
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
TGL101_Bai2_v1.0014103225 23
0
Nội dung
Nhà nước chủ nô.
Nhà nước phong kiến.
Nhà nước tư sản.
Mục tiêu Hướng dẫn học
Nghe giảng và đọc tài liệu để nắm bắt các
nội dung chính.
Đặt câu hỏi ngay nếu có thắc mắc.
Trả lời các câu hỏi ôn tập.
Thời lượng học
9 tiết
Sau khi học bài này, các bạn cần:
Xác định, phân loại được kiểu nhà nước
chủ nô, phong kiến và tư sản.
So sánh được chức năng, bộ máy và
hình thức của từng kiểu nhà nước.
Bài 2: NHÀ NƯỚC CHỦ NÔ, NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN
VÀ NHÀ NƯỚC TƯ SẢN

Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
24 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Nói tới kiểu nhà nước là nói tới bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, tồn tại trên cơ sở một
nền tảng kinh tế, tương ứng với một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Như vậy, kiểu nhà nước
mới thay thế cho kiểu nhà nước cũ thông qua cuộc cách mạng xã hội, hoặc thông qua những
cuộc cải cách lớn diễn ra dần dần bởi vì giai cấp thống trị nắm quyền lực nhà nước đại diện cho
phương thức sản xuất cũ không bao giờ tự từ bỏ quyền lực nhà nước của mình, do đó giai cấp đại
diện cho phương thức sản xuất mới phải đấu tranh để giành chính quyền, thiết lập nên nhà nước
mới. Đó là quy luật, kiểu nhà nước mới ra đời thì bản chất, vai trò xã hội, chức năng của nó cũng
thay đổi. Bài học trước chúng ta chia ra 4 kiểu nhà nước chính, đó là nhà nước chủ nô, nhà nước
phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong đó, việc tìm hiểu các kiểu nhà
nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản giúp ta hiểu rõ hơn lý do các kiểu nhà nước
này mang tính bóc lột trong khi nhà nước xã hội chủ nghĩa lại không có bản chất đó.
2.1. Nhà nước chủ nô
Nhà nước chiếm hữu nô lệ hay còn gọi là nhà nước chủ nô là kiểu nhà nước đầu tiên
trong lịch sử, là tổ chức chính trị đặc biệt của giai cấp chủ nô. Nhà nước chủ nô là hình
thái kinh tế – xã hội có giai cấp dựa trên cơ sở chế độ người bóc lột người. Chế độ chiếm
hữu nô lệ phát sinh trong thời kỳ tan rã của công xã nguyên thủy. Hai giai cấp chính của
chế độ chiếm hữu nô lệ là chủ nô và nô lệ. Do điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý, cùng các
yếu tố tác động bên ngoài,… khác nhau nên ở các khu vực địa lý khác nhau, sự xuất hiện
nhà nước chủ nô cũng khác nhau. Nhưng cơ bản, nhà nước chủ nô xuất hiện ở phương
Đông và phương Tây là rõ ràng nhất.
Nhà nước chủ nô xuất hiện ở phương Đông
o Do điều kiện về tự nhiên, chống ngoại xâm và làm thủy lợi mà nhà nước chiếm
hữu nô lệ phương Đông xuất hiện sớm hơn nhiều so với các nhà nước phương
Tây, điển hình là các nhà nước Ai Cập, Lưỡng Hà, Trung Quốc, Ấn Độ cổ đại.
o Tuy nhiên, quá trình hình thành nhà nước lại diễn ra rất chậm chạp và kéo dài.
Trong giai đoạn này, nhà nước tồn tại và phát triển trên cơ sở đan xen giữa chế độ
công hữu còn chế độ tư hữu mới hình thành, chưa phát triển lắm.
