intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Ngữ văn lớp 12 - Bài: Văn học Mỹ - Latinh

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: PPT | Số trang:24

97
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài giảng cung cấp cho người học các kiến thức: Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, văn học Mỹ - Latinh, lịch sử châu Mỹ, phương thức sáng tác văn nghệ,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung bài giảng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Ngữ văn lớp 12 - Bài: Văn học Mỹ - Latinh

  1. ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM TRƯỜNG CAO ĐẲNG PHÁT THANH  TRUYỀN HÌNH II
  2. • Cũng như mọi nền văn học chân chính, văn học Mĩ Latin đã phản  ánh được tâm thức của con người dân tộc Mĩ Latin, nêu vấn đề của  thời đại và sáng tạo một thành tựu nghệ thuật mới. •  Văn học Mĩ Latin góp phần đặt vấn đề và thử giải quyết hai vấn  đề, đồng thời khẳng định dòng văn học hiện thực mang tính huyền  ảo – một thành tựu văn học mới mẻ. • Một mâu thuẫn đang tồn tại trong lối sống Mĩ Latin cũng tồn tại  trong nhân loại là: trong khi sự giao lưu hội nhập trên phạm vi thế  giới càng tăng thì lối sống cô đơn khép kín, vị kỉ (hay nói cách khác  là chủ nghã cá nhân) cũng có chiều hướng gia tăng. •  Như vậy, văn học Mĩ Latin, đặc biệt là dòng tiểu thuyết mới, đã  mang cả hai tính thời sự: thời sự của cuộc sống loài người nói  chung và thời sự văn học nghệ thuật nói riêng. 
  3. Chương 1     CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC HUYỀN ẢO                         TRONG VĂN HỌC MỸ LA TINH • 1. DẪN NHẬP  Từ những năm 60, tiểu thuyết mỹ la tinh xuất hiện như “quả bom” dội vang d ư  luận Âu Mỹ khiến người ta ngạc nhiên coi nó như một hiện tượng thần kỳ.  “Một châu lục không phát triển về mặt kinh tế và bị áp bức đã cung cấp cho  loài người một nền văn hóa có chất lượng cao như thế, đó là một sự ngạc  nhiên” nhà văn Ros Bastos đã nhận định như vậy. Giới nghiên cứu văn học  thấy cần phải tìm hiểu cơ chế nảy sinh ra sự “thần kì” đó. Họ muốn thấu  hiểu đặc trưng nghệ thuật và xã hội của nó, từ đó mới có thể đánh giá một  cách khách quan.    Một  số  lời  nhận  đinh  của  các  nhà  phê  bình  khác  về  văn  học  Mỹ  la  tinh:  Fernandez Retamar, nhà phê bình văn học Cuba đã trả lời câu hỏi đó một  cách đơn giản nhất “bản thân hiện thực của châu lục về nhân chủng học,  địa lí, xã hội là thước đo duy nhất nét đặc thù của văn xuôi Mĩ Latin”. Nhà  phê  bình Antonio Portuondo (Cuba)  cũng viết: “tiểu thuyết Tây Ban Nha –  Mĩ bao giờ cũng được nuôi dưỡng chủ yếu bằng thực tại xã hội của chúng  tôi.” Nhà phê bình văn học Hoa Kì Brotherston cũng  ủng hộ quan điểm đó,  ông cho rằng đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết Mĩ Latin là sự phản ánh đặc  trưng dân tộc của châu lục này. 
