến bậc tiểu học và trung học cơ sở. Có nƣớc dạy âm nhạc đến hết bậc PT trung học (cấp III) nhƣ ở Đức, Hung, Lítva... một số nƣớc ngƣời ta còn dạy môn nghệ thuật trong đó bao gồm 4 chuyên đề về âm nhạc, múa, mỹ thuật và sân khấu (ở Mỹ môn nghệ thuật có tới 6 chuyên đề) một số nƣớc dạy nghệ thuật chỉ có âm nhạc và nghệ thuật tạo hình.
Nhận thức đƣợc vai trò giáo dục của nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng, từ những năm 1956 - 1957 ngành giáo dục nƣớc ta đã đặt vấn đề đƣa âm nhạc, hội họa vào nhà trƣờng. Trong thời hóa biểu đã có ghi giờ nhạc, giờ họa. Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan và hoàn cảnh chiến tranh, việc giáo dục âm nhạc tại các trƣờng phổ thông thƣờng bị coi nhẹ, thả nổi, không có chiến lƣợc cho môn học, nhiều nơi bỏ trống hoàn toàn.
Từ những năm 1990, toàn ngành giáo dục dù có một số lƣợng giáo viên âm nhạc tuy còn ít so với các môn văn hóa có truyền thống khác nhƣng tính ra đã lên tới cả ngàn ngƣời. Số giáo viên đó tập trung ở các thành phố lớn, thị xã... Có nơi có tới hàng trăm ngƣời. Tuy vậy, có tỉnh thị xã hầu như vẫn vắng bóng.
Năm học 1993 - 1994 Bộ ra quyết định ở bậc tiều học phải dạy đủ 9 môn bắt buộc (trong đó có hát, nhạc). Bộ sách giáo khoa hát - nhạc trƣờng tiểu học cho học sinh ra đời cùng với sách hƣớng dẫn giảng dạy cho giáo viên. Ngƣời ta đặt câu hỏi: ai sẽ dạy môn hát - nhạc cho các em ? Có hai hƣớng giải quyết: Thứ nhất, dùng giáo viên âm nhạc chuyên trách đƣợc đào tạo về chuyên môn. Đó là điều các trƣờng mong muốn, nhƣng để có đƣợc đội ngũ này thật khó khăn. Làm sao có ngay hàng vạn giáo viên cho các trường dù có trường có đến 30 - 40 lớp chỉ xin một người! Qua khảo sát, chúng tôi thấy một số nơi giải quyết theo hƣớng này và trong một vài năm đã đủ giáo viên âm nhạc cho tất cả các trƣờng tiểu học trong địa bàn (thí dụ: thị xã Hà Đông, tình Hà Tây) ở Hà Nội, tại TP. Hồ Chí Minh số giáo viên dạy âm nhạc ở các trƣờng tiểu học chung đƣợc gia tăng dần.
Hƣớng thứ hai có khả năng thực thi nhanh chóng hơn. Đó là mở các lớp bồi dƣỡng ngắn ngày và đều kì cho giáo viên văn hóa đang trực tiếp đứng lớp có năng lực về âm nhạc để họ có thể đảm nhận dạy hát - nhạc mỗi tuần một tiết theo sách giáo khoa. Các tỉnh nhƣ Bắc Ninh, Bắc Giang, Hòa Bình, Phú Yên, Khánh Hòa... đã làm theo hƣớng đi. Tới nay, vụ tiểu học cho biết, tính trên cả nƣớc các trƣờng tiểu học có dạy hát đã đạt tới 70 - 80%, còn số trƣờng có dạy hát + nhạc mới đƣợc khoảng 10%. Khó khăn chính vẫn là việc đào tạo và bồi dưỡng giáo viên. Về trang thiết bị cho môn học đã đƣợc giải quyết tƣơng đối tích cực Nam học 1997 - 1998 bộ sách giáo khoa âm nhạc các lớp 6 - 7 - 8 đƣợc
39
NXB Giáo dục ấn hành. Vụ trung học phổ thông đã có văn bản yêu cầu các tỉnh triển khai dạy môn âm nhạc và mỹ thuật. Khi đã có lệnh, một số địa phương lâu nay ít chú ý đến các môn nghệ thuật nhận ra sự chậm trễ và đang tìm phương hướng khắc phục tích cực.
