intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vấn đề chi phí xã hội

Chia sẻ: Quangdat Quangdat | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:25

376
lượt xem
42
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài báo này đề cập đến hành động của các hãng kinh doanh mà các hành động này có tác động tiêu cực đến người khác. Một ví dụ tiêu biểu về vấn đề này là khói từ một nhà máy đã gây ảnh hưởng có hại đến tài sản của những người sống ở xung quanh nó. Phân tích kinh tế về tình huống đó thường được tiến hành dựa trên phương diện của sự khác nhau giữa sản phẩm cá nhân và sản phẩm xã hội của nhà máy, ở đó các nhà kinh tế chủ yếu đi theo......

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vấn đề chi phí xã hội

  1. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội RONALD COASE Nguyễn Hồng Trang dịch Ronald Coase là giáo sư danh dự tại Đại Học Luật Chicago và là người đoạt giải Nobel về kinh tế. Đây là bài báo rút từ Tập San Luật và Kinh Tế (tháng 10 năm 1960). Một vài đoạn trong bài báo đề cập đến các thảo luận mở rộng liên quan đến các quyết định pháp luật đã được lược bỏ. I. VẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC NGHIÊN CỨU Bài báo này đề cập đến hành động của các hãng kinh doanh mà các hành động này có tác động tiêu cực đến người khác. Một ví dụ tiêu biểu về vấn đề này là khói từ một nhà máy đã gây ảnh hưởng có hại đến tài sản của những người sống ở xung quanh nó. Phân tích kinh tế về tình huống đó thường được tiến hành dựa trên phương diện của sự khác nhau giữa sản phẩm cá nhân và sản phẩm xã hội của nhà máy, ở đó các nhà kinh tế chủ yếu đi theo cách giải quyết của Pigou trong cuốn Các Nền Kinh Tế Phúc Lợi. Kết luận của loại phân tích này có vẻ thường dẫn hầu hết các nhà kinh tế đến chỗ muốn chủ của nhà máy phải chịu trách nhiệm cho những tổn hại do khói mà họ gây ra hay đánh thuế người chủ của nhà máy với mức tùy thuộc vào mức độ khói thải ra và tương đương với những thiệt hại do khói gây nên, hay biện pháp cuối cùng là di dời nhà máy ra khỏi khu dân cư (hay ra khỏi vùng mà khói nhà máy có thể gây ảnh hưởng). Luận điểm của tôi là các biện pháp được đưa ra đều không thích hợp do chúng có thể dẫn tới những hậu quả không cần thiết hay thậm chí những hậu quả không mong muốn. II. BẢN CHẤT QUA LẠI CỦA VẤN ĐỀ Cách tiếp cận truyền thống có xu hướng che đậy bản chất của việc đưa ra quyết định lựa chọn. Câu hỏi thường được đặt ra trong trường hợp A có tác động xấu lên B và quyết định cần được đưa ra là: Chúng ta làm thế nào để hạn chế A? Nhưng đó là quyết định sai. Chúng ta cần phải giải quyết được bản chất qua lại của vấn đề. Để tránh ảnh hưởng xấu, B sẽ gây ảnh hưởng xấu tới A. Câu hỏi thật sự cần đặt ra là: Liệu A có được phép gây hại đến B hay liệu B có được phép gây hại đến A? Vấn đề là ở chỗ làm sao để tránh được những tác hại nghiêm trọng hơn. Tôi đã đưa ra ví dụ trong bài báo trước về trường hợp tiếng ồn và rung từ máy móc của một nhà máy sản xuất bánh kẹo gây phiền hà đến công việc của một bác sỹ. Để tránh ảnh hưởng xấu đó bác sỹ có thể gây ảnh hưởng lại đối với nhà máy sản xuất bánh kẹo. Vấn đề mà trường hợp này nêu ra về cơ bản là nó có đáng hay không khi kết quả của việc hạn chế các phương thức sản xuất được nhà máy bánh kẹo sử dụng có thể đảm bảo việc khám chữa bệnh tốt hơn tại chi phí của việc cung giảm của sản phẩm bánh kẹo. Một ví dụ khác là vấn đề các gia súc đi lạc phá hại mùa màng trên vùng đất của người lân cận. Nếu việc một vài con gia súc đi lạc là điều không thể trách khỏi thì tất cả sự tăng lên trong việc cung cấp thịt có thể thu được tại chi phí của việc giảm sút trong cung của mùa vụ. Bản chất của sự lựa chọn đã rõ: thịt hay mùa vụ. Câu trả lời cần được đưa ra tất nhiên là sẽ không rõ ràng trừ khi chúng ta biết
  2. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội được giá trị của cái mà chúng ta đạt được cũng như cái mà chúng ta phải hi sinh để đạt được nó. Một ví dụ khác, giáo sư George J. Stigler đã lấy ví dụ về sự nhiễm bẩn của một dòng suối. Nếu chúng ta giả định rằng tác hại xấu của việc ô nhiễm đã giết chết cá ở đó thì vấn đề cần được quyết định là: liệu giá trị của số cá mất đi là nhiều hơn hay ít hơn giá trị sản phẩm có thể được làm ra do sự nhiễm bẩn đó. Mọi việc vẫn tiếp diễn mà hầu như không cần nói rằng vấn đề này cần phải được nhìn nhận dưới góc độ tổng thể và cận biên. III. HỆ THỐNG GIÁ CHỊU TRÁCH NHIỆM THIỆT HẠI Tôi định bắt đầu bài phân tích của mình bằng việc xem xét một trường hợp mà hầu hết các nhà kinh tế đều có thể đồng ý rằng vấn đề sẽ được giải quyết theo cách hoàn toàn làm mọi người hài lòng: khi gây hại đến người khác các công ty kinh doanh phải trả toàn bộ tổn thất do họ gây ra và hệ thống giá sẽ làm việc một cách trôi chảy (nói đúng ra nó có nghĩa hệ thống giá được vận hành miễn phí). Một ví dụ hay của vấn đề đang được thảo luận là trường hợp gia súc đi lạc phá hoại mùa màng trồng trên đất của người hàng xóm. Giả sử rằng một người nông dân và một người nuôi gia súc đang làm việc trên mảnh đất thuộc sở hữu của hàng xóm. Giả sử thêm rằng, giữa hai mảnh đất đó không có rào chắn và quy mô đàn gia súc của người nuôi ngày càng tăng thì tổng thiệt hại mà nó gây ra cho mùa màng của người nông dân càng lớn. Cái gì xảy ra đối với thiệt hại cận biên khi quy mô của đàn gia súc tăng là vấn đề khác. Nó phụ thuộc vào việc liệu đàn gia súc có xu hướng đi thành hàng nối đuôi nhau hay là đi lung tung con nọ cạnh con kia, hay phụ thuộc vào việc đàn gia súc có xu hướng tăng liên tục nhiều hay ít và phụ thuộc vào nhiều yếu tố tương tự khác nữa. Vì mục đích trực tiếp của mình, chọn giả định nào về thiệt hại cận biên khi quy mô của đàn gia súc tăng lên là không quan trọng. Để đơn giản hóa luận chứng, tôi đề nghị sử dụng một ví dụ số học. Tôi sẽ giả định rằng chi phí hàng năm của việc lập hàng rào cho mảnh đất của người nông dân là 9 đô là và giá trị mùa vụ là 1 đô-la một tấn. Tôi cũng giả định rằng mối quan hệ giữa số lượng gia súc trong một đàn và thiệt hại hàng năm về mùa vụ là như sau: SỐ LƯỢNG GIA SÚC THIỆT HẠI HÀNG NĂM THIỆT HẠI MÙA VỤ TÍNH TRONG ĐÀN CỦA MÙA VỤ TRÊN MỘT CON BÒ TĂNG (BÒ ĐỰC) (TẤN) THÊM (TẤN) 1 1 1 2 3 2 3 6 3 4 10 4 Giả sử rằng người nuôi gia súc chịu trách nhiệm cho tổn thất mà họ gây ra, chi phí thêm hàng năm mà người nuôi gia súc phải chịu khi anh ta tăng thêm số lượng gia súc từ 2 lên 3 con bò là 3 đô-la và khi quyết định quy mô của đàn gia súc, anh ta sẽ tính đến các chi phí này cùng với các chi phí khác của mình. Anh ấy sẽ không tăng quy mô của đàn gia súc trừ khi giá trị tăng thêm của thịt được sản xuất ra (giả sử người nuôi gia súc trực www.kinhtehoc.com 2
  3. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội tiếp giết mổ gia súc) lớn hơn chi phí tăng thêm ma anh bắt buộc phải trả, bao gồm cả giá trị tăng thêm của mùa màng bị phá huỷ. Tất nhiên, bằng việc sử dụng chó, người chăn gia súc, máy bay, đài phát di động và các phương tiện khác thì số lượng thiệt hại có thể được giảm nhẹ, nhưng các phương tiện này chỉ được sử dụng khi chi phí dành cho chúng ít hơn giá trị của mùa màng mà chúng phải bảo vệ để khỏi bị mất. Giả sử chi phí hàng năm để làm hàng rào là 9 đô-la, người chăn nuôi gia súc muốn đàn gia súc của mình có 4 con bò hoặc hơn sẽ phải trả cho việc lắp dựng hàng rào vào bảo quản nó, giả sử rằng các phương tiện khác đạt được là không rẻ. Khi hàng rào được dựng nên, chi phí cận biên cho trách nhiệm thiệt hại là 0, trừ khi quy mô đàn gia súc đòi hỏi cần phải có hàng rào tốt hơn và do vậy tiền chi cho hàng rào sẽ đắt tiền hơn vì nhiều gia súc có khả năng dựa vào đó cùng một lúc. Nhưng tất nhiên người nuôi gia súc cũng có thể tốn ít tiền hơn vì không cần phải dựng hàng rào và trả phí tổn do mùa vụ bị phá huỷ vì theo như ví dụ số học mà tôi đưa ra, với trường hợp 3 hay ít bò hơn. Có thể nghĩ rằng sự thật khi người nuôi gia súc trả tất cả chi phí cho mùa màng bị thiệt hại sẽ khiến cho người nông dân tăng diện tích trồng trọt nếu như người nuôi gia súc đến chiếm diện tích đất lân cận. Nhưng sự việc không phải như vậy. Nếu như trước đây mùa màng được bán trong các điều kiện cạnh tranh hoàn hảo thì chi phí cận biên sẽ bằng với giá đối với số lượng đã được trồng, còn bất kỳ sự mở rộng nào sẽ dẫn tới việc lợi nhuận của người nông dân bị giảm. Trong hoàn cảnh mới này, sự hiển diện của việc mùa màng bị thiệt hại có nghĩa là người nông dân sẽ bán ít đi ở thị trường mở nhưng số tiền mà anh ta nhận được cho số lượng sản phẩm nhất định vẫn không đổi, vì người nuôi gia súc đã trả cho số mùa vụ bị thiệt hại theo giá thị trường. Tất nhiên nếu ngành chăn nuôi gia súc nói chung có liên quan đến việc phá huỷ mùa màng thì sự hiển diện của ngành công nghiệp chăn nuôi gia súc sẽ làm tăng giá của mùa màng có liên quan và nông dân do đó sẽ mở rộng diện tích trồng trọt. Nhưng ở đây tôi chỉ giới hạn sự tập trung của mình đến từng nông dân cá thể. Tôi đã từng nói rằng sự xâm lấn vùng đất lân cận của người nuôi gia súc sẽ không là nguyên nhân liên quan tới số lượng sản phẩm, hay nói một cách chính xác