Yêu cầu chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo

5 – 6 tuổi sẵn sàng vào lớp 1

Qua khảo sát học sinh đầu vào lớp 1 ở Long An

Theo Luật Giáo dục, Giáo dục mầm non có mục tiêu hình thành

những yếu tố đầu tiên của nhân cách cho trẻ mầm non và chuẩn bị cho trẻ vào lớp

1. Kết quả chăm sóc, giáo dục của trường mẫu giáo sẽ được phản ánh khi trẻ vào

lớp 1 tiểu học và rõ nét nhất ở giai đoạn đầu lớp 1. Nghiên cứu phân tích, đánh giá

khả năng của học sinh đầu lớp 1 qua các lĩnh vực: phát triển nhận thức, phát triển

ngôn ngữ, phát triển tình cảm xã hội sẽ giúp chúng ta có cơ sở đề xuất những biện

pháp tác động đến 3 môi trường giáo dục (nhà trường, gia đình, xã hội) nhằm nâng

cao hơn nữa kết quả chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi vào lớp 1; đáp ứng tốt

mục tiêu giáo dục tiểu học mới theo tinh thần Nghị quyết 40/QH của Quốc hội về

đổi mới chương trình GD phổ thông; đồng thời góp thần làm rõ mối quan hệ liên

thông giữa mục tiêu GD mầm non với mục tiêu GD tiểu học cũng như vai trò của

GD mầm non với GD tiểu học theo tinh thần Luật Giáo dục 2005

Với mục đích, ý nghĩa nói trên, đầu năm học 2004 – 2005, chúng tôi

đã tiến hành cuộc khảo sát học sinh đầu vào lớp 1. Cuộc khảo sát được thiện trên

350 học sinh đầu lớp 1, được chọn ngẫu nhiên ở 7 trường tiểu học thuộc các vùng

miền khác nhau trong tỉnh Long An. (bảng 1)

Tại các trường tiểu học tham gia đợt khảo sát, 350 học sinh được

chọn trả lờ phỏng vấn 10 câu hỏi chính thức (một số câu hỏi có kết hợp với quan

sát tranh) và một số câu hỏi phụ (bảng 2)

Kết quả khảo sát như sau:

Bảng 1: Thống kê kết quả chung

Kết quả Chưa đạt yêu cầu

(đứng dưới 50%)

Trường TH Số lượng Tỉ lệ

33 66 TH Khánh Hậu

29 58 TH Võ Thị Sáu

26 52 TH Tân Phước Tây

30 60 TH Lạ Tấn

31 62 TH Nhị Thành A

26 52 TH Mai Thị Non

30 60 TH TT Tân Hạnh

205 58,6 Cộng

Nhận xét (bảng 1)

- Có đến 58,6% học sinh chưa đạt yêu cầu, chỉ có 41,4% học sinh đạt yêu

cầu

Nhận xét từng trường tiểu học

- Cá trường TH Khánh hậu (vùng ven Thị Xã), Thị trấn Tâm Thạnh (Thị

trấn của huyện vùng sâu), TH Nhị Thành, TH Lạn Tấn (vùng nông thôn) có tỉ lệ

học sinh chưa đạt yêu cầu từ 60% đến 66% (TH Khánh hậu cao nhất là 66%)

- TH Mai Thị Non và TH Tân Phước Tây có số học sinh chưa đạt ít nhất

(52%) nhưng cũng còn ở mức cao (trên 50%)

- Trường TH Võ Thị Sáu tuy là trường ở trung tâm Thị xã tân An nhưng

cũng có số học sinh chưa đạt yêu cầu ở mức cao (58%)

Bảng 2: Thống kê số lượt trả lời đúng theo nhóm khả năng

TH Tân TH TH TH TT Cộng TH TH TH

Phước Lạ Nhị Tân Mai Khánh Võ

Tây Tấn Thành Hạnh Thị Hậu Thị

Non Sáu

54 32 32 30 280 1. Khả 31 46 55

(31%) (46%) (55%) (32%) (32%) (54%) (30%) (40%) năng

33 30 54 31 278 quan 45 53

sát, so 32 (45%) (53%) (33%) (30%) (54%) (31%) (39,7%)

sánh, (32%)

phán 34 50 31 32 35 48 279

đoán 49 (34%) (50%) (50%) (32%) (35%) (48%) (39,9)

2. Khả (49%) 52 33 44 53 43 304 45

năng 34 (52%) (45%) (33%) (44%) (53%) (43%) (43,4%)

diễn đạt (34%)

ý muốn, 32 41 53 41 52 292 43

cảm 30 (32%) (43%) (41%) (53%) (41%) (52%) (41,7%)

xúc, ý (30%)

nghĩa

bằng lời

nói

3.Quan

tâm,

giúp đỡ,

chi sẻ,

hợp tác

4. Nghe

hiểu lời

nói

trong

giao

tiếp (*)

(qua tất

cả các

câu hỏi)

5.Mạnh

dạn,

hồn

hniên,

tự tin,

lễ phép

(**)

(qua tất

cả các

câu hỏi)

Nhận xét (bảng 2)

Ở từng nhóm nội dung, tỉ lệ học sinh đạt yêu cầu từ 39,7% đến 43,4%

Tỉ lệ học sinh “nghe hiểu lời nói trong giao tiếp” đạt 43%,4% và

“mạnh dạn, hồn nhiên, tự tin, lễ phép” chỉ đạt 41,7%. Khả năng “quan sát, so sánh,

phán đoán” cũng chỉ có 40% học sinh được khảo sát đạt yêu cầu.