Hiện nay trên cả nƣớc ta có một Trung tâm đào tạo giáo viên âm nhạc, mỹ thuật, đó là trƣờng CĐSP nhạc - họa trung ƣơng. Một số nơi nhƣ Hà Nội, TP. HCM, Thanh Hóa, Bắc Giang, Thái Bình, Vĩnh Yên, Hà Tây, Khánh Hòa, Hải Phòng... đã mở khoa (hoặc lớp) đào tạo giáo viên nhạc - họa đặt ở các trƣờng SP hoặc trƣờng văn hóa nghệ thuật của tỉnh. Khoảng 3 - 4 năm trở lại đây, đội ngũ giáo viên âm nhạc tăng lên rõ rệt, nhưng trên bình diện cả nước vẫn còn thiếu tới hàng vạn người. Cả hai cấp học (tiểu học và THCS) phải cần có 3 - 4 vạn giáo viên nhạc họa. Để giải quyết đội ngũ giáo viên các địa phƣơng không thể trông chờ mà phải tự lo đào tạo bồi dƣỡng nhƣ nhiều tỉnh đã làm.Chúng tôi đƣợc biết, hiện nay đã có gần 30 địa chỉ đào tạo giáo viên âm nhạc đặt tại các địa phương để chuẩn bị cho các năm học tới.Trƣớc hết các trƣờng PTCS vẫn đƣợc ƣu tiên bố trí giáo viên chuyên trách.
Năm vừa qua, Bộ GD-ĐT và Bộ VH-TT đã thống nhất kế hoạch đào tạo giáo viên âm nhạc, mỹ thuật có trình độ đại học SP nhạc (hoặc họa). Công việc đang được xúc tiến khẩn trương để có thể chiêu sinh sớm. Các nhạc viện Hà Nội, TP. HCM, Đại học mỹ thuật Hà Nội, TP.HCM, Đại học nghệ thuật Huế, trƣờng CĐSP nghệ thuật trung ƣơng sẽ là những địa chỉ đào tạo hai loại hình giáo viên này. Nếu vấn đề đào tạo và bồi dưỡng giáo viên được triển khai tích cực, chỉ trong vòng 10 năm tới chúng ta tin rằng sẽ giải quyết khá cơ bản vấn đề giáo viên cho các môn nghệ thuật, một vướng mắc "kinh niên" kéo dài suốt 30 - 40 năm nay.
Phải ghi nhận rằng mấy năm qua Bộ và các địa phương đã có chuyển biến khá mạnh mẽ về nhận thức và hành động để từng bƣớc đƣa giáo dục nghệ thuật vào nhà trƣờng, đƣa môn âm nhạc, mỹ thuật đi vào đời sống học sinh.
Có một hiện tƣợng rất đáng hoan nghênh là vài năm qua khi thi giáo viên dạy giỏi các cấp học, một số địa phƣơng nhƣ Hà Nội, Thanh Hóa... đã không quên thi giáo viên dạy giỏi môn âm nhạc, mỹ thuật
Vào năm học 1998-1999 sắp tới, để giúp giáo viên âm nhạc các trƣờng THCS dạy tốt môn học, NXB Giáo dục sẽ xuất bản 3 cuốn âm nhạc 6-7-8 dùng cho giáo viên (bên cạnh 3 cuốn giáo khoa đã phát hành cho học sinh năm vừa qua). Đây chính là cố gắng từ Bộ, từ vụ chỉ đạo đang quan tâm đến môn học, để từng bƣớc mở rộng đi vào nền nếp và dần dần nâng cao chất lƣợng dạy và học.
Điều rất mừng nữa là sau nghị quyết Trung ƣơng II của Đảng đi vào cuộc sống, toàn ngành giáo dục đã có những khởi sắc, trong đó việc phấn đấu thực hiện dạy đủ các môn học nhằm giáo dục toàn diện. Là một "binh chủng" tuy còn non trẻ, nhƣng chắc chắn việc giáo dục âm nhạc cho con em chúng ta trong các trƣờng PT sẽ tích cực góp phần vào mục tiêu đào tạo chung. Sách giáo khoa, sách giáo viên, trang thiết bị cho môn học đã có sự chuẩn bị! Đội ngũ giáo viên bộ môn sẽ ngày một đông đảo. Triển vọng của sự nghiệp giáo dục âm nhạc trong nhà trƣờng đã thấy sáng lên tốt đẹp.
