NHÓM 11

I.Balzac – cuộc đời và sự nghiệp: 1. Cuộc đời • Honore de Balzac là

một tác gia quan trọng của nền văn học Pháp thế kỉ XIX.

• Balzac sinh 20 - 05 -

1799 ở thành phố Tua, vào thời kỳ mà chính quyền Cách mạng tư sản đã lập nên chế độ Đốc chính nhưng cũng là thời kỳ thoái trào của Cách mạng.

Cha của Balzac , một nhà tư sản phất lên

sau những phi vụ buôn bán thời cách mạng cũng đã hai lần chỉnh lại họ của mình: đầu tiên họ của ông là Banxa( một dòng họ nông dân), sau đổi thành Balzac. Cuối cùng gắn thêm một tiểu từ de(có nghĩa là thuộc dòng quý tộc)

Từ năm 8 đến 14 tuổi Balzac theo học tại

một trường giáo vụ. Cậu bé Balzac sớm phải chịu kỉ luật nội trú khắc nghiệt, sớm làm quen với cuộc sống khép kín nghiêm túc và thiếu vắng tình thương gia đình

Năm 1814 Balzac theo gia đình dọn về Paris,

ông vẫn tiếp tục sống nội trú.

Tháng 9/1816 ông tốt nghiệp trung học, cuộc sống xa nhà tạo cho ông thói quen suy tư độc lập ,dù khó khăn đến mấy ông vẫn kiên cường giữ vững niềm tin, điều này giúp ông có nghị lực phi thường để có thể làm việc không mệt mỏi trong sự nghiệp sáng tác sau này.

4/11/1816, ông ghi tên vào học trường

luật và sau 3 năm học ông đã có bằng cử nhân luật 2 học phần lí thuyết và thực hành. Những ngày tập sự tại văn phòng luật ông đã chứng kiến khá nhiều bi kịch gia đình và những hành động tội phạm-tất cả điều đó về sau đã trở thành những tư liệu quý giá trong sự nghiệp sáng tác của ông.

Ngay trong giai đoạn này Balzac đã ôm mộng triết học và văn chương, ông vừa học luật vừa theo các giờ giảng triết học, văn học, sử học ở trường đai học Sorbone. 4/1814, ông bỏ nghề luật bắt đầu lao động nghệ thuật trong gian gác xép nghèo ở phố Lu-di-ghi-e.Khi 30 tuổi trải qua 10 năm thử bút, Balzac vẫn chưa thành công. Bước đường không may mắn đó đã là trường học thực tế mà nhờ đó ông nắm được bản chất của xã hội tư sản để đưa nó vào văn học một cách sinh động và sắc nét

• Không thành công về văn học lại sống trong cảnh nghèo túng, chẳng bao lâu Balzac tạm bỏ nghề văn lao vào kinh doanh: làm nghề xuất bản, làm chủ nhà in rồi cả kinh doanh đúc chữ.

• 1828, ông từ bỏ thương trường quay về với giấc mộng văn chương. Hằng ngày ông phải làm việc 18 tiếng đồng hồ do đó ông đã mắc phải bệnh tim

• 1850, ông kết hôn với bà Hanska. • 18/8/1950, ông từ trần khi mới 51 tuổi. Ông

được chôn ở nghĩa trang Peto lasedo.

2. Sự nghiệp sáng tác:

o Balzac không thuộc loại tài năng văn

chương, sớm bộc lộ từ tuổi thiếu niên, như Hugo hoặc Musset, với ông “ thiên tài là một sự cố gắng liên tục”.

o 1820, ông trình làng vở kịch mang tên

Cromwell, được đánh giá là một tác phẩm khô khan và vô vị.

o Từ năm 1818 – 1828, ông viết gần 10

cuốn tiểu thuyết nhưng chưa tạo được tên tuổi.

• Từ năm 1829 – 1835, sau tiểu thuyết lịch sử Les Chouans, Balzac cho ra đời liên tiếp nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong nhiều cảm hứng và chủ đề khác nhau: La peau de chagrin ( miếng da lừa, 1831), Le Père Goriot ( Lão Goriô, 1834) .

• Balzac đã đề xuất một cách rõ ràng là ông muốn làm “ thư kí” cho xã hội Pháp, để hoàn thành một nhóm tác phẩm miêu tả nước Pháp vào thế kỉ XIX, sau đó được tổng hợp trong bộ “ Tấn trò đời”.

3. Tư tưởng và tài năng nghệ thuật • Balzac là nhà văn sớm có ý thức về sự tái hiện cuộc đời một cách hoàn chỉnh ở đủ mọi góc cạnh của nó và được đặt trong hệ thống mà ông ví như một “công trình kiến trúc vũ trụ”.

• Vũ trụ ấy là cuộc đời nhìn qua nhãn quang

của ông tạo nên một “thế giới kiểu Balzac”.

