Bài học kinh nghiệm
8 năm hoạt động hỗ trợ kỹ thuật tăng cường ứng phó khẩn cấp với cúm gia cầm độc lực cao tại Việt Nam
Bài học kinh nghiệm – FAO ECTAD Việt Nam
BÀI HỌC KINH NGHIỆM
8 năm hoạt động hỗ trợ kỹ thuật tăng cường ứng phó khẩn cấp với cúm gia cầm độc lực cao tại Việt Nam
Đơn vị xuất bản: Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc Và Cục Thú y Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Bài học kinh nghiệm – FAO ECTAD Việt Nam
Ấn phẩm này là sản phẩm chung của Cục Thú y, Cục Chăn nuôi và Trung tâm Khuyến nông quốc gia thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, và Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc. Đây là kết quả của 8 năm hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và Trung tâm khẩn cấp kiểm soát bệnh động vật lây truyền qua biên giới của FAO (ECTAD) tại Việt Nam.
Cộng tác Hiệu đính: L. Gleeson, S. H. Newman, Đỗ Hữu Dũng, A. Tripodi, K. Inui, L. Loth, and Nguyễn Thúy Hằng Thiết kế: K. Min Đóng góp kỹ thuật: Bùi Quang Anh, Hoàng Văn Năm, Phạm Văn Đông, Nguyễn Thu Thủy, Đàm Xuân Thành, Mai Văn Hiệp, Đỗ Hữu Dũng, Trần Thị Thu Phương, Bùi Thị Cẩm Hương, Nguyễn Văn Long, Chu Đức Huy, Nguyễn Tùng, Văn Đăng Kỳ, Phan Quang Minh, Phạm Thành Long, Nguyễn Ngọc Tiến, Phạm Thị Thu Hiển, Lê Hồng Phong, Tô Liên Thu, Phạm Trung Kiên, Nguyễn Thị Thược, Đỗ Thúy Nga, Nguyễn Hoàng Tùng, Phùng Minh Phong, Nguyễn Hoài Nam, Lê Thị Kim Oanh, Nguyễn Thanh Sơn, Hoàng Thanh Vân, Nguyễn Văn Trọng, Trần Trọng Tùng, Hoàng Thị Lan, Phạm Thị Kim Dung, Phạm Văn Duy, Võ Trọng Thành, Nguyễn Thị Quỳnh Hoa, Trịnh Đình Thâu, Nguyễn Hữu Nam, Bùi Thị Tố Nga, Nguyễn Văn Phương, Lại Thị Lan Hương, Nguyễn Phương Nhung, Nguyễn Hương Giang, Lương Thế Phiệt, Trần Kim Long, Bùi Mỹ Bình, Vũ Thị Hồng Hạnh, Ngô Thị Hoàng Lâm, Nguyễn Thị Phương Oanh, Nguyễn Thị Thanh Diệp, Vũ Thị Thu Phương, Đỗ Việt Hà, Nguyễn Thị Kim Dung, Nguyễn Thị Lan Anh, Nguyễn Thúy Hằng, Vũ Minh Hiền, Nguyễn Thị Tuyết Minh, Nguyễn Thị Thanh Thủy, Lê Thanh Hải, Nhữ Văn Thụ, Võ Ngân Giang, Nguyễn Quang Trung, Phan Duy Linh, Thái Thị Minh Lệ, Tạ Ngọc Sính, Vũ Quang Cường, Nguyễn Trúc Hà, Kenjiro Inui, Scott Howard Newman, Aurelie Brioudes, Astrid Tripodi, Jeffrey Gilbert, Santanu Bandyopadhayay, zKen Shimizu, Rosanne Marchesich, Andrew Geoffrey Bisson, Ki Jung Min, Leopold Loth, Laurence Gleeson, Tony Forman, Annechielli Payumo, Aphaluck Bhatiasevi, Davide Fezzardi, Felicia Zaengel, Andrew Speedy, Yuriko Shoji, Jong Ha Bae, Trinh Duy Hung, Vu Van Thuoc, Tran Thi Ngoc Hien, Chu Kim Oanh, Vu Ngoc Diep, Vu Ngoc Tien, Nguyen Song Ha, Subhash Morzaria, Wantanee Kalpravidh, Priya Markanday, Arwa Khalid, Mirela Hasibra, Ariella Glinni, Juan Lubroth
Đề nghị trích dẫn FAO. 2016. Legacy Document: 8 years of immediate technical assistance activities strengthening emergency preparedness for HPAI in Viet Nam. Ha Noi.
Ảnh trang bìa © FAO/C Y Gopinath; © FAO/Ki Jung Min
Các thiết kế đã được thực hiện và các dữ liệu đã được trình bày trong sản phẩm thông tin này không có hàm ý thể hiện bất kỳ ý kiến chủ quan nào của Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc cũng như Cục Thú y liên quan đến tình trạng pháp lý cũng như tình hình phát triển của bất kỳ quốc gia, vùng lãnh thổ, thành phố hoặc khu vực nào của các quốc gia đó, hoặc liên quan đến quy định phạm vi biên giới của các quốc gia. Việc đề cập đến các công ty hoặc các sản phẩm của các nhà sản xuất cụ thể, dù đã được đăng ký bản quyền sáng chế hay chưa, đều không có nghĩa là các sản phẩm hay công ty đó được FAO hay Cục Thú y chứng thực hay tiến cử. Các quan điểm thể hiện trong sản phẩm thông tin này là ý kiến cá nhân của (các) tác giả và không đại diện cho quan điểm hoặc chính sách của FAO hay Cục
FAO khuyến khích việc sử dụng, tái xuất bản và tuyên truyền nội dung của sản phẩm thông tin này. Ngại trừ các trường hợp đã được nêu rõ, tài liệu này có thể được sao chép, tải về và in ra cho mục đích học tập, nghiên cứu và giảng dạy của các cá nhân, hoặc được sử dụng cho các sản phẩm và dịch vụ phi thương mại, với điều kiện trích nguồn là FAO trong tư cách là đơn vị nắm giữ bản quyền và thể hiện rõ việc FAO không chứng thực gì đối với các quan điểm, sản phẩm và dịch vụ của người sử dụng.
Tất cả các yêu cầu dịch thuật và quyền điều chỉnh tài liệu cho phù hợp mục đích sử dụng, cũng như quyền bán lại và sử dụng cho các mục đích thương mại khác cần được gửi qua địa chỉ www.fao.org/contact-us/licence-request hoặc copyright@fao.org.
Các sản phẩm thông tin của FAO hiện có trên trang web của FAO (www.fao.org/publications) hoặc có thể được mua qua địa chỉ: publications-sales@fao.org
ISBN 978-92-5-009214-0 (FAO) © FAO, 2016
Mục lục
1
Giới thiệu
10
1. Điều phối và quản lý
Tóm tắt 12 Giới thiệu 13 Phối hợp và quản lý trong bối cảnh quốc gia 14
Điều phối xuyên biên giới Phối hợp giữa các cơ quan Liên hợp quốc 16 16 Phối hợp với các tổ chức quốc tế và các nhóm kỹ thuật khác 17 Phối hợp giữa các đơn vị của FAO 17 Phối hợp trong tương lai 18 Các điểm nổi bật trong công tác phối hợp và quản lý 18 Các vấn đề và thách thức đặt ra cho công tác phối hợp và quản lý 19
2. Công tác Giám sát
20
Tóm tắt 22 Giới thiệu 24 Tình hình giám sát dịch bệnh giai đoạn 2004-2006 27 Hoạt động giám sát dịch bệnh giai đoạn 2006 - 2010 29 Xây dựng năng lực ứng phó dịch bệnh giai đoạn 2006-2010 31 Các hoạt động giám sát dịch bệnh giai đoạn 2011-2014 32 Hỗ trợ ứng phó dịch bệnh giai đoạn 2011-2014 36 Quản lý thông tin 36
Phân tích dữ liệu và mô hình hóa dịch bệnh Công tác giám sát vi rút giai đoạn 2006-2010 38 39 Công tác giám sát vi rút giai đoạn 2011-2014 40 Xây dựng năng lực – dịch tễ học 43 Định hướng tương lai 44 Các điểm nổi bật trong công tác giám sát dịch bệnh 46 Các vấn đề tồn đọng và thách thức trong công tác giám sát dịch bệnh 47 Kết luận 49
3. Năng lực phòng thí nghiệm và chẩn đoán
50
Tóm tắt 52 Giới thiệu 53 Năng lực phòng thí nghiệm và chẩn đoán giai đoạn 2006-2010 54 Năng lực phòng thí nghiệm và chẩn đoán giai đoạn 2011-2014 58
Các điểm nổi bật trong công tác xây dựng năng lực phòng thí nghiệm và chẩn đoán 59 Các vấn đề và thách thức đối với mạng lưới phòng thí nghiệm 59
Bài học kinh nghiệm – FAO ECTAD Việt Nam
4. Công tác tiêm phòng cúm gia cầm
62
Tóm tắt 64 Giới thiệu 65 Tình hình năm 2006 66 Kết quả của chương trình tiêm phòng giai đoạn 2006-2010 70 Thực tế triển khai Chiến dịch tiêm phòng quốc gia 70 Các vấn đề tồn tại và thách thức trong công tác tiêm phòng 71
5. An ninh sinh học
72
Tóm tắt 74 Giới thiệu 76 Tình hình năm 2006 77 Tình hình giai đoạn 2006-2010 79 Tình hình giai đoạn 2010 - 2014 81 Tương lai và tính bền vững 82 Các câu chuyện thành công 83 Các hạn chế và thách thức còn tồn tại 86
6. Kinh tế-xã hội và kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao tại Việt Nam
88
Tóm tắt 90 Giới thiệu 91 Tình hình năm 2006 92 Diễn biến dịch bệnh giai đoạn 2006-2010 94 Tình hình giai đoạn 2010-2014 97 Các hoạt động trong tương lai 98
100 Các kết quả chính đạt được sau khi áp dụng các phương pháp tiếp cận kinh tế-xã hội trong kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao ở Việt Nam 101 Điểm yếu và thách thức
7. Truyền thông Vận động
100
Tóm tắt 102 Truyền thông Vận động trong giai đoạn 2006-2010 103 Truyền thông Vận động trong giai đoạn 2011-2014 106
Những điểm nổi bật trong công tác truyền thông vận động Những nhược điểm của công tác truyền thông vận động 107 108 Kết luận 108
Danh mục chữ viết tắt
AVET NCTANSH CTY CCN ECTAD
GETS
Bộ NN và PTNT TTKNQG OIE PAHI PVM CQTYV CCTY USCDC UNJP USAID WHO Sở NN và PTNT
Chương trình đào tạo dịch tễ học thú y ứng dụng Nhóm Công tác về an ninh sinh học Cục Thú y Cục Chăn nuôi Trung tâm khẩn cấp kiểm soát bệnh động vật lây truyền qua biên giới Thu thập bằng chứng cho việc chuyển đổi chiến lược tiêm phòng cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở Việt Nam Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trung tâm Khuyến nông quốc gia Tổ chức Thú y thế giới Đối tác phòng chống dịch cúm gia cầm và cúm ở người Theo dõi sau tiêm phòng Cơ quan Thú y vùng Chi cục Thú y Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ Chương trình chung Liên hợp quốc Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kì Tổ chức Y tế thế giới Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Bài học kinh nghiệm – FAO ECTAD Việt Nam
Giới thiệu Cúm gia cầm độc lực cao và ngành nông nghiệp Việt Nam
1
Cúm gia cầm độc lực cao và ngành nông nghiệp Việt Nam
Giới thiệu
Cùng với tài liệu này, đánh giá nhìn lại nỗ lực kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao tại Việt Nam không có tham vọng đưa ra một tài liệu hoàn chỉnh tổng kết tất cả kết quả và tác động của Chương trình kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao mà chỉ mang tính chất là một tài liệu tóm tắt lại những kinh nghiệm và thách thức chính đặt ra cho Việt Nam trong công tác giải quyết vấn đề dịch bệnh phức tạp này, tập trung vào các đóng góp của USAID, đồng thời có sự liên hệ đến các khu vực dự án khi phù hợp. Tài liệu này đánh giá tình hình cúm gia cầm độc lực cao tại Việt Nam vào một số thời điểm trong vòng 8 năm qua qua lăng kính của các hoạt động và tác động ở các lĩnh vực chính như công tác phối hợp, giám sát, công tác chẩn đoán xét nghiệm, tiêm phòng, an toàn sinh học, kinh tế- xã hội và truyền thông vận động.
Lịch sử phòng chống kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao ở Việt Nam khá ngắn ngủi, tuy nhiên 10 năm qua là thời gian chúng ta đã có thêm những hiểu biết sâu sắc cũng như đã trải qua những quanh co, khúc khuỷu trên con đường đến thành công ngày nay. Nỗ lực của FAO trong công tác hỗ trợ phòng chống cúm gia cầm độc lực cao đang đi vào giai đoạn kết thúc, mặc dù đã được áp dụng theo cách tiếp cận rộng hơn của Sáng kiến Một sức khỏe đối với ngành thú y và các bệnh lây truyền từ động vật sang người, đây là lúc để chúng ta đưa ra đánh giá đối với chương trình đã thực hiện để rút ra các bài học và các chú ý quan trọng qua quá trình thực hiện. Một phần bổ sung quan trọng cho đánh giá này là bộ tài liệu của FAO về “Các bài học rút ra sau cúm gia cầm độc lực cao – tổng kết kết quả, tác động, các thực hành tốt nhất và các bài học rút ra từ công tác phòng chống cúm gia cầm độc lực cao tại châu Á giai đoạn 2005-2011”.
Thông tin chung
Bối cảnh quốc gia
gia cầm cho các trung tâm đô thị này và vì vậy, các đàn gia cầm có xu hướng được tập trung chủ yếu ở khu vực đồng bằng lưu vực sông Hồng và sông Cửu Long.
Dân số hiện nay của Việt Nam đã tăng từ 82 triệu dân năm 2004 lên khoảng 92 triệu vào năm 2014, cho thấy một số dấu hiệu của quỹ đạo tăng trưởng hiện nay. Hầu hết dân số hiện tập trung ở khu vực đồng bằng lưu vực sông Hồng và sông Cửu Long. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên bởi đây là khu vực có diện tích đất màu mỡ nhất cho sản xuất nông nghiệp trồng lúa. Tuy nhiên, tác động của đô thị hóa đang ngày càng rõ rệt đặc biệt là ở các trung tâm dân số chính của cả nước là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù khoảng 70% dân số vẫn đang sống tại các khu vực nông thôn, nhưng 77% tăng trưởng dân số trong vòng 10 năm qua lại diễn ra ở dân cư đô thị. Quá trình đô thị hóa này đã tách nhiều người tiêu dùng khỏi nguồn sản xuất và các nguồn thu nhập ngày càng tăng do quá trình tự do hóa nền kinh tế mang lại đã làm tăng nhu cầu tiêu thụ đạm động vật. Các nhu cầu văn hóa cũng như việc thiếu thốn cơ sở hạ tầng dẫn đến thực tế là có những chợ buôn bán gia cầm sống quy mô lớn đang giải quyết nhu cầu Một vấn đề nền tảng quan trọng là sự chuyển đổi lớn diễn ra trong ngành gia cầm Việt Nam trong giai đoạn ngay trước khi xác định phát hiện thấy H5N1 ở gia cầm tại Việt Nam, và kéo theo đó là sự thay đổi trong cơ cấu của hệ thống sản xuất gia cầm. Cả chăn nuôi gia cầm và lợn đều là những lĩnh vực sản xuất nông nghiệp có những thay đổi trong chính sách kinh tế của Chính phủ và tăng trưởng GDP trong những năm trước năm 2003 cùng với những bất cân bằng do hậu quả của tăng trưởng nhanh đã khiến cả gia cầm và lợn trở thành những đối tượng dễ bị tổn thương cao trước các tác nhân gây bệnh truyền nhiễm. Minh họa cho điều này là số gia cầm tại Việt Nam đã tăng từ 133 triệu con năm 1993 lên 254 triệu con vào năm 2003, với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm
2
Nguồn: DLP (2013)
đạt 9,1% trong vòng 3 năm trước khi xảy ra dịch. Một chỉ số nữa của sự tăng trưởng do nhu cầu này là nhập khẩu chiếm khoảng 10% sản xuất trong nước. Đồng thời, không có sự thay đổi nào về năng lực kỹ thuật và vận hành của các dịch vụ thú y nhà nước cho công tác xử lý các thách thức đang nổi lên. Điều quan trọng là khoảng 8 triệu hộ gia đình tham gia sản xuất gia cầm trong đó khoảng 50% số gia cầm được nuôi bởi các hộ sản xuất có quy mô dưới 50 con gia cầm và có đến 95% số hộ sản xuất nuôi số lượng dưới 50 con gia cầm. Các con số này cho thấy những hạn chế đặt ra cho bất kỳ công tác can thiệp nào có sự tham gia của các hộ sản xuất cá thể do thời gian công sức của mỗi hộ phải đầu tư vào sản xuất và các vấn đề liên quan đến cung cấp dịch vụ cho các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ đã đặt ra những thách thức lớn cho công tác kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao. Số lượng gia cầm sụt giảm trong giai đoạn 2003-2006 do hậu quả của cúm gia cầm độc lực cao H5N1 và các biện pháp được tiến hành để kiểm soát dịch bệnh. Năm 2004 là năm mà lĩnh vực chăn nuôi gia cầm bị ảnh hưởng nặng nề nhất, số lượng gia cầm giảm xuống 26% ở khu vực miền Nam và 19% ở miền Bắc so với năm 2003 (Hình 1, Bảng 2-3). Từ năm 2007 trở đi, số lượng gia cầm bắt đầu tăng trở lại và phục hồi hoàn toàn, và đến năm 2009 đã vượt mức trước khi xảy ra dịch bệnh. Các số liệu không bao gồm số gia cầm buôn bán không chính thức đặc
2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Nguồn: FAO stat, DLP (2013)
372.7 316.4 321.9 344.4 358.8 448.2 518.3 621.2 696.0 729.4
2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
1.1 35.5 5.4 37.3 156.2 222.6 N/A N/A 76.5 74.2
3
biệt với Trung Quốc nên thực tế là chúng ta không có số liệu thống kê chính thức. Tuy nhiên, nhu cầu này cũng mở ra triển vọng mới cho các chủng vi rút mới xâm nhập vào trong nội địa.