Báo Giáo dục và thời đại số 170 Chủ nhật 22/03/1998
40
TỔNG HỢP TÌNH HÌNH GIẢNG DẠY VÀ GIÁO DỤC NGHỆ THUẬT CHO HỌC SINH TIỂU HỌC (*)
I. Nhận định chung về vai trò, vị trí của các môn nghệ thuật ( nhạc hát, mỹ thuật, kỹ thuật ) trong nhà trƣờng tiểu học do Bộ đề ra qua các thời kì (thời kì trƣớc và sau khi có chủ trƣơng dạy đủ 9 môn)
II.Tổng hợp tình hình và số liệu về 3 vấn đề: Tình hình trƣờng lớp, tình hình thực hiện
chƣơng trình, tình hình đội ngũ giáo viên.
III. Những thuận lợi, khó khăn, những cố gắng trong quản lí của cấp Sở và của cấp quận huyện thị, cấp trƣờng, của giáo viên và phụ huynh học sinh trong việc thực hiện kế hoạch, mục tiêu giáo dục toàn diện (về giáo dục nội, ngoại khóa, về đào tạo, bồi dƣỡng giáo viên, về chuẩn bị tài liệu, sách vở và phƣơng tiện dạy học.)
IV. Nhận định chung về kết quả chất lƣợng giảng dạy, giáo dục và những đề xuất, đề nghị với
cấp trên.
Giáo dục Tiểu học thuộc Sở GD - ĐT.
(*)Đề cƣơng gợi ý thực hiện bản Tổng hợp tình hình của trƣờng, Phòng Giáo dục quận, huyện thị và của Phòng
41
Tìm hiểu về Giáo dục thẩm mỹ qua các môn Nhạc-hát, Mỹ thuật Kỹ thuật
Lớp 5 Lớp3 Lớp 2
Lớp3 Lớp 5 Tổng số: Lớp 4 Lớp4
Lớp2
Lớp 5 Lớp 4
Lớp3 Lớp 5 Lớp 4
Tỷ lệ so với tổng số giáo viên:
Tỷ lệ so với tổng số giáo viên:
Tên trƣờng Tiểu học: Thuộc quận (huyện): Địa chỉ: Điện thoại: Số lớp học: Lớp1 Số học sinh: Tổng số: Lớp1 Số thầy cô giáo: Tên thầy (cô) hiệu trƣởng: Các môn nhạc - hát, mỹ thuật, kỹ thuật: 1. Năm bắt đầu thực hiện đầy đủ các môn: Số tiết mỗi lớp: Lớp3 Lớp 2 Lớp1 2. Năm bắt đầu thực hiện một môn: (Xin nêu rõ tên bộ môn) Số tiết mỗi lớp: Lớp 1 Lớp 2 3. Lí do không thực hiện đƣợc các môn khác:................................................................. .......................................................................................................................................... .......................................................................................................................................... 4. Thầy cô dạy đƣợc tất cả 9 môn (6 môn văn hóa và 3 môn trên): Số lƣợng: 5. Thầy cô chỉ dạy môn nhạc - hát và 6 môn văn hóa (không dạy mỹ thuật, kỹ thuật): Số lƣợng: 6. Thầy cô chỉ dạy 6 môn văn hóa và mỹ thuật, kỹ thuật (không dạy nhạc - hát): Số lƣợng: Tỷ lệ so với tổng số giáo viên:
42
Mỹ thuật Kỹ thuật
Khác (xin nêu rõ)
7. Thầy cô chuyên trách dạy nhạc hát, không dạy văn hóa: Số lƣợng trong biên chế Số lƣợng dạy hợp đồng Nguồn đào tạo:................................................................................................................. 8. Thầy cô đƣợc cử đi bồi dƣỡng chuyên môn các môn trên: Số lƣợng: Thời gian học: .................................................................................................................. Cơ quan mở lớp bồi dƣỡng:............................................................................................. Thành phần giảng viên:.................................................................................................... Kết quả học bồi dƣỡng:.................................................................................................... 9. Kết quả học tập của học sinh qua từng môn (nhận xét chung) Nhạc - hát: Rất tốt Có tiến bộ Trung bình Yếu Không rõ Mỹ thuật: Rất tốt Có tiến bộ Trung bình Yếu Không rõ Kỹ thuật: Rất tốt Có tiến bộ Trung bình Yếu Không rõ 10. Sự ham thích, hứng thú của học sinh đối với các môn trên: Bình thƣờng Rất ham thích Xin nêu lí do:.................................................................................................................... .......................................................................................................................................... 11. Số lƣợng học sinh có năng khiếu đặc biệt về các môn trên: Nhạc hát 12. Các hoạt động ngoại khóa (xin nêu rõ): (Ví dụ: các lớp ngoại khóa, phong trào hát múa, hội diễn, hội thi,...) .......................................................................................................................................... .......................................................................................................................................... 13. Ý kiến chung của phụ huynh HS đối với việc dạy các môn trên: Hoan nghênh Không hoan nghênh .......................................................................................................................................... .......................................................................................................................................... 14. Tài liệu và đồ dùng dạy học (xin nêu rõ tình trạng thiếu hoặc đủ): .......................................................................................................................................... .......................................................................................................................................... .......................................................................................................................................... 15. Những ý kiến đề nghị về các môn này (chƣơng trình, số tiết, đào tạo GV,. ..) .......................................................................................................................................... .......................................................................................................................................... ..........................................................................................................................................
