Đề bài: Trong bài thơ "Vội vàng" của Xuân Diệu bộc lộ hai tâm trạng dường như <br />
mâu thuẫn nhau. Hãy phân tích bài thơ để lý giải điều đó<br />
Bài làm<br />
Xuân Diệu là một trong những cây đại thụ lớn của nền thi ca Việt Nam, ông còn được <br />
mệnh danh là “ông hoàng” của những bài thơ tình cháy bỏng, nồng nàn. Ngay trong lời thơ <br />
hay đời thực thì Xuân Diệu lúc nào cũng thể hiện được cái khát khao mãnh liệt với tình <br />
yêu, với cuộc đời. Không giống như những nhà thơ mới cùng thời, Xuân Diệu đã sớm <br />
khẳng định được cái tôi riêng biệt trong chất sống sôi nổi, cuồng say của mình. Vội vàng <br />
là một sáng tác rất tiêu biểu, nói lên tiếng của một trái tim đang khát khao, cuồng si với lẽ <br />
sống cuộc đời. Bài cũng chứa đựng cả nỗi trăn trở, khắc khoải, lo âu của Xuân Diệu <br />
trước sự trôi nhanh vội vã của thời gian.<br />
Xuân Diệu có bút danh là Trảo Nha, ông sinh ra ở quê mẹ Bình Định, nhưng lớn lên ở Quy <br />
Nhơn. Ông là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn cũng là cây bút mở đầu cho phong trào <br />
Thơ mới ở nước ta lúc bấy giờ. Các tác phẩm nổi bật trong giai đoạn này có: Thơ Thơ <br />
(1938), Gửi hương cho gió (1945). Tham gia vào phong trào Cách mạng những năm 1944, <br />
Xuân Diệu trở thành một cây bút xuất sắc chuyên viết về đề tài ca ngợi cách mạng, giọng <br />
thơ ông hùng tráng, giàu chất chính luận, và giàu nét tự sự trữ tình. Vội vàng là bài thơ <br />
được trích từ tập Thơ Thơ (1938), được lấy cảm hứng từ một tâm hồn yêu cuộc sống <br />
thiết tha và những khám phá mới mẻ về triết lý nhân sinh của cuộc đời.<br />
Mở đầu bài thơ tác giả đưa người đọc đến những cảm xúc vui tươi, yêu đời trước vẻ <br />
đẹp của mùa xuân mơn mởn. Vẻ đẹp đất trời hiện lên như một bức tranh nhiều màu sắc <br />
với những hình ảnh thiên nhiên thơ mộng, đẹp đẽ đến nao lòng. Trước mắt nhà thơ, cuộc <br />
sống đang diễn ra thật sôi động và tràn đầy nhựa sống:<br />
“Tôi muốn tắt nắng đi<br />
Cho màu đừng nhạt mất<br />
Tôi muốn buộc gió lại<br />
Cho hương đừng bay đi.<br />
Của ong bướm này đây tuần tháng mật<br />
Này đây hoa của đồng nội xanh rì<br />
Này đây lá của cành tơ phơ phất<br />
Của yến anh này đây khúc tình si<br />
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi<br />
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa<br />
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”<br />
Có lẽ vì quá say mê trong niềm hạnh phúc tột cùng mà tác giả đã nảy ra trong đầu một ý <br />
nghĩ thật táo bạo “tắt nắng”,“buộc gió”, nắng và gió là những sự vật vô hình ta có thể <br />
cảm nhận bằng mắt nhưng tay ta lại chẳng thể chạm được. Nghệ thuật điệp từ “tôi <br />
muốn” kết hợp cùng các động từ mạnh đã cho người đọc thấy được niềm đam mê mãnh <br />
liệt và khát khao nắm giữ, chinh phục tạo hoá của nhà thơ. Khổ thơ ngũ ngôn mở đầu cho <br />
tác phẩm vừa cô đọng ý nghĩa nhưng cũng không kém phần cảm xúc.<br />
Khung cảnh thiên nhiên rực rỡ sắc màu được Xuân Diệu miêu tả bằng những câu thơ bay <br />
bổng, rất sinh động. Khung cảnh non nước hiện lên trong thơ đẹp lung linh như một <br />
“thiên đường trên mặt đất”. Hình ảnh “ong bướm”, “hoa của đồng nội”, “lá của cành tơ”, <br />
“yến anh”,… qua con mắt của người nghệ sĩ tài hoa đã hiện lên thật đáng yêu, thật say <br />
đắm lòng người. Cuộc sống như bữa tiệc đang chào đón cùng những hương vị ngọt ngào, <br />
lãng mạn của “tuần tháng mật”, hương thơm trong lành của “đồng nội xanh rì” , âm thanh <br />
lôi cuốn trầm bổng như “khúc tình si”. Tình yêu lứa đôi hiện hữu khiến cho cuộc sống lại <br />