Ở cấp độ chính sách chăn nuôi và thú y, hiện vẫn đang tồn tại khoảng cách trong việc thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân, chính vì vậy kinh nghiệm hợp tác và đối tác công-tư hiện vẫn còn rất hạn chế, đây là lĩnh vực đòi hỏi ngành gia cầm phải thực hiện tái cơ cấu dài hạn để tăng hiệu quả, giảm các nguy cơ dịch bệnh nguy hiểm và tăng cường an toàn thực phẩm. Sự hạn chế các diễn đàn và nền tảng cho các bên liên quan có cơ hội đối thoại chính là một hạn chế đối với việc xây dựng chính sách hiệu quả.
Trong phạm vi ngành gia cầm, một nhân tố quan trọng nữa là sự gia tăng số lượng vịt với tỷ lệ lớn hơn gà và đến năm 2003, số lượng vịt lên đến khoảng 60 triệu con. Một bằng chứng không chính thức cho thấy đến năm 2006, số lượng vịt đã giảm đáng kể mặc dù không có các số liệu thống kê chính thức. Từ năm 2007, số lượng vịt ước tính tăng khoảng 12,4% hàng năm tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long lên đến 67,5 triệu con năm 2012 và 84,7 triệu con trên cả nước. Sự phục hồi này cho thấy khả năng chống chịu của hệ thống sản xuất cũng như nhu cầu đối với sản phẩm này. Một thực tế quan trọng nữa là dường như tất cả vịt đều được nuôi trong các hệ thống thả đồng và đặc biệt là ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, phần lớn số vịt nuôi là vịt chạy đồng được chăn thả từ nơi này đến nơi khác và từ tỉnh này sang tỉnh khác theo thời vụ thu hoạch lúa. Thực tế là các hình thức chăn nuôi vịt chạy đồng này không đảm bảo an toàn sinh học giữa các đàn gia cầm và tạo điều kiện cho tiếp xúc với các loài thủy cầm hoang dã. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng vịt thả đồng có vai trò quan trọng trong ngành trồng lúa bởi chúng mang lại nhiều lợi ích khác nhau cho hệ sinh thái. Nhìn chung, những thay đổi ở hệ thống này và các hệ thống sản xuất khác cần có để phòng ngừa cúm gia cầm cần phải được quản lý để duy trì các lợi ích mang lại cho người nông dân gắn liền với phương pháp chăn nuôi. Trong trường hợp vịt nuôi thả đồng, các lợi ích bao gồm việc sẵn có nguồn thức ăn rẻ chính là số lúa còn sót lại sau thu hoạch, vịt thả đồng giúp kiểm soát sâu bệnh và cỏ dại và phân vịt trở thành nguồn phân bón cho đất trồng. Hai nhóm vịt thả đồng nhận diện được – các đàn vịt nuôi thương phẩm được nuôi thả di cư trên diện rộng, thậm chí thả đồng từ tỉnh này sang tỉnh khác, và số vịt được nuôi thả đồng tại một khu vực. Sự khác nhau trong các hệ thống quản lý đối với các nhóm này cần phải được cân nhắc tính toán khi thiết kế và thực hiện các chương trình kiểm soát dịch bệnh. Chẳng hạn như, tỷ lệ tiếp xúc với các loại gia cầm khác ở vịt thả đồng tại một khu vực có thể cao hơn trong khi đó nhóm vịt thả đồng đi xa lại có khả năng lây lan vi rút trên diện rộng hơn trong trường hợp chúng bị nhiễm. Tóm lại, với sự gia tăng của dân số đô thị dẫn đến việc gia tăng nhu cầu, các hệ thống chợ đã phải mở rộng và số lượng buôn bán cũng cần phải tăng thêm. Cùng lúc, nhiều cơ sở chăn nuôi thương phẩm đã mọc lên trong khi kiến thức kỹ thuật hầu như không có và thực tế là không chú ý gì đến an toan sinh học. Hậu quả là, các mạng lưới chợ vô cùng phức tạp đã được hình thành và các chợ này đang diễn ra một số lượng giao dịch gia cầm lớn hàng ngày (ước tính khoảng 1 triệu con/ngày) và các quy định quản lý thì hầu như không có gì mới. Hệ thống chợ có đặc điểm là bao gồm số lượng lớn các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ, các chợ gia cầm sống có tính lưu động cao và điều kiện vệ sinh kém khiến gia cầm khỏe mạnh có nguy cơ bị nhiễm bệnh. Thêm vào đó, một thực tế nữa là đội ngũ cán bộ thú y với nguồn lực còn hạn chế lại thiếu cam kết với các hệ thống sản xuất gia cầm và các hộ sản xuất hầu như không tiếp xúc với các dịch vụ thú y. Trong khu vực nhà nước, kinh nghiệm về thú y và sản xuất gia cầm còn rất hạn chế và vì vậy khi dịch bệnh được phát hiện thì vi rút đã lan rộng trong đàn gia cầm và vấn đề đã trở nên rất khó xác định. Việc thiếu kiến thức chuyên môn của một ngành khiến việc đề ra các hoạt động ứng phó hướng tới đối tượng và hiệu quả trở nên rất khó khăn, đó chính là một bài học mà các cơ quan thú y đã rút ra được ở nhiều nơi, kể cả ở các nước phát triển. Ở một chừng mực nào đó, việc thiếu tương tác này thể hiện ở việc không có các hiệp hội được liên kết chặt chẽ giữa các hộ sản xuất để đại diện và thực hiện các mong muốn của người sản xuất. Mặc dù ngày càng có nhiều dịch vụ thú y tư nhân ở Việt Nam và một số cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi và giống đã tăng cường năng lực kỹ thuật nhưng nhóm này lại chưa có sự liên kết chặt chẽ với ngành y tế công cộng và tỷ trọng gia cầm tính trong tổng số các cơ sở chăn nuôi thương phẩm có quy mô lớn hơn vẫn chiếm phần khá nhỏ.
4
Cơ cấu của các dịch vụ thú y
y và chăn nuôi đã được gộp lại ở cấp tỉnh và cán bộ phòng chăn nuôi chuyển về trực thuộc Chi cục Thú y tỉnh. Cục Thú y ở cấp trung ương không trực tiếp quản lý các Chi cục thú y. Mỗi tỉnh được chia thành các huyện, mỗi huyện có văn phòng hành chính riêng trong đó có Trạm Thú y huyện, có trách nhiệm báo cáo lên Chi cục Thú y tỉnh và Ủy ban nhân dân huyện. Ở cấp xã, một số cán bộ thú y ở cấp xã cũng là những người cung cấp dịch vụ tư nhân chỉ được nhận một khoản thù lao nhỏ từ chính quyền cho những nhiệm vụ công. Ở phạm vi các khu vực nông thôn, nhân viên thú y thường tham gia ở một mức độ nào đó vào các hoạt động tư nhân, và có nhiều ý kiến lo ngại là việc này sẽ dẫn đến một số xung đột lợi ích liên quan đến công tác kiểm soát dịch bệnh theo quy định. Cơ quan kỹ thuật thú y đầu ngành ở Việt Nam là Cục Thú y của Bộ NN và PTNT. Ở cấp trung ương, Cục Thú y có một số đơn vị phụ trách chuyên môn kỹ thuật bao gồm Phòng dịch tễ, kiểm dịch, thú y cộng đồng, quản lý thuốc, kế hoạch, và Trung tâm Chẩn đoán thú y trung ương. Với mục đích phối hợp và để phục vụ công tác quản lý của cục, Cục Thú y đã thành lập 7 Cơ quan Thú y vùng để tạo điều kiện hỗ trợ và hướng dẫn kỹ thuật cho công tác thú y cấp tỉnh. Mỗi vùng gồm 8-10 tỉnh và mỗi Cơ quan thú y vùng có một đơn vị phụ trách dịch tễ và phòng thí nghiệm đi kèm. Ở cấp độ hoạt động, trong hệ thống cơ cấu chính thức của cơ quan chính phủ, mỗi tỉnh đều có Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn do tỉnh quản lý với Phòng chăn nuôi và các hoạt động thú y do Chi cục thú y trực thuộc Sở NN và PTNT thực hiện. Gần đây, ở một số tỉnh, các dịch vụ thú
Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc ở Việt Nam
liên quan đến an toàn thực phẩm. Đặc biệt, FAO đã tham gia vào nhiều hoạt động ứng phó khẩn cấp tại Việt Nam liên quan đến các thiên tai như lũ lụt và mưa bão. Dịch cúm gia cầm độc lực cao có thể được coi là một thảm họa đối với ngành nông nghiệp chăn nuôi. Cơ quan đại điện FAO hoạt động liên tục từ khi được thành lập ở Việt Nam năm 1978 và đã thực hiện các chương trình với hợp phần kỹ thuật và/hoặc chính sách ở nhiều lĩnh vực bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, lâm nghiệp, môi trường, và thủy lợi. FAO cũng đóng vai trò chủ chốt trong hỗ trợ Chính phủ Việt Nam về các vấn đề chính sách
FAO và cúm gia cầm độc lực cao ở Việt Nam
Từ đầu khủng hoảng cúm gia cầm độc lực cao H5N1 tại Việt Nam vào cuối năm 2003, FAO đã liên tục phối hợp cùng Chính phủ Việt Nam, các cơ quan quốc tế khác và các nhà tài trợ nỗ lực kiểm soát bệnh lây từ động vật sang người và giảm ảnh hưởng của dịch bệnh lên động vật và sức khỏe người dân. Ở những giai đoạn đầu khi dịch bệnh bắt đầu lây lan, đại diện của FAO và WHO đã chủ động tiến hành họp với các bên liên quan khác nhau để chia sẻ thông tin và điều phối hoạt động trong phạm vi cộng đồng quốc tế. Đồng thời, Chính phủ Việt Nam cũng thành lập Ủy ban chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch cúm gia cầm, trong đó các cơ quan LHQ (FAO, UNDP, UNICEF và WHO) giữ vai trò là quan sát viên của diễn đàn chính sách và phối hợp quan trọng này. Nhìn chung, cho đến cuối năm 2005, hầu hết nguồn tài chính cần thiết cho hoạt động kiểm soát gia cầm tại nguồn được Chính phủ Việt Nam cấp, mặc dù trong phạm vi nguồn lực có giới hạn FAO đã cung cấp hỗ trợ kỹ thuật quan trọng để giúp xây dựng chiến lược, cụ thể là công tác tiêm phòng. Cho đến cuối năm 2005, Hội thảo liên ngành đầu tiên về cúm gia cầm và đại dịch cúm đã được tổ chức tại Bắc Kinh và tại hội thảo đó một khoản viện trợ quốc tế lớn đã được công bố, trong đó có Việt Nam. Các nguồn tài chính quan trọng nhất chuyển đến FAO gồm có viện trợ của Ngân hàng Phát triển Châu Á, ADB (dành cho các hoạt động trong khu vực), Quỹ Tín thác Nhật Bản, JTF (dành cho các hoạt động khu vực và quốc gia), và Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ, USAID (dành cho các hoạt động khu vực và quốc gia). Thêm vào đó còn có một khoản hỗ trợ từ nhiều
5
gia tư vấn kỹ thuật cho Ban quản lý dự án. Một khía cạnh quan trọng của hoạt động ứng phó ở Việt Nam là việc xây dựng “Chương trình hành động quốc gia phòng chống dịch cúm gia cầm và cúm ở người (OPI) giai đoạn 2006-2010. Chương trình bao trùm này đưa ra khung chung cho tất cả các hoạt động tài trợ hỗ trợ cúm gia cầm độc lực cao ở Việt Nam. Về công tác phối hợp giữa FAO và Chính phủ Việt Nam trong phòng chống cúm gia cầm độc lực cao, hầu hết trọng tâm được dành cho hoạt động được USAID hỗ trợ bởi đó cũng là chương trình viện trợ của nhà tài trợ lâu dài và có giá trị lớn nhất (khoảng 21 triệu đô la trong vòng hơn 9 năm). nhà tài trợ toàn cầu do Ngân hàng Thế giới, WB quản lý và một khoản hỗ trợ tập trung cho các hoạt động quốc gia được UNDP quản lý tại Việt Nam. Dự án thứ hai, được biết đến dưới tên gọi Chương trình chung Liên hợp quốc (UNJP), điều chuyển các khoản vốn dành cho các hoạt động của lĩnh vực nông nghiệp về Cục Thú y, Bộ NN và PTNT và FAO. Chương trình chung LHQ cũng cấp một khoản vốn đáng kể cho lĩnh vực y tế. Các khoản vốn chuyển về cho Việt Nam từ Quỹ tín thác Ngân hàng thế giới đã hỗ trợ cho Dự án Kiểm soát cúm gia cầm và cúm ở người tại Việt Nam. Mặc dù FAO không có trách nhiệm quản lý đối với hợp phần nông nghiệp của dự án này nhưng các chuyên gia của FAO đã tham
Các vấn đề kỹ thuật và cúm gia cầm độc lực cao
1955 nơi vi rút cúm gia cầm độc lực cao xâm nhập lĩnh vực chăn nuôi gia cầm thương phẩm và nhanh chóng lây lan cho đến khi các biện pháp kiểm soát được thực hiện. Môi trường sản xuất tại một số nước lại cho thấy có những giao diện nhiều lỗ hổng giữa các loài thủy cầm hoang dã với các loài gia cầm nuôi, và điểm xâm nhập dễ xảy ra nhất chính là việc gia tăng các đàn vịt nuôi thả đồng. Một nhân tố khác có vai trò quan trọng trong việc lây lan vi rút H5N1 chính là việc hội nhập quốc tế của một số hoạt động tại các công ty không có quy định nghiêm ngặt về việc di chuyển của nhân viên, vận chuyển các trang thiết bị, và giống. Vài năm trước khi xảy ra cúm gia cầm độc lực cao H5N1, ngành sản xuất gia cầm đã trải qua sự lây lan toàn cầu của vi rút gây bệnh Gumboro thể độc lực cao và vi rút bệnh cúm gia cầm độc lực thấp H9N2, và trong cả hai trường hợp đó, sự liên kết trong ngành sản xuất gia cầm có thể chính là một nhân tố rủi ro.
