Bài giảng Ngữ văn lớp 12 - Bài: Văn học Mỹ - Latinh
lượt xem 5
download
Bài giảng cung cấp cho người học các kiến thức: Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, văn học Mỹ - Latinh, lịch sử châu Mỹ, phương thức sáng tác văn nghệ,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung bài giảng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài giảng Ngữ văn lớp 12 - Bài: Văn học Mỹ - Latinh
- ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM TRƯỜNG CAO ĐẲNG PHÁT THANH TRUYỀN HÌNH II
- • Cũng như mọi nền văn học chân chính, văn học Mĩ Latin đã phản ánh được tâm thức của con người dân tộc Mĩ Latin, nêu vấn đề của thời đại và sáng tạo một thành tựu nghệ thuật mới. • Văn học Mĩ Latin góp phần đặt vấn đề và thử giải quyết hai vấn đề, đồng thời khẳng định dòng văn học hiện thực mang tính huyền ảo – một thành tựu văn học mới mẻ. • Một mâu thuẫn đang tồn tại trong lối sống Mĩ Latin cũng tồn tại trong nhân loại là: trong khi sự giao lưu hội nhập trên phạm vi thế giới càng tăng thì lối sống cô đơn khép kín, vị kỉ (hay nói cách khác là chủ nghã cá nhân) cũng có chiều hướng gia tăng. • Như vậy, văn học Mĩ Latin, đặc biệt là dòng tiểu thuyết mới, đã mang cả hai tính thời sự: thời sự của cuộc sống loài người nói chung và thời sự văn học nghệ thuật nói riêng.
- Chương 1 CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC HUYỀN ẢO TRONG VĂN HỌC MỸ LA TINH • 1. DẪN NHẬP Từ những năm 60, tiểu thuyết mỹ la tinh xuất hiện như “quả bom” dội vang d ư luận Âu Mỹ khiến người ta ngạc nhiên coi nó như một hiện tượng thần kỳ. “Một châu lục không phát triển về mặt kinh tế và bị áp bức đã cung cấp cho loài người một nền văn hóa có chất lượng cao như thế, đó là một sự ngạc nhiên” nhà văn Ros Bastos đã nhận định như vậy. Giới nghiên cứu văn học thấy cần phải tìm hiểu cơ chế nảy sinh ra sự “thần kì” đó. Họ muốn thấu hiểu đặc trưng nghệ thuật và xã hội của nó, từ đó mới có thể đánh giá một cách khách quan. Một số lời nhận đinh của các nhà phê bình khác về văn học Mỹ la tinh: Fernandez Retamar, nhà phê bình văn học Cuba đã trả lời câu hỏi đó một cách đơn giản nhất “bản thân hiện thực của châu lục về nhân chủng học, địa lí, xã hội là thước đo duy nhất nét đặc thù của văn xuôi Mĩ Latin”. Nhà phê bình Antonio Portuondo (Cuba) cũng viết: “tiểu thuyết Tây Ban Nha – Mĩ bao giờ cũng được nuôi dưỡng chủ yếu bằng thực tại xã hội của chúng tôi.” Nhà phê bình văn học Hoa Kì Brotherston cũng ủng hộ quan điểm đó, ông cho rằng đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết Mĩ Latin là sự phản ánh đặc trưng dân tộc của châu lục này.
- 2. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VĂN HÓA CHÂU MĨ VÀ MỸLATINH 2.1 VÀI NÉT VỀ LỊCH SỮ CHÂU MĨ • Năm 1492 một thuyền trưởng Tây Ban Nha người gốc Italia tên là Christoph Columbus – con người dũng cảm đầy nghị lực đã được vua Fernando và nữ hoàng Isabeila giao nhiệm vụ tổ chức một chuyến tàu biển đi về hướng tây. Đại dương mênh mông bao la ở kề bên chỉ làm họ sợ hãi hơn là gợi trí tò mò. Các giai cấp phong kiến Tây Âu quen xài nhiều hàng xa xỉ như tơ lụa , hương liệu, đồ châu ngọc mua từ Ấn Độ sang. Hàng hoá này thường phải mua lại qua tay giới lái buôn Ả Rập độc quyền … Vàng bạc xứ Trung Hoa và Nhật Bản cũng có sức hấp dẫn kì lạ đối với giới vua chúa châu Âu. Những con người đi đường sang phía Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật gọi là “con đường tơ lụa”. Trước Columbus đã có tới ba cuộc thám hiểm đi tìm Ấn Độ. Lần 1 và 2 đi tới mũi châu Phi, lần 3 đi tới phía tây Ấn Độ. Nhưng cả ba lần đều thiệt hại năng nề mà không kết quả. • Cuộc hành trình của Columbus với 90 thuỷ thủ qua nhiều ngày lênh đênh gian truân trên mặt biển Đại Tây dương (Atlantic) đã tới vùng đảo Bahamas.