càng ấm áp, yêu đời và hạnh phúc ngập tràn khắp mọi nơi. Điệp cấu trúc “này đây” của <br />
Xuân Diệu được sử dụng thật tài tình và đầy khéo léo như lời mời gọi, phô bày hết <br />
những tinh hoa,tuyệt mỹ của cuộc sống. Những khi sáng sớm, “thần Vui hằng gõ cửa” ta <br />
lại chào đón một ngày mới trong niềm hân hoan, rạng rỡ. Hình ảnh so sánh đầy sáng tạo <br />
và rất gợi cảm “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”, tháng giêng tháng của mùa <br />
xuân tràn đầy sức sống được so sánh như “một cặp môi gần”, đó là bờ môi căng mọng <br />
tuyệt đẹp của người con gái đang độ xuân thì. Có thể nói cái nhìn của Xuân Diệu rất mới <br />
mẻ và độc đáo, ông đã lấy chuẩn mực cái đẹp của con người để miêu tả cảnh sắc của <br />
thiên nhiên. Đây quả là một câu thơ đặc sắc và có giá trị nghệ thuật vô cùng to lớn. Quá <br />
sung sướng với niềm khát khao của mình, tác giả đã vội vàng chạy theo nhịp sống hối hả, <br />
ông chẳng thể chờ “nắng hạ” bởi vì tâm hồn ông lúc nào cũng như đang là mùa xuân chói <br />
sáng.<br />
Yêu cuộc sống tha thiết nhưng Xuân Diệu lại tận hưởng một cách vội vàng và bám riết, <br />
ông không giấu nổi cảm xúc lo âu, khắc khoải trong lòng. Cuộc đời là vô hạn nhưng đời <br />
người lại quá ngắn ngủi, những suy nghĩ trăn trở cứ hiện lên trong tâm hồn tác giả: Làm <br />
sao có thể níu kéo được thanh xuân? Làm sao có thể tận hưởng trọn vẹn cuộc đời?<br />
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:<br />
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.<br />
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,<br />
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,<br />
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.<br />
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,<br />
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,<br />
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,<br />
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại<br />
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,<br />
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;<br />
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,<br />
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt...<br />
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,<br />
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?<br />
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,<br />
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?<br />
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...”<br />
Tác giả vui sướng xen lẫn nỗi lo lắng, hoài nghi. Ông sợ hãi tuổi trẻ sẽ qua đi nhanh như <br />
thời gian vô tình. “Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua” câu thơ nghe tưởng như vô lý <br />
nhưng lại là quan điểm nhân sinh khéo léo được tác giả lồng ghép vào thơ, mỗi mùa <br />
“xuân” tới mang theo bao niềm tin, hy vọng nhưng cũng là nỗi buồn hiu quạnh của con <br />
người nhưng “xuân” cũng mang đi tuổi thanh xuân của ta. Đâu đó từng có câu hát vang <br />
vọng: “Mỗi mùa xuân sang mẹ tôi già đi một tuổi”, lòng người thì bao la nhưng không <br />
thắng nổi quy luật tạo hoá, mùa xuân thì cứ đi rồi tới, chỉ có con người là già đi theo thời <br />
gian. Những câu thơ có chút giọng hờn trách của nhà thơ: “Nói làm chi rằng xuân vẫn <br />
tuần hoàn/Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”, thời gian thì dài bất tận mà đời người lại <br />
chỉ là phù du, rồi ai cũng trở về với cát bụi. Mối quan hệ đối kháng giữa thiên nhiên vĩnh <br />
hằng và con người bé nhỏ, Xuân Diệu sớm đã nhận ra được quy luật tất yếu ấy, ông đau <br />
khổ, tuyệt vọng và ôm trong mình mộng ước được sống mãi với cuộc đời. Nghệ thuật <br />