Ý KIẾN ĐÓNG GÓP VỀ VIỆC GIÁO DỤC THẨM MỸ - NGHỆ THUẬT VÀ GIẢNG DẠY CÁC MÔN NGHỆ THUẬT TRONG NHÀ TRƢỜNG PHỔ THÔNG
A. Những ƣu điểm, thành tựu của việc cải tiến dạy các môn nhạc họa trong những
năm gần đây (về chủ trƣơng, nội dung, biện pháp, hiệu quả)
B. Những vấn đề cơ bản còn lại hiện nay 1. Chủ trƣơng, quy định của Bộ 2. Quản lý của cấp thành phố, quận huyện 3. Đội ngũ giáo viên (số lƣợng, chất lƣợng, cách đào tạo bồi dƣỡng) 4. Tình hình học sinh (tinh thần thái độ học tập, năng lực, năng khiếu)
43
Điện thoại:
Nơi công tác/ giảng dạy hiện nay:
5. Tình hình Phụ huynh học sinh 6. Chƣơng trình 7. Sách giáo khoa 8. Phƣơng tiện, thiết bị c. Vấn đề bức xúc nhất và cần lƣu ý nhất hiện nay là gì ? Ngƣời phát biểu: Tên: Địa chỉ: Bộ môn: Số giờ thực hiện trong tuần:
TRONG CÁC TRƢỜNG PHỔ THÔNG TIỂU HỌC
BẢNG THỐNG KÊ TỔNG HỢP TÌNH HÌNH CÁC MÔN NGHỆ THUẬT
Tình hình trƣờng lớp
Thực hiện chƣơng trình
Tình hình đội ngũ GV
Tên Quận huyện
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
l 1
12
Công tác đào tạo bồi dƣỡng của Sở trong 3 năm 96-97-98 Giáo viên nhạc-hát
Giáo viên MT- KT
Số lớp đã mở
CỘNG
Sở GD và ĐT Tỉnh Phòng GD Tiểu học
Ngƣời làm thống kê
44
BẢNG THÔNG KÊ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHƢƠNG TRÌNH VÀ ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TlỂU HỌC VỀ CÁC MÔN NHẠC-HÁT, MỸ THUẬT, KỸ THUẬT
Tỉnh Quận, huyện:
Tình hình đội ngũ giáo viên
Tình hình trƣờng lớp 2 1 7 8 9 12
Số trƣờng tiểu học Số trƣờng THCS có lớp tiểu học Số lớp chỉ dạy đƣợc 1 hoặc 2 môn Số lớp đã dạy đủ cả 3 môn Tổng số GV tiểu học Số GV dạy đƣợc cả 3 môn Số GV chỉ dạy đƣợcl hoặc 2 môn Số GV chuyên trách thỉnh giảng 3 Tổng số lớp tiểu học của cả hai loại trƣờng Thực hiện chƣơng trình 6 5 4 Số lớp chƣa dạy đƣợc cả 3 môn 10 Số GV không dạy đƣợc cả 3 môn 11 Số GV chuyên trách đƣợc đào tạo qua CĐSP
Ngƣời làm thống kê
45
KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THAO GIẢNG VÀ TỌA ĐÀM VỀ GIẢNG DẠY - GIÁO DỤC NGHỆ THUẬT CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
Mục đích - Ý nghĩa: Trong khuôn khổ mục tiêu nghiên cứu khoa học kết hợp giữa Chủ nhiệm đề tài của Trƣờng Đại học Sƣ Phạm và Phòng Giáo dục Tiểu học, tổ chức thao giảng mẫu và tọa đàm để tìm hiểu, đánh giá khả năng, hiệu quả dạy và học các môn nhạc - hát, mỹ thuật, kỹ thuật cho học sinh tiểu học.
