
1
BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ:
BỆNH HỌC:
LOẠN THẦN DO RƯỢU

2
MỤC TIÊU CHUYÊN ĐỀ:
Sau khi học xong chuyên đề “Bệnh học: Loạn thần do rượu”, người
học nắm được những kiến thức có liên quan như: Khái niệm nghiện rượu
mạn tính; Rượu đối với cơ thể; Biểu hiện lâm sàng, Chẩn đoán, Điều trị
và phòng các hội chứng bệnh của nghiện rượu mạn tính; Lịch sử quan
niệm, phân loại hoang tưởng và ảo giác do rượu; Đặc điểm lâm sàng của
loạn thần do rượu; Chẩn đoán xác định và chẩn đoán phân biệt; và
Nguyên tắc điều trị loạn thần do rượu.

3
NỘI DUNG
I. NGHIỆN RƯỢU MẠN TÍNH
1. Khái niệm
- Lạm dụng rượu lâu ngày thường đưa đến chứng nghiện rượu, khi đó rượu
trở thành tác nhân gây hại cho con người và để lại những hậu quả cho cá nhân và
xã hội.
- Về mặt cơ thể rượu gây ra các bệnh tim mạch, viêm loét dạ dày, viêm các
dây thần kinh...
- Về mặt tâm thần rượu gây ra tình trạng phụ thuộc rượu, biến đổi nhân cách
do rượu, loạn thần do rượu, mất trí do rượu...
- Nghiện rượu đã được nghiên cứu từ giữa thế kỷ thứ 19 và cho tới nay vẫn
còn là vấn đề thời sự, vì số người nghiện rượu ngày càng gia tăng: ở Pháp các bệnh
lý tâm thần do rượu chiếm 22% số bệnh nhân nội trú tại bệnh viện tâm thần (J.Ades
1990). Tại Bungaria các bệnh nhân loạn thần do rượu chiếm 20% số giường bệnh
tâm thần (T.S.Tancuchev 1988). Tại Nam Tư 23,1% số bệnh nhân nằm viện tâm
thần do rượu (D. Koretic 1991).
Ở nước ta trước đây các bệnh lý tâm thần do rượu rất hiếm, các công trình
nghiên cứu về lạm dụng rượu, nghiện rượu cũng còn ít. Trong những năm gần đây
ngày càng xuất hiện nhiều trường hợp loạn thần do rượu phải vào điều trị tại các cơ
sở bệnh viện tâm thần ở các tỉnh, thành phố và Viện sức khỏe tâm thần. Bệnh lý do
rượu đã chiếm một tỷ lệ đáng kể. Trước đây chỉ chiếm 0,31% số bệnh nhân nằm
viện 1990; thì 1994 các bệnh lý tâm thần do rượu đã lên tới 6,99%, tăng gấp hơn 22
lần (Võ Văn Bản, Trần Viết Nghị 1994).
Nghiện rượu trong nhân dân từ 1,16 – 3,96 theo điều tra cơ bản tại một số địa
phương 1994.

4
2. Rượu đối với cơ thể
2.1. Sự hấp thu và bài tiết rượu.
- Mức độ hấp thụ của rượu tùy thuộc vào loại rượu, lượng uống rượu nhiều
hay ít, lượng thức ăn đi kèm khi uống, thể trạng của người uống, tâm trạng khi
uống...
- Rượu được hấp thu nhanh khoảng 20% số lượng rượu được vào cơ thể ngay
qua dạ dày, số còn lại được hấp thu qua ruột. Cơ thể thường có phản ứng tự bảo vệ
khi nồng độ rượu đưa vào quá cao, niêm mạc của dạ dày sẽ bị kích thích tiết ra chất
nhầy làm giảm bớt sự hấp thu, cùng lúc đó môn vị co thắt ngăn rượu không xuống
ruột, làm cho người uống buồn nôn và nôn rượu ra ngoài. Thức ăn chất đạm và chất
béo làm chậm sự hấp thu của rượu, trái lại nước uống sẽ làm tăng sự hấp thu của
rượu, vào máu rượu được phân phối khắp cơ thể.
- Nhiễm độc rượu là khi nào nồng độ rượu trong máu trên 0,15% thể tích.
Khoảng 10% số lượng rượu đào thải ra ngoài bằng đường hô hấp, phần lớn được
khử ở gan và đào thải qua nước tiểu.
2.2. Rượu đối với não
- Rượu không phải là một chất kích thích mà là một chất làm suy giảm cả 2
quá trình hưng phấn và ức chế của hệ thần kinh trung ương. Nhưng rượu làm mất
ức chế mạnh hơn gây nên quá trình hưng phấn giả và vì vậy người uống rượu cảm
thấy hưng phấn, đỡ lo âu, sợ hãi, hoạt động nhiều, nói nhiều, khả năng tự kiềm chế
bản thân suy giảm nên lời nói thiếu tế nhị, xàm xỡ, cử chỉ hoạt động thiếu chính
xác.
- Khi nồng độ rượu trong máu là 0,3% thì vận động và tư duy, tri giác đều bị
rối loạn. Khi nồng độ rượu lên tới 0,4 – 0,5% thì cả 2 quá trình hưng phấn và ức
chế đều bị suy giảm, người uống rượu bị bất tỉnh, hôn mê và khi nồng độ rượu lên
đến 0,6 – 0,7% thì người uống rượu có thể tử vong.

5
2.3. Rượu ảnh hưởng đến các cơ quan khác
- Tác dụng lên tuyến yên, gây nên rối loạn sự tăng trưởng, rối loạn kinh
nguyệt, rối loạn chuyển hóa nước và muối khoáng.
- Gây viêm dạ dày, viêm tụy cấp, mạn tính.
- Tác hại đối với gan, gây xơ gan, thoái hóa mỡ gan.
- Các bệnh mạch máu, tim mạch, tăng lắng đọng choleterol ở mạch máu và ở
tim gây xơ mỡ động mạch.
3. Nghiện rượu mạn tính
Nghiện rượu mạn tính xảy ra khi dùng rượu dài ngày, dần dần thường xuyên
phải tìm rượu, uống rượu. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp uống rượu thường
xuyên đều có thể coi là nghiện rượu mạn tính.
Nghiện rượu mạn tính là một bệnh lý nghiện chất độc, có các triệu chứng cơ
bản đặc trưng cho nhóm bệnh này là:
- Hội chứng nghiện.
- Hội chứng cai rượu.
- Sự thay đổi khả năng dung nạp rượu.
- Rối loạn tâm thần.
- Biến đổi nhân cách.
3.1. Biểu hiện lâm sàng
3.1.1. Hội chứng nghiện
- Nét đặc trưng, trung tâm để mô tả hội chứng nghiện là sự thèm muốn
thường mạnh mẽ, đôi khi rất mãnh liệt sử dụng rượu. Có bằng chứng là phải quay
lại sử dụng rượu sau một thời gian bỏ rượu để làm mất các cảm giác khó chịu do
nghiện.
- Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán: Chỉ đạo chẩn đoán xác định nghiện khi
có từ 3 trở lên các đặc điểm sau đây:
+ Thèm muốn mạnh mẽ hoặc cảm thấy buộc phải sử dụng rượu.