- Về sau, nhà hàng hải người Tây Ban Nha gốc Italia) là Amerio tiếp tục đi thám hiểm theo lộ trình của Columbus. Năm 1519, cuộc thám hiểm vĩ đại của Magellant – nhà khoa học người Bồ Đào Nha (đang phục vụ triều đình Tây Ban Nha) đã đi trọn vòng quanh thế giới và qua Nam Mĩ. Họ xác định một cách chắc chắn: có một châu lục mới – châu Mĩ, và vẽ vùng đất này vào bản đồ thế giới. Đầu thế kỉ 16 những đoàn quân Tây Ban Nha vượt đại dương đi chinh phục miền Trung và Nam Mĩ . Đến giữa thế kỉ 16, những đoàn vũ trang người Pháp tiến sang Bắc Mĩ, chiếm đất Canada . Sang thế kỉ 17, người Anh kéo sang chiếm miền duyên hải Bắc Mĩ, thiết lập lãnh thổ Hoa Kỳ. CHỦ NHÂN ĐẦU TIÊN TRÊN ĐẤT TRUNG NAM MĨ LÀ AI ? rước khi người châu Âu đặt chân tới xứ sở mà họ gọi là lục địa America thì nơi đây đã có một nền văn minh cổ xưa riêng biệt. Chủ nhân của nền văn hoá đó là những người thổ dân đang sống trong giai đoạn phát triển cao của xã hội thị tộc. Đây là những quốc gia độc lập có tôn giáo và nền văn hoá riêng trước khi người Tây Ban Nha đến.
- Lược đồ khu vục Mỹlatinh
- IV. HAI PHƯƠNG THỨC SÁNG TÁC VĂN NGHỆ CHỦ YẾU Ở VÙNG MĨ LATIN 1. SƠ LƯỢC VỀ DÒNG VĂN HỌC THEO CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TIẾP NỐI TRUYỀN THỐNG CHÂU ÂU THẾ KỈ XIX Khuynh hướng văn học này nối tiếp văn học hiện thực phê phán của Tây Âu thế kỉ XIX, tất nhiên phản ánh được hiện thực Nam Mĩ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Tiêu biểu là tiểu thuyết “Nô tì Isaura” của nhà văn Bernador, “Những con đường đói khát”, “Đất Dữ”, “Ca Cao”, “Miền Đất Quả Vàng”, “Tereza” của George Amado. Bên cạnh đó, còn có những tác phẩm tiêu biểu của Gabriel Gaccia Marquez (Ngài đại tá chờ thư, Trăm Năm Cô Đơn…), nhà văn Cuba Carpentier với truyện Vương quốc trần gian, thơ ca của Pablo Neruda v.v… Nhìn chung, dòng văn học hiện thực phê phán Mĩ Latin chưa có những cách tân đáng kể về thi pháp nhưng cũng có giá trị trình bày hiện thực tàn khốc của vùng đất và con người xứ sở này.
- 2. CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC HUYỀN ẢO MĨ LATIN: Nhà phê bình P. Trigo • Nhà phê bình James Joy (Bắc Ailen) phát (Venezuela) đánh giá thảo ra 7 đặc điểm của văn xuôi Mĩ Latin văn xuôi Mĩ Latin trong sự so sánh với tiểu tuyết hiện thực Tây bằng công thức: Âu : “khát vọng hướng tới • Nhà văn muốn và có ý thức tách khỏi tiếu hiện thực được thuyết Tây Âu thế kỉ XIX . chuyển thành khát • Họ tìm tòi táo bạo và thể nghiệm tác phẩm vọng hướng tới ngôn trong những tình huống đa dạng nhất, họ sử ngữ”. Nghĩa là, nhà dụng lối kết cấu đa thanh, bố cục của nghệ văn muốn thâm nhập thuật điện ảnh, dòng ý thức, lối đối thoại cùng vào thực chất của sự một lúc. vật thông qua hình • Từ bỏ truyền thống ngôn ngữ vì phê bình thức của chúng. Họ chúng là bất lực và chỉ biết nhái lại thực tiễn, hướng tới tính quái dị họ biến đổi ngôn ngữ văn xuôi rất mạnh dạn. và tính siêu thực của chúng. Tiểu thuyết • Nhà văn không chỉ đặt ra những vấn đề tư Mĩ Latin đầy sức tưởng mà còn nêu ra những vấn đề thẩm mĩ sống, không hướng nữa. tới nhân vật mà • Theo họ, không có sự đối lập giữa thành thị hướng tới tình và nông thôn. huống, hoàn cảnh. • Các nhân vật của họ không có tính định trước theo khuynh hướng hẹp hòi. • Nhà văn cố gắng miêu tả hìng tượng hiện thực một cách trọn vẹn.