hơn là nguyên nhân của số lượng gieo trồng vì người nông dân đã tăng lượng gieo trồng. Trên thực tế, nếu như người nuôi gia súc có gây ra ảnh hưởng gì thì nó sẽ làm giảm số lượng gieo trồng. Nguyên nhân của việc này là đối với bất kỳ một vùng đất canh tác cụ thể nào nếu giá trị mùa vụ bị thiệt hại lớn đến mức tiền thu được từ việc bán sản phẩm mùa vụ không bị thiệt hại ít hơn tổng số chi phí cho việc canh tác mảnh đất đó thì người nông dân sẽ có lợi và người nuôi gia súc sẽ thoả thuận với người nông dân về việc mảnh đất còn lại không cần canh tác. Một ví dụ số học sẽ minh hoạ rõ ràng cho điều này. Giả sử lúc đầu giá trị mùa vụ thu được từ việc canh tác một mảnh đất cụ thể là 12 đô-la và chi phí phải chịu khi canh tác trên mảnh đất đó là 10 đô-la, lợi nhuận ròng thu được từ việc canh tác trên mảnh đất đó là 2 đô-la. Tôi giả sử để cho đơn giản hoá vấn đề rằng người nông dân là người chủ của mảnh đất đó. Bây giờ lại giả sử người nuôi gia súc bắt đầu chăn nuôi trên vùng đất lân cận và giá trị mùa vụ bị phá huỷ là 1 đô-la. Trong trường hợp người nông dân thu được $11 đô từ việc bán sản phẩm từ mùa vụ của mình ra thị trường và 1 đô là số tiền thu được của người chăn nuôi gia súc thì lợi nhuận ròng mà người nông dân thu được vẫn là 2 đô-la. Bây giờ giả sử người nuôi gia súc thấy việc tăng số lượng đàn gia súc của mình lên là có lợi thậm chí ngay cả khi số tiền mà anh ta phải trả cho thiệt hại www.kinhtehoc.com 3
  4. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội mùa vụ tăng lên 3 đô-la, có nghĩa là giá trị sản phẩm thịt tăng thêm lớn hơn các chi phí tăng thêm bao gồm cả 3 đô-la phải trả cho người nông dân. Tổng số tiền phải trả cho thiệt hại mùa màng là 3 đô-la. Lợi nhuận ròng của người nông dân có được từ việc canh tác vẫn là 2 đô-la. Người nuôi gia súc tốt hơn là từ bỏ nếu như người nông dân không đồng ý và vẫn canh tác trên đất của mình nếu như không nhận được khoản tiền lớn hơn 2 đô-la. Người nông dân sẽ đồng ý không canh tác để nhận bất cứ khoản tiền nào lớn hơn 2 đô-la. Rõ ràng là có chỗ cho sự thương lượng làm thỏa mãn cả hai bên và nó có thể dẫn đến việc người nông dân tự do canh tác.** Nhưng ta không thể áp dụng việc lập luận tương tự như vậy cho toàn bộ mảnh phần đất mà người nông dân canh tác mà chỉ cho phần nhỏ nào đó thôi. Lấy ví dụ giả sử gia súc có một lối đi lại thường xuyên là ven bờ suối hay tại một khu vực râm mát thì lúc này lượng mùa màng bị phá huỷ ven đường đi của chúng có thể khá lớn và do vậy người nông dân và người nuôi gia súc có thể đi đến một thoả thuận có lợi cho cả hai bên hơn là người nông dân sẽ đồng ý không canh tác trên dải đất đó nữa. Nhưng điều này sẽ làm nảy sinh một khả năng khác. Giả sử rằng có một lối đi lại thường xuyên như vậy cho đàn gia súc, giả sử thêm rằng giá trị mùa vụ có được nhờ việc canh tác trên dải đất đó là 10 đô-la và rằng chi phí canh tác là 11 đô-la. Nếu không có sự có mặt của người nuôi gia súc thì thì mảnh đất đó nhất định sẽ được canh tác. Tuy nhiên cho rằng có sự có mặt của người nuôi gia súc, và nếu dải đất đó vẫn được canh tác và toàn bộ mùa vụ được canh tác trên dải đất đó bị phá hoại. Trong trường hợp đó người nuôi gia súc sẽ bắt buộc phải trả 10 đô-la cho người nông dân. Rõ ràng rằng người nông dân mất 1 đô-la nhưng người nuôi gia súc mất 10 đô-la cho người nông dân thay vì 2 đô- la và quy mô của đàn gia súc sẽ khiến thiệt hại lên tới 3 đô-la với mùa vụ cũ gây 1 đô-la thiệt hại với mùa vụ mới thì người nuôi gia súc sẽ có lợi hơn khi chỉ phải trả khoản tiền ít hơn 2 đô-la để thuyết phục người nông dân thay đổi cơ cấu mùa vụ của anh ta (vì việc này sẽ làm giảm trách nhiệm đền bù thiệt hại từ 3 đô-la xuống còn 1 đô-la) và điều này cũng đem lại lợi ích cho người nông dân vì số tiền anh ta nhận được là lớn hơn 1 đô-la (giảm lợi nhuận do chuyển đổi cơ cấu mùa vụ). Trên thực tế, trong mọi trường hợp xảy ra người nông dân và người nuôi gia súc đều có thể đi đến một thoả thuận có lợi cho cả hai bên ở đó việc thay đổi cơ cấu cây trồng có thể làm giảm số thiệt hại vì nó làm giảm giá trị mùa vụ (không tính đến thiệt hại)-trong mọi trường hợp một thay đổi trong mùa vụ canh tác có thể dẫn đến sự gia tăng trong giá trị sản xuất. Rõ ràng rằng đây là một tình huống khó có thể tồn tại lâu vì không có bên nào muốn điều đó xảy ra. Mục đích của người nông dân là muốn được người nuôi gia súc thuyết phục là sẽ trả cho anh ta một khoản tiền để đổi lại việc anh ta đồng ý không canh tác trên mảnh đất đó. Người nông dân sẽ không có một khoản tiền cao hơn chi phí dành cho việc lắp đặt hàng rào cho miếng đất đó hay khoản tiền đó cao bằng việc sẽ dẫn đến người nuôi gia súc từ bỏ việc sử dụng mảnh đất của người hàng xóm. Trên thực tế khoản chi trả nào được đưa ra phụ thuộc vào sự khôn ngoan của người nông dân và người nuôi gia súc khi hai bên tiến hành thương lượng. Nhưng khoản chi trả đó không thể cao quá * Lập luận trong bài viết này được tiến hành dựa trên giả thiết rằng phương án canh tác mùa vụ là sự tự do của việc canh tác nói chung. Nhưng cần phải như thế. Có thể có mùa vụ mà ít chịu thiệt hại do đàn gia súc gây nên nhưng mùa vụ đó sẽ không đem lại nhiều lợi nhuận bằng mùa vụ được trồng ở chỗ không có thiệt hại. Chính vì lẽ đó nếu việc canh tác một mùa vụ mới chỉ đem lại lợi nhuận là 1 đô-la. www.kinhtehoc.com 4
  5. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội đến nỗi người nuôi gia súc sẽ từ bỏ mảnh đất đó và nó cũng không được làm thay đổi quy mô của đàn gia súc, bản thỏa thuận giữa người nông dân và người nuôi gia súc cũng không được làm ảnh hưởng đến sự phân bổ tài nguyên và sẽ không làm thay đổi thu nhập và tài sản của cả người nông dân lẫn người nuôi gia súc. Tôi nghĩ rõ ràng rằng nếu người nuôi gia súc phải chịu trách nhiệm về những phá hoại do gia súc của anh ta gây ra thì hệ thống giá cả sẽ vận hành trôi chảy, sự giảm sút trong giá trị sản xuất ở một nơi nào đó sẽ được xem xét khi tính toán chi phí thêm liên quan đến sự ra tăng quy mô đàn gia súc. Chi phí này sẽ cao đối với giá trị của việc sản xuất thịt thêm và, căn cứ vào việc ngành công nghiệp chăn nuôi là ngành công nghiệp có thị trường cạnh tranh hoàn thì việc phân bổ tài nguyên trong việc chăn nuôi gia súc sẽ là tối ưu. Những gì cần thiết được nhấn mạnh là việc sụt giảm trong giá trị sản xuất ở nơi nào đó, mà việc đó cần phải được tính đến trong chi phí của người nuôi gia súc, chi phí đó có thể thấp hơn thiệt hại mà gia súc gây ra với mùa màng trong các trường hợp thông thường. Điều này có thể xảy ra vì nó như kết quả tất yếu của giao dịch thị trường làm gián đoạn việc canh tác trên mảnh đất đó. Người ta đều mong muốn như thế trong mọi trường hợp mà thiệt hại do gia súc gây ra, và ở đó người nuôi gia súc sẽ sẵn lòng trả, nhiều hơn số lượng người nông dân sẽ trả cho việc sử dụng đất. Trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo, số tiền người nông dân trả cho việc sử dụng đất là tương đương với phần chênh lệnh giữa giá trị tổng sản lượng khi các nhân tố được sử dụng trên mảnh đất và giá trị của sản phẩm tăng thêm thu được trong cách thức sử dụng tối ưu nhất tiếp theo của họ (đó là cái mà người nông dân phải trả cho các nhân tố). Nếu thiệt hại vượt quá số tiền người nông dân trả cho việc sử dụng đất thì giá trị sản xuất gia tăng của các nhân tố được sử dụng ở đâu đó sẽ vượt quá giá trị tổng sản phẩm trong cách sử dụng này sau khi thiệt hại được đưa vào xem xét. Tiếp theo đó việc từ bỏ canh tác trên mảnh đất và bỏ không sử dụng các yếu tố đối với sản xuất ở nơi nào đó là điều được mong muốn. Một trình tự mà đơn thuần chỉ được chuẩn bị dể chi trả cho thiệt hại mùa màng do gia súc gây ra mà không cho phép khả năng mùa màng bị gián đoạn sẽ dẫn đến kết quả sử dụng quá nhỏ các nhân tố sản lượng chăn nuôi và sử dụng quá lớn các nhân tố trong canh tác mùa vụ. Nhưng dựa trên khả năng giao dịch thị trường, tình trạng mùa màng bị thiệt hại vượt quá số tiền thuê đất sẽ không kéo dài. Việc người chăn nuôi gia súc trả tiền cho nông dân để họ từ bỏ không canh tác hoặc bản thân anh ta tự thuê đất bằng cách trả cho chủ đất một số tiền nhỏ không đáng kể nhưng lớn hơn số tiền người nông dân phải trả (nếu bản thân người nông dân tự thuê đất) đều dẫn đến kết quả cuối cùng như nhau và sẽ tối đa hóa giá trị sản lượng.Thậm chí khi người nông dân được thuyết phục trồng trọt mùa màng mà việc trồng trọt này không mang lại lợi nhuận khi đem bán trên thị trường thì đây đơn thuần sẽ chỉ là hiện tượng ngắn hạn và có thể hy vọng dẫn đến một thỏa thuận từ bỏ việc canh tác. Người chăn nuôi gia súc sẽ vẫn sản xuất trên mảnh đất đó và chi phí cận biên của sản lượng thịt sẽ bằng trước đây, do vậy không có những ảnh hưởng dài hạn đến phân phối tài nguyên. IV. HỆ THỐNG GIÁ KHÔNG CHỊU TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI THIỆT HẠI Bây giờ tôi chuyển sang trường hợp mà ở đó mặc dù hệ thống giá cả giả sử được vận hành trôi chảy (có nghĩa là tốn phí), nhưng những thiệt hại trong kinh doanh sẽ không phải chịu trách nhiệm cho bất kỳ tổn thất nào mà nó gây ra. Việc kinh doanh đó sẽ www.kinhtehoc.com 5