Để giúp bạn đọc tiếp cận được thông tin trình bày trong phần sau, chúng tôi tóm tắt một cách ngắn gọn một số khía cạnh chính về lịch sử tự nhiên của các chủng vi rút cúm gia cầm và bối cảnh dịch bệnh gia cầm tại châu Á đã thay đổi nhiều như thế nào từ năm 2003 trở đi. Vi rút cúm gia cầm là một thực thể vi sinh vật lây truyền một cách tự nhiên trong hệ sinh thái thủy cầm toàn cầu và rộng rãi trên các đàn gia cầm khác nhau tại các nơi khác nhau mà không có dấu hiệu độc lực và gây bệnh. Tuy nhiên, qua thời gian, cùng với sự gia tăng số lượng gia cầm nuôi là việc xâm nhập của các chủng vi rút cúm gia cầm độc lực thấp có nguồn gốc từ các loài thủy cầm hoang dã vào sự lũy tiến trái tự nhiên của các vật chủ dễ bị tổn thương và trong quá trình lây lan không ngừng ở gia cầm, các vi rút này đã biến đổi chủng vi rút cúm gia cầm độc lực cao và gây tỷ lệ tử vong cao. Mặc dù người ta đã xác định rằng vi rút này đã lưu hành trên các đàn gia cầm tại các nước phát triển nhưng phải đến năm 1996 mới có báo cáo về việc phát hiện cúm gia cầm độc lực cao tại các nước đang phát triển. Vẫn còn tồn tại câu hỏi tại sao, tuy nhiên các ý kiến thống nhất rằng do cơ cấu chăn nuôi nông hộ nhỏ và chăn nuôi thương mại chiếm tỷ trọng nhỏ ở các nước đang phát triển mà dịch cúm gia cầm thể độc lực cao đã không bùng phát thành dịch lớn hơn nữa nhưng đồng thời do những lý do này cũng không thể thiết lập được hệ thống giám sát hiệu quả tại đây. Có một ngoại lệ đáng chú ý là sự xâm nhập của vi rút H7N3 ở Pakistan năm Nếu cúm gia cầm độc lực cao chưa xâm nhập lĩnh vực chăn nuôi gia cầm tại Đông Nam Á trước khi có dịch H5N1 thì cúm gia cầm độc lực cao sẽ không được nhận biết, báo cáo và chắc chắn là không được thiết lập một cách đầy đủ như vậy. Đó có thể là trường hợp ở Việt Nam, và thực tế là H5N1 đã được phát hiện qua giám sát nghiên cứu từ đầu năm 2001 mà không có báo cáo về bệnh này. Vì vậy, cuộc chiến chống H5N1 là đi ngược lại với những gì mà lĩnh vực thú y trải nghiệm cho đến thời điểm đó. Mặc dù vi rút đã lây lan và tiến hóa ở Trung Quốc
6
ít nhất là từ năm 1996 và đã có thể hiện một số dấu hiệu nhưng việc thiếu thông tin về tình hình địa bàn đã dẫn đến việc đánh giá sai về nguy cơ và thiếu chuẩn bị trên toàn cầu. Một diễn biến quan trọng nữa diễn ra ở cấp toàn cầu là khi vi rút này trở nên bám rễ trên gia cầm hơn nữa – chính là loại vi rút cúm gia cầm độc lực cao đã được phân lập trực tiếp từ chim hoang dã, vì vậy chim hoang dã có khả năng phát tán vi rút độc H5N1 ở khoảng cách xa. Trước thời gian này, trừ một hay hai trường hợp ngoại lệ, các chủng vi rút thu được từ chim hoang dã không thuộc nhóm chủng vi rút cúm gia cầm độc lực cao nhưng lại có khả năng gây bệnh chỉ khi có những biến đổi cần thiết diễn ra khi vi rút quay vòng trên các loại gia cầm mẫn cảm. Hơn nữa, việc vi rút cúm gia cầm độc lực cao gây bệnh trên vịt nuôi là điều không thường gặp, tuy nhiên vào những thời điểm khác nhau khi xảy dịch ở Việt Nam, đã có ghi nhận tỷ lệ chết ở vịt. Thêm vào đó, vi rút cũng có một biểu hiện quan trọng và nghiêm trọng nữa là việc gây bệnh ở người. Tình hình ở Việt Nam đã tổng kết lại được phần nhiều những đặc điểm riêng của chủng vi rút cúm gia cầm mới này cũng như biểu hiện không điển hình của vi rút. Và những kinh nghiệm của cơ quan thú y quốc gia cùng với các cơ quan quốc tế trong công tác giải quyết các vấn đề đặt ra ở Việt Nam ở mức độ nào đó đã phản ảnh được những kinh nghiệm của các quốc gia khác, nơi vi rút đã tồn tại lâu trên các đàn gia cầm. Các bên liên quan còn đang phải đối mặt với rất nhiều những thách thức chưa từng gặp phải trước đây và vì thế tất cả các bên vẫn trong quá trình “vừa học vừa làm”.
Những ngày đầu của cúm gia cầm độc lực cao ở Việt Nam
tăng nguy cơ vi rút lây nhiễm sang các vật chủ mới và di động và vì vậy mà thời gian này thường có tỷ lệ nhiễm bệnh cao nhất. Chương trình tiêm phòng đầu tiên được thực hiên năm 2005 vào những tháng ngay trước Tết với mục tiêu giảm số lượng gia cầm mẫn cảm có thể xâm nhập vào các hệ thống chợ.
Dự án khu vực của USAID được bắt đầu thực hiện từ tháng 10/2005 và đến đầu năm 2006, Văn phòng ECTAD bắt đầu hoạt động tại Hà Nội. Tài liệu này đánh giá các hoạt động đã được thực hiện từ đầu năm 2006 đến giữa năm 2014.
Những trường hợp cúm gia cầm độc lực cao đầu tiên được phát hiện ở khu vực gần Hà Nội, miền Bắc Việt Nam vào tháng 12 năm 2003. Do vi rút có thể đã bắt đầu lây lan trong các đàn gia cầm trước khi được phát hiện nên dịch diễn biến thành dịch lây lan nhanh. Các số liệu thống kê cho thấy dịch đã lan rộng như thế nào và vì thế mức độ khẩn cấp của dịch bệnh lớn như thế nào. Từ tháng 12/2003 đến tháng 5/2004, 24% số xã ở Việt Nam đã bị nhiễm vi rút và 57 trong số 64 tỉnh thành, cùng với khoảng 45 triệu con gia cầm đã bị chết hoặc giết hủy - chiếm khoảng 17% tổng số gia cầm của cả nước. Tính từ thời gian cao điểm của dịch bệnh năm 2004, số lượng ổ dịch bùng phát và số gia cầm chết bệnh hoặc bị giết bỏ đã giảm xuống đáng kể. Một đặc điểm rõ rệt của quy luật dịch bệnh trong những năm đầu mới xảy ra dịch là đỉnh dịch thường được ghi nhận vào thời gian giáp Tết. Trước Tết, số lượng gia cầm tăng cao để chuẩn bị cho nhu cầu trong thời gian nghỉ lễ và kéo theo sự gia tăng trong vận chuyển và buôn bán gia cầm. Kết quả cuối cùng là tình trạng đó khiến
7
Kết luận
Trong suốt thời gian diễn ra dịch bệnh, Chính phủ Việt Nam đã thể hiện sự quyết tâm cao trong việc giải quyết vấn đề ngày càng lớn khi phải đối mặt với H5N1 và công tác kiểm soát. Tính từ cuối năm 2003, quốc gia đã dành rất nhiều nỗ lực và ngân sách cùng với những hỗ trợ lớn chưa từng có của cộng đồng quốc tế, và đã đạt được rất nhiều kết quả. Mặc dù hiện nay tình hình dịch bệnh đã được coi trong tầm kiểm soát và ổn định nhưng thực tế cho thấy việc thanh toán tận gốc vi rút khỏi các đàn gia cầm vẫn là một mục tiêu dài hạn chỉ có thể đạt được sau khi một loạt các nhân tố đóng góp chính được thay đổi và vì vậy cần phải duy trì cảnh giác liên tục và luôn dành tâm sức củng cố và duy trì bền vững các kết quả đã đạt được.
có một nhân tố liên quan đến việc các bên liên quan nhìn nhận về phạm vi vai trò của mình trong một bức tranh lớn hơn và có vẻ như việc còn thiếu các hiệp hội ngành dẫn đến hậu quả là không có một môi trường mà các doanh nghiệp tự đưa ra quy định và trách nhiệm trên cơ sở tầm nhìn của hiệp hội và sức ép từ chính các thành viên. Nhìn chung, với tất cả các bên tham gia cũng như các cá nhân thì vai trò quản lý vẫn đang còn bị đè nặng bởi quá nhiều sự phức tạp. Có lẽ một ví dụ của phương pháp tiếp cận bên liên quan xuyên suốt chính là dòng hàng gia cầm sống bất hợp pháp liên tục đổ vào từ Trung Quốc, là dòng sản phẩm có chất lượng thấp hơn và nguy cơ dịch bệnh cao hơn nhưng cũng là dòng sản phẩm mang lại lợi nhuận biên cao trong hệ thống chợ gia cầm sống. Trong điều kiện ngành thú y còn nhiều hạn chế, thường xuyên không có đủ nguồn lực, thiếu chuẩn bị sẵn sàng cho các tình huống khẩn cấp và ở một mức độ nào đó vẫn còn yếu kém về mặt kỹ thuật thì những kết quả đã đạt được trong 8 năm qua chính là nhờ có nỗ lực và tâm sức dành cho các nhiệm vụ đặt ra.
Như đã khẳng định rằng có ba nhân tố lớn phối hợp để phòng ngừa, loại trừ cúm gia cầm độc lực cao tại các quốc gia và khu vực có dịch. Ba nhân tố đó là gia cầm (đã nêu ở phần trên), chất lượng của ngành chăn nuôi thú y phục vụ ngành gia cầm (đã nêu ở phần trên), và phạm vi và cấp độ cam kết ở tất cả các cấp chính quyền trong công tác thanh toán vi rút. Liên quan đến điểm cuối cùng, các bên liên quan đều có cam kết rất cao trong việc kiểm soát dịch bệnh và điều này được tiếp tục ở các cấp chính quyền trung ương nhưng đến địa phương thì lại bị suy giảm, và đặc biệt là với những người sản xuất và buôn bán gia cầm do họ không nhìn thấy nguy cơ sát sườn và mệt mỏi với hoạt động kiểm soát. Còn
8
9
O A F 10©
11
O A F ©
TÓM TẮT
Nhóm công tác An toan sinh học, 2013
Chính phủ Việt Nam và tổ chức FAO bắt đầu phối hợp xử lý khủng hoảng Cúm gia cầm độc lực cao từ đầu năm 2004 mặc dù cho đến tận cuối năm 2005 Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kì (USAID) mới chính thức hỗ trợ tài chính qua FAO để hỗ trợ cho Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia thành viên của FAO, Văn phòng đại diện FAO đã hoạt động tại đây trong nhiều năm và gây dựng mối quan hệ đối tác chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, bao gồm quan hệ cấp Bộ trưởng và Vụ Hợp tác quốc tế. Cùng với việc thành lập Trung tâm khẩn cấp kiểm soát bệnh động vật lây truyền qua biên giới (ECTAD) tại Hà Nội, Chính phủ Việt Nam và FAO đã không ngừng phối hợp trong các hoạt động phòng chống cúm gia cầm độc lực cao từ đầu năm 2006 cho đến khi kết thúc dự án 604 vào cuối năm 2014. Trong thời gian này, FAO cùng với Cục Thú y và Cục Chăn nuôi thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp rất hiệu quả. Một phần trong chức năng hoạt động của ECTAD tại Việt Nam là FAO có thể hỗ trợ một cách hiệu quả việc thực hiện dự án và các hoạt động khác như việc tham gia của Chính phủ Việt Nam tại các hội nghị quốc tế. Mặc dù đội ngũ cố vấn kỹ thuật chủ chốt đôi khi có thay đổi nhưng Văn phòng ECTAD luôn đảm báo một cố vấn cấp cao về thú y có mặt gần như liên tục, và tương tự như vậy tại bộ phận hành chính. Điều này đảm bảo việc thực hiện hiệu quả các dự án của các nhà tài trợ khác nhau do FAO điều phối. Thiết kế dự án này đã hỗ trợ Chính phủ Việt Nam điều phối các hoạt động của các đối tác để đảm bảo có phương thức tiếp cận hài hòa trong công tác kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao và xây dựng các công cụ giám sát và đánh giá để hỗ trợ quản lý việc thực hiện dự án. Là một cơ quan hỗ trợ kỹ thuật quốc tế trong lĩnh vực nông nghiệp, FAO được yêu cầu hỗ trợ các cơ quan khác của Liên hiệp Quốc (LHQ) trong các vấn đề liên quan đến kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao cũng như cung cấp dịch vụ cố vấn kỹ thuật và phối hợp với các đối tác của USAID, và dự án đã hỗ trợ FAO thực hiện nhiệm vụ này. Dự án này cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tư vấn cho Cục Thú y về chiến lược kiểm soát dịch bệnh và tham gia cùng Ban thư ký của Đối tác phòng chống dịch cúm gia cầm và cúm ở người (PAHI), hỗ trợ liên kết hoạt động này với các chương trình chính sách của Việt Nam. Chương trình chung LHQ (UNJP) đã hỗ trợ đáng kể cho Chính phủ Việt Nam, các hỗ trợ kỹ thuật được cung cấp cho chương trình truyền thông do UNICEF là đơn vị đầu mối, và Nhóm công tác về an toan sinh học do Cục Chăn nuôi và FAO tổ chức. Trong quá trình hỗ trợ công tác phòng chống cúm gia cầm độc lực cao, FAO cũng đã trực tiếp phối hợp với Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và thông qua Tiểu nhóm Các bệnh truyền nhiễm của Nhóm chương trình chung về y tế, thúc đẩy một mối quan hệ công việc chặt chẽ hơn giữa Bộ NN và PTNT và Bộ Y tế. Thông qua các
12
hoạt động hợp tác, FAO và WHO đã tạo điều kiện thực hiện liên kết bốn chiều giữa chuyên gia thú y, y tế, giữa chuyên gia dịch tễcùng với các chuyên gia phòng thí nghiệm, ứng phó ổ dịch chung, chia sẻ thông tin thú y và y tế, thực hiện diễn tập chung trong phòng họp, và thông điệp truyền thông chung. Phương pháp tiếp cận liên ngành trong công tác phòng chống và ứng phó các bệnh lây từ động vật sang người đã đóng góp đáng kể vào việc hình thành Sáng kiến Một sức khỏe tại Việt Nam.
Giới thiệu
soát cúm gia cầm độc lực cao ở cả lĩnh vực nông nghiệp và y tế công cộng đều được hướng dẫn trong cuốn “ Chương trình hành động quốc gia phòng chống dịch cúm gia cầm và cúm ở người giai đoạn 2006-2010 (viết tắt là OPI hoặc “Sách xanh”). FAO tham gia trong nhóm kỹ thuật đã soạn thảo “Sách xanh” và chính điều này đã tạo nên sự gắn kết chặt chẽ với chương trình của Chính phủ Việt Nam. Một cơ quan giúp việc quan trọng nữa là Đối tác Phòng chống dịch cúm gia cầm và cúm ở người (PAHI) do Chính phủ Việt Nam thành lập. Cơ chế phối hợp này đã được các nhà tài trợ và các đối tác phát triển trong đó có FAO ký kết và Ban thư ký PAHI chịu trách nhiệm hỗ trợ.
Khi xảy ra trường hợp khẩn cấp như cúm gia cầm độc lực cao, nhiều tổ chức quốc tế với các sứ mệnh khác nhau sẽ tham gia và hỗ trợ. Tuy nhiên, trường hợp khẩn cấp ở phạm vi hẹp như dịch bệnh ở động vật như cúm gia cầm độc lực cao H5N1, thì có thể xảy ra cạnh tranh trong việc tiếp cận và thực hiện chương trình. Hệ quả rất có thể là quốc gia được hỗ trợ gặp khó khăn trong việc tiếp nhận nguồn hỗ trợ, nguồn nhân lực hạn chế của chính phủ sẽ phải tham gia hoạt động dự án hoặc có thể làm mất cân bằng cơ cấu lương do các khoản phụ cấp từ dự án. Điều quan trọng là khi chính quyền trung ương bị quá tải do các chương trình “hỗ trợ” mang lại thì có nguy cơ chồng chéo hoạt động, gây lãng phí các nguồn lực quý giá. Trong trường hợp của Việt Nam,một số hệ quả nêu trên không xảy ra vì hệ thống chính quyền trung ương của Việt Nam khá vững mạnh và Việt Nam đã dồn nỗ lực đảm bảo có các kế hoạch sẵn sàng cho các chương trình hỗ trợ. Tuy nhiên, do trọng tâm kỹ thuật của nhiều dự án hỗ trợ cho ngành thú y rất hẹp nên cần phải có cơ chế phối hợp để giảm hoạt động chồng chéo và đảm bảo hài hòa.