• Văn chương của ông đi sâu vào nội tâm của con người khi con người đứng trong những khó khăn thách thức của cuộc sống.

• Khi nói đến tiểu thuyết của ông thì khía cạnh được chú ý đến nhiều nhất là về phê phán hay chất phủ định: qua sự nghiệp sáng tác của ông, cả một xã hội và con người dưới thể chế tư sản bị phơi bày với tất cả xấu xa, cũng từ đây những nỗi khổ đau, những tấn bi kịch xảy ra cho nhiều người, ở nhiều hoàn cảnh trong một xã hội mà đồng tiền là chân lý.

• Sở trường của Balzac là việc miêu tả cái

xấu, cái ác trong xã hội tư sản một cách thấu đáo và sắc sảo qua hệ thống ngôn từ và phong cách thích hợp. Ông từng nói câu: “ ai cũng là thầy ta ?” Câu nói thể hiện sự sâu sắc trong thơ văn của đời ông với cuộc sống ngoài xã hội.

II. Tấn trò đời (La Comédie humaine):

1. Quá trình sáng tác:  Tác phẩm “Những người của Đảng Chouans” ( Les Chouens) được ông hoàn thành năm 1829 chính là tác phẩm mở màn cho cả bộ Tấn trò đời (còn được dịch là “kịch vui nhân gian”) vĩ đại.  Từ năm 1829 – 1835, là giai đoạn đầu cho việc sáng tác bộ Tấn trò đời, năm 1845, phác thảo đề cương của bộ “Tấn trò đời”.

2. Giới thiệu: “Tấn trò đời” là tập hợp hầu như toàn bộ

các tác phẩm trong suốt cuộc đời sáng tác của Balzac và được chia làm 3 phần:

Phần I: khảo luận phong tục. 1.Những cảnh đời tư:gồm 32 tiểu thuyết, đã

viết xong 28:

Gôpxêch nhà con mèo chơi bóng

(1830); Người đàn bà ở tuổi ba mươi (1831); Đại tá Sabe (1832), Lão Goriot (1834); Lão Goriot (1835), Lễ cầu hôn của kẻ vô thần (1836)…

2.Những mảnh đời tỉnh lẻ: Cha xứ ở Tua (1832);

Ơgiêni Grangđê (1833); Bông huệ nơi thung lũng (1835); Căn phòng chứa đồ cổ I (1836); Ảo mộng tiêu tan I (1837); Cô gái già (1838); Căn phòng chứa đồ cổ II (1839); Ảo mộng tiêu tan II (1840); Uyêcxuyn Miruôt (1841); Cô gái khua cá (1842); Ảo mộng tiêu tan III (1843).

3.Những cảnh đời Paris: gồm 20 tiểu thuyết,

đã viết xong 14

Xarazin (1831); Nữ công tước Đơ Langgie (1834); Cô gái mắt vàng (1835); Faxino Can (1836); Xeza Birôtô (1837); Những viên chức (1837); Nhà ngân hành Nucingen (1838); Vinh và nhục của người kĩ nữ I (1839); Mặt trái của lịch sử hiện đại I (1842); Một tay buôn bán (1845); Chị Bett (1846); Ông anh họ Pông (1847); Vinh và nhục của người kĩ nữ II (1847); Vinh và nhục của người kĩ nữ III; Mặt trái của lịch sử hiện đại II; Những người tiểu tư sản.

4. Những cảnh đời chính trị: 8 tiểu thuyết, đã

viết xong 4:

Một giai đoạn của thời kì khủng bố (1830); Macca (1841); Đại biểu ở Acxi (1847).

5. Những cảnh đời nhà binh: 23 tiểu thuyết, đã

viết xong 2:

Những người Suăng (Les Chouens)(1829); Mối

đam mê nơi sa mạc (1830).

6. Những cảnh đời nông thôn: 5 tiểu thuyết, đã

viết xong 3:

Người thầy thuốc ở nông thôn (1833); Người cha xứ nông thôn I (1838); Người cha xứ nông thôn II (1839); Những người nông dân I (1844); Những người nông dân II (hoặc Nông dân).

• Phần II: Thảo luận triết học gồm 27 tiểu

thuyết, đã viết xong 22:

Thuốc trường sinh(1830); Kiệt tác chưa ai biết tới(1831); Miếng da lừa(1831); Quán đỏ(1831); Gia đình Marana(1832); Lui lambe(1833); Đi tìm cái tuyệt đối(1834); Menmot quy thiện(1835); Đứa con bị nguyền rủa(1836); Maximilia Đoni(1839); Về Catoirin Đơ Mêđixix(1841).

• Phần III: Khảo luận phân tích gồm 5 tiểu

thuyết, đã viết xong 2:

Sinh lí học hôn nhân (1829); Những nỗi phiền hà của cuộc sống vợ chồng (1845).