Nhận xét từng trường tiểu học

Các trường TH Khánh Hậu (TXTA), tiểu học Nhị Thành ( Thủa

Thừa) có ít học sinh phát triển tốt khả năng quan sát, so sánh, phán đoán, TH Tân

Phước tây (Tân Trụ), Mai Thị Non (Bến Lức) có nhiều học sinh phát triển tốt khả

năng này

Các trường TH Khánh Hậu, Nhị Thành, tân Thạnh có ít học sinh

phát triển tốt khả năng diễn đạt ý muốn, cảm xúc, ý nghĩa bằng lời nói. Các trường

TH Mai Thị Non (Bến Lức) có nhiều học sinh phát triển tốt khả năng này

Các trường Võ Thị Sáu, Mai Thị Non có1 ít học sinh thể hiện sự

quan tâm, chia sẽ, hợp tác với người thân. Trường TH Tân Thạnh, TH Khánh Hậu,

TH Tân Phước Tây có nhiều học sinh thể hiện sực quan tâm, chia sẻ, hợp tác với

người thân

Các trường TH Khánh Hậu và Lạc Tấn có ít học sinh phát triển tốt

khả năng nghe hiểu lời nói trong giao tiếp. Các trường Võ Thị Sáu, Mai Thị Non

có nhiều học sinh phát triển tốt khả năng này

Các trường Võ Thị Sáu, Khánh Hậu có ít học sinh thể hiện sự mạnh

dạn, hồn nhiên, tự tin, lễ phép. Các trường THTT Tân Thạnh, Nhị Thành có nhiều

học sinh bộc lộ rõ các phẩm chất tốt đẹp này

Nhận xét – đánh giá chung

Tỷ lệ học sinh đạt yêu cầu chung là 41,4%, tỷ lệ đạt từng nhóm nội dung từ

39,7 – 43,4%. Điều này cảnh báo việc chuẩn bị cho trẻ sẵn sàng vào lớp 1 ở Long

An còn chưa tốt.

Các trường tiểu học ở nông thôn, đa số phụ huynh là nông dân có tỷ lệ sai

khá cao. Ngược lại, ở các vùng thị xã, thị trấn, với đa số phụ huynh là công chức,

buôn bán, nghề tự do, có kinh tế ổn định, quan tâm đến việc chuẩn bị cho trẻ vào

lớp một có tỷ lệ trả lời sai thấp hơn. Ví dụ: Trường TH Mai Thị Non và Võ Thị

Sáu có tỷ lệ trả lời sai dưới 60%, trường TH Khánh Hậu, vùng nông thôn ven thị

xã Tân An, có tỷ lệ trẻ chưa đạt cao nhất, đến 66%. Như vậy, yếu tố phụ huynh có

tác động lớn đến đến kết quả chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1. Học sinh các trường tiểu

học đạt chuẩn quốc gia có kết quả tốt hơn các trường còn lại.

Thời gian trẻ được chăm sóc, giáo dục ở trẻ mầm non càng dài thì kết quả

cho trẻ 5 đến 6 tuổi sẵn sàng đi học lớp một càng cao.

Giai đọan đầu lớp 1, giáo viên tiểu học phải có phương pháp giảng dạy,

giáo dục thích hợp, giúp trẻ thích nghi với môi trường giáo dục mới – môi trường

mà trong đó hoạt động học tập phải là chính (thay vì vui chơi là chính khi trẻ còn

học mẫu giáo). Qua khảo sát cho thấy những lớp 1 trong giai đọan đầu người giáo

viên không quá đặt nặng vấn đề học chữ mà quan tâm đến việc rèn luyện nề nếp

học tập, giúp trẻ thích nghi với môi trường học tập mới thì trẻ nơi đó hồn nhiên, lễ

phép, tự tin và phát triển trí tuệ tốt. Ngược lại, ở những lớp mà giáo viên quan tâm

đến việc dạy chữ, thì trẻ trở nên nhút nhát, thiếu hồn nhiên.

Nhận xét – đánh giá theo các mặt

Nhiều trẻ vào lớp 1 nhưng chưa có thói quen chào hỏi, nói lời cảm ơn trong

giao tiếp.

Nhiều trẻ chưa mạnh dạn, hồn nhiên, tự tin trong giao tiếp.

Nhiều trẻ chưa có khả năng diễn đạt ý muốn, cảm xúc, ý nghĩ bằng lời nói.