điệp từ “xuân”, phép đối xứng “rộng”, “chật” tạo cho mạch thêm thêm dồn dập, gấp gáp, <br />
tăng sức biểu cảm lôi cuốn người đọc. Những từ ngữ: “Tiếc, chia phôi, tiễn biệt, đứt, <br />
phai tàn”,… kết hợp với những dấu chấm than, dấu hỏi, các cặp vần gieo liên tiếp, tạo <br />
nên cả một khoảng trời buồn bã, ảm đạm, đau khổ và đầy nuối tiếc.<br />
Đoạn thơ cuối là khát khao sống cháy bỏng, mong muốn được giao cảm với cuộc đời. <br />
Nhịp sống vội vàng, dồn dập được Xuân Diệu tái hiện bằng những câu thơ mang xúc <br />
cảm dạt dào và đầy cuồng nhiệt:<br />
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,<br />
Ta muốn ôm<br />
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn<br />
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,<br />
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,<br />
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều<br />
Và non nước, và cây, và cỏ rạng<br />
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng<br />
Cho no nê thanh sắc của thời tươi<br />
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”<br />
Lời thúc giục vội vã “Mau đi thôi!”, cùng đại từ nhân xưng “ta” được điệp lại nhiều lần <br />
bộc lộ cái tôi mạnh mẽ của nhà thơ. Hàng loạt những hình ảnh thơ mộng, trữ tình “sự <br />
sống mơn mởn”, “mây đưa và gió lượn”, “cánh bướm với tình yêu”,… kết hợp với những <br />
động từ mạnh “ôm”, “riết”, “thâu” tạo nên giọng thơ say đắm, tận hưởng hương vị tình <br />
yêu nồng cháy. Câu thơ “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi” đầy táo bạo, mới lạ, <br />
động từ “cắn” khiến ta liên tưởng mùa xuân thật quyến rũ, gợi cho ta cảm giác muốn <br />
chiếm giữ lấy cái đẹp, cái tinh tuý ấy của thiên nhiên. Xuân Diệu nhận ra không thể thay <br />
đổi quy luật tạo hoá, những câu thơ cuối bài như lời khuyên của tác giả với độc giả: Mỗi <br />
người chỉ có một lần để sống vậy nên hãy sống cuộc đời ý nghĩa, cháy hết mình với đam <br />
mê, khát khao của bản thân để không phải nuối tiếc về sau.<br />
Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, hồn thơ ông mang đậm tính nhân <br />
văn, giọng thơ linh hoạt, ngôn từ sáng tạo, độc đáo, cách diễn đạt lôi cuốn, hấp dẫn <br />
người đọc. Bài thơ Vội vàng chứa đựng cả bầu trời tâm tư, cảm xúc của nhà thơ, thể <br />
hiện được nỗi niềm khát khao hòa nhập với cuộc đời của Xuân Diệu. Tác phẩm đã góp <br />
phần to lớn đưa tên tuổi ông vụt sáng trên bầu trời thi ca Việt Nam.<br />
Bài làm 2<br />
Niềm say mê thiên nhiên, say mê cuộc sống của Xuân Diệu được thể hiện đầy đủ nhất, <br />
cao độ nhất có lẽ là ở bài thơ Vội vàng. Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, nhà phê bình, <br />
nghiên cứu văn học Hoài Thanh nhận xét: Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh đời, <br />
sống vội vàng, sống cuống quýt… Đây là nhận xét tinh tế và chính xác bởi khi đặt tên bài <br />
thơ là Vội vàng, Xuân Diệu đã tỏ ra rất hiểu mình. Có thể coi bài thơ này là tuyên ngôn về <br />
lẽ sống của nhà thơ.<br />
Xuân Diệu yêu cuộc sống tha thiết, nồng nàn. Theo nhà thơ, cuộc sống là tất cả những <br />
lạc thú vật chất, tinh thần cùng với những gì trần tục và thanh cao của nó. Bài thơ Vội <br />
vàng cho người đọc thấy thi nhân đang trải lòng mình ra mà viết và bày tỏ cho hết tình <br />
cảm chân thành đối với cuộc đời.<br />
Bàn về lẽ sống của Xuân Diệu, có rất nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng lẽ <br />
sống vội vàng của nhà thơ bắt nguồn từ nhận thức về thời gian vô hạn và kiếp người <br />
hữu hạn. Cái đáng quý nhất của con người là cuộc sống cho nên phải tranh thủ chớp lấy <br />