Do Việt Nam là nước thành viên của FAO nên Văn phòng đại diện của FAO đã được thành lập tại Việt Nam trong nhiều năm với mối quan hệ chính thức với Bộ NN và PTNT, giúp FAO hợp tác chặt chẽ với các cơ quan và cơ chế của chính phủ. Làm việc với Cục Thú y, FAO đã tư vấn kỹ thuật và hỗ trợ cho Ban chỉ đạo quốc gia về Cúm gia cầm (NSCAI) do Bộ NN và PTNT chủ trì. Hơn nữa, FAO cũng đã ký các thỏa thuận với Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á, Tổ chức Thú y thế giới (OIE) và các tổ chức khác của LHQ như Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF). Những thỏa thuận có từ trước này đã hỗ trợ năng lực cho FAO thực hiện và điều phối với các đối tác trong các dự án ở cả cấp quốc gia, khu vực và toàn cầu. Điều quan trọng đứng từ góc độ của Chính phủ Việt Nam là tất cả đóng góp cho chương trình kiểm Sứ mệnh toàn cầu của FAO là kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao nên ECTAD Việt Nam phải tuân thủ hướng dẫn của rất nhiều liên minh và thỏa thuận toàn cầu. Và ECTAD Việt Nam đã sử dụng các hướng dẫn này để định hướng đóng góp và các mối quan hệ trên phương diện kỹ thuật. Các văn bản này bao gồm Khung toàn cầu về kiểm soát diễn biến dịch bệnh xuyên biên giới trên động vật giữa FAO và OIE đã được chính thức hóa năm 2004 (GF- TADS), và một phần trong đó là Hệ thống cảnh báo sớm toàn cầu (GLEWS) đối với các bệnh ở động vật được kết nối với ECTAD Việt Nam và được ECTAD Việt Nam cập nhật thông tin về tình hình dịch bệnh. Giữa năm 2004, FAO và OIE đã cùng soạn thảo bộ quy tắc hướng dẫn công tác giám sát và kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao tại châu Á. Nhóm cán bộ trong nước của FAO đã sử dụng bộ quy tắc này làm cơ sở để hài hòa hóa các hoạt động. Sau đó, Khung kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao cấp khu vực do ASEAN và Văn phòng khu vực châu Á-Thái Bình Dương của FAO đã cùng xây dựng đã đưa ra hướng dẫn chiến lược và là cơ sở cho liên liên kết và phối hợp rộng khắp khu vực. Mặc dù FAO đã tham gia một số hoạt động hình thành chiến lược cho Việt Nam trong giai đoạn đầu xảy ra dịch nhưng nguồn
13
tài chính hạn hẹp đã hạn chế hoạt động này. Tuy nhiên, đầu năm 2006, FAO đã có được nguồn hỗ trợ lớn hơn, cũng thời điểm đó Văn phòng ECTAD được thành lập và bắt đầu một vai trò quan trọng hơn ở Việt Nam.
coi là một trong những điểm mạnh đặc biệt mà FAO đã đóng góp vào các nỗ lực kiểm soát dưới tư cách là một đơn vị trung gian phi chính trị, không thiên kiến và “trung thực”. Vì vậy dự án này đã kết nối rất nhiều mối quan hệ đối tác trong đó có mối quan hệ giữa chính quyền trung ương với các ban ngành và các cơ quan hành chính khác nhau; các nhà tài trợ, các tổ chức và các cơ quan phát triển quốc tế, các tổ chức LHQ khác, các tổ chức phi chính phủ quốc tế (INGOs), các nhóm/tổ chức chuyên gia kỹ thuật trong nước và quốc tế, các ban kỹ thuật của chính quyền nước láng giềng, và trong phạm vi FAO.
Trong phạm vi của dự án, FAO đã điều phối nguồn chuyên gia kỹ thuật quốc tế của mình để tiến hành kiểm tra hoặc ứng phó với các vấn đề nổi lên trong chương trình kiểm soát quốc gia, và phối hợp các cơ quan kỹ thuật quốc gia đưa ra các đề xuất chính sách kỹ thuật để Chính phủ Việt Nam nghiên cứu, xem xét. Như đã đề cập trong phần thông tin cơ sở của tài liệu này, FAO đã luôn là cơ quan phối hợp chính trong nỗ lực kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao ở Việt Nam ngay khi bắt đầu xảy ra dịch. Cuối năm 2013 và đầu năm 2014 khi khắp nơi đều lo lắng về nguy cơ bùng nổ đại dịch, WHO và FAO đã tổ chức nhóm các nhà tài trợ chính để điều phối các hoạt động ứng phó của các tổ chức quốc tế và cập nhật thông tin liên tục cho cộng đồng quốc tế về tình hình dịch bệnh trong nước. Bắt đầu từ đây, trong dự án này, FAO đóng vai trò vừa là cơ quan điều phối chính vừa tham gia tích cực trong các hoạt động điều phối do các tổ chức khác giám sát. Vai trò tăng cường, củng cố, hỗ trợ và duy trì bền vững quan hệ đối tác giữa nhiều đơn vị tham gia và nhiều bên liên quan khác nhau đã được
Phối hợp và quản lý trong bối cảnh quốc gia
sử dụng cho mục đích vận động. FAO cũng hỗ trợ Bộ NN và PTNT xây dựng và ban hành Thông tư số 53/2013/TT-BNNPTNT, ra ngày 12/12/ 2013 về việc báo cáo dịch bệnh ở động vật trên cạn. Cục Thú y coi đây là một đóng góp quan trọng vào công tác điều phối phát triển chính sách.
Dự án phòng chống cúm gia cầm, cúm ở người và dự phòng đại dịch (VAHIP) do Ngân hàng Thế giới hỗ trợ là đóng góp lớn nhất vào các hoạt động của ngành nông nghiệp. Mặc dù FAO không có vai trò quản lý trong dự án VAHIP nhưng FAO đã cử một cố vấn kỹ thuật làm việc toàn thời gian tham gia nhóm kỹ thuật của dự án VAHIP. Sự có mặt và tham gia của cố vấn kỹ thuật này trong các hoạt động kỹ thuật của ECTAD đã giúp đảm bảo sự hài hòa và phối hợp cho các hoạt động do FAO hỗ trợ với các hoạt động của dự án được quản lý và thực hiện ở cấp quốc gia có quy mô lớn này.
Đối tác chính tại Việt Nam của FAO là Cục Thú y và Cục Chăn nuôi. Bên cạnh đó, FAO đã từng là quan sát viên của Ban Chỉ đạo quốc gia về bệnh cúm gia cầm và đã có những trao đổi tương tác quan trọng với Đối tác PAHI là đơn vị điều phối được thành lập để hỗ trợ sự phối hợp toàn chính phủ cần thiết phải có để kiểm soát dịch bệnh. Bằng việc tham gia các hội thảo và hội nghị hàng năm của Đối tác PAHI, FAO đã có cơ hội đóng góp vào các thảo luận chính sách và giám sát việc thực hiện các đóng góp chung của ‘ Sách xanh” vào lĩnh vực nông nghiệp. FAO đã được yêu cầu đánh giá định kỳ đối với chiến lược tiêm phòng và các khía cạnh khác của chiến lược kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao của Chính phủ và thực hiện các hoạt động này với sự hợp tác của Đối tác PAHI, đảm bảo các kết quả được chuyển về cho Ban chỉ đạo quốc gia về cúm gia cầm (BCĐQGVCGC) và được Ban chỉ đạo này xem xét. Trong suốt thời gian chương trình kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao ở Việt Nam, FAO đã thực hiện 4 đánh giá về chiến lược tiêm phòng trong đó có việc ngừng tiêm phòng đại trà dùng vốn ngân sách do Cục Thú y đề xuất. Mỗi lần thực hiện đánh giá FAO đều có báo báo kỹ thuật gửi Cục Thú y xem xét và Chương trình chung LHQ (UNJP) được một số cơ quan chính phủ, trong đó có Cục Thú y, thực hiện với sự giám sát quản lý của Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP). Đội ngũ tư vấn từ
14
O A F ©
Hội thảo Một sức khỏe toàn quốc, 2013
dựng thông điệp. Hội nghị lập kế hoạch hàng năm cho chương trình của USAID là một diễn đàn vô cùng quan trọng cho tất cả các đối tác của dự án và FAO luôn có đại diện ECTAD tham gia là cán bộ kỹ thuật và hành chính.
ECTAD tham gia tích cực vào nhóm cố vấn dự án và giám sát kỹ thuật nguồn vốn cấp để thực hiện ở cấp quốc gia theo yêu cầu quản lý của UNDP. Dự án này cũng có đóng góp lớn trong việc xây dựng chiến lược truyền thông thay đổi hành vi do UNICEF thực hiện dưới sự quản lý của Chương trình chung UNJP, đặc biệt để đảm bảo các thông điệp về dịch bệnh và quản lý vừa mang tính thực tế và đảm bảo yếu tố kĩ thuật. FAO đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phối hợp và hỗ trợ công việc của Nhóm công tác về an toan sinh học (NCTVANSH) do Cục Chăn nuôi quản lý. Nhóm công tác họp thường xuyên và FAO có vai trò là Ban thư ký phụ trách chuẩn bị chương trình họp, chuẩn bị báo cáo, hỗ trợ cán bộ ở cấp quốc gia tham gia và giám sát kỹ thuật cho các hoạt động của Nhóm công tác. Nhóm công tác đã đưa ra thảo luận nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động chăn nuôi và an toan sinh học ở các cơ sở chăn nuôi cá thể và xây dựng các đề xuất chính sách trình lên Cục Chăn nuôi xem xét và vận động chính sách trong phạm vi Bộ NN và PTNT.
Như đã đề cập ở trên, FAO đã có những đóng góp quan trọng vào các chiến lược quốc gia, có thể kể đến như Sách xanh hoặc OPI – đây là tài liệu đã được FAO sử dụng như cẩm nang hướng dẫn để tìm kiếm và thực hiện chương trình hỗ trợ của nhà tài trợ. Khi tổng kết đánh giá OPI năm 2010, với tư cách là một bên liên quan, FAO đã đưa ra nhiều khuyến nghị hợp lý được đưa vào báo cáo đánh giá và sau đó đã gây được ảnh hưởng đến việc xây dựng phương pháp tiếp cận chiến lược mới có tên gọi Chương trình phối hợp hành động quốc gia phòng chống cúm gia cầm, dự phòng đại dịch và các bệnh truyền nhiễm mới nổi (AIPED). Chiến lược này kêu gọi cần có một phương pháp tiếp cận toàn diện hơn đối với các vấn đề dịch bệnh và mô tả mô hình sáng kiến Một sức khỏe như một trụ cột trung tâm của kế hoạch. Bằng cách này, dự án hỗ trợ vai trò điều phối của Văn phòng ECTAD là một đóng góp quan trọng vào sự tiến bộ không ngừng trong các hoạt động ứng phó của Chính phủ Việt Nam đối với cúm gia cầm độc lực cao H5N1 và các dịch bệnh mới nổi khác.
Tại Việt Nam, USAID đã hỗ trợ tài chính cho nhiều tổ chức phi chính phủ quốc tế (Abt Associates và Viện Phát triển giáo dục Hoa Kỳ-AED) để thực hiện các hoạt động ở cấp cơ sở. USAID điều phối các chương trình tài trợ thông qua một mạng lưới đối tác, và thực hiện giám sát chặt chẽ để cung cấp hướng dẫn và điều phối các đóng góp kỹ thuật trong các lĩnh vực như an toan sinh học, giám sát và xây
15
Điều phối xuyên biên giới
để tìm hiểu về sinh thái học của vi rút H5N1 ở khu vực Đồng bằng sông Mê Kông. Các nỗ lực xuyên biên giới này cho thấy phương pháp tiếp cận dựa trên vùng can thiệp dịch tễ học căn cứ vào sự phân bố của nhánh vi rút và các đặc điểm sinh thái nông nghiệp vượt khỏi các ranh giới quốc tế. Mới gần đây, dự án đã hỗ trợ hợp tác xuyên biên giới ở quy mô rộng hơn bao gồm cả ngành y tế, cơ quan kiểm dịch, các nhà khoa học xã hội, và những người chăn nuôi và buôn bán tại địa phương của cả hai phía. FAO đóng vai trò chủ chốt trong việc hỗ trợ đối thoại giữa Cục Thú y Trung Quốc với Cục Thú y Việt Nam. Các cuộc họp được dự án tổ chức và hỗ trợ, dựa trên đóng góp và phối hợp của các nhóm cán bộ ECTAD Trung Quốc và Việt Nam. Các cuộc họp giúp mở rộng khái niệm thị trường hoặc chuỗi giá trị truy ngược trở lại từ nguồn gia cầm ở Trung Quốc và thị trường đích ở Việt Nam. Dự án cũng đã hỗ trợ các cuộc họp và tiếp cận đối thoại giữa Cục Thú y và Chăn nuôi Campuchia với Cục Thú y Việt Nam nhằm xây dựng một phương pháp tiếp cận hài hòa
Phối hợp giữa các cơ quan Liên hợp quốc
i
n M g n u J i
K / O A F ©
hơn vào truyền thông để thay đổi hành vi, dự án đã đặc biệt tập trung vào tư vấn và hỗ trợ kỹ thuật cho UNICEF - do cơ quan này thiếu năng lực kỹ thuật liên quan. Dự án đã hỗ trợ mạng lưới truyền thông Một sức khỏe của Đối tác phòng chống dịch cúm gia cầm và cúm ở người (PAHI) và tham gia các cuộc họp và thảo luận do UNDP tổ chức để điều phối việc thực hiện Chương trình chung UNJP và hướng dẫn tiểu nhóm về các bệnh truyền nhiễm trong phạm vi Nhóm chương trình chung về y tế. Phối hợp với WHO là hoạt động rõ nét ngay từ khi bắt đầu xuất hiện dịch cúm gia cầm độc lực cao ở Việt Nam và sự phối hợp đó vẫn tiếp tục suốt thời gian dự án. Hai cơ quan của LHQ đã họp thường xuyên để trao đổi thông tin về tình hình dịch bệnh tại địa bàn và phối hợp các hoạt động như tập huấn về dịch tễ học cho cán bộ y tế và cán bộ thú y. Các cuộc họp bàn về kỹ thuật cũng được tổ chức giữa các chuyên gia phòng thí nghiệm của cả hai tổ chức để hài hòa các kỹ thuật chẩn đoán được sử dụng để xác định bệnh. Khi các hoạt động tập trung nhiều
16
Phối hợp với các tổ chức quốc tế và các nhóm kỹ thuật khác
Pháp trong chương trình giám sát cúm gia cầm độc lực cao. Cùng với đó là sự hợp tác với Viện nghiên cứu Istituto Zooprofilattico Sperimentale (Padova) trong dự án tiêm phòng cúm gia cầm độc lực cao cho vịt. Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ cũng đã nhiều lần hỗ trợ phát triển năng lực phòng thí nghiệm và FAO cũng đã hợp tác cùng trong lĩnh vực này. FAO cũng đã có các hoạt động hợp tác và phối hợp với Tổ chức Bảo tồn động vật hoang dã (CWS), Đại học Thú y Hoàng gia Luân Đôn, Tổ chức Công viên động vật ở Thái Lan và Viện Nghiên cứu phát triển của Trường Đại học Carlifornia, Berkeley. Các tổ chức quốc tế khác cũng tham gia kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao tại Việt Nam gồm có Tổ chức Thú y thế giới (OIE) và Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ. Cả hai cơ quan này đều tham gia vào hoạt động xây dựng Luật thú y mới, và FAO cũng hợp tác trong quy trình này. Ngoài FAO và OIE, dự án của Quỹ tín thác Nhật Bản cũng tham gia tổ chức các khóa tập huấn chung tại chỗ về dịch tễ học và hỗ trợ phòng thí nghiệm. FAO hỗ trợ một dự án của Chính phủ Ai-len đầu tư lắp đặt các dây chuyền lạnh. Ở lĩnh vực nghiên cứu, FAO đã tham gia dự án nghiên cứu sự lây lan của vi rút ở vịt tại khu vực Đồng bằng sông Mê Kông do tổ chức viện trợ New Zealand tài trợ, và tham gia cùng với tổ chức CIRAD
hình kỹ thuật và vận hành này đã giúp công tác ứng phó của FAO được điều phối hợp lý từ trụ sở chính ra địa bàn. Các văn phòng ECTAD ở các nước châu Á tham gia thường xuyên các cuộc họp kỹ thuật của ECTAD khu vực và đôi khi cũng tham gia các cuộc họp toàn cầu và đã đưa ra các phương pháp tiếp cận hài hòa với mỗi quốc gia. FAO có sự hỗ trợ từ các đơn vị kỹ thuật của của Trụ sở chính gồm có thú y, chăn nuôi, an toàn thực phẩm, và trung tâm quản lý khủng hoảng.