Nhà nước chủ nô xuất hiện ở phương Tây
o Khi lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ
tương đối cao thì nhà nước chủ nô phương Tây
xuất hiện, điển hình là nhà nước Hy Lạp, La
Mã cổ đại.
o Nguyên nhân cơ bản là sự xuất hiện chế độ tư
hữu tư nhân đã làm xã hội phân hóa thành giai
cấp, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp.
o Ngược lại với phương Đông, quá trình biến đổi
của xã hội phương Tây diễn ra sâu sắc, tổ chức
thị tộc, bộ lạc thoái hóa và tan rã từng bước, và
dần hình thành nên nhà nước. Qua mỗi lần cải cách xã hội thì tổ chức thị tộc, bộ
lạc lại càng nhanh bị tan rã và nhà nước ngày càng xuất hiện rõ nét hơn.
Lao động nô lệ ở Rôma

Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
TGL101_Bai2_v1.0014103225 25
2.1.1. Bản chất của nhà nước chủ nô
Cơ sở kinh tế của nhà nước chiếm hữu nô lệ là quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ.
Quan hệ này dựa trên sở hữu chủ nô không những đối với tư liệu sản xuất mà cả đối
với người lao động, đó là nô lệ. Đất đai và các tư liệu sản xuất hầu hết thuộc sở hữu
của các chủ nô.
Giai cấp nô lệ chiếm đa số trong xã hội, là lực lượng chủ yếu tạo ra của cải vật chất
nhưng không có tư liệu sản xuất, do đó phụ thuộc hoàn toàn vào chủ nô. Người nô lệ
cũng bị coi là thứ tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của giai cấp chủ nô. Do vậy, nô lệ bị
bóc lột một cách tàn nhẫn và không có giới hạn. Tình trạng này dẫn tới mâu thuẫn
giữa hai giai cấp ngày càng trở nên gay gắt và không thể điều hòa được. Đấu tranh
giai cấp diễn ra ác liệt và nhà nước chủ nô chính là sản phẩm của cuộc đấu tranh đó.
Chính điều kiện kinh tế – xã hội đã quyết định bản chất của nhà nước chủ nô. Xét về
bản chất, nhà nước chủ nô thể hiện tính giai cấp và tính xã hội trong tất cả các kiểu
nhà nước.
o Tính giai cấp
Trong xã hội chủ nô có hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ, bên cạnh đó
còn có dân tự do.
Với nhà nước phương Tây, tính giai cấp được thể hiện rất sâu sắc và mâu
thuẫn giữa chủ nô và nô lệ rất rõ rệt. Bởi trong nhà nước này, nô lệ là bộ phận
dân cư đông đảo trong xã hội và có địa vị xã hội vô cùng kém. Họ bị coi là tài
sản thuộc sở hữu của chủ nô. Chủ nô có quyền tuyệt đối với nô lệ như bóc lột
sức lao động, đem bán, hoặc thậm chí là giết chết. Nô lệ trở thành món hàng
hóa và thậm chí có cả khu vực chuyên mua bán nô lệ, ở đó, nô lệ được đem
bán như đem bán gia súc. Nguồn nô lệ trong nhà nước này chủ yếu từ các
cuộc chiến tranh. Chính vì vậy, đấu tranh giai cấp thường xuyên xảy ra ở mức
độ ngày càng gay gắt.
Ngược lại, trong nhà nước phương Đông, do nô lệ không phải là lực lượng
sản xuất chủ yếu mà là công xã nông thôn nên mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ
trong nhà nước này không thể hiện sâu sắc như nhà nước phương Tây.
Công xã nông thôn là một hình thái xã hội xuất hiện phổ biến vào giai đoạn
tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và quá độ sang xã hội giai cấp. Công
xã nông thôn được công xã định kỳ chia đều ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước
để tự canh tác và nộp thuế cho nhà nước.