  6. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội không phải trả cho bất kỳ tổn hại nào mà hoạt động của nó gây ra. Tôi định chỉ ra rằng việc phân bổ tài nguyên cũng sẽ giống như trường hợp thiệt hại trong buôn bán như nó vẫn thế khi việc kinh doanh gây tổn hại đến người khác phải chịu trách nhiệm pháp lý cho những tổn thất mà nó gây ra. Như tôi đã chỉ ra trong trường hợp trước viêc phân bổ tài nguyên đã là tối ưu, thế nên không cần thiết phải nhắc lại phần này trong bài thảo luận. Tôi trở lại trường hợp người nông dân và người chăn nuôi gia súc. Người nông dân sẽ không phải chịu tổn thất tăng lên với mùa màng của anh ta khi quy mô đàn gia súc tăng. Giả sử rằng quy mô đàn gia súc của người chăn nuôi là 3 con bò đực (và đây là quy mô đàn gia súc được duy trì nếu thiệt hại mùa màng không đưa vào tính toán). Vậy thì người nông dân sẵn sàng trả đến 3 đô-la nếu người chăn nuôi gia súc chịu giảm quy mô đàn gia súc xuống còn 2 con, và trả đến 5 đô-la nếu đàn gia súc giảm xuống còn 1 con và 6 đô-la nếu người nuôi gia súc không nuôi gia súc nữa. Do đó người nuôi gia súc sẽ nhân được 53 từ người nông dân nếu anh ta giữ lại 2 con thay vì 3 con. 3 đô-la được nói ở trên chính là một phần của chi phí phải chịu để giữ lại con gia súc thứ 3. Liệu 3 đô-la là số tiền mà người chăn nuôi phải trả nếu anh ta thêm con thứ 3 vào trong đàn (điều này sẽ xảy ra nếu người chăn nuôi có trách nhiệm pháp lý với người nông dân về thiệt hại mùa màng mà anh ta gây ra) hay nó là số tiền mà anh ta nhận được nếu anh ta không nuôi con gia súc thứ ba (điều này xảy ra nếu người chăn nuôi không có trách nhiệm pháp lý với người nông dân về thiệt hại mùa màng mà anh ta gây ra),việc này không ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng. Trong cả hai trường hợp 3 đô-la là một phần chi phí khi thêm con gia súc thứ ba, nó được thêm vào cùng với các chi phí khác. Nếu giá trị sản xuất trong chăn nuôi gia súc tăng thông qua sự ra tăng của số lượng gia súc từ 2 lên 3 con lớn hơn chi phí gia tăng phải chịu (bao gồm cả 3 đô-la thiệt hại mùa màng), thì số lượng đàn gia súc sẽ tăng thêm. Nếu không thì số lượng gia súc sẽ giảm. Quy mô đàn gia súc sẽ không đổi cho dù người nuôi gia súc có trách nhiệm pháp lý về những thiệt hại mùa màng hay không. Có người sẽ lập luận rằng theo như giả định ở phần đầu - một đàn gia súc gồm 3 con – là tuỳ chọn. Điều này đúng. Nhưng người nông dân không muốn trả tiền để tránh thiệt hại mùa màng mà người chăn nuôi gia súc có thể không gây ra. Lấy ví dụ số tiền trả hàng năm lớn nhất mà người nông dân có thể được thuyết phục phải trả không vượt quá 9 đô-la chi phí hàng năm cho việc lập hàng rào bảo vệ. Và người nông dân chỉ sẵn lòng trả số tiền đó nếu nó không làm giảm thu nhập ở mức độ khiến cho anh ta từ bỏ việc canh tác trên một khoảnh đất cụ thể nhất định. Hơn nữa người nông dân chỉ sẵn lòng trả số tiền đó nếu anh ta tin rằng, nếu anh ta không trả số tiền đó thì quy mô đàn gia súc sẽ được người nuôi gia súc duy trì ở mức 4 con hoặc nhiều hơn. Chúng ta hãy giả định ở trường hợp này. Vậy là người nông dân sẵn lòng trả cho người chăn nuôi 3 đô-la với điều kiện người chăn nuôi gia súc giảm quy mô đàn gia súc còn 3 con, trả 6 đô-la nếu đàn gia súc còn 2 con, 8 đô-la nếu chỉ còn 1 con và 9 đô-la nếu người chăn nuôi từ bỏ không nuôi đàn gia súc. Cần phải chú ý rằng sự thay đổi trong điểm khởi đầu không làm thay đổi số lượng dồn về người nuôi gia súc nếu anh ta giảm quy mô đàn gia súc của mình đến một số lượng nhất định bất kỳ nào đó. Điều này vẫn đúng khi người chăn nuôi nhận 3 đô-la thêm từ người nông dân nếu anh ta đồng ý giảm đàn gia súc từ 3 xuống 2 con và 3 đô-la đó biểu thị giá trị mùa màng bị thiệt hại do thêm con gia súc thứ 3 vào trong đàn. Mặc dù có một niềm tin khác của người nông dân (dù có được chứng minh hay không) về quy mô www.kinhtehoc.com 6
  7. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội đàn gia súc mà người nuôi gia súc sẽ duy trì khi không có sự chi trả từ phía người nông dân, điều này có thể làm ảnh hưởng đến tổng số tiền anh ta được thuyết phục chi trả, sẽ là không đúng nếu niềm tin khác này gây bất kỳ ảnh hưởng nào đến số lượng gia súc mà người chăn nuôi thực sự duy trì. Điều này cũng tương tự như nó vốn phải thế nếu người nuôi gia súc phải trả cho những thiệt hại mà gia súc của anh ta gây ra, vì số đã thu của một số tiền nhất định tương đương với số chi cũng của số tiền nhất định đó. Có thể cho rằng đó là số tiền trả cho người nuôi gia súc để tăng số lượng gia súc lên vượt quá quy mô mà anh ta muốn duy trì khi đưa ra một thỏa thuận nhằm thuyết phục người nông dân đưa ra tổng số tiền chi trả lớn hơn. Và điều này có thể đúng. Điều này cũng giống với bản chất hành động của người nông dân (khi người chăn nuôi gia súc phải chịu trách nhiệm pháp lý về những tổn thất gây ra) khi canh tác trên mảnh đất mà nó là kết quả của bản thỏa thuận với người nuôi gia súc về việc không canh tác nữa (không canh tác trên cả mảnh đất không có sự xuất hiện của gia súc). Nhưng những hành động đó là sự mở đầu cho một thỏa thuận và không ảnh hưởng đến vị trí cân bằng dài hạn, không có gì thay đổi cho dù người nuôi gia súc có trách nhiệm với những tổn thất về mùa màng mà gia súc của anh ta gây ra hay không. Việc hiểu liệu sự tổn thất thương mại có phải chịu trách nhiệm pháp lý hay không đối với những thiệt hại nó gây ra là rất cần thiết vì nếu không thiết lập sự phân định đầu tiên của quyền sở hữu thì có thể không có giao dịch thị trường để chuyển giao và kết hợp chúng lại. Nhưng kết quả cuối cùng (tối đa hoá giá trị sản xuất) không phụ thuộc vào quan điểm luật pháp nếu hệ thống giá cả được thừa nhận vận hành không cần chi phí. V. VẤN ĐỀ ĐƯỢC MINH HOẠ THEO CÁCH KHÁC Ảnh hưởng bất lợi của những hoạt động buôn bán có thể giả đinh dưới nhiều dạng khác nhau. Trường hợp lúc đầu ở Anh liên quan đến một toà nhà, chính tòa nhà này làm cản trở luồng gió, gây trở ngại đến sự hoạt động của cối xay gió. Một trường hợp gần đây là tòa nhà ở Florida, nó đổ bóng che hết nắng của một cái nhà nhỏ ở dưới, bể bơi và khu tắm nắng của một khách sạn gần đó. Vấn đề gia súc đi lạc và những thiệt hại mùa màng là đối tượng được xem xét kỹ trong hai phần đề cập trước, mặc dù nó có vẻ một giống trường hợp đặc biệt, là thực tế nhưng một ví dụ của vấn đề xuất hiện trong nhiều trường hợp khác nhau. Để làm rõ bản chất luận cứ của tôi và chứng minh tính ứng dụng chung của nó, tôi đề nghị minh hoạ vấn đề một lần nữa bằng cách tham khảo 4 trường hợp thực tế. Đầu tiên chúng ta hãy xem xét lại trường hợp của Sturges v. Bridgman, trường hợp mà tôi đã sử dụng để minh hoạ cho vấn đề chung này. Trong bài báo của tôi về “Uỷ ban truyền thông liên bang". Trong trường hợp này, một người sản xuất bánh kẹo (ở phố Wigmor) đã sử dụng hai cối giã và chày cho công việc kinh doanh của anh ta (một cái sử dụng trong cùng một vị trí trong hơn 60 năm, và cái kia hơn 26 năm). Một bác sĩ sau đó đến cư trú ở khu nhà lân cận (tại phố Wimpole). Máy móc của người sản xuất bánh kẹo không gây ảnh hưởng đến ông bác sĩ cho đến 8 năm sau kể từ khi ông bác sĩ đến sống ở khu bên cạnh, ông ta xây một phòng tư vấn ở cuối vườn bên phải đối diện với bếp của người làm sản xuất bánh kẹo. Ông bác sĩ nhận thấy rằng tiếng ồn và rung do máy móc www.kinhtehoc.com 7
  8. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội của người sản xuất bánh kẹo khiến cho việc sử dụng phòng tư vấn mới xây của mình trở nên khó khăn. “Cụ thể là...tiếng ồn khiến cho ông khó có thể nghe bệnh ở vùng ngực cho bệnh nhân. Ông cũng nhận thấy không thể làm có hiệu quả bất kỳ một công việc nào đòi hỏi phải suy nghĩ và tập trung.” Do đó người bác sĩ đã kiện nhằm bắt người sản xuất bánh kẹo phải dừng việc sử dụng các máy móc gây tiếng ồn. Toà án đã gặp một chút khó khăn khi cấp cho ông bác sĩ tờ huấn thị mà ông ta yêu cầu. “Các trường hợp đặc biệt khó khăn có thể xuất hiện trong khi thực hiện chặt chẽ nguyên tắc mà dựa vào đó ta có được phán quyết của tòa án, nhưng sự phủ nhận nguyên tắc thậm chí sẽ dẫn đến những khó khăn riêng biệt hơn và cùng thời gian đó sẽ tạo ra tác động bất lợi đối với việc mở rộng đất dùng cho mục đích cư trú.” Quyết định của toà án phán quyết người bác sĩ có quyền ngăn cản không cho người sản xuất bánh kẹo sử dụng máy móc. Nhưng tất nhiên, có thể thay đổi sự sắp đặt này, đối đầu với quyết đinh của luật pháp bằng cách hai bên tiến hành thoả thuận. Người bác sĩ sẵn lòng từ bỏ quyền lợi của mình và cho phép máy móc tiếp tục vận hành nếu người sản xuất bánh kẹo trả cho anh ta tổng số tiền lớn hơn số thu nhập bị tổn thất mà anh ta phải chịu để chuyển đến một chỗ khác đắt đỏ và kém thuận lợi hơn hay giảm bớt hoạt động ở chỗ này hay, như khả năng được gợi ý, xây tường ngăn cách làm giảm tiếng ồn và rung. Người sản xuất bánh kẹo sẽ sẵn lòng làm việc này nếu số tiền anh ta phải trả cho người bác sĩ ít hơn so với sự sụt giảm trong thu nhập anh ta phải chịu khi anh ta phải thay đổi phương thức sản xuất ở khu vực này, từ bỏ sự hoạt động của anh ta hay chuyển việc