từng khoảnh khắc để sống. Ý kiến khác cho rằng Xuân Diệu yêu tha thiết, yêu say đắm <br />
cuộc sống nên rất sợ mất nó. Trong khi yêu, Xuân Diệu đã cảm thấy tình yêu đang mất <br />
nên luôn ở trong tâm trạng hoảng hốt, lo âu, chợt vui, chợt buồn. Chính vì vậy nên dù là <br />
yêu cảnh hay yêu người, Xuân Diệu cũng đều ngấu nghiến, vồ vập, vội vàng.<br />
“Cái tôi” của tác giả trong bài thơ này được thể hiện ở hai trạng thái đối lập mà thống <br />
nhất của tâm hồn: lúc mãnh liệt đến cuồng si, lúc lại da diết, lắng sâu. Đọc kĩ bài thơ, <br />
chúng ta sẽ nhận ra diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình: lúc phơi phới yêu đời, lúc <br />
sôi nổi, cuồng nhiệt như núi lửa phun trào, lúc lại bâng khuâng, lo lắng.<br />
Vội vàng tuy là bài thơ trữ tình nhưng nó lại chứa đựng một triết lý sống cụ thể. Kết cấu <br />
bài thơ có thể chia làm hai phần, được phân cách bằng câu thơ ngắn: Ta muốn ôm. Phần <br />
trên nghiêng về trình bày những lí lẽ vì sao lại phải sống vội vàng ? Thái độ sống ấy xuất <br />
phát từ nhận thức và quan niệm về hạnh phúc trần gian, thời gian và tuổi trẻ. Theo Xuân <br />
Diệu thì cuộc sống trần thế giống như một thiên đường kì thú với bao nguồn hạnh phúc <br />
dành cho con người. Nhưng những cảnh sắc ấy chỉ thực sự mang v ẻ đẹp thần tiên trong <br />
buổi xuân thì của nó và con người chỉ tận hưởng được những lạc thú khi còn trẻ; trong <br />
khi đó tuổi trẻ lại vô cùng ngắn ngủi. Thời gian có thể cướp đi tất cả. Vậy chỉ có một <br />
cách là chạy đua với thời gian, là phải vội vàng mà sống. Đây là một triết lý tích cực và <br />
tiến bộ.<br />
Phần dưới của bài thơ thể hiện những hành động vội vàng của nhân vật trữ tình trong khi <br />
hưởng thụ vẻ đẹp của đời. Nội dung cảm xúc thể hiện rõ ở những hành động vồ vập, ở <br />
trạng thái chếnh choáng của một “cái tôi” đang muốn tận hưởng thật nhiều hương sắc <br />
của khu vườn trần thế.<br />
Hai phần này chuyển tiếp rất tự nhiên về cảm xúc và rất chặt chẽ về luận lí. Nó khiến <br />
cho bài thơ liền mạch và hoàn Chỉnh, giống như một dòng chảy ào ạt, tự nhiên của tâm <br />
trạng. Đây chính là thành công đáng kể của bài thơ.<br />
Bốn câu ngũ ngôn mở đầu đoạn hai nêu lên ý tưởng táo bạo, dị thường đến mức như <br />
nghịch lý:<br />
Tôi muốn tắt nắng đi<br />
Cho màu đừng nhạt mất;<br />
Tôi muốn buộc gió lại<br />
Cho hương đừng bay đi.<br />
Nhà thơ muốn đoạt quyền của tạo hóa, đảo ngược quy luật tự nhiên. Muốn tắt nắng đi, <br />
muốn buộc gió lại, cái ham muốn lạ lùng ấy hé mở cho chúng ta thấy lòng yêu bồng bột, <br />
vô bờ của nhà thơ đối với con người, cuộc sống, với thế giới thắm sắc đượm hương <br />
đang trải rộng trước mắt. Dường như Xuân Diệu đã chỉ cho chúng ta thấy rõ cái nghiệt <br />
ngã của tạo hóa để rồi sau đó từ từ lý giải lẽ sống vội vàng của mình.<br />
Trước hết, thiên nhiên và cuộc sống được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Với <br />
nhà thơ, đây là một thiên đường trên mặt đất. Cái thiên đường đầy hương sắc đó hiện ra <br />
trong bài thơ vừa như một khu vườn tình ái<br />
của vạn vật đương buổi xuân thì, vừa như một người tình đầy quyến rũ. Xuân Diệu cảm <br />
nhận thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên.<br />
Xung quanh nhà thơ, cảnh vật tưng bừng, rạo rực một sức sống đang lên, đầy hấp dẫn, <br />
lôi cuốn, khiến không ai có thể thờ ơ:<br />
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;<br />
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;<br />
Này đây lá của cành tơ phơ phất;<br />
Của yến anh này đây khúc tình si;<br />