- Nhà nghiên cứu Emir Rodrigues (Uruguay) thì nhận xét một cách thất vọng: “tiểu thuyết mới Mĩ Latin là một cái không đồng nhất và không thể định nghĩa một cách rành rọt về lí luận”. Ông cho rằng tiểu thuyết Mĩ Latin đi theo “chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa hiện đại” . Những năm cuối thế kỉ XX, các nhà nghiên cứu Âu Mĩ có nhiều cố gắng làm sáng tỏ đặc trưng của “tiểu thuyết mới Mĩ Latin”. Nhà phê bình Ferandez Retama (Cuba) đã tuyên bố: “càng ngày càng thấy rõ rằng, không thể lí giải nó bằng những khái niệm cũ của những nền văn học khác”. Và nhiều nhà nghiên cứu đã nêu lên những khái niệm mới “barokko mới” và “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo” (huyền diệu). Năm 1975, giảng bài tại Trường Đại học Tổng hợp Karakas (Venezuela), giáo sư nhà văn Cuba Carpentier đã cố gắng trình bày ngắn gọn hai khái niệm “tính barokko” và “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo” và khẳng định đó là hai nhân tố quan trọng xác định một cách dứt khoát tính chất và nội dung của nghệ thuật Mĩ Latin. Carpentier so sánh “Khác với phong cách Gotique, phong cách Roman và chủ nghĩa cổ điển vốn là những phong cách nghệ thuật có tính nhất thời về mặt lịch sử nghệ thuật, barokko mang tính phi thời gian, có tính tuyệt đối”. Chống lại những ý kiến nói về bản chất suy đồi của barokko, giáo sư nhấn mạnh: “Đó là nghệ thuật của sự vận động, của sự xung đột, nghệ thuật phục tùng sự ly tâm. Nó xuất hiện ở nơi nào có sự chuyển hoá và đổi mới.”
- 2.1 TÍNH BAROKKO MỚI LÀ GÌ ? Từ thế kỉ 16 và 17 đã xuất hiện trào lưu nghệ thuật tạo hình (kiến trúc, hội hoạ) gọi là Baroque nhằm chống lại lối kiến trúc Gothique. Nếu kiến trúc của Gothique có tính chất đường bệ cân đối vững chắc hài hoà lộng lẫy tĩnh lặng và vĩnh cửu thì kiến trúc Baroque coi trọng bề mặt , ưa tạo đường cong xoáy ốc, gợi ra sự vận động linh hoạt…Từ nghệ thuật kiến trúc, Baroque lan dần sang văn chương, âm nhạc, từ Tây Âu qua Nga tới Ấn Độ. Văn chương Baroque xuất hiện yếu ớt ở Italia, Tây Ban Nha, Bồ, Đức, Pháp…và chưa đủ sức trở thành một trào lưu và phương thức sáng tác đáng kể. Tuy vậy, khi mới bắt đầu nhen nhóm tính Baroque trong văn học thì văn học lãng mạn đi tiên phong với nhà văn Lope de Vega, Kalderon, Gogonru…mà theo Carpentier:
- • Khuynh hướng phê phán chỉ • Những cuon tiểu thuyết nổi tiếng trích “tiểu thuyết mới” thì cho rằng “hiện thực được phản ánh trong tiểu thuyết rất lộn xộn và do đó mang tính Baroque. Rằng đó là ví tác giả đã đem cấu trúc phi logic và phản thực tế, phá vỡ những mối liên hệ nhân quả và tuyến thời gian. Dẫn chứng các tiểu thuyết “Gia đình xa xôi” của Fuentaz, “Buổi hoà nhạc Barokko” của Carpentier và “Kí sự về một cái chết được báo trước” của G.Marquez. • Không có một nhà tiểu thuyết nào đến nay đã thể hiện được một cách đầy đủ tính cách của người công dân Tân thế giới (New World: châu Mĩ).