  4. 2. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VĂN HÓA CHÂU MĨ VÀ MỸLATINH 2.1 VÀI NÉT VỀ LỊCH SỮ CHÂU MĨ • Năm 1492 một thuyền trưởng Tây Ban Nha người gốc Italia tên là Christoph  Columbus – con người dũng cảm đầy nghị lực đã được vua Fernando và nữ  hoàng Isabeila giao nhiệm vụ tổ chức một chuyến tàu biển đi về hướng tây.   Đại dương mênh mông bao la  ở kề bên chỉ làm họ sợ hãi hơn là gợi trí tò  mò. Các giai cấp phong kiến Tây Âu quen xài nhiều hàng xa xỉ như tơ lụa ,  hương liệu, đồ châu ngọc mua từ  Ấn Độ sang. Hàng hoá này thường phải  mua lại qua tay giới lái buôn  Ả Rập độc quyền … Vàng bạc xứ Trung Hoa  và  Nhật  Bản  cũng  có  sức  hấp  dẫn  kì  lạ  đối  với  giới  vua  chúa  châu  Âu.  Những con người đi đường sang phía Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật gọi là “con  đường tơ lụa”. Trước Columbus đã có tới ba cuộc thám hiểm đi tìm  Ấn Độ.  Lần 1 và 2 đi tới mũi châu Phi, lần 3 đi tới phía tây Ấn Độ. Nhưng cả ba lần  đều thiệt hại năng nề mà không kết quả. • Cuộc hành trình của Columbus với 90 thuỷ thủ qua nhiều ngày lênh đênh  gian truân trên mặt biển Đại Tây dương (Atlantic) đã tới vùng đảo Bahamas.
  5. Về sau, nhà hàng hải người Tây Ban Nha  gốc Italia) là Amerio tiếp  tục  đi  thám  hiểm  theo  lộ  trình  của  Columbus.  Năm  1519,  cuộc  thám hiểm vĩ đại của Magellant – nhà khoa học người Bồ Đào Nha  (đang phục vụ triều đình Tây Ban Nha) đã đi trọn vòng quanh thế  giới và qua Nam Mĩ. Họ xác định một cách chắc chắn: có một châu  lục  mới  –  châu  Mĩ,  và  vẽ  vùng  đất  này  vào  bản  đồ  thế  giới. Đầu  thế  kỉ  16  những  đoàn  quân  Tây  Ban  Nha  vượt  đại  dương  đi  chinh  phục  miền  Trung  và  Nam  Mĩ  .  Đến  giữa  thế  kỉ  16,  những  đoàn  vũ  trang  người  Pháp  tiến  sang  Bắc  Mĩ,  chiếm  đất  Canada  . Sang thế kỉ 17, người Anh kéo sang chiếm miền duyên hải Bắc Mĩ,  thiết  lập  lãnh  thổ  Hoa  Kỳ.    CHỦ  NHÂN  ĐẦU  TIÊN  TRÊN  ĐẤT  TRUNG  NAM  MĨ  LÀ  AI  ?  rước  khi  người  châu  Âu  đặt  chân  tới  xứ  sở  mà  họ  gọi  là  lục  địa  America thì nơi đây đã có một nền văn minh cổ xưa riêng biệt. Chủ  nhân của nền văn hoá đó là những người thổ dân đang sống trong  giai đoạn phát triển cao của xã hội thị tộc.   Đây là những quốc gia  độc lập có tôn giáo và nền văn hoá riêng trước khi người Tây Ban  Nha đến. 
  6. Lược đồ khu vục Mỹlatinh
  7.      IV.  HAI PHƯƠNG THỨC SÁNG TÁC VĂN NGHỆ CHỦ YẾU Ở VÙNG  MĨ  LATIN      1. SƠ LƯỢC VỀ DÒNG VĂN HỌC THEO CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC  TIẾP NỐI TRUYỀN THỐNG CHÂU ÂU THẾ KỈ XIX Khuynh hướng văn học này nối tiếp văn học hiện thực phê phán  của Tây Âu thế kỉ XIX, tất nhiên phản ánh được hiện thực Nam  Mĩ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Tiêu biểu là tiểu thuyết “Nô tì  Isaura”  của  nhà  văn  Bernador,  “Những  con  đường  đói  khát”,  “Đất  Dữ”,  “Ca  Cao”,  “Miền  Đất  Quả  Vàng”,  “Tereza”  của  George Amado. Bên cạnh đó, còn có những tác phẩm tiêu biểu  của  Gabriel  Gaccia  Marquez  (Ngài  đại  tá  chờ  thư,  Trăm  Năm  Cô  Đơn…),  nhà  văn  Cuba  Carpentier  với  truyện  Vương  quốc  trần gian, thơ ca của Pablo Neruda v.v… Nhìn chung, dòng văn  học hiện thực phê phán Mĩ Latin chưa có những cách tân đáng  kể  về  thi  pháp  nhưng  cũng  có  giá  trị  trình  bày  hiện  thực  tàn  khốc của vùng đất và con người xứ sở này. 