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;<br />
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;<br />
Tất cả tình và cảnh trong đoạn thơ này được tác giả miêu tả rất cụ thể: Tuần tháng mật <br />
của ong bướm, muôn hoa xuân nở rộ khoe sắc, khoe hương trên đồng nội xanh rì. Chồi <br />
non, lộc nõn cành tơ phơ phất, khúc tình si rộn rã của yến anh, ánh sáng chớp hàng mi. <br />
Đoạn thơ như tiếng reo vui hồn nhiên của đứa trẻ ngây thơ lạc vào khu vườn đầy hương <br />
sắc, rộn rã, tưng bừng bàn nhạc đủ mọi thanh âm. Đối với Xuân Diệu, mỗi ngày mới là <br />
một niềm vui mới và cuộc đời tưởng như là chuỗi vui vô tận: Mỗi sáng sớm thần Vui <br />
hằng gõ cửa.<br />
Điệp từ này đây lặp lại tới năm lần, như nhấn mạnh từng nét đẹp của vườn xuân, như <br />
giới thiệu sự phong phú bất tận của thiên nhiên với niềm hào hứng lạ thường, để rồi đi <br />
đến một so sánh rất độc đáo: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Xuân Diệu có lối <br />
diễn tả tinh tế bằng sự chuyển đổi cảm giác, ông không nói tháng giêng đẹp mà nói tháng <br />
giêng ngon để đặc tả một sức sống mơn mởn, non tơ, quyến rũ. Là thi sĩ của tình yêu nên <br />
Xuân Diệu thấy giữa vẻ đẹp của thiên nhiên và vẻ đẹp thiếu nữ đương xuân có những <br />
nét tương đồng.<br />
Hai khổ thơ liên kết chặt chẽ với nhau. Thi sĩ muốn tắt nắng đi, muốn buộc gió lại chính <br />
là để lưu giữ mãi mãi hương sắc của vườn xuân trần thế. Nhưng tiếc thay, vẻ đẹp ấy chỉ <br />
rực rỡ lúc xuân thì, mà xuân thì lại vô cùng ngắn ngủi. Nhà thơ đang hân hoan đón nhận <br />
vẻ đẹp tuyệt vời mà tạo hóa ban cho<br />
muôn loài thì bỗng chốc niềm vui tan biến, thay vào đó là nỗi ngậm ngùi trước hiện thực <br />
phũ phàng:<br />
Xuân đương tới; nghĩa là xuân đương qua,<br />
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,<br />
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.<br />
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,<br />
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,<br />
Theo quan niệm của nhà thơ thì mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu là những gì đẹp nhất, “là <br />
những phần ngon nhất của cuộc đời”. Thiên nhiên đẹp nhất lúc xuân sang; đời người đẹp <br />
nhất tuổi xuân thì; tình yêu đẹp nhất khi đi đôi với tuổi trẻ. Nhưng trớ trêu thay là tạo hóa <br />
– đấng vô hình sáng tạo ra cái đẹp và cũng lạnh lùng huỷ diệt cái đẹp. Mùa xuân và tuổi <br />
trẻ đều vô cùng ngắn ngủi. Thời gian sẽ cuốn trôi hết thảy: Xuân đương tới, nghĩa là <br />
xuân đương qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già. Cho nên con người phải vội vàng tận <br />
hưởng mọi sắc màu cùng hương thơm, mật ngọt của đời.<br />
Xưa nay, quan niệm về thời gian gắn liền với sự tuần hoàn của bốn mùa xuân, hạ, thu, <br />
đông. Nghĩa là thời gian được hình dung như một vòng tròn quay liên tục hết một vòng lại <br />
trở về điểm xuất phát, cứ trở đi trở lại mãi mãi như thế. Mà đã là vòng tuần hoàn thì <br />
những thời khắc, thời đoạn của nó có ra đi rồi cũng sẽ quay trở về. (Xuân đi thì xuân sẽ <br />
quay lại). Quan niệm đó xuất phát từ cái nhìn, lấy quy luật vũ trụ làm thước đo thời gian.<br />
Xuân Diệu lại quan niệm rằng thời gian như một dòng chảy xuôi chiều một đi không trở <br />
lại, mà mỗi một khoảnh khắc trôi qua là sự sống của đời người sẽ vĩnh viễn mất đi một <br />
ít. Tức là lấy cái quỹ thời gian hữu hạn của con người để đo đếm thời gian. Thậm chí, <br />
lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong đời người là tuổi trẻ để làm thước đo. Cách <br />
cảm nhận về thời gian như vậy xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị của sự sống cá nhân, <br />