• Balzac phát thảo “Tấn trò đời” từ 137 đến 143 tác phẩm nhưng chỉ hoàn thành được 91 đến 97 tác phẩm.

• Những nhân vật tái xuất hiện trong nhiều tác phẩm (ít nhất hai lần) khoảng từ 460- 567 nhân vật .

• Số lượng nhân vật hư cấu và nhân vật lịch sử có thật được nhắc đến tên trong bộ “Tấn trò đời” khoảng 5000 nhân vật

3. Giọng điệu và nghệ thuật: a. Giọng điệu: Các tác phẩm trong bộ “Tấn trò đời” chủ yếu được thể hiện qua ba giọng điệu chính: Giọng lạnh lùng khách quan: nhận định khái quát và chân thực về xã hội Pháp đầu thế kỉ XIX.

Giọng trào phúng chế giễu: mỉa mai lề thói hám tiền hơn mạng sống của con người tư sản đang lên.

Giọng trữ tình lãng mạng: sự đau khổ và bế tắc của những nạn nhân trong xã hội thối nát và dành cho họ những cảm thông sâu sắc.

b.Nghệ thuật: Trong “Tấn trò đời” sử dụng rất

nhiều biện pháp nghệ thuật. Đặc biệt Balzac đã sáng tạo ra một ra một thủ pháp nghệ thuật đặc biệt: “tái xuất hiện nhân vật”.

Với thủ pháp này mỗi thiên tiểu

thuyết chỉ là một chương trong “Tấn trò đời” đồ sộ, và “Tấn trò đời” càng gợi nên cảm giác về một thế giới hoàn chỉnh.

Ví dụ: nhân vật De Rastignac trong tiểu

thuyết “ Lão Goriot” đã xuất hiện trong hơn 20 tác phẩm của bộ “Tấn trò đời”. Từ “ Lão Goriot”  “Vỡ mộng”  “Bảo trợ tài sản”  “Nhà ngân hàng Lucingen”  “Đại biểu thành Arci”.

Từ một sinh viên nghèo ở quán trọ Vauquer trong tác phẩm “Lão Goriot” cuối cùng đến tác phẩm “Đại biểu thành Arci”, anh đã là bộ trưởng và được phong bá tước…

4.Tổng kết nội dung: “Tấn trò đời” được ví như “Một nghìn lẻ một

đêm của Tây Âu”, là một công trình kiến trúc đồ sộ về mối quan hệ của xã hội tư bản Pháp thế kỉ XIX. Đó là một bức tranh thê lương của loài người trong thời đại mà đồng tiền quyết định tất cả.

Tác phẩm là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực

thể hiện ở nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình.

5. Một số thống kê liên quan đến tác phẩm: “Tấn trò đời” được xuất bản bằng ngoại ngữ trên 22 triệu bản- gồm 17 thứ tiếng ở Liên Xô tính đến năm 1979.

Từ năm 1961-1976, tác phẩm được dịch

trên thế giới với tổng số lớn hơn sách dịch của Dickens, Jack London, Graham Green, Emin Zola, V.Hugo cộng lại.

III. Tiểu thuyết “Miếng da lừa”:

1. Hoàn cảnh sáng tác: “ Miếng da lừa” (La Peau de chagin) được viết vào mùa thu năm 1830 và tiếp sau cuốn “Những người Chouan”. Lí tưởng duy nhất ngự trị xã hội lúc bấy giờ là chạy theo đồng tiền với khẩu hiệu nổi tiếng “Hãy làm giàu”. Đây là một trong số rất ít các tác phẩm Balzac sử dụng các yếu tố hiện thực huyền ảo- là một trong những đặc điểm nổi bật mà văn học Mĩ- latinh kế thừa và phát triển vào thế kỉ XX.

Tiểu thuyết “Miếng da lừa” được xếp vào phần

khảo sát triết lí.

2. Tóm tắt nội dung:

Raphael de Valentin là một thanh niên quý tộc phá sản, có tài năng và chí hướng. Ban đầu anh cam chịu sống cảnh nghèo nàn trong một gian gác xép để cần cù học tập nghiên cứu và viết sách. Nhưng anh lại khao khát tình yêu và mơ ước một cảnh yêu đương trong nhung lụa, cho nên anh không quan tâm đến mối tình của Pauline, con gái bà chủ nhà nơi anh trọ, mặc dầu họ ân cần chăm sóc anh rất chu đáo.