  8. 2. CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC HUYỀN ẢO MĨ LATIN:  Nhà  phê  bình  P.  Trigo  •     Nhà  phê  bình  James  Joy  (Bắc  Ailen)  phát  (Venezuela) đánh giá  thảo  ra  7  đặc  điểm  của  văn  xuôi  Mĩ  Latin  văn  xuôi  Mĩ  Latin  trong sự so sánh với tiểu tuyết hiện thực Tây  bằng  công  thức:  Âu : “khát  vọng  hướng  tới  •   Nhà văn muốn và có ý thức tách khỏi tiếu  hiện  thực  được  thuyết Tây Âu thế kỉ XIX . chuyển  thành  khát  •    Họ tìm tòi táo bạo và thể nghiệm tác phẩm  vọng  hướng  tới  ngôn  trong  những  tình  huống  đa  dạng  nhất,  họ  sử  ngữ”.  Nghĩa  là,  nhà  dụng  lối  kết  cấu  đa  thanh,  bố  cục  của  nghệ  văn muốn thâm nhập  thuật điện ảnh, dòng ý thức, lối đối thoại cùng  vào thực chất của sự  một lúc. vật  thông  qua  hình  •     Từ  bỏ  truyền  thống  ngôn  ngữ  vì  phê  bình  thức  của  chúng.  Họ  chúng là bất lực và chỉ biết nhái lại thực tiễn,  hướng tới tính quái dị  họ biến đổi ngôn ngữ văn xuôi rất mạnh dạn. và tính siêu thực của  chúng.  Tiểu  thuyết  •     Nhà  văn  không  chỉ  đặt  ra  những  vấn  đề  tư  Mĩ  Latin  đầy  sức  tưởng  mà  còn  nêu  ra  những  vấn  đề  thẩm  mĩ  sống,  không  hướng  nữa. tới  nhân  vật  mà  •    Theo họ, không có sự đối lập giữa thành thị  hướng  tới  tình  và nông thôn. huống, hoàn cảnh.  •     Các  nhân  vật  của  họ  không  có  tính  định  trước theo khuynh hướng hẹp hòi. •     Nhà  văn  cố  gắng  miêu  tả  hìng  tượng  hiện  thực một cách trọn vẹn.
  9. Nhà  nghiên  cứu  Emir  Rodrigues  (Uruguay)  thì  nhận  xét  một  cách  thất  vọng:  “tiểu thuyết mới Mĩ Latin là một cái không đồng nhất và không thể định nghĩa  một cách rành rọt về lí luận”.  Ông cho rằng tiểu thuyết Mĩ Latin đi theo “chủ  nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa hiện đại” . Những năm cuối thế kỉ XX, các nhà  nghiên  cứu  Âu  Mĩ  có  nhiều  cố  gắng  làm  sáng  tỏ  đặc  trưng  của  “tiểu  thuyết  mới Mĩ Latin”. Nhà phê bình Ferandez Retama (Cuba) đã tuyên bố: “càng ngày  càng thấy rõ rằng, không thể lí giải nó bằng những khái niệm cũ của những   nền văn học khác”. Và nhiều nhà nghiên cứu đã nêu lên những khái niệm mới  “barokko  mới”  và  “chủ  nghĩa  hiện  thực  huyền  ảo”  (huyền  diệu).  Năm  1975,  giảng bài tại Trường Đại học Tổng hợp Karakas (Venezuela), giáo sư nhà văn  Cuba Carpentier đã cố gắng trình bày ngắn gọn hai khái niệm “tính barokko”  và “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo” và khẳng định đó là hai nhân tố quan trọng  xác  định  một  cách  dứt  khoát  tính  chất  và  nội  dung  của  nghệ  thuật  Mĩ  Latin.  Carpentier so sánh “Khác với phong cách Gotique, phong cách Roman và chủ  nghĩa cổ  điển  vốn  là  những  phong  cách  nghệ thuật  có tính nhất  thời về mặt  lịch sử nghệ thuật, barokko mang tính phi thời gian, có tính tuyệt đối”. Chống  lại những ý kiến nói về bản chất suy đồi của barokko, giáo sư nhấn mạnh: “Đó  là nghệ thuật của sự vận động, của sự xung đột, nghệ thuật phục tùng sự ly  tâm. Nó xuất hiện ở nơi nào có sự chuyển hoá và đổi mới.”  
