Vài nét sơ lược về sự Phát triển của
Triết học Trung Hoa
BÌNH MINH XUẤT HIỆN
TRĂM HOA ĐUA NỞ
Sdĩ phong trào trăm hoa đua nở đó là nhtinh thần tranh biện
của các triết gia. Thời trước, Khổng Tử một phần vì bm tính dung hoà, một
phần vì kng gặp người ngang tài vi mình, nên kng tranh bin với ai cả.
Lão T chủ trương nhường nhịn, nên ch trình y học thuyết của mình,
không mun thắng người. Duy Mặc Tử ng hái hơn hết, đả đảo chính
sách trọng lễ, nhạc, tục để tang lâu năm và chôn cất xa xỉ của đạo Nho; do
đó gây phong trào tranh luận cho thời sau.
Trong thời này, người đại diện chân chính của Khổng giáo là Mạnh
Tử. Về phía Mặc giáo, s chia rẽ: Một nhóm như Tống Kiên[29] gi
đúng tinh thần của Mặc Tử, cũng khắc khổ, bôn tẩu, hô hào mọi người quả
dục, giúp đỡ lẫn nhau để cu loạn cho thiên hạ; một nhóm nhóm gọi là
Biệt Mặc phát huy thêm v tri thức luận, ng kích phái Biện giả, bọn
ngubiện mà người sau gọi là Danh gia. Vphía Lão giáo, Trang T tập
đại thành nhng tư tưởng của Dương Tử, Lão Tvà HuThi (đồng thời với
ông), lập một học thuyết đặc biệt. Ngoài ra lại còn nhng pi ng gia,
Pháp gia Âm dương gia nữa.
MẠNH TỬ
Trước hết chúng tôi hãy xét vMạnh Tử. Ông sinh nước Trâu, là
môn đệ của Tử Tư (cháu nội của Khổng Tử) theo dùng học thuyết của
Khổng Tử và phát huy thêm được vài điều quan trọng.
Ông vẫn muốn phục hồi chế độ phong kiến nhưng không tôn Chu,
nghĩa là không mun lập lại i uy thế cho nhà Chu nữa (có lẽ vì thấy rằng
nhà Chu suy quá ri), hễ một vị anh quân nào dùng đức nhân mà thống
nhất được thiên hạ thì ông cũng ủng hộ.
Ông cho rng vua không đáng coi trọng bng n (dân vi quí… quân
vi khinh), tuy chưa cho n i quyn làm cách mạng theo ông phải là một
người hiền đức, được Trời giao cho trách nhim cu dân mới được làm cách
mạng nhưng đã m gọi bọn bạo chúa là giặc. Ông vẫn giữ thuyết n ti,
thuyết bất bình đẳng của Nho gia, nhưng đã phát minh chnghĩa phân lập
quyền hành chính và quyn tư pháp, và chủ nghĩa bình đẳng trước pháp luật,
li xu ớng tiến tới chế độ lập hiến làm cho chính trcủa Trung Quốc
thêm được chút sắc thái dân chủ.
Ông đề cao đức hnh, coi q hơn tước và bảo nhà cm quyền
trong nước phải thờ người hiền như thầy. Người hiền phải giữ địa vị lãnh
đạo trong xã hội. Về pháp luật thì mọi người được bình đẳng[30] nhưng về
tài đức thì k trên người dưới. Về điểm này, ông ti với Hứa Hành (phái
Nông gia).
Theo Hứa Hành, mọi người trong nước phải cày cy lấy mà ăn, kng
ai được bắt người khác phải nuôi mình, như vậy thì thiên h strị. Mạnh Tử
bác thuyết đó, bảo sinh ra người trí và hin, ng việc trị n phải giao
cho hạng đó, người trị dân được nuôi, người n bị trị” thì phải nuôi
người “trị” mình như vậy là luật tự nhiên.
Ông đả kích thuyết vị ngã của Dương Tử, mng Dương Tử là không
có vua. Mnh nhất là li ông bài ch Mặc Tử. Ông chê Mc hai điểm: chủ
nghĩa kiêm ái của Mặc là không hợp nhân tình, coi cha mngười như cha
mmình, tức là không cha; và chnghĩa công lợi rất tai hại vì làm cho
người trên kdưới ai cũng nghĩ tới lợi riêng bnhân nghĩa. (Sthực,
Mặc Tử không hề khuyên ai nghĩ tới i lợi riêng của mình cực lực
hào người ta nghĩ tới cái lợi chung).
Một sự phát minh lớn của ông n đến tính m. V tính, Khổng
Tchỉ nói: Tính tương cận, tập tương viễn, nghĩa tính con người khi mi
sinh gần giống nhau, do tập tành thói quen ln lần khác nhau; còn
Mặc Tử thì cho tính người như tấm lụa trắng, nhuộm xanh thì hoá xanh,
nhum vàng thì hoá vàng, nhum màu nào thì biến ra màu đó… cho n s
tiêm nhim kng thể không thận trọng được. (TMặc Tử kiến nhiễm ti giả
thán viết: Nhiễm ư thương tắc thương, nhiễm ư hoàng tắc hoàng. Snhập
giả biến, kỳ sắc diệc biến… cố nhiễm bất khả bất thận [31] – Mặc Tử).
Tới thời Mạnh Tử thêm nhiều thuyết nữa về tính. người nói rằng
có tính thiện, có tính ác; Cáo Tử lại bảo tính không thiện không ác. Mạnh Tử
phản đối tất cả những thuyết đó, chủ trương rằng tính người vốn thiện, vì ai
cũng sẵn lòng trắc n, lòng tu ố, lòng t nhượng, lòng thphi, bốn i đó
là đầu mối của nhân, của nghĩa, của lễ, của trí; nếu khéo tu dưỡng bốn i
mối đó thì ai cũng thể thành thánh hin được. Muốn vậy phải “tồn m”,
nghĩa là gi i m cho trong sạch, khỏi bị tư dục làm mám. Cái m đó
gọi lương m. lương m thì lương tri, nghĩa là cái khng biết
một cách mẫn tiệp mà đúng đắn.