buôn bán bánh đến một số khu vực khác. Giải pháp của vấn đề phụ thuộc vào tính cần thiết liệu tiếp tục sử dụng máy móc làm tăng thêm thu nhập của người sản xuất bánh kẹo hay việc sử dụng máy móc đó làm thu nhập của người bác sĩ giảm đi. Nhưng bây giờ, hãy xem xét trường hợp nếu người sản xuất bánh kẹo chiếm ưu thế trong tình huống này. Người sản xuất bánh kẹo sẽ có quyền tiếp tục hoạt động với tiếng ồn và rung của máy móc mà không phải trả bất cứ thứ gì cho người bác sĩ. Tình huống bây giờ đã đảo ngược lại là: người bác sĩ phải trả cho người làm bánh để thuyết phục ông ta ngừng sử dụng máy móc. Nếu thu nhập của người bác sĩ giảm nhiều hơn khi tiếp tục sử dụng máy móc so với số thu nhập tăng thêm của người sản xuất bánh kẹo thì rõ ràng là người bác sĩ và người sản xuất bánh kẹo có thể thoả thuận, người bác sĩ sẽ trả tiền cho người sản xuất bánh kẹo để anh ta ngừng sử dụng máy móc. Có thể nói rằng, các tình huống mà người sản xuất bánh kẹo không nhận được tiền để tiếp tục sử dụng máy móc và bồi thường thiệt hại gây ra cho người bác sĩ (nếu bác sĩ có quyền ngăn cản việc sử dụng máy móc của người sản xuất bánh kẹo) sẽ là tình huống được người bác sĩ quan tâm nhằm chi trả cho người sản xuất bánh kẹo để thuyết phục ông ta ngừng sử dụng máy móc (nếu người làm bánh có quyền vận hành máy móc). Các điều kiện cơ bản hoàn toàn giống nhau trong trường hợp này bởi chúng có trong ví dụ về gia súc phá hoại mùa màng. Với giao dịch thị trường không có chi phí, quyết định của toà án liên quan đến trách nhiệm pháp lý đối với thiệt hại sẽ không ảnh hưởng đến sự phân phối tài nguyên. Tất nhiên chính quan điểm của thẩm phán ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống kinh tế theo một định hướng mong muốn. Bất kỳ quyết định nào khác sẽ “tạo ra tác động bất lợi đối với việc mở rộng đất dùng cho mục đích cư trú”, luận cứ được minh họa bằng cách phân tích ví dụ về một lò rèn hoạt động trên vùng đồng hoang cằn cỗi mà sau này vùng đất đó được mở mang thành khu dân cư. Quan điểm của thẩm phán cho rằng họ sẽ giải quyết vấn đề đất được sử dụng như thế nào, nó sẽ chỉ đúng trong trường hợp chi phí thực hiện các giao dịch thị www.kinhtehoc.com 8
  9. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội trường cần thiết vượt quá lợi ích có thể đạt được bằng cách sắp xếp lại quyền lợi. Chỉ khi giá trị của các điều kiện thuận lợi thêm vào đối với việc cư ngụ thu được lớn hơn giá trị của những cái bánh hay đồ sắt mất đi thì việc bảo vệ các khu vực (phố Wimpole Street hay vùng đồng hoang) sử dụng cho mục đích định cư hay sự dụng chuyên nghiệp (bằng cách trao cho những người sử dụng phi công nghiệp quyền ngăn chặn tiếng ồn, rung, khói, ... theo lệnh của toàn án) mới là điều được mong muốn. Nhưng các thẩm phán cỏ vẻ như không nhận thức được điều này. Lý do mà tòa án đưa ra để quyết định quyền luật pháp thường xa lạ với nhà kinh tế vì nhiều nhân tố mà căn cứ vào đó tòa án đưa ra phán quyết không liên quan gì đến nhà kinh tế cả. Chính vì điều này mà các tình huống giống nhau theo quan điểm của nhà kinh tế sẽ được xử lý khác với tòa án. Vấn đề kinh tế trong tất cả các trường hợp ảnh hưởng có hại là làm sao để tối đa hóa giá trị sản xuất. Trong trường hợp của Bass v. Gregory, không khí sạch được đưa đến một cái giếng nhằm tạo điều kiện cho việc sản xuất bia nhưng khí độc hại thoát ra từ giếng làm cho cuộc sống của những nhà tiếp giáp kém thoải mái. Vấn đề kinh tế được lựa chọn ở đây là: chi phí sản xuất bia thấp và sự dễ chịu của các ngôi nhà xung quanh giảm đi hay chi phí sản xuất bia cao và tăng sự dễ chịu. Để trả lời câu hỏi, “Học thuyết được mất (lost gain)” có vẻ phù hợp với sắc thái quan sát của thẩm phán. Nhưng cần phải ghi nhớ rằng câu hỏi mà tòa án phải giải quyết ngay lập tức không phải là câu hỏi ai phải làm gì mà là ai là người có quyền làm gì. Việc sửa đổi sự phân định pháp luật ban đầu bởi các giao dịch thị trường luôn có thể xảy ra. Và tất nhiên, những giao dịch thị trường như thế là không mất phí, sự sắp xếp lại quyền đó luôn diễn ra nếu nó khiến cho giá trị sản xuất tăng lên. VI. TÍNH TOÁN CHI PHÍ GIAO DỊCH THỊ TRƯỜNG Luận điểm được bắt đầu từ điểm giả định ( trình bày cụ thể trong phần III, IV và ẩn ý trong phần V) rằng không có chi phí liên quan trong khi thực hiện các giao dịch thị trường. Tất nhiên đó là một giả định rất phi thực tế. Để thực hiện giao dịch thị trường thì việc khám phá ai là người muốn giao dịch, thông báo với mọi người về người muốn thực hiện giao dịch và các điều kiện giao dịch, thực hiện thương lượng để dẫn tới thỏa thuận, soạn thảo hợp đồng, tiến hành kiểm tra cần thiết để chắc chắn rằng các điều kiện của hợp đồng được tôn trọng ... là rất cần thiết. Các hoạt động đó thường tốn rất nhiều chi phí, chi phí thích hợp ở bất kỳ tỷ lệ nào để ngăn chặn nhiều giao dịch được thực hiện trên thế giới ở đó hệ thống giá cả vận hành không có chi phí. Trong các phần đầu, khi giải quyết vấn đề sắp xếp lại quyền luật pháp thông qua thị trường, tôi đã lập luận rằng sự sắp xếp lại đó được thực hiện bất kỳ khi nào thông qua thị trường nếu nó có thể dẫn đến sự gia tăng trong giá trị sản xuất. Nhưng đó là giả định trong thị trường phi chi phí. Một khi chi phí của việc thực hiện giao dịch thị trường được đưa vào xem xét thì rõ ràng rằng sự sắp xếp quyền lợi như thế sẽ chỉ xảy ra khi sự gia tăng trong giá trị sản xuất do có sự sắp xếp lại đó lớn hơn chi phí có liên quan để tạo ra nó. Trong trường hợp khi giá trị sản xuất ít hơn thì việc trao lệnh của tòa án (hay nhận thức rằng lệnh đó sẽ được trao) hay trách nhiệm phải chi trả thiệt hại có thể dẫn đến hoạt động bị gián đoạn (hay có thể làm cản trở sự bắt đầu của hoạt động) mà điều này sẽ xảy ra nếu giao dịch thị trường là phi chi phí. Trong những điều kiện này, phân định ban đầu của quyền luật pháp có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của hệ thống kinh tế. Sự sắp xếp quyền có thể mang lại giá trị sản xuất lớn hơn www.kinhtehoc.com 9
  10. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội bất kỳ cái gì khác. Nhưng trừ khi sự sắp xếp quyền này được thiết lập bởi hệ thống luật pháp, chi phí để đạt được kết quả tương tự bằng cách thay đổi và kết hợp quyền thông qua thị trường có thể lớn đến mức nó là sự sắp xếp quyền lợi tối ưu, và giá trị sản xuất lớn hơn mà nó mang lại có thể sẽ không bao giờ đạt được. Đoạn thể hiện những xem xét kinh tế trong quá trình phân định ranh giới quyền lợi luật pháp sẽ được thảo luận ở phần sau. Trong phần này, tôi sẽ lấy phân định ranh giới ban đầu của quyền lợi và chi phí thực hiện giao dịch thị trường như đã định để phân tích. Rõ ràng rằng một hình thức thay thế trong tổ chức kinh tế có thể mang lại kết quả tương tự tại chi phí ít hơn so với chi phí thực hiện bằng cách sử dụng thị trường, nó sẽ làm cho giá trị của sản xuất tăng lên. Như tôi đã giải thích nhiều năm trước đây, công ty thể hiện sự thay thế đó để tổ chức sản xuất thông qua giao dịch thị trường. Trong phạm vi cá nhân công ty, thỏa thuận giữa các nhân tố hợ tác khác nhau của sản xuất được loại bỏ và đối với giao dịch thị trường thì nó được thay thế bằng một quyết định hành chính. Sau đó sự sắp xếp lại được sản xuất được thực hiện mà không cần đến thỏa thuận giữa các chủ sở hữu của những nhân tố sản xuất. Một chủ đất, sở hữu một mảnh đất rộng có thể dành mảnh đấ của mình cho những mục đích sử dụng khác nhau, tất nhiên anh ta có xem xét đến ảnh hưởng những tác động qua lại của các hoạt động khác nhau lên thu nhập ròng của mảnh đất và do đó sẽ dẫn đến những thỏa thuận không cần thiết giữa những người thực hiện các hoạt động khác nhau đó. Những người chủ của một toà nhà lớn hay của một vài bất động sản liền kề nhau ở một khu vực nhất định có thể hành động theo cách tương tự như vậy. Trên thực tế, nếu sử dụng thuật ngữ trước đây của chúng ta thì công ty sẽ không có được quyền luật pháp của tất cả các bên và việc sắp xếp lại các hoạt động sẽ không tuân theo sự sắp xếp lại quyền lợi theo hợp đồng, nhưng như kết quả của quyết định hành chính thì vấn đề là quyền lợi sẽ được sử dụng như thế nào? Tất nhiên, nó không tuân theo chi phí hành chính của việc tổ chức giao dịch thông qua công ty, chi phí này rõ ràng là ít hơn chi phí giao dịch thị trường thay thế. Nhưng khi việc soạn thảo hợp dồng là đăc biệt khó và cố gắng để thể hiện điều mà các bên đồng ý hay không đồng ý (Ví dụ: số lượng, loại mùi hay tiếng ồn mà họ có thể hay không tạo ra) sẽ đòi hỏi một số lượng tài liệu dài, lớn và nếu có thể có được những tài liệu đó thì lại cần phải soạn thảo một hợp đồng dài hạn. Chẳng có gì là ngạc nhiên nếu sự xuất hiện một công ty hay việc mở rộng hoạt động của một công ty đã được thành lập không phải là giải pháp được sử dụng trong nhiều trường hợp để giải quyết các vấn đề về ảnh hưởng bất lợi. Giải pháp này sẽ được sử dụng bất kỳ khi nào chi phí hành chính của công ty ít hơn chi phí giao dịch thị trường mà nó thay thế và lợi ích thu được từ việc sắp xếp lại hoạt động lớn hơn chi phí của công ty bỏ ra để tổ chức chúng. Tôi không cần phải nghiên cứu quá chi tíêt đặc điểm của giải pháp này vì tôi vừa mới giải thích những vấn đề liên quan ở bài báo trước của mình. Nhưng công ty không phải là câu trả lời có thể duy nhất cho vấn đề này. Chi phí hành chính cho việc tổ chức giao dịch trong công ty cũng có thể cao và đặc biệt cao như vậy khi các hoạt động khác nhau được đưa ra kiểm soát trong một tổ chức đơn lẻ. Trong trường hợp chuẩn về thiệt hại do khói gây ra, khói có thể làm ảnh hưởng đến rất nhiều người và liên quan đến rất nhiều hoạt động khác nhau, do đó chi phí hành chính có thể cao đến nỗi bất kỳ cố gắng nhằm giải quyết vấn đề trong phạm vi một công ty đơn lẻ là www.kinhtehoc.com 10