  10. 2.1  TÍNH BAROKKO MỚI LÀ GÌ ?     Từ thế kỉ 16 và 17 đã xuất hiện trào lưu nghệ  thuật  tạo  hình  (kiến  trúc,  hội  hoạ)  gọi  là  Baroque  nhằm  chống  lại  lối  kiến  trúc  Gothique.  Nếu  kiến  trúc  của  Gothique  có  tính  chất  đường  bệ  cân  đối  vững  chắc  hài  hoà  lộng  lẫy  tĩnh  lặng  và  vĩnh  cửu  thì  kiến  trúc  Baroque  coi  trọng  bề  mặt  ,  ưa  tạo  đường cong xoáy ốc, gợi ra sự vận động linh  hoạt…Từ  nghệ  thuật  kiến  trúc,  Baroque  lan  dần  sang  văn  chương,  âm  nhạc,  từ  Tây  Âu  qua  Nga  tới  Ấn  Độ.  Văn  chương  Baroque  xuất  hiện  yếu  ớt  ở  Italia,  Tây  Ban  Nha,  Bồ,  Đức,  Pháp…và  chưa  đủ  sức  trở  thành  một  trào  lưu  và  phương  thức  sáng  tác  đáng  kể.  Tuy  vậy,  khi  mới  bắt  đầu  nhen  nhóm  tính  Baroque trong văn học thì văn học lãng mạn  đi  tiên  phong  với  nhà  văn  Lope  de  Vega,  Kalderon, Gogonru…mà theo Carpentier: 
  11. • Khuynh  hướng  phê  phán chỉ  • Những cuon tiểu thuyết nổi tiếng trích “tiểu thuyết mới” thì cho  rằng  “hiện  thực  được  phản  ánh  trong  tiểu  thuyết  rất  lộn  xộn  và  do  đó  mang  tính  Baroque.  Rằng  đó  là  ví  tác  giả đã đem cấu trúc phi logic  và  phản  thực  tế,  phá  vỡ  những mối liên hệ nhân quả  và  tuyến  thời  gian.  Dẫn  chứng  các  tiểu  thuyết  “Gia  đình  xa  xôi”  của  Fuentaz,  “Buổi  hoà  nhạc  Barokko”  của  Carpentier  và  “Kí  sự  về  một cái chết được báo trước”  của G.Marquez. • Không  có  một  nhà  tiểu  thuyết  nào  đến  nay  đã  thể  hiện  được  một  cách  đầy  đủ  tính  cách  của  người  công  dân  Tân  thế  giới  (New  World: châu Mĩ). 
  12. Nhà phê bình Natalia (người Mĩ) đã nêu được một hệ thống dấu hiệu  tính Barokko của tiểu thuyết Mĩ Latin như sau:  • 1.                   Sự tìm tòi tất cả những cái mới và cái lạ thường • 2.                   Cường điệu phóng đại, thiên về ngoa dụ • 3.                   Sự giả tạo và rối rắm về tư tưởng, hướng tới một thiểu  số trí tuệ. • 4.                   Cảm thụ rất chủ quan đối với hiện thực. • 5.                   Sự rối rắm của phong cách • 6.                   Văn thể hiện sự mất cân bằng về tinh thần, sự hư vô  và sự thất vọng, bi quan.