Rồi một bữa, không kiên trì được, anh nghe theo bạn là de Rastignac từ bỏ cuộc đời lao động nghèo khổ để chạy theo cuộc sống phóng đãng, phù hoa của xã hội thượng lưu. Anh yêu say mê nữ bá tước Foedora, người đàn bà thời thượng có sắc đẹp và tiền của nhưng lại vô tình, thiếu thốn trái tim để hưởng ứng mối tình chân thành và nồng nhiệt của Raphael. Cuối cùng anh bị Foedora cự tuyệt và anh lăn mình vào những cuộc hành lạc cho tới khi hết nhẵn tiền, anh định ra sông tự tử.

Nhưng vừa lúc đó, Raphael được một lão già bán đồ cổ cho một miếng da lừa có phép màu làm thỏa mãn mọi ước nguyện của anh, nhưng mỗi lần được toại nguyện thì miếng da lừa co lại và tuổi đời anh lại giảm đi. Nhờ tấm bùa thiêng, Raphael trở nên triệu phú và khi gặp lại Pauline cũng trở nên giàu có, anh định kết hôn với nàng. Song, được toại nguyện thì miếng da lừa cứ co lại mãi mà bản thân anh thì mang bệnh nặng.

• Lo sợ trước cái chết và không làm sao

phá được phép thiêng của tấm bùa, anh định hoàn toàn lánh xa xã hội, sống một cuộc đời như cây cỏ, không ước vọng, nhưng uổng công. Cuối cùng, bệnh càng ngày càng trầm trọng, trong một cơn điên, anh ước mơ ân ái với Pauline và chết trong tay nàng.

3. Bình luận: Đọc “Miếng da lừa” chúng ta nhận thức được rằng tronh xã hội quý tộc tư sản - một xã hội đầy những tham lam, ích kỉ, tính toán quyền lợi, tiền nong thì những con người mang trong mình trí tuệ, nghị lực và tài năng chẳng đáng giá là bao.

Nếu giữa Raphaen de Valentin và xã hội

đương thời có mâu thuẫn tạo nên tấn bi kịch thì trái lại những nhân vật như De Rastignac, Foedora hay như gã tư sản Taillefer… lại chính là hiện thân của cái xã hội đó.

Đối lập với bọn thượng lưu ích kỉ và đồi bại

của xã hội quý tộc tư sản là hình ảnh trong sáng, thanh cao của những người nghèo khổ, những người yếu thế như mẹ con Pauline, như lão bộc Gionathas, giáo sư Porriquet hay như những người nông dân ở miền suối nước sẵn sàng giúp đỡ Raphaell de Valentin khi anh còn sống nghèo khổ cho đến lúc anh trở thành giàu có nhưng lại mang bệnh hiểm nghèo.

Ví dụ cụ thể là hình ảnh cô gái Pauline ngây thơ chân thật, khiêm tốn, tượng trưng cho mối tình chân chính thắm thiết. Ở phần kết thúc tác phẩm hình tượng Pauline như một nàng tiên, một thiên thần khi ẩn khi hiện. Yếu tố quái dị trong tác phẩm là sự xuất hiện

của lão già bán đồ cổ và miếng da lừa thần bí.

Lão già bán đồ cổ có trong tay bao nhiêu cổ báu thế gian là tượng trưng hùng hồn cho cái thế lực vạn năng, cái quyền hành phi thường của đồng tiền. Miếng da lừa là hình ảnh tượng trưng cho số phận bi thảm của con người.

Cứ sau mỗi điều ước miếng da lừa càng

ngắn lại đồng nghĩa với việc nhân phẩm, tư cách cũng như thể xác, tuổi đời của Raphael bị cắt xén.

 Giá trị của “Miếng da lừa”

• Tiểu thuyết “Miếng da lừa” cùng với một loạt tác phẩm khác xuất hiện khoảng những năm 1830 - 1831 thật sự đã đánh dấu một giai đoạn phát triển mới trong phương pháp sáng tác của Honoré de Balzac. Ở “Miếng da lừa”, người ta thấy rõ ràng hơn hết những dấu hiệu chuyển biến của nhà văn từ phong cách lãng mạn ban đầu sang bước trưởng thành, già dặn của một nhà hiện thực chủ nghĩa lớn. Yếu tố kỳ ảo còn giữ một vị trí quan trọng ở đây sẽ ít dùng đến trong những tác phẩm sau này.

• Tiểu thuyết “ Miếng da lừa” là tác phẩm

đầu tiên làm cho Balzac nổi tiếng bước lên địa vị một nhà văn lớn. Cũng không lạ rằng nó đã được các văn hào thế giới cỡ lớn hết sức hâm mộ kể từ Goethe cho đến Macxim Gorki. Và cho tới nay, nó vẫn là một tác phẩm được rất nhiều độc giả khắp các nước hoan nghênh.

Thực hiện:

Hứa Thị Hiên Nguyễn Ngọc Tú Anh Võ Thái Võ Thị Hoài Chi Trần Hồ Nguyên Thảo Nguyễn Thị Lên Nguyễn Văn Toàn