  11. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội điều không thể. Một giải pháp lựa chọn khác là quy định trực tiếp của chính phủ. Thay vì thiết lập một hệ thống luật pháp về quyền lợi mà nó có thể bị các giao dịch trên thị trường sửa đổi, chính phủ có thể áp dụng các quy định quy định cái mà người dân được phép và không được phép làm và những quy định này phải được chấp hành. Do đó chính phủ (bằng đạo luật hay có thể thông qua một cơ quan hành chính) để giải quyết vấn đề về tác hại của khói có thể ban hành sắc lệnh về phương thức sản xuất nhất định nào đó được sử dụng hay không được sử dụng (ví dụ lắp đặt các thiết bị chống khói hay không cho phép đốt than hay dầu) hoặc có thể hạn chế một số loại hình kinh doanh nào đó ở một số vùng nhất định (các quy định vùng). Chính phủ, trên khía cạnh nào đó, là một siêu công ty (một loại công ty rất đặc biệt) bởi nó có khả năng gây ảnh hưởng đến việc sử dụng các nhân tố sản xuất bằng các quyết định hành chính. Nhưng một công ty bình thường là đối tượng cho “riêng mình” trong (cheeks in) các hoạt động của nó do có sự cạnh tranh của các công ty khác, mà các công ty này có thể thực hiện các hoạt động tương tự với chi phí thấp hơn và cũng bởi vì luôn luôn có sự thay đổi trong giao dịch thị trường đối lập với tổ chức trong phạm vi công ty nếu chi phí hành chính trở nên quá cao. Chính phủ có thể, nếu nó muốn, ngăn cản hoàn toàn thị trường điều mà một công ty không thể làm được. Công ty phải thực hiện thoả thuận thị trường với chủ sở hữu các nhân tố sản xuất mà nó sử dụng. Vì chính phủ có thể cưỡng bách hay tịch thu tài sản nên nó có thể quy định các nhân tố sản xuất nào được sử dụng theo những cách riêng biệt nào. Các công cụ quyền lực như vậy giúp tránh được nhiều vấn đề rắc rối (cho những người làm hoạt động tổ chức). Hơn nữa, chính phủ có thể tùy ý sử dụng lực lượng cảnh sát và các cơ quan thực thi pháp luật khác để đảm bảo các quy định được thực thi nghiêm túc. Rõ ràng quyền lực của chính phủ có thể khiến nó có khả năng làm việc gì đó với chi phí thấp hơn một tổ chức tư nhân (hay với bất kỳ chi phí nào không cần quyền lực đặc biệt của chính phủ). Nhưng bộ máy hành chính của chính phủ bản thân nó không phải là không có chi phí. Trên thực tế, vào một thời điểm đặc biệt nào đó bộ máy hành chính của chính phủ có thể trở nên đặc biệt tốn phí. Hơn nữa, không có lý do gì để cho rằng quy định khoanh vùng và hạn chế, được ban hành bởi sai lầm của chính quyền là đối tượng của các sức ép chính trị, hoạt động mà không có bất kỳ sự kiểm tra cạnh tranh nào, sẽ luôn là những quy định cần thiết, có tác dụng làm tăng hiệu quả vận hành của nền kinh tế. Hơn nữa, những quy định chung như vậy phải áp dụng cho các trường hợp rất đa dạng, nhiều trường hợp có hiệu lực nhưng trong nhiều trường hợp thì rõ ràng là không thích hợp. Từ những xem xét này có thể thấy những quy định trực tiếp của chính phủ sẽ không nhất thiết tạo ra các kết quả tốt hơn việc để vấn đề cho thị trường hay công ty tự giải quyết. Nhưng tương tự như vậy không thể phủ nhận, trong một số trường hợp , quy định hành chính của chính phủ có mang lại sự cải thiện hiệu quả kinh tế. Đó chính là trường hợp đặc biệt khi, ví dụ như trường hợp tác hại của khói, có một số lượng lớn người liên quan và do đó chi phí giải quyết vấn đề thông qua thị trường hay công ty có thể sẽ rất cao. Tất nhiên vẫn có một sự lựa chọn khác cho vấn đề này, đó là chẳng làm gì để giải quyết vấn đề cả. Giả sử rằng chi phí liên quan để giải quyết vấn đề, bằng những quy định đưa ra bởi bộ máy hành chính của chính phủ, thường là rất cao (đặc biệt nếu chi phí đó www.kinhtehoc.com 11
  12. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội bao gồm tất cả các kết quả của từng việc mà chính phủ phải can thiệp vào), không còn nghi ngờ gì nữa trường hợp mà lợi ích thu được từ quy định hành động khiến cho các tác động bất lợi tăng sẽ tốn phí ít hơn phí phải bỏ ra khi có sự can thiệp của quy định của chính phủ. Thảo luận về vấn đề ảnh hưởng bất lợi trong phần này (khi chi phí giao dịch thị trường được đưa vào tính toán) là rất không thích hợp. Nhưng ít nhất nó cũng làm sáng tỏ vấn đề về một sự lựa chọn sắp xếp xã hội hợp lý nhằm giải quyết những ảnh hưởng bất lợi. Tất cả các giải pháp đều cần có chi phí và không có một lý do nào để cho rằng quy định của chính phủ được xem là cách giải quyết vấn đề đơn giản vì thị trường hay công ty không thể giải quyết tốt vấn đề. Trên thực tế, ta chỉ có thể có quan điểm về chính sách làm hài lòng mọi người khi bình tĩnh nghiên cứu xem thị trường, công ty và chính phủ sẽ giải quyết vấn đề ảnh hưởng bất lợi này như thế nào. Các nhà kinh tế cần nghiên cứu công việc của người môi giới khi liên kết các bên lại với nhau, kết quả của các hiệp định giới hạn, vấn đề của công ty phát triển kinh doanh bất động sản quy mô lớn, hoạt động của chính phủ về chia vùng và quy định về các hoạt động khác. Tôi tin tưởng rằng các nhà kinh tế và những người hoạch định chính sách nói chung đều có xu hướng đánh giá quá cao những lợi ích thu được từ các quy định của chính phủ. Nhưng sự tin tưởng này, thậm chí nếu có được chứng minh, cũng chỉ nhằm gợi ý rằng quy định của chính phủ nên được giảm bớt. Nó không nói với chúng ta nơi nào đường giới hạn được vẽ nên nhưng dường như với tôi điều này đến từ nghiên cứu cụ thể về những kết quả thực sự của việc giải quyết vấn đề theo hướng khác. Nhưng thật không may mắn nếu nghiên cứu này của tôi được thực hiện với sự hỗ trợ của phân tích kinh tế sai lầm. Mục đích của bài viết này là để chỉ ra cách tiếp cận kinh tế nên làm đối với vấn đề này. VII. PHÂN ĐỊNH RANH GIỚI LUẬT PHÁP CỦA QUYỀN LỢI VÀ VẤN ĐỀ KINH TẾ Thảo luận ở phần V không chỉ phục vụ việc minh họa luận cứ mà nó còn cố gắng gợi mở cách tiếp cận luật pháp về vấn đề ảnh hưởng bất lợi. Các trường hợp xem xét đều ở Anh nhưng việc lựa chọn tương tự các trường hợp ở Mỹ có thể dễ dàng được thực hiện và đặc điểm lý do cũng sẽ tương tự như vậy. Tất nhiên nếu giao dịch thị trường không có chi phí thì toàn bộ những vấn đề này (những vấn đề về tính cân bằng sẽ được tách riêng ra) sẽ là quyền lợi của các bên khác nhau, khi quyền lợi này được xác định rõ ràng thì kết quả của các hành động luật pháp sẽ dễ dự đoán. Nhưng như chúng ta đã biết tình huống khác nhau khi giao dịch thị trường có chi phí cao và điều này khiến cho việc sắp xếp quyền lợi bởi luật pháp trở nên khó khăn. Trong những trường hợp như vậy, tòa án sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh tế. Do đó tòa án cần phải hiểu được kết quả kinh tế của các quyết định và đưa kết quả kinh tế đó vào xem xét khi đưa ra quyết định. Tòa án phải hiểu những ảnh hưởng kinh tế đó rõ đến mức nó không thể để tạo ra những kết quả bất ổn cho bản thân vị trí luật pháp của mình. Thậm chí khi có thể thay đổi sự phân định ranh giới luật pháp của quyền lợi thông qua giao dịch thị trường thì rõ ràng việc giảm nhu cầu cho những giao dịch đó và do đó giảm việc sử dụng các nguồn lực cho việc thực hiện chúng là điều rất được mong muốn. www.kinhtehoc.com 12
  13. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội Một nghiên cứu kỹ về dự đoán trước quyết định của tòa án trong những trường hợp như vậy rất được quan tâm nhưng tôi không có đủ khả năng để làm việc đó. Tuy nhiên một nghiên cứu qua đã cho thấy rõ là tòa án thường nhận thức được các hàm ý kinh tế và bản chất qua lại của vấn đề (điều mà nhiều nhà kinh tế không nhận thức được). Hơn nữa, đôi lúc họ còn đưa các hàm ý kinh tế đó vào xem xét cùng với các nhân tố khác khi đưa ra quyết định của mình. Về vấn đề này các tác giả Mỹ đề cập đến vấn đề một cách rõ ràng hơn các tác giả Anh. Do vậy tôi xin trích dẫn bài viết của Prosser về Các sai lầm cá nhân mà một người có thể “sử dụng tài sản của riêng anh ta hay... thực hiện công việc riêng của mình tại chi phí đền bù một số thiệt hại gây ra cho những người hàng xóm sống xung quanh mình. Anh ta có thể vận hành nhà máy với tiếng ồn và khói gây khó chịu cho người khác với điều kiện là nó không được vượt quá giới hạn cho phép. Chỉ khi nào hành động của anh ta là quá đáng, dưới ánh sáng của tính hữu dụng và tổn hại mà nó gây ra (phần in nghiêng là phần được thêm vào), thì nó đã thực sự trở nên phiền toái...Như đã đề cập tới trong một trường hợp cổ điển về việc làm nến ở một thị trấn, “Le utility del chose excusera le noisomeness del stink." Thế giới cần phải có các nhà máy, các lò luyện