- Nhà phê bình Natalia (người Mĩ) đã nêu được một hệ thống dấu hiệu tính Barokko của tiểu thuyết Mĩ Latin như sau: • 1. Sự tìm tòi tất cả những cái mới và cái lạ thường • 2. Cường điệu phóng đại, thiên về ngoa dụ • 3. Sự giả tạo và rối rắm về tư tưởng, hướng tới một thiểu số trí tuệ. • 4. Cảm thụ rất chủ quan đối với hiện thực. • 5. Sự rối rắm của phong cách • 6. Văn thể hiện sự mất cân bằng về tinh thần, sự hư vô và sự thất vọng, bi quan.
- 2.2 NHỮNG QUAN NIỆM VỀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC HUYỀN ẢO • Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo là phương pháp, khuynh hướng, trường phái, thế giới quan hay phong cách? – chưa có được một lời giải đáp thoả đáng cho những câu hỏi đó. Tuy vậy, nó vẫn được sử dụng trong phê bình văn học, thậm chí còn rộng rãi hơn trước. Mọi công trình nghiên cứu về các tác gia lớn như Carpentier (Cuba), GG. Marquez (Colombia), Ros Batoz (Brasil) đều phải dùng thuật ngữ “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo” – magic realism. • Năm 1925 ông đã dùng thuật ngữ này nói về hội hoạ của chủ nghĩa biểu hiện…Ở châu Mĩ Latin, thuật ngữ này lần đầu tiên được sử dụng trong văn học là năm 1948 do nhà phê bình nổi tiếng Uslar Retri (người Venezuela) khi phân tích một trong những truyện ngắn. Ông nêu lên tính chất tổng hợp lạ thường giữa cái hiện thực và cái huyền ảo / bí ẩn. Nhà phê bình viết rằng: “Đó là cái không thể gọi bằng từ nào khác chủ nghĩa hiện thực huyền ảo”.
- Những công trình nghiên cứu văn học Mĩ Latin gần cuối thế kỉ 20 về chủ nghĩa HTHA gồm 3 nhóm chính: • Nhóm 1: • Nhà nghiên cứu Langovski nêu ra ảnh hưởng của chủ nghĩa siêu thực Được phổ biến rộng hơn cả, cho đối với toàn bộ tiểu thuyết Mĩ Latin rằng CHHTHA là một khuynh hiện đại, gồm các nội dung: hướng văn học được phát triển trực tiếp từ chủ nghĩa siêu thực • 1. Tinh thần “nổi loạn” chống lại của văn học Pháp đầu thế kỉ 20. những quy tắc của tiểu thuyết Tây Bà Auor Ocampo – nhà nghiên Âu. cứu văn học người Mexico không • 2. Khát vọng tìm kiếm cái kì diệu khi những đã đặt cơ sở văn học sử đi sâu vào cái vô thức mà còn đặt cơ sở sinh lí học cho • 3. Tính ẩn dụ nổi bật và tính hình CNHTHA. Từ đó tác giả kết luận: tượng kèm theo sự rối rắm về cú “cả chủ nghĩa siêu thực lẫn pháp CNHTHA đều nảy sinh trên mảnh • 4. Sự sùng bái tính phi lí của “hài đất của nó, đều là biểu hiện tính hước đen” hiện thực của sự tồn tại con người. Khác nhau ở chỗ, chủ • 5. Lối tự sự biến hiện thực thành phi nghĩa siêu thực phù hợp với cái vô hiện thực (thủ pháp) thức của cá nhân và tư tưởng • 6. Những biện pháp tu từ đặc biệt Freud còn CNHTHA thì phù hợp (hồi cố, montage / chồng chéo kiểu với cái vô thức của tập thể và tư điện ảnh) tưởng triết học Jung”. • 7. Việc sử dụng thời gian không tuyến