mỗi khoảnh khắc đều vô cùng quý giá. Nó quý giá chính vì một khi đã trôi qua là mất đi <br />
vĩnh viễn. Quan niệm ấy khiến cho con người phải biết quý từng giây phút của cuộc đời <br />
và biết làm cho mỗi khoảnh khắc của đời mình cần phải tràn<br />
đầy ý nghĩa. Có như thế mới là biết sống. Đây là nguyên nhân sâu xa của thái độ sống vội <br />
vàng. Xuân Diệu cảm nhận rằng thời gian và tuổi trẻ một đi không bao giờ trở lại, cho <br />
nên đã chua xót phủ nhận: Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, Nếu tuổi trẻ chẳng hai <br />
lần thắm lại. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn rất biện chứng về vũ trụ, về thời gian:<br />
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,<br />
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,<br />
Xuân Diệu đồng nhất mùa xuân với tuổi trẻ và tình yêu, cho nên ông ngậm ngùi than: Mà <br />
xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất. Nhà thơ cảm thấy đời người quá ngắn ngủi trước thời <br />
gian và không gian vĩnh cửu:<br />
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,<br />
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;<br />
Câu thơ như một tiếng thở dài u hoài, tiếc nuối. Quy luật thiên nhiên giờ đây đã trở nên <br />
đối kháng với con người:<br />
Lòng tôi rộng… / lượng trời cứ chật,<br />
Xuân vẫn tuần hoàn… / tuổi trẻ chẳng hai lần thấm lại,<br />
Còn trời đất… / chẳng còn tôi mãi.<br />
Vì thế, cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận về sự mất mát. Mỗi khoảnh <br />
khắc trôi qua là một phần đời vĩnh viễn mất đi:<br />
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,<br />
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…<br />
Hai câu thơ này thể hiện rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của Xuân Diệu. Mỗi <br />
khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một cuộc chia <br />
ly vĩnh viễn. Và thời gian được coi như một dòng chảy vô tận của những mất mát, cho <br />
nên thời gian thấm đẫm hương vị của chia phôi. Khắp sông núi là những lời than thầm <br />
tiễn biệt của vạn vật. Sâu xa hơn là mỗi một sự vật đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần <br />
đời của chính nó. Tâm trạng phức tạp đã chi phối cách nhìn, cách nghĩ của Xuân Diệu cho <br />
nên giữa tươi xanh thi sĩ đã nhìn thấy màu héo úa; giữa hiện tại đã thấp thoáng quá khứ, <br />
giữa sum họp đã có mầm mống chia ly:<br />
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,<br />
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?<br />
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,<br />
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?<br />
Cảm nhận của Xuân Diệu về thời gian, không gian thật lạ. Dường như cái chất vui tươi, <br />
trẻ trung của thiên nhiên không còn nữa: tháng năm rớm vị chia phôi, sông núi than thầm <br />
tiễn biệt, gió xinh hờn vì phải bay đi, chim đứt tiếng reo thi vì sợ độ phai tàn sắp sửa…<br />
Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác – mùi tháng năm, thời gian được hình dung là <br />
hương hoa – chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn buộc gió lại, cho hương đừng bay đi. Nhà thơ <br />
đã cảm nhận sự trôi chảy vô tình của thời gian bằng tất cả các giác quan. Mỗi khoảnh <br />
khắc thời gian đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ.<br />
Không thể buộc gió, không thể tắt nắng, cũng không thể níu kéo thời gian, thì chỉ có một <br />
cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, phải tranh thủ sống, vội vàng mà sống:<br />
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…<br />
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,<br />
Đó cũng là bi kịch của đời. Dù cuộc đời đầy bi kịch nhưng khu vườn trần thế vẫn hết sức <br />
hấp dẫn đối với con người – nhất là những người đa cảm, đa tình như Xuân Diệu. Cho <br />
nên thi sĩ càng hối hả, vội vàng tận hưởng khi Mùa chưa ngả chiều hôm (nghĩa là khi tiết <br />
xuân và tuổi trẻ vẫn còn đang độ).<br />
Câu thơ não nuột, tuyệt vọng: Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa đã khép lại phần lý <br />
giải cho lẽ sống vội vàng của Xuân Diệu và mở ra phần biểu hiện của hành động vội <br />
vàng:<br />
Ta muốn ôm<br />
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;<br />
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,<br />
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu;<br />
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều<br />
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,<br />
Đoạn thơ như là lời tình tự của thi sĩ với thiên nhiên, với sự sống bằng những cảm xúc và <br />
ham muốn mỗi lúc một si mê, cuồng nhiệt. Chỉ có thế mới diễn tả hết được khát vọng <br />
sống mãnh liệt của thi sĩ.<br />
Cảm hứng thơ như những đợt sóng đại dương mỗi lúc một dâng cao. Sự kết hợp hài hòa <br />
đến mức tài tình giữa âm thanh, hình ảnh, từ ngữ trong đoạn thơ đặc tả sự cuồng nhiệt <br />
của tình yêu cuộc sống. Tình yêu ấy làm sống dậy vẻ tươi đẹp, đầy sinh khí của thiên <br />
nhiên. Điệp ngữ ta muốn khẳng định khát khao cháy bỏng muốn ôm trọn cả vũ trụ trong <br />
vòng tay âu yếm muôn đời. Mỗi lần điệp ngữ đó xuất hiện là lại đi liền với một động <br />
thái yêu đương, càng lúc càng mạnh mẽ, đếm say: ôm cả sự sống, riết mây đưa và gió <br />
lượn, say cánh bướm với tình yêu, thâu trong một cái hôn nhiều…<br />
Khát khao gắn bó, yêu thương và giao hòa với thiên nhiên, với con người và cuộc sống <br />
thôi thúc nhà thơ, đầy cảm xúc thơ lên tới tột đỉnh. Thi sĩ muốn được thưởng thức đầy <br />
đủ, trọn vẹn tất cả vẻ đẹp của vườn đời đầy hoa thơm trái ngọt:<br />
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,<br />
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;<br />
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!<br />
Ta thấy Xuân Diệu như con ong đã hút mật no nê, như một tình nhân đang tràn trề hạnh <br />
phúc. Niềm khao khát vô biên được tận hưởng hạnh phúc đắm say bộc lộ qua những <br />
động từ quyết liệt, táo bạo, gây ấn tượng mạnh với người đọc.<br />
Phải nói rằng cách thể hiện tâm trạng của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng là rất mới, <br />
rất lạ, rất Xuân Diệu, xưa nay chưa từng có. Cách dùng từ ngữ, hình ảnh thật táo bạo. <br />
Táo bạo nhưng đặc sắc, tài tình bởi chỉ có thể nói bằng cách ấy mới bày tỏ hết sự nồng <br />
nàn say đắm của lòng yêu. Bài thơ như lời giục giã yêu đương, lời kêu gọi tuổi trẻ hãy <br />
sống cho sôi nổi và mãnh liệt.<br />
Xuân Diệu yêu đời, tha thiết gắn bó với cuộc sống. Thi sĩ đã hào hứng khẳng định: Sự <br />
sống chẳng bao giờ chán nản. Ông thèm hưởng thụ và biết hưởng thụ mọi cái đẹp, cái <br />
vui của cuộc sống và qua thơ, ông dâng tặng những của cải tinh thần quý báu đó cho mọi <br />
người. Nhà thơ giúp chúng ta khám phá ra chân giá trị của cuộc đời mà nếu sống hời hợt, <br />
nông nổi thì khó nhận ra được. Sự sống trong thơ Xuân Điệu phong phú và đa dạng. Đó là <br />
mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu; là thế giới muôn hình muôn vẻ, tràn đầy niềm vui và ánh <br />
sáng. Chính vì thế, Xuân Diệu và thơ tình Xuân Diệu mãi mãi thuộc về tuổi trẻ – những <br />
con người sống để yêu thương.<br />