  13. 2.2  NHỮNG QUAN NIỆM VỀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC HUYỀN ẢO  • Chủ  nghĩa  hiện  thực  huyền  ảo  là  phương  pháp,  khuynh  hướng,  trường phái, thế giới quan hay phong cách? – chưa có được một lời  giải đáp thoả đáng cho những câu hỏi đó. Tuy vậy, nó vẫn được sử  dụng trong phê bình văn học, thậm chí còn rộng rãi hơn trước. Mọi  công  trình  nghiên  cứu  về  các  tác  gia  lớn  như  Carpentier  (Cuba),  GG.  Marquez  (Colombia),  Ros  Batoz  (Brasil)  đều  phải  dùng  thuật  ngữ “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo” – magic realism.  •  Năm  1925  ông  đã  dùng  thuật  ngữ  này  nói  về  hội  hoạ  của  chủ  nghĩa biểu hiện…Ở châu Mĩ Latin, thuật ngữ này lần đầu tiên được  sử dụng trong văn học là năm 1948 do nhà phê bình nổi tiếng Uslar  Retri (người Venezuela) khi phân tích một trong những truyện ngắn.  Ông nêu lên tính chất tổng hợp lạ thường giữa cái hiện thực và cái  huyền  ảo / bí  ẩn. Nhà phê bình viết rằng: “Đó là cái không thể gọi  bằng từ nào khác chủ nghĩa hiện thực huyền ảo”. 
  14. ­Những công trình nghiên cứu văn học Mĩ Latin gần cuối thế kỉ 20 về  chủ nghĩa HTHA gồm 3 nhóm chính:  • Nhóm 1: • Nhà nghiên cứu Langovski nêu ra  ảnh hưởng của chủ nghĩa siêu thực       ­  Được  phổ  biến  rộng  hơn  cả,  cho  đối với toàn bộ tiểu thuyết Mĩ Latin  rằng  CHHTHA  là  một  khuynh  hiện đại, gồm các nội dung: hướng  văn  học  được  phát  triển  trực  tiếp  từ  chủ  nghĩa  siêu  thực  •  1.  Tinh thần “nổi loạn” chống lại  của  văn  học  Pháp  đầu  thế  kỉ  20.  những quy tắc của tiểu thuyết Tây  Bà  Auor  Ocampo  –  nhà  nghiên  Âu. cứu  văn  học  người  Mexico  không  • 2.  Khát vọng tìm kiếm cái kì diệu khi  những  đã  đặt  cơ  sở  văn  học  sử  đi sâu vào cái vô thức mà  còn  đặt  cơ  sở  sinh  lí  học  cho  • 3.  Tính ẩn dụ nổi bật và tính hình  CNHTHA.  Từ đó tác giả kết luận:  tượng kèm theo sự rối rắm về cú  “cả  chủ  nghĩa  siêu  thực  lẫn  pháp CNHTHA  đều  nảy  sinh  trên  mảnh  • 4.  Sự sùng bái tính phi lí của “hài  đất  của  nó,  đều  là  biểu  hiện  tính  hước đen” hiện  thực  của  sự  tồn  tại  con  người.  Khác  nhau  ở  chỗ,  chủ  • 5.  Lối tự sự biến hiện thực thành phi  nghĩa siêu thực phù hợp với cái vô  hiện thực (thủ pháp) thức  của  cá  nhân  và  tư  tưởng  • 6.  Những biện pháp tu từ đặc biệt  Freud  còn  CNHTHA  thì  phù  hợp  (hồi cố, montage / chồng chéo kiểu  với  cái  vô  thức  của  tập  thể  và  tư  điện ảnh) tưởng triết học Jung”.  • 7.  Việc sử dụng thời gian không  tuyến
  15. • Nhóm 2:Việc lí giải CNHTHA là  • ­  Niềm  tin:  người  ta  tin  vào  một  cái  gì  đó  sự kêu gọi trả lại ý nghĩa đúng  mang  tính  siêu  nhiên,  nó  giao  kết  với  tín  đắn cho tiểu thuyết Mĩ Latin và  đồ.   chỉ  áp  dụng  thuật  ngữ  đó  cho  • ­  Cảnh  vật,  lịch  sử,  các  sự  kiện  được  bao  Mĩ Latin. Nhóm này phát triển ý  phủ  bằng  tấm  màn  bí  ẩn  huyền  kiến  của  Caperntier  (không  diệu.Antonio lại chia chúng ra ba phần:  chấp nhận  ảnh hưởng của chủ       1.   Phong cảnh môi trường huyền bí. nghĩa  siêu  thực  Pháp  với  tính       2.   