Phối hợp giữa các đơn vị của FAO Với tư cách là một trong những cơ quan kỹ thuật quốc tế đã tham gia vào nỗ lực kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao, FAO đã đề xuất thực hiện một cơ chế xử lý khủng hoảng nội bộ. Cơ chế này là đối tác kỹ thuật và vận hành duy nhất có tên gọi Trung tâm Khẩn cấp kiểm soát bệnh động vật lây truyền qua biên giới (ECTAD). Cùng với việc thành lập Văn phòng ECTAD tại Việt Nam, một văn phòng khu vực cũng được thành lập tại Văn phòng khu vực châu Á -Thái bình dương đặt tại Bangkok có nhiệm vụ quản lý các hoạt động địa bàn ở cấp khu vực. Mô
17
Cuộc họp khu vực hàng năm của ECTAD tổ chức tại Siem Reap, 2014
O A F ©
Phối hợp trong tương lai
Khi các hoạt động hỗ trợ của FAO không quá tập trung vào cúm gia cầm độc lực cao mà đã mở rộng sang các nguy cơ y tế mới nổi do sự tương tác giữa hệ sinh thái-con người-động vật thì công tác phối hợp sẽ cần thiết ở lĩnh vực dự án rộng hơn với nhiều bên liên quan hơn. Chẳng hạn như, bệnh dại luôn cần phải có sự phối hợp với ngành y tế nay đã mở rộng phạm vi tham gia của các tổ chức phi chính phủ, ASEAN và Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cơ chế phối hợp Một sức khỏe cũng đã mở rộng bao gồm cả sự tham gia không chỉ của Bộ Y tế và Bộ NN và PTNT mà còn cần đến cả sự tham gia của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo, và các cơ quan khác để có thể thực hiện được ở trong nước. Nguy cơ H7N9 ở Việt Nam đã tái khởi động hợp tác giữa Tổ chức Y tế thế giới và FAO, và sự hợp tác này sẽ còn tiếp tục vì nhiều khả năng là các tác nhân gây bệnh sẽ xâm nhập vào Việt Nam và báo trước sự phức tạp trong công tác quản lý bệnh cúm gia cầm lây sang người.
Các điểm nổi bật trong công tác phối hợp và quản lý
O A F ©
cấp thôn. Đây là một ví dụ rõ nét về vai trò FAO có thể đảm nhận trong phạm vi hỗ trợ kỹ thuật mà không cần phải chịu trách nhiệm trực tiếp thực hiện dự án.
Các hoạt động dự án được Cục Thú y, Cục Chăn nuôi thực hiện và kết hợp với PAHI để tiến hành đánh giá toàn diện về chiến lược tiêm phòng và kiểm soát dịch bệnh đã đóng góp quan trọng vào công tác phối hợp nỗ lực kiểm soát dịch bệnh đứng từ góc độ của Chính phủ Việt Nam.
Dự án đã có đóng góp rất quan trọng vào việc điều chỉnh và xây dựng lại các thông điệp nâng cao nhận thức của người dân cho dự án truyền thông để thay đổi hành vi do UNICEF thực hiện.
Các mối quan hệ công việc xuyên biên giới với Trung Quốc và Campuchia đã được cải thiện rõ rệt trong thời gian diễn ra chương trình này. Thành tựu lớn nhất là việc hai bên có thể gặp gỡ và trao đổi tình hình dịch bệnh ở mỗi nước và trao đổi ý tưởng về việc làm thế nào để hài hòa công tác giám sát và tiến tới có một môi trường an toàn cho động vật và các sản phẩm động vật. Xây dựng được niềm tin sẽ giúp cả hai nước thực hiện các phương thức tiếp cận vùng dịch tễ tích hợp. Mặc dù giữ một vai trò khá khiêm tốn nhưng dự án cũng đã đóng góp quan trọng vào việc hỗ trợ USAID trong công tác hài hòa hóa chương trình kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao ở Việt Nam, đặc biệt là ở
18
Các vấn đề và thách thức đặt ra cho công tác phối hợp và quản lý
cúm gia cầm độc lực cao nhưng FAO vẫn được yêu cầu dành thời gian và nhân lực để đảm bảo các thông điệp chính xác và có cơ sở khoa học do các tổ chức chịu trách nhiệm truyền thông nguy cơ lại không có chuyên gia kỹ thuật.
Hàng loạt hoạt động phòng ngừa và kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao đã được thực hiện trong thời gian diễn ra dự án, đòi hỏi phối hợp với nhiều cơ quan đối tác và các lĩnh vực kỹ thuật không chỉ giới hạn ở Cục Thú y (CTY), Cục chăn nuôi (CCN), Trung tâm Khuyến nông Quốc gia (TTKNQG), các cơ quan kiểm dịch, thanh tra, truy xuất nguồn gốc, chuỗi giá trị…. Vì nhiều lý do, có những khoảng thời gian hoạt động này gặp khá nhiều khó khăn, một phần là do sự thay đổi nhiệm vụ, vai trò và trách nhiệm của chính các cục, việc phân cấp quản lý và tình hình diễn biến dịch bệnh.
Những tiến độ của các giải pháp xuyên biên giới là một quá trình chậm mà chắc vì lý do cần phải tiến hành nhiều cuộc họp và tạo dựng niềm tin với các đối tác. Việc áp dụng các phương pháp tiếp cận tương tự vào công tác phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh ở cả hai bên đường biên có thể cũng rất khó khăn do không đồng đều về năng lực kỹ thuật, phân bổ ngân sách và chính sách quốc gia. Mặc dù các nhà tài trợ đã chỉ định các tổ chức khác chịu trách nhiệm truyền thông rủi ro liên quan đến
19
i
n M g n u J i
K / O A F ©
20
21
O A F ©
TÓM TẮT
tác giám sát và Cục đã yêu cầu mạng lưới giám sát cần phải chú ý nhiều hơn.
Dự án có vai trò hỗ trợ Chính phủ trong nỗ lực giám sát và tư vấn về các phương pháp có thể thực hiện để thu thập thông tin về các ổ dịch một cách đáng tin cậy hơn, hiệu quả hơn và tiết kiệm về mặt chi phí. Để thiết kế chương trình, các hoạt động được thực hiện để cải thiện công tác điều tra, ứng phó và báo cáo ổ dịch đều thuộc phạm trù giám sát. Để làm được điều này, FAO và Cục Thú y đã thử nghiệm nhiều phương pháp giám sát dịch bệnh và các phương pháp này đều nhận được hỗ trợ đầu tư để tổ chức tập huấn, trang bị phần cứng và phần mềm để quản lý thông tin và được cung cấp các trang thiết bị để tạo điều kiện kiếm soát dịch bệnh. Mặc dù tất cả các hoạt động này đều được đánh giá là đảm bảo về mặt kỹ thuật, FAO và Cục Thú y vẫn chưa kiểm soát được các vấn đề về giảm thiểu thiệt hại khiến các mô hình thực hiện chưa thực sự hiệu quả và vì vậy các nỗ lực đầu vào chưa thực sự cải thiện được kết quả đầu ra của hệ thống giám sát.
Trong bối cảnh của dự án này, các hoạt động giám sát bao gồm hỗ trợ tăng cường phát hiện ổ dịch, xác nhận ổ dịch, ứng phó ổ dịch, báo cáo về ổ dịch, quản lý thông tin, và theo dõi virút. Ở giai đoạn đầu của dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1, mục tiêu của công tác giám sát đã được thông báo rất rõ ràng đến tất cả các bên liên quan – cần nhanh chóng phát hiện và kiểm soát ổ dịch –vì đã có bằng chứng thuyết phục về nguy cơ lây bệnh và tử vong ở người. Để đạt được mục đích này, cần khuyến cáo người dân thông báo các trường hợp nhiễm bệnh ngay lập tức vì lợi ích chung. Trong trường hợp dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1, lo lắng của người dân về nguy cơ với chính cá nhân họ hoặc gia đình họ có thể là một động lực nữa khuyến khích họ thông báo về các trường hợp nghi ngờ nhiễm bệnh. Cũng có khi thông báo dịch bệnh là do bên thứ ba đưa lại do họ e ngại có thể có vi rút ngay trong chính đàn vật nuôi của họ. Tuy nhiên sau một thời gian, nỗi sợ hãi của người dân đã giảm xuống, và mặc dù lo ngại về một đại dịch H5N1 có thể xảy ra vẫn còn nhưng người dân đã không còn lo lắng nhiều về điều đó nữa. Sau khi tỷ lệ nhiễm bệnh đã giảm xuống đáng kể nhờ các chiến dịch tiêm phòng thì người dân bắt đầu áp dụng các cơ chế ứng phó khác để xử lý các ổ dịch như bệnh thông thường. Thêm vào đó, việc báo cáo dịch bệnh lại khiến chính quyền địa phương vướng phải một số trở ngại, chẳng hạn như thông báo hạn chế các hoạt động trong chợ hoặc sự phê bình của cấp trên, và điều đó khiến chính quyền địa phương không còn hăng hái thông báo tình hình nữa. Việc này đã khiến Cục Thú y lo ngại về hiệu quả của công Thêm vào đó, được xem là cấu phần của chương trình giám sát là một hoạt động có quy mô rộng để theo dõi biến đổi gene của vi rút H5N1 qua các mẫu lấy về từ ổ dịch và từ chợ gia cầm sống. Hoạt động này đã và vẫn tiếp tục đóng góp quan trọng giúp chúng ta hiểu rõ về vai trò của các chủng vi rút khác nhau gây ra dịch bệnh, về thời gian và địa điểm xâm nhập của vi rút , và cung cấp thông tin để làm cơ sở lựa chọn vắc xin phù hợp. Trong phân tích cuối
22
này đã đạt được các kết quả đáng khích lệ nâng cao chất lượng dịch vụ thú y và các nỗ lực kiểm soát các loại bệnh truyền nhiễm nói chung.
cùng, dịch được kết luận là dịch địa phương và vì vậy mục đích của công tác giám sát khác đi một chút vì trọng tâm lúc này là để duy trì theo dõi tình hình dịch bệnh và thận trọng theo dõi vi rút để có thể cảnh báo sớm khi có sự thay đổi quan trọng về độc tính hoặc tính trạng gien. Thực tế cho thấy việc lấy mẫu liên tục theo thời gian từ các chợ gia cầm sống để phát hiện vi rút cúm gia cầm có giá trị nhất định với chương trình chung về giám sát vi rút cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở Việt Nam, tuy nhiên có thể giảm bớt quy mô.
Số người sống sót
Tử vong ở người
Trong tương lai, hiệu quả của công tác giám sát dịch bệnh phụ thuộc rất nhiều vào giá trị của sản phẩm mà người sản xuất trông đợi ở đàn gia cầm và chất lượng của ngành thú y cũng như mối quan hệ được tin tưởng giữa người chăn nuôi và cơ quan thú y. Vì vậy, Việt Nam cần phải nâng cao các tiêu chuẩn chăn nuôi và thú y hơn nữa để công tác giám sát đáng tin cậy trở thành một tài sản rất quý giá của ngành thú y. Thêm vào đó, khi quốc gia đang trong giai đoạn thực hiện chuyển đổi kinh tế thì các cán bộ quản lý ở cả cấp quốc gia và địa phương sẽ đều phải coi trọng hơn nữa tầm quan trọng của chăn nuôi gia cầm đối với sinh kế của người dân ở khu vực nông thôn cũng như quan tâm hơn nữa đến các môi trường chính sách và kỹ thuật cần thiết để phòng chống các biến cố tương tự khi chúng xảy ra. Với ngành chăn nuôi ở Việt Nam, do có nhiều bệnh thường gặp ở vật nuôi với các bệnh truyền nhiễm khác ở gia cầm và thêm vào đó là các hệ thống chợ gia cầm sống và khu vực giáp ranh còn nhiều kẽ hở với Trung Quốc đã tạo nên một môi trường rất khó kiểm soát dịch bệnh. Để giải quyết được các thách thức này, dự án đã hỗ trợ cho một chương trình đầy tham vọng là tập huấn về dịch tễ học cơ bản cho các cán bộ thú y hoạt động tại thực địa. Chương trình
23
Giới thiệu
chuyền trao đổi thông tin cũng ít hơn nên hệ thống này không còn hiệu quả như trước nữa. Khi thấy rõ là không thể thanh toán dịch bệnh kể cả ngắn hạn và trung hạn thì mục tiêu của chương trình kiểm soát đổi sang thành duy trì tình hình ổn định đảm bảo số ổ dịch thấp và phòng ngừa nhiễm bệnh ở người. Hiện nay, khi hệ thống giám sát phát hiện ổ dịch, các biện pháp kiểm soát tại chỗ có thể vẫn bao gồm việc giết bỏ gia cầm, tuy nhiên nhìn chung thì quy mô đã được thu hẹp chỉ trong phạm vi các khu vực nhiễm bệnh.
Giám sát dịch bệnh đã và luôn là một hợp phần chính của hoạt động kiểm soát dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 tại Việt Nam. Các lĩnh vực quan trọng của công tác giám sát có sự trợ giúp của dự án bao gồm: phát hiện ổ dịch, xác nhận ổ dịch, ứng phó ổ dịch, quản lý thông tin, và theo dõi và xác định đặc tính vi rút. Chính phủ Việt Nam đặt ra mục tiêu cho công tác giám sát là phát hiện và kiềm chế dịch bệnh nhằm giảm tác động đến chăn nuôi gia cầm, thu thập thông tin diễn biến của bệnh ở các loài gia cầm để đảm bảo thông tin tốt hơn cho các chiến thuật kiểm soát và để cung cấp thông tin kịp thời cho ngành y tế công cộng về việc nguy cơ gia tăng nguy cơ phơi nhiễm vi rút ở người. Tình trạng dịch bệnh nghiêm trọng nổi lên ở người được minh họa trong Hình 2.1, cũng chỉ ra tỷ lệ giảm các ca nhiễm ở người đi kèm với nỗ lực tiêm phòng đàn gia cầm từ cuối năm 2005. Đặc điểm cơ bản trong một hệ thống giám sát là việc phát hiện yếu tố bất lợi sẽ kích hoạt công tác ứng phó đã được lập kế hoạch sẵn và vì lý do như vậy, phần nội dung này của tài liệu sẽ nói về việc thực hiện hợp tác tăng cường ứng phó dịch bệnh. Nói rộng ra, giám sát có thể là cả chủ động và bị động; giám sát bị động là hệ thống thú y chỉ phản ứng khi có thông tin về dịch bệnh được gửi về qua các kênh thông tin; giám sát chủ động là khi cán bộ thú y chủ động tìm kiếm thông tin về sự hiện diện của dịch bệnh hoặc vi rút. Thuật ngữ “phù hợp mục đích” thường được sử dụng khi nói về mục tiêu của hoạt động giám sát và tính hiệu quả chi phí, và điều này có thể áp dụng trong bối cảnh của Việt Nam.
Việc giám sát chủ động để phát hiện bệnh rất tốn kém và hiệu quả chi phí phụ thuộc nhiều vào mức độ lưu hành bệnh và phương pháp phát hiện. Ở Việt Nam, việc huy động số lượng lớn cán bộ thú y tham gia tìm kiếm thông tin dịch bệnh để kiểm soát gặp phải rất nhiều khó khăn cả về mặt hậu cần và tài chính, đặc biệt là với một hệ thống chợ gia cầm được tổ chức theo cách khiến việc theo dõi vận chuyển của gia cầm vốn đã và đang là việc vô cùng khó khăn. Khi dịch bệnh được xác định là bệnh địa phương thì chương trình giám sát chủ động ở quy mô lớn không còn hiệu quả về mặt chi phí nữa. Tuy nhiên trong một số trường hợp, chương trình giám sát chủ động có thể mang tính mục tiêu rõ ràng và chỉ nhằm một mục đích cụ thể là phát hiện nhiễm bệnh trong một nhóm gia cầm nguy cơ cao cụ thể nào đó, ví dụ như gà thải loại nhập khẩu hoặc như trường hợp hệ thống giám sát đã được sử dụng rộng rãi từ cuối năm 2011 đến nay để phát hiện các loại vi rút ở vịt tại các chợ với mục tiêu theo dõi sự tiến hóa của vi rút . Trong trường hợp này việc giám sát chủ động được coi là “phù hợp mục đích”.
Mật độ phân bố của gà và vịt ở Đông Nam Á và mật độ phân bổ về mặt thời gian và không gian của ổ dịch H5N1 ở gia cầm và các trường hợp nhiễm bệnh ở người được thể hiện ở Hình 2.2 đến 2.5. Các số liệu cho thấy các ổ dịch liên quan đến mật độ gia cầm, tương tự như vậy đối với các ca nhiễm bệnh ở người, với tỷ lệ nhiễm cao nhất được ghi nhận ở các khu vực đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long.