- • Nhóm 2:Việc lí giải CNHTHA là • Niềm tin: người ta tin vào một cái gì đó sự kêu gọi trả lại ý nghĩa đúng mang tính siêu nhiên, nó giao kết với tín đắn cho tiểu thuyết Mĩ Latin và đồ. chỉ áp dụng thuật ngữ đó cho • Cảnh vật, lịch sử, các sự kiện được bao Mĩ Latin. Nhóm này phát triển ý phủ bằng tấm màn bí ẩn huyền kiến của Caperntier (không diệu.Antonio lại chia chúng ra ba phần: chấp nhận ảnh hưởng của chủ 1. Phong cảnh môi trường huyền bí. nghĩa siêu thực Pháp với tính 2. Nhân vật: hiện thực của cái kì diệu) rằng Có những phẩm chất siêu nhân “thế giới của cái kì diệu, khi Có hành động khác thường người ta định đưa nó vào cuộc Những người quan sát cái kì diệu và những sống với thái độ không tín người có niềm tin vào cái kì diệu. ngưỡng như các nhà siêu thực 3. Những sự kiện phi thường đã làm bao nhiêu năm nay, đã cuốn tiểu thuyết tiêu biểu: “Trăm năm cô và sẽ chỉ là một ảo thuật văn đơn” của G.G. Marquez, “Vương quốc trần học”. James Roy và Pedro gian” của Carpentier và “Pedro Paramo” Trigo cho rằng: “tính hiện thực của J. Russo. Antonio cho rằng đi theo của cái kì diệu là là thuộc tính chiều hướng “tính hiện thực của cái kì diệu” riêng của tiểu thuyết Mĩ Latin nhà văn không chỉ kết hợp cái có thực và chứ không phải sự vay mượn cái kì diệu mà còn “đấu tranh với tính hiện những khám phá của chủ thực”. Tác giả nhấn mạnh rằng “phóng đại, nghĩa hiện đại”. Đáng chú ý là cường điệu là thủ pháp chủ yếu của cuộc cuốn sách của nhà nghiên cứu đấu tranh với hiện thực, tức là cải tạo hiện thực bằng nghệ thuật”. Theo ông, tất cả nhà văn Antonio Bravo (Peru) những chủ đề chính của tiểu thuyết Mĩ nêu lên tám bộ phận hợp Latin hiện đại gồm: cái chết, tình yêu, du thành của chủ nghĩa hiện thực ngoạn, lòng căm thù, chính trị và sự cô đơn huyền ảo gồm tựu trung hai đều được xử lý bằng thủ pháp cường điệu
- Nhóm 3: Đây là cách tiếp cận “dân tộc học” được thể hiện trong luận án tiến sĩ của nhà nghiên cứu Ortiz Aponte (Puertorico) với tên đề tài là “ CÁI SIÊU NHIÊN TRONG VĂN XUÔI MĨ LATIN ” Nhưng khác với Carpentier và những môn đồ của ông, bà quan niệm về những phạm trù “hiện thực” và “kì diệu” không phải với tất cả vẻ dị dạng của nó mà là rất hẹp như một tầng nền của những tín ngưỡng cụ thể, những nghi lễ, huyền thoại, những cách thờ cúng còn giữ lại được cho đến ngày nay. Chính những tầng văn hoá còn được tồn tại ấy đã thăng hoa trong văn học dưới hình thức “chủ nghĩa hiện thực huyền diệu”. Tranh luận với những nhà phê bình thiên về lối nhìn đặc điểm folklore của tác phẩm văn học tách rời sự tồn tại lịch sử, Perus khẳng định luận điểm “trong văn học không có những giá trị và những nhận định vĩnh cửu bất biến”, bà quả quyết rằng: tất cả những thông số thẩm mĩ của văn chương đều do tính cụ thể và gắn liền với một thời đại nhất định. Từ quan điểm đó tác giả nhìn nhận đặc trưng của tiểu thuyết Mĩ Latin hiện đại. Cao trào của văn học mới ở vùng này được bà giải thích bằng những nhân tố xã hội – chính trị và gắn với cách mạng: “sự nở rộ của văn chương Mĩ Latin đã gắn bó mật thiết với thắng lợi của cách mạng Cuba – cuộc cách mạng làm thay đổi cơ bản vai trò của Mĩ Latin trên vũ đài quốc tế. Nó cũng được tạo ra bởi sự đoàn kết của lực lượng dân chủ và chống đế quốc khiến người ta nhận ra rằng: số phận của họ trực tiếp gắn liền với cu ộc đấu trang giải phóng dân tộc của các nước dang phát triển.