Ngoài ra, nô lệ trong nhà nước phương Đông không thấp kém như trong nhà
nước phương Tây. Nô lệ chủ yếu làm công việc nhà trong gia đình chủ nô. Họ
vẫn có quyền lập gia đình, thậm chí còn được coi là một thành viên trong gia
đình. Do vậy, mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô và nô lệ vì thế không sâu sắc
như phương Tây.
o Tính xã hội
Nhà nước chủ nô nảy sinh để quản lý xã hội, thay thế cho chế độ cộng sản
nguyên thủy không còn khả năng cai quản xã hội được nữa.
Nhà nước chủ nô tiến hành một số hoạt động vì sự tồn tại và phát triển chung
của toàn xã hội như tổ chức quản lý kinh tế ở quy mô lớn, quản lý đất đai,
khai hoang,… làm cho đất nước phát triển, nâng cao đời sống của nhân dân.

Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
26 TGL101_Bai2_v1.0014103225
So với nhà nước phương Tây, nhà nước phương Đông thể hiện tính xã hội rõ
nét hơn. Trong nhà nước phương Đông, do nhu cầu của cả cộng đồng xã hội
mà việc tổ chức dân cư tiến hành công cuộc trị thủy, chống ngoại xâm, quản
lý đất đai và các hoạt động xã hội khác nhằm duy trì đời sống chung của
cộng đồng.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, yếu tố tư hữu dần dần hình
thành, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội trở nên gay gắt và khi đó nhà nước dần
mất đi ý nghĩa ban đầu của nó.
Tóm lại, sự ra đời và phát triển của nhà nước chủ nô là một bước tiến lớn trong lịch
sử nhân loại, tạo ra tiền đề cho sự phát triển kinh tế, văn hóa của các xã hội sau này.
2.1.2. Chức năng của nhà nước chủ nô
Nhà nước chủ nô gồm chức năng đối nội và chức năng đối ngoại chính sau:
a. Chức năng đối nội
Chức năng củng cố và bảo vệ chế độ sở hữu
o Đây là chức năng thể hiện được bản chất của
nhà nước chủ nô. Bởi với giai cấp chủ nô có
quyền sở hữu tuyệt đối về tư liệu sản xuất và
sức sản xuất từ nô lệ.
o Bên cạnh đó, nhà nước chiếm hữu chủ nô còn
quy định những biện pháp khác nhau nhằm
trừng phạt nghiêm khắc đối với những hành
vi xâm phạm tới sở hữu của chủ nô.
Chức năng đàn áp bằng quân sự đối với sự phản kháng của nô lệ và các tầng
lớp lao động khác
Xuất phát từ mẫu thuẫn sâu sắc giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ mà nhà nước
chủ nô đã thực hiện đàn áp dã man bằng quân sự đối với các cuộc nổi dậy, phản
kháng của nô lệ và những người lao động.
Chức năng đàn áp về tư tưởng
Bên cạnh việc đàn áp nô lệ bằng biện pháp quân sự, giai cấp chủ nô còn sử dụng biện
pháp đàn áp về tư tưởng. Nghĩa là giai cấp chủ nô lợi dụng sự kém hiểu biết của giai
cấp nô lệ mà đã sử dụng tôn giáo nhằm đàn áp. Thông qua nhà nước, giai cấp chủ nô
đã xây dựng hệ tư tưởng tôn giáo cho mình nhằm duy trì sự thống trị về mặt tư tưởng
và duy trì tình trạng bất bình đẳng trong xã hội để đàn áp và bóc lột nô lệ.
b. Chức năng đối ngoại
Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược
Sự tồn tại của nhà nước nô lệ gắn liền với chế độ nô lệ. Nhà nước chủ nô hầu như
không hạn chế số lượng nô lệ thuộc sở hữu của mỗi chủ nô. Vì vậy, nhằm tăng
cường số nô lệ của quốc gia mình, chiến tranh chính là một trong những phương tiện
chủ yếu của nhà nước nô lệ sử dụng nhằm thôn tính và cướp bóc mở rộng lãnh thổ
của mình. Nhưng chiến tranh cũng dẫn tới hậu quả là mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ
thêm sâu sắc và quan hệ giữa các nhà nước luôn trong tình trạng căng thẳng.