Thời gian - Địa điểm: Tổ chức tại địa điểm do Sở Giáo dục và Đào tạo chọn, trong phạm vi một ngày: buổi
sáng thao giảng, buổi chiều tọa đàm.
Buổi thao giảng (7:30 - 11:30)
- Địa điểm: một phòng học thích hợp cho giảng dạy các môn nghệ thuật. -Dạy và học: Thầy (Cô) và học sinh của một lớp hoặc chọn từ nhiều lớp. -Dự lớp: Đại diện của Đề tài ĐHSP và các cán bộ Sở, Phòng Giáo dục, Ban Giám hiệu, giáo viên bộ môn.
- Thời gian: 2 môn, mỗi môn 1 tiết hoặc 60 phút. - Thẩm định: bằng phiếu do mỗi thành viên ghi, phát biểu nhận xét của một số đại
biểu.
Buổi tọa đàm (13:30 - 16:30)
2 báo cáo của cấp phòng (viết và đọc khhoảng 10 phút) 2 báo cáo của cấp trƣờng (viết và đọc khhoảng 10 phút) 1 báo cáo tổng hợp của phòng tiểu học.
- Điạ điểm: Do Sở GD -ĐT sắp xếp. - Thành phần dự: Phía địa phƣơng: Cán bộ quản lí Phòng Tiểu học, một số đại diện Phòng GD quận, huyện và trƣờng, một số giáo viên bộ môn ( khoảng 15 ngƣời) Phía đề tài ĐHSP: Chủ nhiệm đề tài và các thành viên công tác (5 ngƣời). Đại biểu: Đại diện Giám đốc Sở GD - ĐT và Sở Văn hóa - Thông tin (2 ngƣời) - Chƣơng trình tọa đàm: 1. Tuyên bố lí do 2. Đọc báo cáo tổng hợp tóm tắt của Phòng Tiểu học. 3. Đọc 4 báo cáo của 2 Phòng Giáo dục và 2 trƣờng tiểu học. 4. Trao đổi, phát biểu. 5. Phát biểu của đại biểu. 6. Bế mạc. - Phân công chuẩn bị nội dung: - Điều khiển chƣơng trình: Trƣởng phòng tiểu học và Chủ nhiệm đề tài (2 ngƣời) - Thƣ kí: 1 thƣ kí do Phòng tiểu học cử và 1 thƣ kí do đề tài cử.
------
46
Thực hiện mục tiêu mỹ dục trong việc giảng dạy các bộ môn nghệ thuật (nhạc - hát, mỹ thuật, kỹ thuật) cho học sinh tiểu học. (gợi ý tọa đàm)
1. Tình hình giảng dạy các môn nghệ thuật tại trƣờng đồng chí trƣớc khi có chỉ thị
"dạy đủ 9 môn " của Bộ GD -ĐT.
2. Từ khi có chủ trƣơng dạy đủ các môn nghệ thuật, nhà trƣờng đã thực hiện thế nào (sắp xếp chƣơng trình, bố trí phân công giáo viên, chuẩn bị tài liệu, cơ sở vật chất...) Những thuận lợi và khó khăn đã gặp, các biện pháp khắc phục và các sáng kiến của cơ sở.
3. Nhận định về hiệu quả, chất lƣợng của các môn học; về sự hứng thú của học sinh
nói chung và sự xuất hiện số học sinh có năng khiếu nói riêng ...
4. Nhận định chung về quan niệm, suy nghĩ của thầy cô giáo và phụ huynh học sinh về ý nghĩa, lợi ích của việc dạy các môn này cho học sinh (có thấy cần thiết không, có ý định dành thì giờ cho các "môn chính " và bớt các môn này...)
5. Đề xuất ý kiến về vấn đề chƣơng trình, giáo khoa, bồi dƣỡng, đào tạo đội ngũ giáo
viên, phƣơng tiện vật chất...
47