kim, nhà máy lọc dầu, máy móc gây ra tiếng động và tiếng nổ, thậm chí có thể cần một số chi phí bỏ ra đền bù cho những bất tiện mà nó gây ra cho những người sống ở vùng lân cận và nguyên đơn cần phải chấp nhận những bất tiện vô lý đó vì lợi ích chung.” Các tác giả Anh chính thống không trình bày được một cách rõ ràng như vậy, họ không nêu rõ được sự so sánh giữa tính hữu ích và thiệt hại gây ra chính là một yếu tố trong việc quyết định liệu những ảnh hưởng bất lợi có thể xem là sự thiệt hại hay không. Nhưng ta có thể tìm thấy các quan điểm tương tự như thế của các tác giả Anh được thể hiện không rõ bằng. Không còn nghi ngờ gì nữa ảnh hưởng bất lợi chắc chắn phải lớn trước khi tòa án phán xét nó là một phần phản ánh thực tế phải hầu như luôn phải lấy một phần lợi ích để bù đắp thiệt hại. Và trong biên bản của các trường hợp riêng lẻ, rõ ràng là các thẩm phán hiểu rõ cái gì mất và cái gì được khi họ đưa ra quyết định trao lệnh của toà án hay trao phán quyết có lợi cho bên gây thiệt hại. Do đó, để khước từ việc ngăn chặn thiệt hại mà những tòa nhà mới xây gây ra trong tương lại, thẩm phán tuyên bố: “Tôi biết không có nguyên tắc chung đối với thông luật, mà.... nói một tòa nhà có ý định ngăn chặn tương lai của những cái khác là đã gây thiệt hại. Trong trường hợp như thế, sẽ không có những thành phố lớn; và do đó tôi cần phải trao lệnh của tòa cho tất cả các tòa nhà mới xây trong thành phố này....” Vấn đề mà chúng ta gặp phải khi giải quyết các hoạt động có ảnh hưởng bất lợi không đơn giản chỉ là việc hạn chế trách nhiệm đối với họ. Cái được quyết định là liệu lợi ích thu được từ việc ngăn cản cái có hại có lớn hơn thiệt hại đâu đó phải chịu như kết quả của việc ngăn chặn hành động gây hại. Trong thế giới mà chi phí sắp xếp lại quyền lợi được thiết lập bởi hệ thống luật pháp thì trên thực tế toà án trong trường hợp có liên quan tới thiệt hại, ra quyết định dựa trên vấn đề kinh tế và quyết định nguồn lực được sử dụng như thế nào. Người ta lập luận rằng tòa án có ý thức về vấn đề này và họ thường đưa ra www.kinhtehoc.com 13
  14. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội sự so sánh về cái được lợi và cái mất đi khi ngăn cản các hoạt động có tác động tiêu cực, mặc dù tất cả các so sánh không phải lúc nào cũng đúng. Nhưng sự phân định ranh giới quyền lợi cũng là kết quả của các sắc lệnh tuân thủ theo đúng luật. Ở đây chúng ta cũng tìm thấy bằng chứng cho thấy sự hiểu biết sâu sắc về bản chất qua lại của vấn đề. Khi một sắc lệnh tuân thủ luật pháp được thêm vào danh sách thiệt hại thì hành động cũng được đưa vào nhằm hợp pháp hoá những cái khác mà chúng có thể được coi là thiệt hại theo thông luật. Loại tình huống mà các nhà kinh tế có khuynh hướng coi là hành động đòi hỏi có sự điều chỉnh của chính phủ trên thực tế thường là kết quả hoạt động của chính phủ. Hành động đó không phải là khôn ngoan. Nhưng có một mối nguy hiểm thực sự khi chính phủ can thiệp quá sâu vào hệ thống kinh tế, khi đó có thể dẫn đến sự bảo vệ cho những người phải chịu trách nhiệm đối với ảnh hưởng có hại, để cho ảnh hưởng có hại đi quá xa. VIII. CÁCH GIẢI QUYẾT CỦA PIGOU TRONG “KINH TẾ HỌC PHÚC LỢI” Nguồn gốc của phân tích kinh tế hiện đại về vấn đề chi phí xã hội được thảo luận trong bài viết này là “Kinh tế học phúc lợi” của Pigou và cụ thể là đoạn của phần II, đoạn này giải quyết sự khác nhau giữa sản phẩm ròng tư nhân và xã hội, nó xảy ra vì: “một người A, trong quá trình cung cấp một số dich vụ, mà dịch vụ này đã được thanh toán, cho người thứ hai B đã ngẫu nhiên đưa ra một số dịch vụ hoặc tạo ra những bất tiện cho người khác (không phải các sản phẩm giống với dịch vụ ban đầu), hay tạo ra một loại sản phẩm mà bên hưởng lợi không phải là bên thanh toán tiền hay phải trả tiền bồi thường cho bên bị hại.” Pigou nói rằng mục đích của ông trong Phần II: Kinh Tế Học Phúc Lợi là: “xác định xem sự tự do của tính tư lợi, hoạt động theo hệ thống luật pháp hiện hành, có xu hướng phân bổ nguồn lực của đất nước theo cách thuận lợi nhất cho việc sản xuất một lượng lớn cổ tức quốc gia đến chừng nào, và đến chừng nào thì sự tự do của tính tư lợi là khả thi đối với hoạt động của nhà nước nhằm cải thiện xu hướng “tự nhiên”.” Đánh giá từ phần đầu của bài trình bày này, mục đích của Pigou là phát hiện xem liệu có bất kỳ sự cải thiện nào trong sự sắp xếp hiện tại quyết định đến việc sử dụng nguồn lực hay không. Từ đó Pigou kết luận rằng có thể thực hiện việc cải thiện, có người có thể hi vọng ông sẽ tiếp tục việc đó bằng cách nói rằng ông dự định sẽ sắp đặt những thay đổi đòi hỏi chúng xảy ra. Nhưng thay vào đó Pigou thêm cụm từ làm tương phản giữa xu hướng “tự nhiên” và “hành động của nhà nước” mà cụm từ này trong chừng mực ý nghĩa nào đó làm cân bằng giữa sắp xếp hiện tại với xu hướng tự nhiên và nó hàm ý rằng cái được đòi hỏi để tạo nên những cải thiện đó chính là hành động của chính phủ (nếu khả thi). Đây ít hay nhiều chính là quan điểm của Pigou và chính là bằng chứng từ phần 2 của Chương I. Pigou bắt đầu bằng cách đề cập đến các nhà kinh tế học cổ điển theo chủ nghĩa lạc quan, những người lập luận rằng có thể tối đa hóa giá trị của sản xuất nếu chính phủ kiềm chế không can thiệp vào hệ thống kinh tế và các sự sắp xếp về kinh tế xoay chuyển bất ngờ “một cách tự nhiên”. Pigou tiếp tục nói rằng nếu tính tư lợi thúc www.kinhtehoc.com 14
  15. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội đẩy phúc lợi kinh tế thì chính là bởi vì các cơ quan của con người được lập ra để làm như vậy. (Đây là phần lập luận của Pigou mà phần này đã được ông phát triênr với sự trợ giúp từ việc trích dẫn tác phẩm của Carman, tôi thấy về cơ bản là đúng). Pigou kết luận rằng: “Thậm chí ở những nước phát triển nhất đều có những thất bại và không hoàn hảo... có nhiều trở ngại ngăn cản việc phân bổ nguồn lực cộng đồng...theo cách có hiệu quả nhất. Việc nghiên cứu chúng tạo nên vấn đề hiện nay của chúng ta...mục đích của nó là rất thiết thực. Nó giúp làm rõ hơn một số cách mà bây giờ sẽ là, hay cuối cùng có thể là, khả thi đối với chính phủ nhằm quản lý vai trò của sức mạnh kinh tế theo cách khôn ngoan nhằm thúc đẩy phúc lợi kinh tế và thông qua đó thúc đẩy toàn bộ phúc lợi xã hội của dân chúng nói chung.” Suy nghĩ cơ bản của Pigou là: Có một số người lập luận rằng hành động của chính phủ là không cần thiết nhưng hệ thống này hoạt động tốt được như bây giờ chính là do có hành động của chính phủ. Tuy nhiên vẫn còn có những điểm chưa hoàn hảo. Vậy chính phủ cần có thêm những hành động gì? Nếu đây là tóm tắt đúng về quan điểm của Pigou thì sự chưa đầy đủ của nó có thể được giải thích bằng việc phân tích ví dụ đầu tiên ông đưa ra về sự khác biệt giữa sản phẩm tư nhân và xã hội. Có thể xảy ra việc các chi phí rơi vào những người không trực tiếp liên quan do thiệt hại không được bồi thường đối với rừng cây xung quanh gây ra bởi các tia lửa từ đầu máy xe lửa. Phải tính tất cả các ảnh hưởng đó- một số là ảnh hưởng tích cực, một số khác là ảnh hưởng tiêu cực-lên sản phẩm ròng xã hội của tiền lời cận biên của bất kỳ lượng nguồn lực nào được chuyển đổi cho bất kỳ mục đích sử dụng hay vị trí nào. Ví dụ được Pigou sử dụng đề cập đến một tình huống có thật. Ở Anh, ngành đường sắt thường không phải bồi thường cho nạn nhân chịu thiệt hại do cháy từ tia lửa phát ra từ đầu máy. Xem xét cùng với những gì được ông nói đến ở phần II, Chương 9, tôi xin lấy khuyến nghị khôn ngoan của Pigou, đầu tiên là nhà nước nên hành động nhằm sửa chữa tình huống “tự nhiên” và thứ hai phải bắt ngành đường sắt đền bù thiệt hại do rừng bị cháy. Nếu đây là cách hiểu đúng quan điểm của Pigou thì tôi có thể lập luận rằng khuyến nghị đầu tiên được đưa ra dựa trên việc hiểu sai sự thật và khuyến nghị thứ hai là không cần thiết. Bây giờ chúng ta xem xét đến quan điểm luật pháp. Dưới tiêu đề “Tia Lửa Phát Ra Từ Đầu Máy” chúng ta thấy nội dung sau trong quyển “Pháp luật Anh” của Halsbury: “Nếu nhà kinh doanh xe lửa sử dụng động cơ hơi nước mà văn bản pháp luật của nhà chức trách không nói rõ là được phép thì họ phải chịu trách nhiệm với hỏa hoạn gây ra do tia lửa phát ra từ đầu máy xe lửa bất luận có do lỗi của sự bất cẩn hay không. Tuy nhiên, các nhà kinh doanh xe lửa thường nhận được sự cho phép sử dụng đầu máy hơi nước tương xứng của nhà chức trách nếu đầu máy xe lửa được sản xuất với lời cảnh báo phòng ngừa khoa học nói rằng đề phòng hỏa hoạn và phải thận trọng khi sử dụng, trong trường hợp như vậy các nhà kinh doanh xe www.kinhtehoc.com 15