- KẾT LUẬN: Vấn đề xác định đặc trưng của TIỂU THUYẾT MỚI Mĩ Latin vẫn còn tiếp tục. Chừng nào thiết lập được cơ sở vững chắc cho việc khái quát về mặt loại hình tác phẩm của văn xuôi Mĩ Latin hiện đại thì những thuật ngữ như “barokko mới, hiện thực huyền ảo”, “tính hiện thực của cái huyền diệu” sẽ được chọn hoặc thay thế. Tuy nhiên chúng tôi cũng chọn lấy những quan niệm tương đối phổ biến hiện nay để trình bày thành tựu văn học Mĩ Latin trong thế kỉ 20.
- Một số nhà văn tiêu biểu thời bấy giờ ở Mỹ La Tinh. Julio Cortazar Garcia Marquez
- HAI QUAN NIỆM CƠ BẢN CỦA NHÀ VĂN MỸ LA TINH 1. Quan niệm về hiện thực Theo nhà văn Mĩ Latin, hiện thực là tất cả cuộc sống thực tại bao gồm mọi hoạt động của con người, kể cả đời sống tâm linh (niềm tin tôn giáo, mộng mị, thần giao cách cảm, trí nhớ di truyền, lời nguyền…). Tóm lại, hiện thực là tất cả những gì mà cảm giác, trí tuệ con người có thể thu nhận được. 2. Cảm hứng chủ đạo Do gắn bó sâu sắc với cộng đồng và thời đại, người trí thức luôn luôn bị giày vò đau khổ về tình trạng lạc hậu và chia xẻ phân tán của các dân tộc hỗn tạp vùng Mĩ Latin. Họ vừa bất bình vừa lo sợ tình cảnh đất nước ngày càng bị phụ thuộc vào các ông chủ Mĩ. Mặc khác, Cơ Đốc giáo tuy mới tồn tại vài trăm năm ở lục địa Mĩ Latin nhưng đã gây dấu ấn sâu đậm nơi đây tới tận tầng lớp trí thức khoa học. Cái “mặc cảm khải huyền” là tinh thần cơ bản của Kinh Thánh đang chế ngự cuộc sống tinh thần của dân chúng vùng Trung Nam Mĩ. “Mặc cảm khải huyền” là mặc cảm về ngày tận thế – ngày phán xét cuối cùng của nhân loại. Mặc cảm đó lại gặp gỡ tinh thần tư duy biện chứng khiến nhà văn nảy sinh mặc cảm nỗi ám ảnh về ngày cáo chung của hình thái kinh tế – xã hội tư bản tư hữu và dự cảm ngày khởi thuỷ của một hình thái kinh tế – xã hội mới và con người mới. Trong tiểu thuyết “Trăm Năm Cô Đơn”, thi pháp thời gian nghệ thuật thể hiện một tâm trạng đợi chờ lo lắng khắc khoải một tương lai không rõ buồn vui sắp đến. Họ miêu tả nhân vật và sự kiện trong những kết cấu thời gian lạ lùng như: thời gian đa chiều, thời gian ngược chiều, thời gian đồng hiện, thời gian – không gian – thời gian…
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm)
30 p | 32 | 4
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Phát biểu theo chủ đề - Trường THPT Bình Chánh
31 p | 13 | 4
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Người lái đò sông Đà - Trường THPT Bình Chánh
23 p | 12 | 4
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Bài thơ Đất nước (Trích Mặt trường ca khát vọng) - Trường THPT Bình Chánh
76 p | 11 | 4
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Thực hành Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận - Trường THPT Bình Chánh
18 p | 13 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Quá trình văn học và phong cách văn học - Trường THPT Bình Chánh
28 p | 9 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Phong cách ngôn ngữ khoa học - Trường THPT Bình Chánh
17 p | 15 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học - Trường THPT Bình Chánh
20 p | 12 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Luật thơ - Trường THPT Bình Chánh
21 p | 11 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Khái quát văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỷ XX - Trường THPT Bình Chánh
30 p | 10 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận - Trường THPT Bình Chánh
21 p | 7 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Ai đã đặt tên cho dòng sông - Trường THPT Bình Chánh
49 p | 11 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Bài thơ Tây Tiến - GV. Hoàng Nhung
11 p | 13 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12 bài: Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm
15 p | 13 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Thực hành một số phép tu từ ngữ âm - Trường THPT Bình Chánh
8 p | 13 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12 bài: Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh
17 p | 17 | 2
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12 bài: Phong cách ngôn ngữ khoa học
19 p | 9 | 2
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12 bài: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí
23 p | 13 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn