
283Tạp chí Y học dự phòng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022
ỨC CHẾ TẢI LƯỢNG VI RÚT TRÊN NGƯỜI NHIỄM HIV ĐIỀU TRỊ
NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN BẰNG SUBOXONE Ở HÀ NỘI
Đinh Thị Thanh Thúy1*, Vũ Minh Anh1, Todd Korthuis2, Phạm Quang Lộc1,
Trần Hữu Bình1, Lê Minh Giang1
1Trường Đại học Y Hà Nội
2Đại học Khoa học và Sức khỏe Oregon, Hoa Kỳ
TÓM TẮT
Bài viết mô tả tỷ lệ ức chế tải lượng vi rút HIV và một số yếu tố liên quan trên nhóm bệnh nhân điều trị ARV
và điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện (CDTP) bằng Suboxone (buprenorphine/nlaoxone). Nghiên cứu
sử dụng thiết kế theo dõi dọc trên 136 người tham gia tại 4 cơ sở điều trị HIV ngoại trú ở Hà Nội từ năm
2016 - 2019. Xét nghiệm tải lượng vi rút thực hiện tại Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương. Phân tích hỗn hợp
(mixed-effect model) để xác định các yếu tố liên quan đến ức chế tải lượng vi rút HIV. Kết quả 96,3% là nam
giới, tuổi trung bình 38 ± 5,8 tuổi, 43% có việc làm, 53,7% sử dụng ma túy trên 10 năm và CD4 trung bình
là 411 ± 216 TB/mm3. Tỷ lệ ức chế tải lượng vi rút tại thời điểm 6 tháng và 12 tháng là 81,8%. Người bệnh
có mức CD4 ≥ 500 TB/mm3 có khả năng đạt ức chế tải lượng vi rút HIV < 200 bản sao/mL cao hơn so với
người bệnh có mức CD4 < 500 TB/mm3 (OR = 0,24; 95% KTC: 0,09 – 0,64). Kết luận có sự cải thiện tỷ lệ
ức chế tải lượng vi rút (< 200 bản sao/mL) tại thời điểm theo dõi 12 tháng. Cần tăng cường thêm các can
thiệp tâm lý hành vi hỗ trợ tăng cường tuân thủ điều trị nhằm đạt hiệu quả điều trị tối ưu.
Từ khóa: Ức chế tải lượng vi rút HIV; lồng ghép điều trị nghiện chất và điều trị HIV; điều trị buprenorphine
Ngày nhận bài: 28/10/2022
Ngày phản biện: 15/11/2022
Ngày đăng bài: 08/12/2022
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Duy trì tiêm chích ma túy có tác động tiêu
cực hệ quả sức khỏe cũng như kết quả điều
trị ARV [1]. Tại Việt Nam, tỷ lệ hiện nhiễm
trong nhóm tiêm chích ma túy theo báo cáo
của giám sát trọng điểm quốc gia là 12,5% [2].
Điều trị thay thế nghiện chất dạng thuốc phiện
(CDTP) bằng thuốc thay thế như methadone
hay buprenorphine góp phần cải thiện tuân thủ
điều trị, duy trì điều trị và kết quả điều trị ARV
và giảm tỷ lệ tử vong trong nhóm [3].
Tại Việt Nam, chương trình điều trị nghiện
CDTP bằng methadone đã được triển khai ở
Việt Nam từ năm 2008. Chủ trương lồng ghép
điều trị nghiện chất và điều trị ARV đã được
triển khai với mô hình lồng ghép như cùng địa
điểm cùng đội ngũ cán bộ y tế, cùng cán bộ
y tế nhưng khác địa điểm hoặc cùng địa điểm
nhưng khác cán bộ y tế [4] hoặc là các mô
hình kết hợp các dịch vụ HIV, lao và điều trị
nghiện chất tại các khoa tham vấn hỗ trợ cộng
đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trên thế
giới, điều trị lồng ghép nghiện chất vào các cơ
sở điều trị HIV là một trong những hình thức
lồng ghép điều trị phổ biến nhất nhằm cung cấp
dịch vụ điều trị toàn diện cho người bệnh [5].
Buprenorphine với các ưu điểm như ít tương
tác thuốc với ARV, nguy cơ quá liều thấp và
thời gian uống linh hoạt được sử dụng điều trị
trong các cơ sở lồng ghép điều trị [6].
Điều trị nghiện CDTP bằng buprenorphine
chưa được đưa vào điều trị rộng rãi tại Việt
Nam. Với mục tiêu đánh giá kết quả điều
trị ARV trên nhóm người bệnh nghiện chất
dạng thuốc phiện, chúng tôi thực hiện nghiên
*Tá c gi ả: Đi nh Th ị Th an h T hú y
Địa chỉ: Trường Đại học Y Hà Nội
Điện thoại: 0914 019 340
Email: dinhthuy@hmu.edu.vn
DOI: https://doi.org/10.51403/0868-2836/2022/909