Hệ thống cảnh báo bị động phụ thuộc vào sự phối hợp hợp tác giữa các bên liên quan trong nỗ lực kiểm soát dịch bệnh và thông báo về các trường hợp giống cúm gia cầm độc lực cao cho ngành thú y địa phương. Phần lớn thông tin bệnh cúm gia cầm độc lực cao ở Việt Nam là do hệ thống giám sát bị động đưa về. Từ lúc nhận được thông báo, các biện pháp ứng phó tại địa phương bao gồm việc chuyển tiếp thông tin theo hệ thống dây chuyền thông báo dịch bệnh là những bước không thể thiếu tiếp theo. Ngay từ đầu chương trình kiểm soát, mục tiêu đặt ra thanh toán dịch bệnh và có kỳ vọng là phát hiện sớm tất cả ổ dịch thông qua hệ thống giám sát bị động và nhổ tận gốc các ổ dịch này. Tuy nhiên do người dân ít báo tin hơn và thông tin được chuyển theo dây Điều tra ổ dịch bao gồm việc gửi mẫu về các phòng thí nghiệm chẩn đoán để xác nhận sự tồn tại của vi rút. Kết quả sàng lọc sơ bộ các mẫu thu về từ các Cơ
24
Chú giải Mật độ gà Số gia cầm/ 1 km2
Ranh giới các tỉnh của Việt Nam màu đen
Chú giải Mật độ vịt Số gia cầm/ 1km2
25
ra, và các chính quyền địa phương ít nhiều có ảnh hưởng đến mảng kỹ thuật của chương trình giám sát. Những hạn chế về mặt cơ cấu của hệ thống giám sát sẽ còn được đề cập ở các đề mục cụ thể bên dưới.
quan thú y vùng có thể xác nhận sự tồn tại của vi rút cúm A H5N1. Sau đó, các mẫu có kết quả dương Tính được gửi về phòng thí nghiệm chủ đạo quốc gia (Trung tâm Chẩn đoán thú y trung ương) để phân tích thêm, trong đó có phân tích trình tự gien để xác định nhánh nhóm vi rút . Những thay đổi trong trình tự gien sẽ cảnh báo phòng thí nghiệm chủ đạo tiến hành kiểm tra mức độ bảo hộ của vắc xin đối với chủng vi rút phân lập được từ thực địa hoặc tiến hành thay đổi trình tự của cặp mồi sử dụng để chẩn đoán phát hiện bệnh tại phòng thí nghiệm.
Một yếu tố quan trọng khác liên quan đến hiệu quả của hệ thống giám sát là năng lực dịch tễ học của các cơ quan thú y. Ngay từ đầu dịch, thực tế đã cho thấy sự thiếu hụt lớn cần phải giải quyết là tăng cường chất lượng kỹ thuật của công tác điều tra và báo cáo ổ dịch cũng như quản lý thông tin. Cả Cục Thú y và dự án đều coi việc giải quyết sự thiếu hụt này là nhiệm vụ ưu tiên.
Cơ cấu và việc quản lý các dịch vụ thú y đóng góp quan trọng vào hiệu quả của hệ thống giám sát. Tình hình dịch bệnh cúm gia cầm ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi kể từ năm 2003 khi ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 đầu tiên được phát hiện. Cục Thú y trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có chức năng tư vấn chính sách, hướng dẫn kỹ thuật, thu thập thông tin và phân tích dịch bệnh, và cũng có các chức năng kiểm dịch ở cấp quốc gia. Cục Thú y có mạng lưới gồm 7 Cơ quan thú y vùng, mỗi Cơ quan thú y vùng đều có phòng thí nghiệm chẩn đoán thú y và phòng dịch tễ đóng vai trò quan trọng trong hệ thống giám sát. Hoạt động kiểm soát dịch bệnh ở tuyến đầu do các nhóm cán bộ kỹ thuật phối hợp với đội ngũ cán bộ địa phương thực hiện. Một vấn đề quan trọng trong công tác quản lý là Cục Thú y không có thẩm quyền quản lý trực tiếp đối với các Chi cục thú y tỉnh hoặc các Trạm thú y huyện mà qua Ủy ban nhân dân tỉnh và huyện và điều này gây ảnh hưởng đến tiếp nhận thông tin ở cả hai phía cũng như việc thiếu đồng bộ trong thực hiện chiến lược . Các cán bộ thú y của chi cục thú y làm việc và báo cáo lên cho chính quyền tỉnh. Thực tế này cũng tương tự tại cấp huyện - ở đó Phòng Nông nghiệp huyện chịu trách nhiệm giám sát Trạm thú y. Ở cấp xã, có thể có hoặc không có cán bộ thú y và công việc này có thể do một cán bộ kỹ thuật nông nghiệp chung đảm nhận. Ở Chi cục thú y, có các bác sỹ thú y được đào tạo chuyên nghiệp đảm nhận vai trò của cán bộ kỹ thuật, tuy nhiên càng xuống các cấp thấp hơn trong cơ cấu này thì số bác sỹ thú y có trình độ càng ít đi. Tại cấp huyện và xã, nhiều cán bộ thú y là cán bộ kỹ thuật với trình độ kiến thức khoa học hạn chế, đặc biệt là trong lĩnh vực chăn nuôi và thú y. Trình độ bằng cấp và cơ cấu quản lý như vậy có nghĩa là các hoạt động không phải lúc nào cũng được thực hiện đồng bộ và theo đúng quy trình đề
26
do là số tiền đền bù cho những thiệt hại do tác động của hoạt động chống dịch (ví dụ như giết hủy gia cầm khỏe mạnh và hạn chế bán gia cầm để được đền bù của nhà nước cao hơn), sự hỗ trợ của nhà nước không thỏa đáng khiến người dân không báo cáo dịch bệnh. Một thực tế nữa là dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 có thể cứ âm ỉ diễn ra trong số gà thả vườn và không có biểu hiện gì khác với các bệnh dịch địa phương khác, đặc biệt là bệnh Newcastle hoặc bệnh tụ huyết trùng. Và như vậy việc tiêm phòng đã giúp giảm đáng kể tỷ lệ gia cầm chết ở quy mô lớn tại các trang trại nhỏ đồng thời khiến sụt giảm lượng thông tin báo cáo dịch bệnh trong hệ thống giám sát và có vẻ như tình trạng dịch bệnh đối với gà thả vườn còn bị báo cáo thấp hơn mức thực tế. Một yếu tố khác khiến việc báo cáo dịch bệnh giảm đi là việc xác nhận dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 cũng có nghĩa là khu vực có gia cầm nhiễm bệnh sẽ phải tuân thủ quy định hạn chế buôn bán gia cầm và các sản phẩm gia cầm trong vòng 21 ngày. Việc này sẽ gây ảnh hưởng đến kinh tế cho người dân, cho nên mặc dù cơ quan chính quyền tăng cường thực hiện các biện pháp kiểm soát tại địa phương nhưng lại không báo cáo về các trường hợp nghi nhiễm bệnh lên Cục Thú y.
Tình hình giám sát dịch bệnh giai đoạn 2004-2006 Chiến lược quốc gia về Kiểm soát dịch cúm gia cầm độc lực cao do Chính phủ Việt Nam công bố từ năm 2004 đề cao ưu tiên cho công tác giám sát bị động tại các tỉnh có nguy cơ cao với hệ thống giám sát mục tiêu dựa trên cơ sở rủi ro và áp dụng các biện pháp giám sát để giảm thiểu lây nhiễm tập trung và phòng ngừa lây lan. Kỳ vọng đặt ra lúc đó là trong vòng 4-6 năm sẽ giảm được đáng kể tỷ lệ dịch bệnh và trong vòng 7-10 năm sẽ hình thành các khu vực không có dịch bệnh. Ở giai đoạn đầu sau khi xảy ra dịch, FAO đã hỗ trợ cho Chính phủ Việt Nam củng cố trình độ cho đội ngũ cán bộ thú y ở cấp tỉnh và cấp huyện, đồng thời hỗ trợ các chiến dịch nâng cao nhận thức cho người dân nhằm cảnh báo các hộ chăn nuôi về việc cần thông báo sự xuất hiện dịch bệnh. Hệ thống giám sát bị động này (còn được gọi là Giám sát bệnh ở vật nuôi dựa vào cộng đồng – CADS) đã được thực hiện thí điểm ở một số tỉnh, dựa vào năng lực nhận biết và báo cáo dịch bệnh, điều tra ổ dịch và lẫy mẫu, cùng với các hoạt động ứng phó và khống chế dịch. Ngoài ra FAO còn hỗ trợ đáng kể cho hệ thống giám sát này thông qua việc hỗ trợ điều chỉnh phần mềm quản lý thông tin dịch bệnh của FAO cho phù hợp với bối cảnh của Việt Nam (ví dụ như dịch giao diện phần mềm sang tiếng Việt, tích hợp các cơ sở dữ liệu tên địa phương vào hệ thống) và thiết lập thành một ứng dụng chung trên web kết nối với các chi cục thú y với Cục Thú y.
Đầu năm 2006, một số hạn chế trong hệ thống Đầu năm 2006, một số hạn chế trong hệ thống giám sát bắt đầu thể hiện rõ ràng hơn do ảnh hưởng của hai nguyên nhân cùng lúc. Các hộ chăn nuôi bắt đầu giảm dần lo ngại về dịch bệnh sau khi chương trình tiêm phòng được bắt đầu thực hiện cuối năm 2005, và “sự mệt mỏi với dịch cúm gia cầm độc lực cao” của các bên liên quan. Các hộ chăn nuôi nhỏ không lo lắng nhiều về nguy cơ lây bệnh sang người, và họ cũng giảm dần việc thông báo dịch bệnh bởi lý
27
2004 N = 70
2005 N = 1970
2006 N = 53
2007 N = 279
2008 N = 77
2009 N = 59
2010 N = 56
2011 N = 48
2012 N = 374
2013 N = 129
2014 to date N = 56
2004 – 2014 N = 3171
28
Hoạt động giám sát dịch bệnh giai đoạn 2006 - 2010 Trong giai đoạn này, dự án đã hỗ trợ đáng kể cho Chính phủ Việt Nam trong việc cải thiện kết quả giám sát bằng việc thử nghiệm một số mô hình tại địa bàn thực tế. Mục đích của mỗi mô hình là nâng cao hiệu quả đến mức cao nhất của công tác phát hiện và báo cáo dịch bệnh, đồng thời tăng cường ứng phó ổ dịch bao gồm điều tra và chẩn đoán xác nhận. Các hoạt động thực tế tại địa bàn do cán bộ địa phương thực hiện tại các tỉnh thí điểm dưới sự hướng dẫn kỹ thuật trực tiếp của Cục Thú y. Quỹ Tín thác Nhật Bản đã hỗ trợ một mô hình và USAID hỗ trợ hầu hết các mô hình khác. Cùng với các hoạt động tại địa bàn các tỉnh thí điểm dự án, đội ngũ cán bộ dự án đã tham gia giám sát chu trình thông tin để giảm độ vênh thông tin giữa các nguồn tin khác nhau, nhập dữ liệu liên tục vào cơ sở dữ liệu của dự án, cập nhật bản đồ không gian và thời gian của các ổ dịch và các chủng vi rút (các phân nhánh), đồng thời cung cấp thông tin cho các hệ thống thông tin cúm gia cầm toàn cầu như GLEWS (Hệ thống cảnh báo sớm toàn cầu cho dịch cúm gia cầm độc lực cao) và EMPRES-I (hệ thống thông tin của FAO dùng để theo dõi các bệnh khẩn cấp).
y địa phương thực hiện tại 4 tỉnh và huyện. Mô hình này bao gồm các yếu tố của hệ thống cảnh báo có sự tham gia đã thực hiện ở Indonesia, và đặc biệt có sự cam kết của các ban chỉ đạo phòng chống cúm gia cầm tại cấp tỉnh, huyện và xã. Trước tiên, một đánh giá nhu cầu đã được thực hiện để tìm hiểu về nguồn nhân lực và cách thức tổ chức của các hoạt động thú y cũng như các cơ quan phòng chống dịch bệnh tại mỗi cấp hành chính trong trường hợp xảy ra dịch. Tiến hành đánh giá kinh nghiệm từ các đợt dịch trước để hiểu rõ hơn các hạn chế và yêu cầu đối với các hoạt động dự án tại các tỉnh đã lên kế hoạch với chính quyền địa phương và cơ quan thú y. Sau đó, các cán bộ dự án tiến hành các hoạt động cần thiết để tăng cường hệ thống giám sát tùy theo kết quả đánh giá nhu cầu như cung cấp trang thiết bị, tổ chức tập huấn đào tạo để chuẩn hóa các hoạt động kiểm soát tại địa bàn. Thêm vào đó, các cán bộ dự án đã có mặt tại địa bàn để chia sẻ kiến thức kỹ thuật và áp dụng an ninh sinh học và giám sát dịch bệnh phù hợp với điều kiện tại địa phương. Các hoạt động trong mô hình này cũng lồng ghép và hỗ trợ chức năng của đường dây nóng cúm gia cầm độc lực cao tại các tỉnh thí điểm để thông báo về các trường hợp nghi ngờ. Dự án cũng cố gắng chuẩn hóa công tác thu thập dữ liệu tại các khâu
Trong mô hình do Quỹ Tín thác Nhật Bản hỗ trợ, giám sát dựa trên rủi ro được các cán bộ thú
Chú giải
Legend Chú giải
2003 - 2004 N = 34
2005 N = 59
2007 - 2014 N = 34
29
Cùng với hệ thống giám sát bị động, hai hoạt động hỗ trợ đã được tiến hành để đánh giá sự ưu việt của hệ thống trong việc nâng cao số lượng ổ dịch được báo cáo. Thứ nhất là thành lập đường dây nóng tại các tỉnh dự án để báo cáo về các trường hợp nghi bệnh. Hoạt động này đã được duy trì trong 2 năm. Thứ hai là việc các cán bộ thú y xã thuộc một tỉnh dự án vào cuối năm 2008 đã thử nghiệm dịch vụ gửi tin nhắn để báo cáo về các trường hợp bị nhiễm bệnh. Hoạt động thử nghiệm báo tin qua tin nhắn không nhận được sự cam kết và gắn bó của các cán bộ xã tham gia nên sau đó đã không được tiếp tục thực hiện nữa.
khác nhau của quy trình giám sát. Cách thức báo cáo đơn giản nhất đã được thiết lập để giúp các cán bộ thu thập thông tin qua đường dây nóng có thể chia sẻ thông tin đến các các trạm thú y liên quan. Các biểu mẫu phiếu điều tra ổ dịch cũng đã được xây dựng để giúp các trạm thú y có thể hỗ trợ đánh giá các trường hợp nghi nhiễm cúm gia cầm độc lực cao và hỗ trợ việc báo cáo về chi cục thú y. Biểu mẫu thứ ba đã được chuẩn hóa để hỗ trợ việc gửi mẫu bệnh phẩm và gia cầm chết để điều tra tại phòng thí nghiệm. Cuối cùng, mẫu phiếu đánh giá được gửi đến các xã hàng tháng để hỗ trợ công tác báo cáo về tình hình dịch bệnh chung. Công tác hỗ trợ chu trình thông tin giám sát đã nhận được rất nhiều sự chú ý.
Mô hình dự án này mới được đưa vào thực hiện một năm nay nhưng đã tạo ra được những ảnh hưởng quan trọng, không phải ở phương diện số lượng ổ dịch được phát hiện (số ổ dịch xuất hiện trong thời gian này thấp), mà bởi vì mô hình này khiến các cơ quan chính quyền và các cán bộ thú y địa phương cảm nhận rõ quyền sở hữu của mình trong việc đề ra các hình thức giám sát và thực hiện thu thập tin tức. Khi dự án kết thúc, một số tỉnh bày tỏ mong muốn được tiếp tục các hoạt động này bằng nguồn lực địa phương, tuy nhiên chưa có quy định chính thức về việc này.
Một mô hình giám sát bị động đối với cúm gia cầm độc lực cao H5N1 nhằm tăng cường liên kết với các hộ sản xuất và củng cố công tác điều tra ổ dịch được USAID tài trợ đã thu hút được sự tham gia của các cơ quan thú y huyện và tỉnh. Các cán bộ của cơ quan thú y huyện và và chi cục thú y được hỗ trợ tiền đi lại để về địa bàn điều tra các báo cáo dịch bệnh, và để gửi các mẫu bệnh phẩm đến các phòng thí nghiệm chẩn đoán. Thêm vào đó là việc tổ chức khóa tập huấn bổ sung cần thiết về lấy mẫu, gửi mẫu, và xây dựng các quy trình thực hành chuẩn trong điều tra và ứng phó ổ dịch.