Nô lệ bị chủ nô
và cai đánh đập tàn tệ

Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
TGL101_Bai2_v1.0014103225 27
Chức năng phòng thủ đất nước
Cùng với chức năng xâm lược thì nhà nước nô lệ cũng chú trọng tới phòng thủ đất
nước nhằm chống lại các cuộc xâm lược từ bên ngoài. Để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ,
nhà nước chủ nô thực hiện chức năng này thông qua tổ chức lực lượng quân đội, xây
dựng các thành lũy, pháo đài,…
2.1.3. Bộ máy nhà nước chủ nô
Khi nhà nước chủ nô mới ra đời, bộ máy nhà nước còn kế thừa, in đậm những dấu ấn
của hệ thống quyền lực thị tộc. Việc tổ chức bộ máy nhà nước còn mang tính tự phát,
những người nằm trong bộ máy nhà nước thường đảm đương tất cả các công việc.
Cùng với sự phát triển của nhà nước chủ nô, bộ máy nhà nước ngày càng được tổ
chức một cách quy củ và mang tính chuyên nghiệp hơn. Nhà nước được chia thành
các đơn vị hành chính lãnh thổ và tổ chức bộ máy theo cấp, hình thành nên hệ thống
các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương.
o Đối với nhà nước ở phương Tây, tổ chức nhà nước khá hoàn thiện, trong bộ máy
nhà nước đã phân thành các cơ quan nhà nước với cách thức tổ chức và hoạt động
dân chủ. Điểm nổi bật trong nhà nước phương Tây chính là phân định rõ ràng
giữa các cơ quan trong việc lập pháp, hành pháp và tư pháp. Điển hình là nhà
nước Aten, nhà nước La Mã và nhà nước Spác.
o Đối với nhà nước ở phương Đông, tổ chức bộ máy đơn giản hơn so với nhà nước
phương Tây. Nhà Vua có toàn quyền thực thi quyền lực nhà nước. Các quan lại
từ trung ương tới địa phương là bề tôi của nhà vua và giúp việc cho nhà vua. Điển
hình cho nhà nước phương Đông là Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ.
Dù là nhà nước phương Đông hay phương Tây thì trong bộ máy của các nhà nước
chủ nô, quân đội, cảnh sát, tòa án là lực lượng chủ chốt.
o Quân đội được quan tâm xây dựng để thực hiện việc chinh phạt và bảo vệ chủ
quyền. Những người chỉ huy quân đội được phong những tước hiệu và có chế độ
ưu đãi. Vai trò của quân đội ngày càng quan trọng khi các cuộc đấu tranh của giai
cấp nô lệ ngày càng phát triển và chiến tranh giữa các nước diễn ra thường xuyên.
o Lực lượng cảnh sát được hình thành nhằm giữ gìn trật tự xã hội nô lệ trong nước.
o Tòa án ở mỗi quốc gia chiếm hữu nô lệ có những điểm đặc trưng. Nhà nước
phương Tây thiết lập hệ thống vừa có quyền xét xử và vừa có quyền quản lý hoặc
hệ thống chuyên trách xét xử bởi các thẩm phán được bầu theo định kỳ. Còn ở
nhà nước phương Đông, quyền xét xử tối cao nằm trong tay nhà vua và quyền
này được ủy quyền lại cho một tổ chức phụ thuộc trực tiếp vào nhà vua.
2.1.4. Hình thức nhà nước chủ nô
a. Hình thức chính thể
Hình thức chính thể chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa tồn tại và phát triển trong
nhà nước chủ nô. Nhưng do điều kiện kinh tế xã hội khác nhau nên việc tổ chức và thực
hiện quyền lực nhà nước ở mỗi nước cũng có sự khác biệt.