Nhân vật: hiện thực của cái kì diệu) rằng     ­  Có những phẩm chất siêu nhân “thế  giới  của  cái  kì  diệu,  khi     ­  Có hành động khác thường người ta định đưa nó vào cuộc     ­  Những người quan sát cái kì diệu và những  sống  với  thái  độ  không  tín  người có niềm tin vào cái kì diệu. ngưỡng như các nhà siêu thực       3. Những sự kiện phi thường  đã  làm  bao  nhiêu  năm  nay,  đã       cuốn  tiểu  thuyết  tiêu  biểu:  “Trăm  năm  cô  và  sẽ  chỉ  là  một  ảo  thuật  văn  đơn”  của  G.G.  Marquez,  “Vương  quốc  trần  học”.  James  Roy  và  Pedro  gian”  của  Carpentier  và  “Pedro  Paramo”  Trigo  cho  rằng:  “tính  hiện  thực  của   J.  Russo.  Antonio  cho  rằng  đi  theo  của  cái  kì  diệu  là  là  thuộc  tính  chiều hướng “tính hiện thực của cái kì diệu”  riêng  của  tiểu  thuyết  Mĩ  Latin  nhà  văn  không  chỉ  kết  hợp  cái  có  thực  và  chứ  không  phải  sự  vay  mượn  cái  kì  diệu  mà  còn  “đấu  tranh  với  tính  hiện  những  khám  phá  của  chủ  thực”. Tác giả nhấn mạnh rằng “phóng đại,  nghĩa  hiện  đại”.  Đáng  chú  ý  là  cường  điệu  là  thủ  pháp  chủ  yếu  của  cuộc  cuốn sách của nhà nghiên cứu  đấu tranh với hiện thực, tức là cải tạo hiện  thực  bằng  nghệ  thuật”.  Theo  ông,  tất  cả  nhà  văn  Antonio  Bravo  (Peru)  những  chủ  đề  chính  của  tiểu  thuyết  Mĩ  nêu  lên tám  bộ  phận  hợp  Latin  hiện  đại  gồm:  cái  chết,  tình  yêu,  du  thành của  chủ  nghĩa  hiện  thực  ngoạn, lòng căm thù, chính trị và sự cô đơn  huyền  ảo  gồm  tựu  trung  hai  đều  được  xử  lý  bằng  thủ  pháp  cường  điệu 
  16. Nhóm 3: Đây là cách tiếp cận “dân tộc học” được thể hiện trong luận án tiến sĩ của nhà  nghiên  cứu  Ortiz  Aponte  (Puertorico)  với  tên  đề  tài  là  “  CÁI  SIÊU  NHIÊN  TRONG VĂN XUÔI MĨ LATIN ” Nhưng khác với Carpentier và những môn đồ  của ông, bà quan niệm về những phạm trù “hiện thực” và “kì diệu” không phải  với tất cả vẻ dị dạng của nó mà là rất hẹp như một tầng nền của những tín  ngưỡng cụ thể, những nghi lễ, huyền thoại, những cách thờ cúng còn giữ lại  được  cho  đến  ngày  nay.  Chính  những  tầng  văn  hoá  còn  được  tồn  tại  ấy  đã  thăng  hoa  trong  văn  học  dưới  hình  thức  “chủ  nghĩa  hiện  thực  huyền  diệu”.  Tranh luận với những nhà phê bình thiên về lối nhìn đặc điểm folklore của tác  phẩm văn học tách rời sự tồn tại lịch sử, Perus khẳng  định luận điểm “trong  văn học không có những giá trị và những nhận định vĩnh cửu bất biến”, bà quả  quyết rằng: tất cả những thông số thẩm mĩ của văn chương đều do tính cụ thể  và gắn liền với một thời đại nhất định.   Từ quan  điểm  đó  tác giả  nhìn  nhận  đặc  trưng  của tiểu  thuyết Mĩ Latin hiện  đại.  Cao  trào  của  văn  học  mới  ở  vùng  này  được  bà  giải  thích  bằng  những  nhân tố xã hội – chính trị và gắn với cách mạng: “sự nở rộ của văn chương Mĩ  Latin  đã  gắn  bó  mật  thiết  với  thắng  lợi  của  cách  mạng  Cuba  –  cuộc  cách  mạng  làm  thay  đổi  cơ  bản  vai  trò  của  Mĩ  Latin  trên  vũ  đài  quốc  tế. Nó  cũng  được tạo ra bởi sự đoàn kết của lực lượng dân chủ và chống đế quốc khiến  người ta nhận ra rằng: số phận của họ trực tiếp gắn liền với cu ộc  đấu trang  giải phóng dân tộc của các nước dang phát triển. 