Trong khi FAO tham gia vào mô hình giám sát truyền thống có sự tham gia của Cục Thú y-Chi cục thú y-Trạm thú y huyện thì tổ chức Abt Associates (một đối tác khác của USAID) hỗ trợ cán bộ thú y tại các thôn điều tra và báo cáo các trường hợp nghi ngờ nhiễm cúm gia cầm độc lực cao. Cuối năm 2009, thông tin đầu tiên nổi lên từ dự án Thu thập bằng chứng cho việc chuyển đổi chiến lược tiêm phòng cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở Việt Nam đã cho thấy chính cấp xã, hoặc tổ trưởng tổ thú y xã, là những mắt xích cuối cùng của hệ thống thú y được công nhận chính thức, là nguồn thông tin đáng tin cậy về tình hình dịch bệnh tại địa bàn. Dự án phối hợp với một số Chi cục thú y đã xây dựng một mô hình mới hỗ trợ riêng cho cán bộ thú y xã tại 5 tỉnh dự án. Mô hình này được gọi là Giám sát dựa vào cộng đồng được liên kết với chương trình của tổ chức Abt Associates do có sự trùng lặp cùng một địa điểm thực hiện các hoạt động dự án. Mô hình này được coi là giám sát chủ động bởi cứ mỗi tháng hai lần (vào mùa có nguy cơ cao) hoặc một lần cán bộ thú y xã sẽ đến tất cả các thôn trong xã. Mô hình này đã được áp dụng trong 6 tháng và sau đó được điều chỉnh thêm trong 3 tháng để phát triển thành hệ thống giám sát dựa trên sự cố. Trong mô hình này, giám sát chủ động được thực hiện tích cực tại các xã lân cận với ổ dịch đã được xác nhận là cúm gia cầm độc lực cao.
30
tại chợ cao hơn gấp 10 lần so với việc lấy mẫu ở địa bàn. Một điều tra thí điểm thực hiện tại các chợ đã được tiến hành tại một tỉnh dự án và đã phát hiện thành công vi rút cho thấy đây có thể là khu vực mang lại hiệu quả cao cho hoạt động này.
Giám sát vi rút chủ động tại các chợ buôn bán gia cầm sống sẽ được đề cập ở phần sau, tuy nhiên ý tưởng này cũng xuất phát từ những quan sát của dự án Thu thập bằng chứng cho việc chuyển đổi chiến lược tiêm phòng cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở Việt Nam. Trong dự án đó người ta đã thấy là tỷ lệ phát hiện vi rút
i
n M g n u J i
K / O A F ©
Xây dựng năng lực ứng phó dịch bệnh giai đoạn 2006-2010 Đầu năm 2004, Cục Thú y ban hành văn bản ấn tượng nhưng vẫn tồn tại một số thiếu sót hướng dẫn phòng chống cúm gia cầm trong trong các quy trình thực hành chuẩn. Một số bối cảnh dịch bệnh đang lan rộng và chỉ có ít chuyên gia quốc tế nhận thấy việc quản lý các cơ hội hoặc không có cơ hội tập huấn cho các tình huống dịch bệnh khẩn cấp ở vật nuôi tại cán bộ làm việc tại địa bàn. Trong giai đoạn hỗ Việt Nam có những đặc trưng nhất định - các trợ ban đầu của FAO, Việt Nam đã nhận được lãnh đạo ngành thú y thực ra không quản lý gì số lượng lớn các thiết bị bảo hộ cá nhân và chất được nhiều trong công tác kiểm soát việc thực khử trùng cộng với một số hoạt động đào tạo hiện các biện pháp kiểm soát dịch bệnh bởi vì nhất định theo đúng mục đích. Với sự hỗ trợ việc này thuộc thẩm quyền của cấp chính quyền từ nhiều nguồn khác nhau trong đó có FAO, địa phương. Ngành thú y chỉ có thể đưa ra tư Cục Thú y đã tổ chức một chương trình đào vấn kỹ thuật. Hệ thống ứng phó ổ dịch lý tưởng tạo quy mô lớn cho toàn bộ cán bộ kỹ thuật là phải có các cán bộ được đào tạo bài bản để tham gia ứng phó ổ dịch, đặc biệt là ở các khu có thể giám sát các hoạt động tại địa phương và vực nguy cơ cao. Tuy nhiên, có một số ý kiến giao nhiệm vụ và trách nhiệm theo cẩm nang lo ngại cho rằng dù số người được đào tạo rất hướng dẫn chuẩn. Đó chính là Phương pháp
31
Trung tâm ứng phó ổ dịch, tuy nhiên lại không thực hiện được như vậy ở Việt Nam do sự phân chia vai trò và trách nhiệm của chính quyền địa phương. Chính vì vậy, một loạt hoạt động điều phối cần thiết để kiểm soát ổ dịch hiệu quả đã được đưa vào phiếu ghi công việc và thực hiện ở nhiều khu vực có nguy cơ cao, tập huấn kỹ thuật cũng được tổ chức cho cán bộ thú y. Tuy nhiên, không thể lồng ghép phương pháp phiếu công việc vào các thông tư hướng dẫn quản lý ứng phó ổ dịch.
Năm 2006, một chương trình tập huấn để tăng cường điều tra và ứng phó ổ dịch đã được thực hiện trên khắp các địa phương ở Việt Nam với sự hỗ trợ của một số dự án khác. Tuy nhiên, việc tiến hành tập huấn ở tất cả trường hợp đều được Cục Thú y chỉ đạo kỹ thuật và điều đó đã đảm bảo tính đồng bộ và tuân thủ chính sách kiểm soát dịch bệnh theo nghị định của chính phủ. Chương trình tập huấn đã diễn ra rất tốt và đã áp dụng phương pháp xử lý xác gia cầm chết để đào tạo cán bộ của Chi cục thú y và các trạm thú y phù hợp trở thành giảng viên. Trong hợp phần đào tạo năm 2007 của dự án, khoảng 368 học viên từ 211 huyện của 22 tỉnh miền Nam đã được tham gia các khóa tập huấn thực tế. Kết quả của nỗ lực
này đã giúp nâng cao sự đồng bộ trong các hoạt động ứng phó do các chính quyền địa phương thực hiện. Tuy nhiên, dự án cho rằng công tác quản lý sẽ năng động và đồng bộ hơn nếu các quy định hướng dẫn chi tiết hơn. Thêm vào đó, thực tế cho thấy quy trình điều tra ổ dịch thường xuyên thay đổi và không phải lúc nào cũng kết thúc bằng chẩn đoán của phòng thí nghiệm. Để khắc phục các hạn chế này, dự án đã hỗ trợ xây dựng Quy trình thực hành chuẩn chi tiết hơn để quản lý ổ dịch và thực hiện điều tra ổ dịch. Đặc biệt, đã nhấn mạnh nhiều hơn vào các hoạt động truy xuất xuôi và truy xuất ngược trong điều tra và như đã đề cập ở phần trước, việc lấy mẫu và nộp mẫu bệnh phẩm cũng được đặc biệt chú trọng. Đặc điểm chung của Quy trình thực hành chuẩn trong ứng phó ổ dịch là tất cả các vai trò trách nhiệm trong hoạt động ứng phó đều được ghi rõ trong phiếu công việc. Tuy nhiên có điều rõ ràng là một số vai trò trong khuôn khổ công tác phòng chống dịch bệnh ở cấp huyện và đặc biệt là cấp xã lại do các thành viên không có chuyên môn kỹ thuật của Ban chỉ đạo cúm gia cầm độc lực cao tại địa phương đảm nhận. Thực tế này đòi hỏi họ phải được đào tạo bài bản để đảm bảo hoạt động ứng phó khẩn cấp có tính liên kết tốt hơn.
Các hoạt động giám sát dịch bệnh giai đoạn 2011-2014 Năm 2011, với sự hỗ trợ của Cục Thú y, một chuyên gia tư vấn quốc tế đã tiến hành đánh giá cả mô hình giám sát bị động và chủ động đã nêu ở phần trên.
Đánh giá những hoạt động hỗ trợ dành cho hệ thống giám sát bị động
trong thời gian diễn ra hoạt động này. Rõ ràng là việc hỗ trợ tài chính để tạo điều kiện cho công tác giám sát của ngành thú y đã không giúp khắc phục các hạn chế tồn tại trong hợp phần thú y của quy trình. Có một điểm đáng chú ý trong báo cáo đánh giá là ngành thú y đã bớt lo ngại hơn thời gian trước đây về ảnh hưởng của dịch bệnh đối với chăn nuôi gia cầm bởi kinh nghiệm cho thấy các ổ dịch tại địa phương thường “được giải quyết” mà không cần đến sự can thiệp nào. Mặc dù năng lực tác nghiệp tại địa bàn đã được tăng cường trong những năm qua, một số ổ dịch quan trọng vẫn cần phải có sự hỗ trợ ở cấp quốc gia bởi những bệnh này là
Hệ thống giám sát bị động dựa vào cộng đồng đã được hỗ trợ thực hiện tại 5 tỉnh dự án trong vòng 3 năm. Nhìn chung, thực tế cho thấy mô hình đã mô tả ở phần trên không giúp tăng thêm độ nhạy cảm của hệ thống giám sát bởi vì số lượng báo cáo không có thay đổi gì đáng kể
32
một dịch vụ kỹ thuật tốt hơn có thể sẽ không thành hiện thực được do trở ngại trong cơ cấu lệ phí hiện đang áp dụng cho các dịch vụ phòng thí nghiệm ở một số nơi. Hiện giờ không rõ là có việc làm sai lệch cơ cấu lệ phí do sự có mặt của các dự án quốc tế hỗ trợ tài chính cho hệ thống phòng thí nghiệm hay không.
bệnh thường có tại Việt Nam. Các yếu tố hạn chế điều tra gồm có các khoản chi phí quản lý gián tiếp khá lớn không được thanh toán, yêu cầu sự hiện diện liên tục của cơ quan thú y khi xảy ra dịch, sự bức xúc của người buôn bán khi chợ phải tạm ngừng hoạt động và phê bình của các cơ quan cấp trên khi có báo cáo dịch bệnh xảy ra ở địa phương. Nếu ảnh hưởng của việc lây truyền cúm gia cầm độc lực cao từ gia cầm sang người tăng lên thì thái độ và những hạn chế của cơ quan thú y và có thể là cả chính quyền địa phương sẽ phải thay đổi. Liên quan đến nguy cơ lây truyền bệnh từ động vật sang người, có nhiều ý kiến lo ngại được thể hiện trong đánh giá này về an toàn sinh học tại các phòng thí nghiệm và an toàn sinh học đối với các cán bộ chi cục thú y là những người phải xử lý các bệnh phẩm được đưa về phòng thí nghiệm cấp tỉnh.
Đánh giá này cũng nêu rõ, hiện các cấp hành chính có quan điểm khá cứng rắn cho rằng việc khử trùng môi trường là biện pháp phòng ngừa cúm gia cầm độc lực cao H5N1, và nếu không thực hiện biện pháp này thì sẽ xảy ra dịch bệnh. Quan điểm này có thể là kết quả của việc đưa thông điệp mạnh mẽ trong dự án truyền thông về vệ sinh trong chăn nuôi gia cầm là một biện pháp phòng ngừa dịch bệnh. Văn hóa phê bình chỉ trích của người dân và ngành thú y khi phát hiện dịch bệnh cũng là một khó khăn khác đối với công tác báo cáo dịch bệnh vừa xuất hiện. Tuy nhiên rất khó giải quyết được những hạn chế này. Đánh giá cũng khuyến nghị nên tiến hành kiểm tra phát hiện kháng nguyên nhanh vì việc này có thể có lợi cho các dịch vụ của tỉnh và sẽ không có tác động tiêu cực đến độ nhạy của hệ thống giám sát hiện thời. Xét nghiệm nhanh có thể là một lựa chọn cho Việt Nam, tuy nhiên để làm được như vậy thì cần phải có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các cơ quan quản lý từ cấp trung ương đến địa phương trong việc báo cáo kết quả xét nghiệm nhanh. Có thể thấy vấn đề này cần phải được xem xét thêm.
Các phát hiện đã chỉ ra việc báo cáo thiếu rất nhiều các trường hợp nhiễm cúm gia cầm độc lực cao H5N1 và vì vậy báo cáo đánh giá đã đặt ra câu hỏi về hiệu quả chi phí của các mô hình. Báo cáo đánh giá cũng như kiến nghị cần dừng việc đầu tư vào hệ thống đường dây nóng. Có vẻ như việc lồng ghép hỗ trợ vật chất có mức độ cho các hoạt động kỹ thuật đã không thể khắc phục được các yếu tố hạn chế của hệ thống.
Các khó khăn về mặt kinh tế và xã hội mà người chăn nuôi gặp phải khi báo cáo lên hệ thống giám sát bị động cũng đã được nêu lên trong báo cáo tổng kết (bản tổng kết này chủ yếu là đề cập đến các hộ dân chăn nuôi thương mại quy mô nhỏ chứ không nói đến các gia đình nuôi gà thả vườn). Hàng loạt hạn chế của hệ thống hỗ trợ tài chính cũng ảnh hưởng tiêu cực đến động cơ báo cáo của người dân. Thêm vào đó, một ổ dịch xuất hiện luôn gây ra rất nhiều sức ép và phiền phức cho cộng đồng bao gồm khả năng phải giết hủy cả đàn gia cầm ở các khu vực tiếp giáp, và do các áp lực xã hội người dân có thể lựa chọn cách không báo cáo khi có sự việc nghi ngờ. Đánh giá cũng nhấn mạnh rằng các phòng thí nghiệm, một mắt xích quan trọng trong hệ thống, đã không thể cung cấp đủ dịch vụ chẩn đoán dịch bệnh gia cầm mà có xu hướng chỉ hạn chế ở một số xét nghiệm ít ỏi. Nói cách khác, khi một người nông dân gặp phải vấn đề dịch bệnh khiến họ lo lắng và yêu cầu sự hỗ trợ thì trong nhiều trường hợp quy trình chẩn đoán không thể đưa ra được câu trả lời dứt khoát. Điều này có nghĩa là về lâu dài, khó khăn này cần phải được giải quyết tuy nhiên lợi ích của
33
O A F ©
Đánh giá sự hỗ trợ cho hệ thống giám sát chủ động
không phát hiện được trường hợp nghi bệnh nào trong suốt thời gian dự án với 1000 chuyến đi thực địa. Theo ý kiến của chuyên gia đánh giá, kết quả này không đáng tin cậy đặc biệt trong bối cảnh các báo cáo về sự cố dịch bệnh có được là qua phỏng vấn người chăn nuôi, và vì vậy kết quả này phản ánh sự thiên lệch trong việc hoàn thành các hoạt động giám sát. Tuy nhiên, các đơn vị tham gia đã công nhận những lợi ích thu được ngoài dự kiến chẳng hạn như vai trò của các cán bộ thú y xã được nâng cao và tăng cường sự liên kết tại cộng đồng với các dịch vụ y tế. Thêm vào đó, hoạt động này đã nâng cao trình độ kiến thức cho các cán bộ thú y xã về giám sát các đàn gia cầm và thực trạng hoạt động của các cán bộ thú y trong việc phát hiện và báo cáo về các trường hợp nhiễm các bệnh khác như bệnh lở mồm long móng và bệnh tai xanh. Có thể thấy là các lợi ích này phụ thuộc trực tiếp vào sự hỗ trợ từ bên ngoài và trong phạm vi hệ thống thì hầu như không có nhu cầu tiếp tục các hoạt động ở mức độ này.
Trong một giai đoạn ngắn trong năm 2011 ở một số huyện và xã có nguy cơ cao, dự án đã
Tiếp theo đánh giá hệ thống giám sát bị động, một hoạt động tương tự đã được tiến hành để đánh giá các mô hình giám sát chủ động do dự án thực hiện. Rất nhiều trong số những phát hiện chính là các khó khăn hạn chế trong công tác báo cáo và điều tra đã được tổng kết trong đánh giá đầu tiên lại một lần nữa được ghi nhận. Như đã đề cập ở trên, mô hình giám sát chủ động này tương tự như mô hình được tổ chức đối tác của USAID là Abt Associates sử dụng, tuy nhiên có một chút thay đổi. Ở mô hình dự án 604, Trưởng Thú y xã được cấp kinh phí chi trả cho các chuyến công tác thường xuyên về các thôn và gặp gỡ với những người cung cấp thông tin chính bao gồm cán bộ y tế và cán bộ thú y cùng chủ các hiệu thuốc thú y. Các huyện và xã được chọn thực hiện thí điểm được coi là có nguy cơ cao theo tiêu chí lựa chọn cụ thể. Mặc dù được đánh giá là phương pháp tiếp cận có giá trị về mặt dịch tễ học, nhưng thực tế cho thấy hệ thống này đã không đạt được hiệu quả như mong đợi ở 3 trong số 5 tỉnh thí điểm, do
34
hỗ trợ cho một hoạt động được gọi là giám sát dựa trên sự cố. Phương pháp này là khi có ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao xảy ra tại một xã thì giám sát chủ động sẽ được tăng cường hoạt động tại 50 xã lân cận trong vòng 1 tháng. Hệ thống này đã được kích hoạt 2 lần trong giai đoạn nghiên cứu nhưng đã không phát hiện được thêm ổ dịch nào.
có các phòng thí nghiệm chẩn đoán để có thể thực hiện các chẩn đoán ở quy mô rộng hơn chứ không chỉ hạn chế ở một số kết quả kiểm tra theo quy định. Một vấn đề khác nổi lên qua các cuộc phỏng vấn là các cán bộ lãnh đạo cấp xã không chú ý đầy đủ đến dịch bệnh trên các loại vật nuôi, và điều này khiến các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ lại càng cho rằng thiệt hại vật nuôi là điều bình thường chứ không có gì đáng báo động.