  16. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội lửa sẽ không phải chịu trách nhiệm trước thông luật về bất cứ thiệt hại nào do tia lửa từ đầu máy gây ra...Trong khi sản xuất lắp đặt đầu máy, nhà kinh doanh xe lửa nhất định phải sử dụng tất cả các phát kiến khoa học nhằm tránh gây thiệt hại miễn là các phát kiến đó phù hợp đối với công ty, phải quan tâm thích đáng đến việc có thể xảy ra thiệt hại, có chi phí và biện pháp sửa chữa phù hợp; nhưng đó cũng không được coi là lỗi cẩu thả của nhà kinh doanh xe lửa nếu họ từ chối sử dụng thiết bị hiệu quả mà rõ ràng là chúng có tác dụng tốt.” Đối với nguyên tắc chung này, Đạo luật (hỏa hoạn) đường sắt năm 1905, được sửa đổi năm 1928 có dành cho một ngoại lệ. Nó có liên quan đến đất nông nghiệp hay cây trồng nông nghiệp. “Trong trường hợp như vậy sự thật đầu máy xe lửa được sử dụng theo quyền hạn do luật pháp quy định đó là không làm ảnh hưởng đến trách nhiệm của công ty hành động đối với thiệt hại ... Tuy nhiên, những điều khoản này chỉ được áp dụng khi bồi thường thiệt hại . .. không vượt quá 200 bảng Anh (Đạo luật năm 1905 quy định 100 Bảng Anh) và khi có thông báo bằng văn bản thông báo có hỏa hoạn và ý định đòi bồi thường phải gửi đến công ty trong vòng 7 ngày kể từ ngày xuất hiện thiệt hại và chi tiết thiệt hại được liệt kê bằng văn bản chỉ rõ rằng số tiền đòi bồi thường không vượt quá 200 Bảng Anh, văn bản kê thiệt hại này phải được gửi đến công ty trong vòng 21 ngày.” Đất nông nghiệp không bao gồm đất hoang mạc hay đất xây dựng và cây trồng nông nghiệp không bao gồm cây khô hay rơm. Tôi không thực hiện việc nghiên cứu lịch sử nghị trường đối với ngoại lệ luật pháp này nhưng khi xét đến các thảo luận tại Hạ viện năm 1922 và 1923, ta thấy ngoại lệ này có thể được đưa ra nhằm giúp các nhà kinh doanh nhỏ. Hãy quay trở lại ví dụ của Pigou về thiệt hại gây ra do tia lửa phát ra từ đầu máy đối với khu rừng lân cận mà khu rừng không được bồi thường. Ví dụ này có lẽ nhằm mục đích cho chúng ta thấy khả năng “hành động của Nhà nước để cải thiện xu hướng ‘tự nhiên’” như thế nào. Nếu chúng ta xem xét ví dụ của Pigou ở thời điểm trước năm 1905 hay coi đó là một ví dụ tùy chọn (arbitrary) (trong trường hợp đó Pigou có thể phải viết “đất xây dựng lân cận” thay vì “khu rừng lân cận”), như thế rõ ràng rằng lý do tại sao công ty không phải trả bồi thường chính là do ngành đường sắt có quyền lực luật pháp để vận hành đầu máy hơi nước (miễn trách nhiệm pháp lý đối với hỏa hoạn gây ra do tia lửa từ đầu máy). Đây chính là vị thế luật pháp được thiết lập năm 1860, trong trường hợp đơn lẻ, chỉ liên quan đến việc tàu hỏa gây cháy ở khu rừng lân cận và luật pháp ở điểm này không thay đổi (loại trừ một ngoại lệ) bởi một thế kỷ pháp chế đường sắt, bao gồm cả sự quốc hữu hóa. Nếu chúng ta xem xét ví dụ của Pigou “không bồi thường thiệt hại cho khu rừng lân cận gây ra do tia lửa phát ra từ đầu máy” theo nghĩa đen, và giả định rằng ví dụ này được xem xét vào giai đoạn sau năm 1905,vậy rõ ràng rằng lý do tại sao công ty không phải trả bồi thường chính là vì thiệt hại lớn hơn 100 bảng Anh (trong lần xuất bản đầu tiên của cuốn Kinh Tế Học Phúc Lợi) hay lớn hơn 200 bảng Anh (trong lần tái bản sau) hay do người chủ của những cây gỗ không thông báo bằng văn bản cho công ty xe lửa trong vòng 7 ngày kể từ ngày xảy ra hỏa hoạn hay không gửi bảng kê chi tiết thiệt hại www.kinhtehoc.com 16
  17. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội trong vòng 21 ngày. Trong thế giới thực, ví dụ của Pigou chỉ tồn tại như kết quả của sự lựa chọn cẩn thận của luật pháp. Tất nhiên không dễ dàng hình dung việc chế tạo lắp đặt đường ray trong tình trạng tự nhiên. Cái dễ hình dung nhất có lẽ là xe lửa sử dụng đầu máy hơi nước “mà không có quyền luật pháp rõ ràng”. Tuy nhiên trong trường hợp này công ty đường sắt bị bắt buộc phải bồi thường cho người chịu thiệt hại do rừng bị cháy. Điều này nói lên rằng, việc đền bù được thực hiện mà không có sự hiện diện của hành động của Chính phủ. Trường hợp duy nhất mà công ty không phải thực hiện đền bù là khi có sự can thiệp của hành động của Chính phủ. Điều lạ là Pigou, người hiểu rất rõ việc đền bù thiệt là cần thiết lại lấy ví dụ này để minh chứng cho khả năng “hành động của Nhà nước để cải thiện xu hướng ‘tự nhiên’” như thế nào. Pigou dường như có quan điểm sai lầm về sự thật của tình huống này. Nhưng cũng có thể ông mắc sai lầm trong phân tích kinh tế của mình. Việc công ty đường sắt bị đòi hỏi phải bồi thường cho người chịu thiệt hại do hỏa hoạn gây ra bởi đầu máy xe lửa là không cần thiết. Tôi không muốn nêu ra đây trường hợp ngành đường sắt có thể thỏa thuận với tất cả mọi người có tài sản tiếp giáp với đường ray xe lửa và không có chi phí nào phải bỏ ra liên quan đến việc thực hiện những thỏa thuận này, đây không phải là vấn đề công ty xe lửa có phải chịu trách nhiệm cho thiệt hại do hỏa hoạn gây ra hay không. Vấn đề này đã được xem xét khá kỹ ở các phần trên. Vấn đề ở đây là liệu ngành đường sắt có cần thiết phải chịu trách nhiệm trong điều kiện việc thực hiện những thỏa thuận như vậy rất tốn kém. Pigou rõ ràng đã nghĩ rằng phải bắt ngành đường sắt trả tiền đền bù và có thể dễ dàng nhận thấy lập luận nào đã dẫn ông đến việc đưa ra kết luận này. Giả sử ngành đường sắt sẽ xem xét liệu có nên chạy thêm một tàu nữa hay tăng vận tốc của chiếc tàu hiện đang chạy hay lắp các thiết bị chống tia lửa vào đầu máy hay không. Nếu ngành đường sắt không phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do hỏa hoạn thì khi đưa ra những quyết định như vậy, họ sẽ không tính thiệt hại từ việc cho chạy thêm một tàu, tăng vận tốc tàu hiện có hay không lắp đặt thiết bị chống tia lửa vào chi phí gia tăng thiệt hại. Đây chính là nguồn gốc của sự khác biệt giữa sản phẩm ròng xã hội và tư nhân. Nó thể hiện ở việc ngành đường sắt hoạt động mà hoạt động đó làm giảm giá trị tổng sản phẩm và nó sẽ không hoạt động nếu nó phải chịu trách nhiệm về thiệt hại. Ta có thể thấy rõ điều này qua một ví dụ số học. Xem xét trường hợp ngành đường sắt phải chịu trách nhiệm về thiệt hại hỏa hoạn do tia lửa từ đầu máy gây ra, ngành đường sắt cho chạy hai lượt tàu một ngày trên cùng một đường ray nhất định. Giả sử rằng việc cho chạy một chuyến tàu một ngày cho phép ngành đường sắt thực hiện dịch vụ trị giá 150 đô-la một năm và chạy hai chuyến tàu một ngày cho phép ngành đường sắt tạo ra dịch vụ trị giá 250 đô-la một năm. Giả sử thêm rằng chi phí vận hành một tàu là 50 đô-la một năm và hai tàu là 100 đô-la một năm. Giả sử có sự cạnh tranh hoàn hảo, và chi phí trong việc giảm giá trị sản phẩm ở nơi khác do việc sử dụng các yếu tố bổ xung của sản xuất đối với ngành đường sắt là như nhau. Rõ ràng rằng ngành đường sắt sẽ nhận thấy việc chay hai chuyến xe lửa một ngày là có lãi. Nhưng giả sử rằng chạy một lượt tàu một ngày khiến cho số cây trồng bị phá hủy do hỏa hoạn (tính trung bình hàng năm) là trị giá 60 đô là và chạy 2 lượt tàu một ngày khiến cho số cây trồng bị phá hủy là 120 đô-la. Trong trường hợp này, chạy một lượt tàu một ngày sẽ làm tăng tổng giá trị sản phẩm trong khi chạy hai lượt tàu một ngày sẽ làm giảm giá trị tổng sản phẩm. Để chạy chuyến tàu thứ hai ngành đường sắt phải tốn thêm 100 đô-la một www.kinhtehoc.com 17
  18. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội năm cho dịch vụ đường sắt gia tăng. Nhưng việc giảm giá trị trong sản xuất ở một nơi nào khác là 110 đô-la một năm, 50 đô-la là kết quả của việc sử dụng các yếu tố gia tăng của sản xuất, và 60 đô-la là số tiền đền bù cho cây trồng bị thiệt hại. Do đó ngành đường sắt sẽ có lợi hơn nếu không cho chạy lượt tàu thứ hai và lượt tàu thứ hai này sẽ không được chạy nếu như ngành đường sắt phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại gây ra cho mùa màng, kết luận là việc ngành đường sắt phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại là điều dường như không thể tránh khỏi. Rõ ràng rằng đây chính là lý do nằm sau quan điểm của Pigou. Kết luận sẽ có lợi hơn cho ngành đường sắt nếu họ không cho chạy lượt tàu thứ hai là đúng. Còn kết luận ngành đường sắt cần thiết phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại mà họ gây ra là sai. Bây giờ chúng ta thử thay đổi giả định có liên quan đến quy tắc về trách nhiệm pháp lý. Giả sử rằng ngành đường sắt phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do tia lửa từ đầu máy gây ra, và một người nông dân có đất trồng tiếp giáp với đường xe lửa là người phải chịu thiệt hại; nếu cây trồng của anh ta bị phá hỏng do hỏa hoạn gây ra bởi tàu hỏa thì anh ta sẽ nhận được đền bù từ ngành đường sắt theo giá thị trường, nếu cây trồng của anh ta không bị thiệt hại thì anh ta cũng thu được tiền từ việc bán sản phẩm của mình theo giá thị trường. Do đó anh ta không quan tâm đến việc liệu cây trồng của anh ta có bị thiệt hại không. Vấn đề sẽ rất khác nếu như ngành đường sắt phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại. Bất kỳ cây trồng nào bị phá hỏng do hỏa hoạn gây ra bởi tàu hỏa sẽ làm giảm thu nhập của người nông dân. Người nông dân do đó sẽ không canh tác trên mảnh đất mà cây trồng có nguy cơ bị thiệt hại lớn hơn lợi nhuận ròng từ mảnh đất (lý do đã được trình bày chi tiết ở phần III). Sự thay đổi từ chỗ ngành đường sắt không phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại sang việc họ phải chịu trách nhiệm dẫn tới sự ra tăng trong số lượng canh tác trên mảnh đất tiếp giáp với đường sắt. Tất nhiên nó cũng làm tăng số lượng cây trồng bị phá hỏng do hỏa hoạn gây ra bởi xe lửa. Bây giờ chúng ta hãy quay lại ví dụ số học. Giả sử rằng với sự thay đổi quy tắc về trách