  17. KẾT LUẬN: Vấn đề xác định đặc trưng của TIỂU THUYẾT MỚI Mĩ  Latin vẫn còn tiếp tục. Chừng nào thiết lập được cơ sở  vững chắc cho việc khái quát về mặt loại hình tác phẩm  của văn xuôi Mĩ Latin hiện đại thì những thuật ngữ như  “barokko mới, hiện thực huyền  ảo”, “tính hiện thực của  cái huyền diệu” sẽ được chọn hoặc thay thế. Tuy  nhiên  chúng  tôi  cũng  chọn  lấy  những  quan  niệm  tương đối phổ biến hiện nay để trình bày thành tựu văn  học Mĩ Latin trong thế kỉ 20.
  18. Một số nhà văn tiêu biểu thời bấy giờ ở Mỹ La Tinh. Julio Cortazar           Garcia Marquez
  19. HAI QUAN NIỆM CƠ BẢN CỦA NHÀ VĂN MỸ LA TINH 1.      Quan niệm về hiện thực       ­  Theo  nhà  văn  Mĩ  Latin,  hiện thực là  tất  cả  cuộc  sống thực tại  bao  gồm  mọi hoạt  động  của  con  người,  kể  cả  đời  sống  tâm  linh  (niềm  tin  tôn  giáo,  mộng  mị,  thần  giao  cách cảm, trí nhớ di truyền, lời nguyền…). Tóm lại, hiện thực là tất cả những gì mà cảm  giác, trí tuệ con người có thể thu nhận được.     2.     Cảm hứng chủ đạo     ­ Do gắn bó sâu sắc với cộng đồng và thời đại, người trí thức luôn luôn bị giày vò đau  khổ về tình trạng lạc hậu và chia xẻ phân tán của các dân tộc hỗn tạp vùng Mĩ Latin.  Họ vừa bất bình vừa lo sợ tình cảnh đất nước ngày càng bị phụ thuộc vào các ông chủ  Mĩ.  Mặc khác, Cơ Đốc giáo tuy mới tồn tại vài trăm năm  ở lục địa Mĩ Latin nhưng đã  gây  dấu  ấn  sâu  đậm  nơi  đây  tới  tận  tầng  lớp  trí  thức  khoa  học.  Cái  “mặc  cảm  khải  huyền” là tinh thần cơ bản của Kinh Thánh đang chế ngự cuộc sống tinh thần của dân  chúng vùng Trung Nam Mĩ. “Mặc cảm khải huyền” là mặc cảm về ngày tận thế – ngày  phán xét cuối cùng của nhân loại. Mặc cảm đó lại gặp gỡ tinh thần tư duy biện chứng  khiến nhà văn nảy sinh mặc cảm nỗi ám ảnh về ngày cáo chung của hình thái kinh tế –  xã hội tư bản tư hữu và dự cảm ngày khởi thuỷ của một hình thái kinh tế – xã hội mới  và  con  người  mới.  Trong  tiểu  thuyết  “Trăm  Năm  Cô  Đơn”, thi  pháp  thời  gian  nghệ  thuật thể hiện một tâm trạng đợi chờ lo lắng khắc khoải một tương lai không rõ buồn  vui sắp đến.  Họ miêu tả nhân vật và sự kiện trong những kết cấu thời gian lạ lùng như:  thời gian đa chiều, thời gian ngược chiều, thời gian đồng hiện, thời gian – không gian –  thời gian…  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2