Đa số trả lời cụt ngủn, nghèo ý, thiếu lịch sự. Một bộ phận trả lời máy móc, không

biểu lộ cảm xúc.

Trẻ vùng nông thôn hồn nhiên, lễ phép biểu lộ tình cảm, quan tâm đến

người thân nhung ít mạnh dạn trong giao tiếp.

Trẻ vùng thị xã, vùng thuận lợi có khả năng quan sát, so sánh, phán đoán

tốt nhưng không thể hiện rõ tình cảm, sự quan tâm đến người thân; thiếu suy nghĩ

độc lập, có khuynh hướng chông chờ vào người lớn, khả năng hợp tác kém.

Trường tiểu học có nhiều học sinh qua mẫu giáo 3 năm (TH Võ Thị Sáu,

TH Mai Thị Non, TH Tân Phước Tây) có số học sinh đạt yêu cầu khá hơn .

Ở những lớp mà giáo viên quá nghiêm khắc, hay rầy la, trách phạt trẻ trở

nên thụ động, mất tự tin.

Những trẻ là con cán bộ công chức được chăm lo quá kỹ, cho học trước

chương trình lớp 1 có khuynh hướng không hứng thú trong giờ học (vì đã biết

rồi!), tụ động chông chờ vào người khác (TH Võ Thị Sáu).

Kết luận chung

Kết quả khảo sát cho thấy việc chuẩn bị sẵn sàng đi học cho trẻ 5 –

6 tuổi vào lớo 1 là quan trọng, chuẩn bị tốt về mặt xã hội sẽ hình thành cho trẻ

những yếu tố đầu tiên của nhân cách, phát triển trí tuệ, thẩm mỹ và trí tuệ ở tiểu

học. Việc chuẩn bị về mặt xã hội cho trẻ chịu ảnh hưởng của các yếu tố; đặc điểm

vùng miền, nghề nghiệp của cha mẹ, hoàn cảnh gia đình, và kết quả giáo dục,

chăm sóc trẻ ở mẫu giáo. Nghiên cứu phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế

những yếu tố tiêu cực sẽ giúp cho trẻ 5 – 6 tuổi ở tất cả vùng miền, kể cả vùng khó

khăn, có kinh tế chậm phát triển được chuẩn bị tốt về mặt xã hội, tiếp thu tốt

chương trình lớp 1 mới.

Bài học kinh nghiệm

Trên cơ sở kết quả khảo sát, chúng tôi rút ra một số bài học kinh

nghiệm sau:

Ở mẫu giáo phải xác địng rõ mức độ dạy “chữ” với dạy ”người”. Không

biến các chuyên đề “làm quen chữ cái”, “làm quen với toán”… thậm chí còn xem

đó là tiệu chí để đánh giá giáo viên, học sinh mẫu giáo.

Nên đặt vấn đề giáo dục tình cảm cho trẻ. Nội dung giáo dục nên phù hợp

với đặc điểm vùng miền.

Có chương trình MG phù hợp cho trẻ có điều kiện chỉ học 1 năm, 2 năm

hoặc 10 tuần. Các chương trình này phải “độc lập và hòan chỉnh” (tương đối) theo

hường chuẩn bị tốt nhất về mặt xã hội cho trẻ vào lớp 1 (ở bất cứ lọai hình mẫu

giáo nào: 1 năm, 2năm, 3 năm hoặc 10 tuần). Các chưong trình cần quy định cụ

thể những nội dung cần kết hợp với gia đình trong việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1.

Giáo dục tiểu học: giai đọan lớp 1, đặc biệt ở giai đoạn đầu lớp 1 không

quá đặt nặng vấn đề dạy “chữ” mà vẫn xem trọng vấn đề giáo dục “đạo đức”, từng

bước nâng dần mức độ, yêu cầu dạy “chữ”.

Về quản lý: Xem trong đặc điểm vùng miền (lưu ý vùng nào cũng có

những thuận lợi cũng như khó khăn riêng), kết hợp tốt 3 môi trường giáo dục

trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục ở mẫu giáo, lưu ý việc chuẩn bị

khả năng thích ứng xã hội cho trẻ.

Về giáo viên: Mục tiêu giáo dục, phương pháp giáo dục phải phù hợp từng

đối tượng học sinh, không quá chú trọng đến việc giảng dạy môn Tiếng việt, Toán

ở lớp mẫu giáo và đầu lớp 1 mà phải chú trong đến việc giáo dục tình cảm, đạo

đức cho học sinh. Không quá nghiêm khắc làm trẻ mất đi sự hồn nhiên, mạnh dạn,

tự tin.

Về phụ huynh: Không quá chăm sóc làm trẻ có thói quen ỷ lại vào người

khác, không có tình cảm, không biết chia sẻ với người thân, dễ trở thành người vô

cảm; nhưng cũng tránh tình trạng bỏ bê, không quan tâm đến việc học của trẻ ngay

từ khi còn ở tuổi mẫu giáo, làm trẻ phát triển không tốt, đáp ứng được mục tiêu

giáo dục mới.