nhiệm pháp lý, số lượng cây trồng bị thiệt hại do hỏa hoạn gây ra bởi tàu hỏa tăng gấp đôi. Với một chuyến tàu một ngày, số lượng cây trồng trị giá 120 đô-la sẽ bị phá hỏng mỗi năm và với hai chuyến tàu một ngày, số lượng cây trồng trị giá 240 đô-la sẽ bị phá hỏng mỗi năm. Như chúng ta đã thấy ở phần trước, ngành đường sắt sẽ không có lợi khi cho chạy chuyến tàu thứ hai nếu họ phải trả 60 đô-la một năm tiền đền bù thiệt hại. Với mức đền bù thiệt hại là 120 đô-la một năm, tiền lỗ từ việc chạy thêm chuyến tàu thứ hai sẽ cao hợn 60 đô-la. Bây giờ hãy xem xét chuyến tàu thứ nhất. Giá trị dịch vụ vận chuyển cung cấp cho chuyến tàu thứ nhất là 150 đô-la. Chi phí chạy tàu là 50 đô-la. Số tiền ngành đường sắt phải đền bù cho thiệt hại là 120 đô-la. Nếu tính như thế ngành đường sắt sẽ không thu được chút lợi từ việc chạy bất kỳ chuyến tàu nào. Từ những con số đưa ra trong ví dụ chúng ta có thể kết luận: Nếu ngành đường sắt không phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do cháy, họ sẽ chạy hai chuyến tàu một ngày, còn nếu họ phải chịu trách nhiệm thì họ sẽ chấm dứt hoạt động. Có phải điều đó có nghĩa là việc không còn xe lửa nữa sẽ tốt hơn? Câu hỏi này có thể được trả lời bằng cách xem xét điều gì sẽ xảy ra với giá trị tổng sản lượng nếu quyết định miễn chịu trách nhiệm thiệt hại do hỏa hoạn đối với ngành đường sắt được đưa ra, nếu thế ngành đường sắt có thể hoạt động (hai chuyến một ngày). www.kinhtehoc.com 18
  19. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội Hoạt động của ngành đường sắt sẽ khiến dịch vụ vận chuyển trị giá 250 đô-la hoạt động. Điều đó cũng có nghĩa là việc sử dụng các nhân tố sản xuất sẽ làm giảm giá trị sản xuất ở đâu đó xuống còn 100 đô-la. Hơn nữa, nó cũng có nghĩa giá trị cây trồng bị phá hủy là 120 đô-la. Việc ngành đường sắt hoạt động trở lại cũng dẫn đến việc từ bỏ canh tác ở một số vùng đất. Vì như chúng ta đã biết, nếu những vùng đất đó được canh tác thì giá trị cây trồng bị thiệt hại do hỏa hoạn sẽ là 120 đô-la vì không chắc chắn là toàn bộ số cây trồng trên mảnh đất đó sẽ bị phả hỏng, có vẻ hợp lý hơn nếu ta giả sử rằng giá trị sản lượng cây trồng trên mảnh đất sẽ cao hơn thể. Giả sử sẽ là 160 đô-la. Nhưng việc từ bỏ canh tác sẽ giải phóng các nhân tố sản xuất được sử dụng ở đâu đó. Tất cả chúng ta đều biết rằng số lượng giá trị sản xuất ở đâu đó sẽ tăng ít hơn 160 đô-la. Giả sử là 150 đô-la. Vậy thì lợi nhuận thu được từ hoạt động của ngành đường sắt sẽ là 250 đô-la (giá trị của dịch vụ vận chuyển) trừ đi 100 đô-la (chi phí cho các nhân tố sản xuất) trừ đi 120 đô-la (giá trị cây trồng bị thiệt hại do hỏa hoạn) trừ đi 160 đô-la (việc sụt giảm trong giá trị sản xuất cây trồng do từ bỏ canh tác) cộng với 150 đô-la (giá trị sản xuất ở đâu đó của việc giải phóng các nhân tố sản xuất). Nói chung hoạt động của ngành đường sắt sẽ làm tăng giá trị tổng sản phẩm lên 20 đô-la. Căn cứ vào những con số trên, rõ ràng rằng sẽ là có lợi hơn nếu ngành đường sắt không phải chịu trách nhiệm cho thiệt hại mà nó gây ra, và do đó giúp nó hoạt động có lãi. Tất nhiên, bằng việc thay đổi các con số, cũng có thể chỉ ra rằng còn có các trường hợp khác mà ngành đường sắt cần thiết phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại mà nó gây ra. Nhưng đối với tôi như thế là đủ để chỉ ra rằng, từ quan điểm kinh tế, một tình huống mà "không bồi thường thiệt hại gây ra do tia lửa phát ra từ đầu máy gây ra" không nhất thiết là cần thiết. Và việc liệu có cần thiết hay không phụ thuộc vào từng huống cụ thể. Có phải phân tích Pigovian đưa ra câu trả lời sai không? Lý do mà Pigou có thể đã không chú ý đến là phân tích của ông giải quyết một câu hỏi hoàn toàn khác. Phân tích để giải quyết câu hỏi đó là đúng. Nhưng đối với Pigou thì việc đưa ra kết luận cụ thể như vậy là không hợp lý. Câu hỏi đặt ra với vấn đề không phải là có cần thiết phải cho chạy thêm một chuyến tàu nữa, tăng vận tốc tàu hiện có hay cho lắp đặt thiết bị chống lửa hay không, mà câu hỏi đặt ra với vấn đề là liệu có cần thiết phải có một hệ thống mà ngành đường sắt phải đền bù cho những người chịu thiệt hại do hỏa hoạn gây ra bởi tàu hỏa hay ngành đường sắt không phải đền bù thiệt hại. Khi một nhà kinh tế so sánh các phương án sắp xếp xã hội, trình tự thích hợp là so sánh tổng sản phẩm xã hội sinh ra bởi các sự sắp xếp khác nhau đó. So sánh sản phẩm tư nhân và sản phẩm xã hội không ở đây cũng không ở kia. Một ví dụ đơn giản sẽ giúp minh họa cho điều này. Bạn hãy hình dung một thành phố với các cột đèn giao thông. Một người lái xe mô tô đi đến ngã tư đường và dừng lại vì gặp đèn đỏ. Phía phố bên kia không có một chiếc ô tô nào đi đến ngã tư. Nếu người lái xe mô tô phớt lờ tín hiệu đèn đỏ, không có tai nạn nào xảy ra cả và tổng sản phẩm xã hội sẽ tăng lên bởi vì người lái xe mô tô sẽ đến địa chỉ cần phải đến sớm hơn. Tại sao anh ta lại không làm như vậy? Lý do bởi vì nếu anh ta phớt lờ tín hiệu đèn đỏ thì anh ta sẽ bị phạt. Sản phẩm cá nhân từ việc băng qua đường là ít hơn sản phẩm xã hội. Liệu từ đó chúng ta có thể kết luận rằng tổng sản phẩm xã hội sẽ lớn hơn nếu không có hình phạt nào được đưa ra đối với những người không chấp hành tín hiệu giao thông? Phân tích Pigovian cho chúng ta thấy rằng có thể nhận thức một thế giới tốt hơn thế giới mà chúng ta đang sống. Nhưng vấn đề là phải đưa ra các sắp xếp www.kinhtehoc.com 19
  20. Vấn Đề Chi Phí Xã Hội thực tế mà các sắp xếp này sẽ sửa chữa sai sót trong một phần của hệ thống mà không gây thêm ảnh hưởng xấu đến các phần khác. Tôi đã nghiên cứu chi tiết một ví dụ về sự khác biệt giữa sản phẩm tư nhân và sản phẩm xã hội, và tôi không muốn nghiên cứu chi tiết thêm nữa hệ thống phân tích của Pigou. Nhưng phần thảo luận chính của vấn đề chi phí xã hội được xem xét trong bài viết này nằm ở Chương 9 phần II, phần này xem xét sự khác biệt loại thứ hai của Pigou và việc xem xem Pigou đã phát triển luận điểm của mình như thế nào là điều rất đáng được quan tâm. Sự mô tả của riêng Pigou về sự khác biệt của loại thứ hai này được trích dẫn ở ngay phía trên của phần này. Pigou phân biệt giữa trường hợp một người cung cấp dịch vụ mà anh ta chẳng nhận được đồng nào và một người gây ra ảnh hưởng xấu mà không phải trả tiền cho bên bị hại. Tất nhiên chúng ta cần phải tập trung vào trường hợp thứ hai. Do vậy, khá ngạc nhiên khi thấy rằng, Giáo sư Francesco Forte đã chỉ ra cho tôi, vấn đề của ống khói - "ví dụ về nhà kho" hay "ví dụ về lớp học" của trường hợp thứ hai - được Pigou sử dụng làm ví dụ cho trường hợp thứ nhất (dịch vụ được cung cấp miễn phí) và chúng không được đề cập, cho dù là chút ít, có liên quan đến trường hợp thứ hai. Pigou chỉ ra rằng chủ nhà máy dùng các nguồn lực để ngăn ngừa việc ống khói không xả khói đã tạo ta một dịch vụ mà chủ nhà máy chẳng nhận được đồng nào. Ẩn ý ở đây, sẽ được Pigou làm rõ sau ở trong Chương này, là chủ nhà máy có ống khói xả khói cần được nhận được tiền khuyến khích để thuyết phục ông ta lắp đặt thiết bị chống khói. Hầu hết các nhà kinh tế học hiện đại đều gợi ý rằng chủ nhà máy có ống khói xả khói phải bị đánh thuế. Thật đáng tiếc rằng các nhà kinh tế (trừ Giáo sư Forte) đều không nhận thấy rằng đặc điểm này đã được Pigou nghiên cứu vì ông nhận thức rõ rằng vấn đề có thể được giải quyết bằng một trong hai cách đều có thể dẫn đến một sự thừa nhận rõ ràng về tính qua lại của nó. Khi thảo luận trường hợp thứ hai (gây ra ảnh hưởng xấu mà không phải trả tiền cho bên bị hại), Pigou nói rằng họ đã phải nhận dịch vụ "khi người chủ của một công trường nằm trong khu dân cư hay một thành phố xây dựng một nhà máy và do đó đã phá hỏng phần lớn sự dễ chịu của các khu vực xung quanh; hay, ở một mức độ thấp hơn, cách mà anh ta sử dụng công trường của mình đã che mất ánh sáng của nhà đối diện, hay việc anh ta đầu tư nguồn lực xây dựng tòa nhà ở một khu trung tâm đông đúc đã làm thu hẹp khoảng không và chỗ để vui chơi của những người lân cận, nó có xu hướng làm ảnh hưởng đến sức khỏe và hiệu quả của những gia đình sống ở đó." Tất nhiên Pigou đã đúng khi miêu tả những hành động đó là những hành động "không bị mất tiền khi gây ảnh hưởng xấu". Nhưng ông đã sai khi miêu tả những hành động đó là hành động "chống lại xã hội". Chúng có thể là hành động chống lại xã hội nhưng cũng có thể không. Việc cần thiết là phải xem xét nặng nhẹ kết quả của ảnh hưởng xấu đối với cái tốt. Chẳng có cái gì là "chống lại xã hội" hơn việc phản đối bất kỳ hành động nào gây hại đến bất cứ ai. Nghiên cứu của Pigou về các vấn đề được xem xét trong bài viết này quả thật là rất khó nắm bắt được ý nghĩa và việc thảo luận các quan điểm của ông tạo nên các khó khăn khó có thể vượt qua nhằm làm sáng tỏ nó. Kết quả là không ai có thể chắc chắn rằng mình đã hiểu điều mà Pigou muốn nói. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể không đưa ra kết luận, dù cho có thể là lạ đối với một nhà kinh tế tầm cỡ Pigou, rằng nguồn gốc của sự tối nghĩa trong quan điểm của Pigou là do ông không hiểu kỹ luận điểm của mình. www.kinhtehoc.com 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2