Phân tích cuối cùng đưa ra kết luận là giám sát chủ động dựa vào cộng đồng và giám sát dựa trên sự cố là các phương pháp không hiệu quả về mặt chi phí, đặc biệt là với công đoạn lọc thông tin do cấp cao nhất của sơ đồ truyền thông thú y dạng cây theo quy trình từ xã lên huyện lên tỉnh rồi lên trung ương. Tuy nhiên do phương pháp này đã được đón nhận nên cũng thấy rằng cách làm như vậy đã hỗ trợ cho các nỗ lực giám sát và các chi cục thú y đều đánh giá cao sự hỗ trợ cho công tác kiểm tra mẫu để xác nhận hoặc loại trừ cúm gia cầm độc lực cao H5N1. Ở những nơi hệ thống này không được đón nhận, báo cáo đánh giá có ghi rõ là có xu hướng xếp sự cố vào nhóm “không nghi ngờ” dù thực tế là chỉ có chẩn đoán xét nghiệm là cách xác định đáng tin cậy duy nhất.
Các quan sát khác về hỗ trợ giám sát dịch bệnh
Như đã đề cập trong tài liệu này, trong giai đoạn này, chương trình bắt đầu đầu tư nhiều hơn vào đánh giá rủi ro và các phương pháp kiểm soát dịch bệnh dựa trên rủi ro, đặc biệt là nhằm đưa ra phương pháp khoanh vùng để kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao. Hỗ trợ ngắn hạn cho hoạt động giám sát bị động được tiếp tục tại các tỉnh dự án là sự bắt đầu của hoạt động giám sát dựa trên mạng lưới chợ/dựa trên rủi ro và tiến tới thực hiện kiểm soát khoanh vùng. Tuy nhiên đến cuối năm 2012, Cục Thú y đã thông qua một chiến lược mới về kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao không dựa vào các vùng sinh thái có vi rút 3 bệnh mà dự án đã xác định. Sau khi phân tích thêm cho thấy các hoạt động tăng cường do dự án thực hiện không ảnh hưởng nhiều đến công tác báo cáo và kiểm soát dịch cúm gia cầm độc lực cao, sự hỗ trợ bên ngoài cho các hoạt động giám sát bị động đã tạm dừng, và việc báo cáo dịch bệnh trở nên phụ thuộc hoàn toàn vào các dấu hiệu do nguồn tin gốc đưa ra – chẳng hạn như sự tham gia của người chăn nuôi vào hệ thống thú y địa phương. Nội dung chi tiết ở phần sau sẽ cho thấy hệ thống giám sát chủ động tại các chợ gia cầm sống đã được tiếp tục. Một mảng giám sát khác được bắt đầu thực hiện năm 2012 với cuộc họp đầu tiên giữa Cục Chăn nuôi và Thú y Campuchia, Cục Thú y Việt Nam và các đơn vị tương ứng của FAO ECTAD Campuchia và Việt Nam. Mục tiêu của hợp tác xuyên quốc gia là để tăng cường hiểu biết hơn rằng tại sao dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 lại quay vòng trong phạm vi hệ sinh thái chung lưu vực sông Mekong và để tăng cường
Trong quá trình đánh giá, có những thời điểm cán bộ chi cục thú y đề xuất về việc nên chi trả cho các hộ chăn nuôi đưa mẫu đến chẩn đoán – điều này đã cho thấy rõ ràng là cả hai bên vẫn chưa đánh giá hết được giá trị của quá trình điều tra. Phía dự án thấy rằng hiện giờ các bên đang chú ý quá nhiều vào vai trò điều tiết mà chưa chú ý nhiều đến vai trò dịch vụ của các cơ quan thú y và vì vậy hậu quả là tạo nên mối quan hệ tiêu cực giữa hộ chăn nuôi với cơ quan thú y. Kết luận lại là nếu những người chăn nuôi thấy được lợi ích của việc yêu cầu điều tra dịch bệnh chứ không coi đó là một hình phạt đang treo lơ lửng thì họ sẽ tham gia nhiệt tình hơn. Điều này nhấn mạnh hơn nữa sự cần thiết phải
35
này thường được gọi là phương pháp vùng dịch tễ nhằm tìm hiểu về dịch tễ học vi rút là một sáng kiến hợp tác xuyên biên giới mà dự án đã khởi xướng.
kiểm soát dịch bệnh trong hệ sinh thái này. Nhiều cuộc họp sau đó đã được tổ chức và đã xây dựng được quy trình chia sẻ thông tin về phân lập vi rút, tình hình vận chuyển vật nuôi, đặc biệt là vịt, và ổ dịch. Phương thức tiếp cận
việc trong hệ thống kiểm soát dịch bệnh chung có nhiều hạn chế bởi các quy trình thực hành chuẩn chưa được đưa vào các quy định mới liên quan đến kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao. Có một lo ngại thường được nhắc đến là việc các quy trình thực hành chuẩn bị quá chi tiết và phức tạp. Hơn nữa, quy trình điều tra ổ dịch được cho là quá phức tạp và khó được hộ chăn nuôi thống nhất. Khi bắt đầu dự thảo kỹ thuật, yêu cầu quy định này đã không được tính đến.
Hỗ trợ ứng phó dịch bệnh giai đoạn 2011-2014 Trọng tâm của giai đoạn này là tăng cường phổ biến Quy trình thực hành chuẩn (SOPs) và các quy trình điều tra ổ dịch. Một lần nữa, trọng tâm của hoạt động này là tăng cường hỗ trợ việc thực hiện chiến lược kiểm soát dịch bệnh theo vùng. Lãnh đạo Cục Thú y đề xuất mở rộng đào tạo về Quy trình thực hành chuẩn cho lãnh đạo địa phương bởi vì họ mới chính là những người thực sự tham gia các hoạt động kiểm soát ổ dịch. Tuy nhiên, việc lồng ghép phương pháp Quy trình thực hành chuẩn vào phiếu công
Quản lý thông tin Hệ thống quản lý thông tin dịch bệnh có tên gọi là TADInfo do FAO xây dựng và được triển khai ở Việt Nam từ trước năm 2004. Hệ thống này đã được đưa vào sử dụng thông qua ứng dụng mạng cục bộ của Phòng Dịch tễ, Cục Thú y. Sau khi xảy ra dịch cúm gia cầm độc lực cao, một phiên bản TADInfo mới trên nền tảng web đã được đưa vào hoạt động, cung cấp trang thiết bị và đào tạo để thực hiện hệ thống này tại tất cả 64 tỉnh thành và kết nối với máy chủ trung tâm. Thiết bị này và hoạt động đào tạo được mở rộng để sử dụng các thiết bị định vị toàn cầu cầm tay. Giai đoạn khởi động có gặp phải một số vấn đề do không phải tất cả các chi cục thú y tỉnh đều có đầy đủ kỹ năng máy tính cơ bản cần thiết để có thể sử dụng hệ thống mới một cách hiệu quả. Tuy nhiên, năm 2006, công tác đào tạo cơ bản và hệ thống cơ sở hạ tầng cần thiết đều đã hoàn tất. TADInfo được chính thức đưa vào sử dụng tháng 9/2006 và được sử dụng để quản lý thông tin về dịch cúm gia cầm độc lực cao, bệnh
lở mồm long móng, dịch tả lợn cổ điển và bệnh Newcastle. Cục Thú y đã đề nghị dự án hỗ trợ xây dựng hệ thống kiểm kê vắc xin để hỗ trợ việc lưu kho và phân phối số lượng lớn vắc xin cúm gia cầm độc lực cao. Năm 2007 và 2008, các khóa bồi dưỡng cơ bản đã được tổ chức để tăng cường khả năng sử dụng phần mềm cho các chi cục thú y, đặc biệt là giúp các chi cục có khả năng phân tích tình hình dịch bệnh tại địa phương. Hoạt động đào tạo cơ bản bao gồm cả một khóa tập huấn chuyên về các hệ thống thông tin địa lý và phân tích không gian. Năm 2008, Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn được bổ sung vào danh sách dịch bệnh khi bệnh mới này xâm nhập vào trong nước. Năm 2009 và 2010, trụ sở của FAO ở Rome đã tiếp tục cải tiến chương trình và đưa vào thực hiện tại Việt Nam cùng với việc cập nhật bản dồ dịch bệnh ở Việt Nam. Để sắp xếp hợp lý các hoạt động hơn nữa, chương trình đã tuyển một cán bộ quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia, mua một máy
36
chủ mới dành riêng cho hệ thống TADInfo và lắp đặt thêm phần mềm tường lửa đề phòng tin tặc tấn công như đã có trường hợp xảy ra trước đây.
thay đổi nhân sự. Nhân viên của Phòng Dịch tễ nhập dữ liệu vào hệ thống TADInfo hoặc lưu giữ thông tin trong bảng tính đã được tùy biến để hỗ trợ công tác phân tích. Sau những nỗ lực và hỗ trợ kỹ thuật đáng kể của Cục Thú y và FAO, năm 2013, hệ thống đã được xác định là không thể đáp ứng các yêu cầu đặt ra và không được tiếp tục duy trì nữa.
Mặc dù Phòng Dịch tễ đã rất quyết tâm, và, TADInfo đã giúp Cục Thú y có được một hệ thống có tổ chức để quản lý thông tin quốc gia, và hỗ trợ các chi cục thú y quản lý và phân tích thông tin của chính họ nhưng có vẻ như mức độ cam kết đó của các chi cục thú y thường xuyên thay đổi. Điều này một phần do yêu cầu đặt ra là việc báo cáo dịch bệnh phải được thực hiện một cách chính thức bằng văn bản giấy tờ có con dấu chính thức, dẫn đến việc hình thành một hệ thống báo cáo kép. Các chi phí thường xuyên ở cấp địa phương để duy trì hoạt động này được cho là một trở ngại nghiêm trọng. Trong khi hầu hết các cơ sở hạ tầng đều nhận được các nguồn hỗ trợ bên ngoài thì Cục Thú y vẫn phải chi trả các chi phí duy tu bảo dưỡng trong đó có việc duy trì cơ sở đào tạo và kỹ năng tại đầu của người sử dụng là nơi thường xuyên
Hệ thống TADInfo đã được quyết định thay thế và Cục Thú y và dự án đã lựa chọn Hệ thống thông tin tích hợp thời gian thực của Trường đại học Massey với lý do là hệ thống này rất phù hợp với tình hình tại Việt Nam và có một phần được chính một cán bộ người Việt Nam xây dựng trong luận án tiến sỹ của mình. Các điều khoản tham chiếu được xây dựng và phê duyệt để các chuyên gia tư vấn quốc tế hỗ trợ thực hiện cùng với việc tuyển hai cán bộ người Việt Nam và mua một máy chủ. Đáng tiếc là hệ thống này cũng không đạt được thêm tiến bộ nào bởi các chuyên gia tư vấn quốc tế đã không thể sang Việt Nam. Mặc dù sau đó Cục
Các học viên của lớp tập huấn tìm hiểu cách sử dụng thiết bị định vị toàn cầu
y u h T n e y u g N g n a H /
O A F ©
37
được dài hạn. Công tác đánh giá cũng bao gồm đánh giá nhu cầu của các đơn vị liên quan như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Trung tâm chẩn đoán thú y trung ương và các cơ quan thú y vùng, các chi cục thú y và các bên liên quan khác, đồng thời đánh giá năng lực và nhu cầu hiện tại bao gồm cơ sở, trang thiết bị, truy cập Internet, nhân lực.
Thú y đưa ra quyết định tiếp theo là lựa chọn hệ thống “điện thoại thông minh” của Hoa Kỳ nhưng đã không được cơ quan cấp thẩm quyền cao hơn phê duyệt. Cuối năm 2014, dự án quyết định thuê một chuyên gia tư vấn độc lập quốc tế thực hiện đánh giá các hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu hiện thời và trước đây để tìm hiểu các điểm mạnh và điểm yếu cũng như lý do tại sao không có hệ thống nào duy trì hoạt động
những dữ liệu này để thực hiện Phân tích mạng xã hội cho thấy các mối liên kết ở chợ và xác suất xuất hiện và/hoặc sự khuếch đại của các tác nhân gây bệnh. Nghiên cứu này đã xác nhận chiến lược lấy mẫu bệnh phẩm để phát hiện vi rút H7N9 (hoặc các chủng vi rút cúm A khác) tại các chợ buôn bán gia cầm sống của Cục Thú y là đúng.
Phân tích dữ liệu và mô hình hóa dịch bệnh Từ khi FAO bắt đầu tham gia vào chương trình cúm gia cầm, đã có hai dự án sử dụng mô hình hóa để giúp hiểu rõ về diễn biến dịch bệnh của dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1. Một bộ mô hình năm 2007 đã chứng minh được từ các số liệu ổ dịch rằng việc kết hợp giết hủy gia cầm bị bệnh và tiêm phòng tại địa phương đã giảm được sự lây lan dịch bệnh nhiều hơn so với việc chỉ giết hủy gia cầm bị bệnh. Mô hình này cũng nêu bật một điểm là ở một số đàn gia cầm, hiệu quả vắc xin không đạt mức như mong muốn có nghĩa là cần phải tiến hành điều tra thêm để giải thích về điều này.
Nghiên cứu thứ hai đã được thực hiện để ứng phó với nguy cơ cúm gia cầm từ Trung Quốc. Dự án đã ủy quyền thực hiện một nghiên cứu để xây dựng hồ sơ thông tin của 18 chợ buôn bán gia cầm sống tại khu vực miền Bắc Việt Nam. Các dữ liệu đầu vào gồm có các biến số như số lượng người buôn bán và người trung gian; số lượng và thể loại gia cầm được buôn bán; tính thời vụ của các loài gia cầm được buôn bán; giờ chợ mở cửa và cơ sở hạ tầng cơ bản của chợ; số lượng và thông lệ áp dụng đối với số gia cầm chưa bán được; và nguồn gia cầm có tại chợ. Đơn vị được hợp đồng thực hiện nghiên cứu này là Trường Thú y Hoàng gia đã sử dụng
Để tập trung hơn nữa vào việc ứng dụng mô hình hóa, Hội thảo quốc tế lần thứ 5 về Mô hình hóa rủi ro và đánh giá rủi ro cúm gia cầm đã được tổ chức ở Hà Nội năm 2013. Hội thảo đã nghe các bài trình bày về các phương pháp khác nhau trong đánh giá rủi ro và mô hình hóa, trong đó có bao gồm việc phân tích kết quả nhánh vi rút cúm gia cầm độc lực cao và các lớp rủi ro sinh thái nông nghiệp tại khu vực Đông Nam và Nam Á. Tại hội thảo, Cục Thú y và FAO đã cùng nhau đưa ra các khuyến nghị về việc làm thế nào để áp dụng các phương pháp tiếp cận ở cấp khu vực này vào các phân tích cấp quốc gia để phổ biến các thông lệ quản lý kiểm soát và phòng ngừa cúm A. Sau hội thảo đầu tiên này, việc đánh giá và mô hình hóa rủi ro đã tiếp tục được duy trì và được đưa vào nội dung đào tạo dịch tế học thú y ứng dụng thực hiện năm 2014.
38
O A F ©
Công tác giám sát vi rút giai đoạn 2006-2010 Những nỗ lực ban đầu để phát hiện và xác định đặc điểm của vi rút cúm A đã nhận được sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế như Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ (USCDC) năm 2004, và Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) năm 2005 – chuyên gia của hai cơ quan này đã được cử đến Việt Nam để giúp tăng cường quy trình phòng thí nghiệm và bổ sung thêm kỹ năng chẩn đoán. Năng lực chẩn đoán vi rút – chủ yếu sử dụng các kỹ thuật dựa trên phân tử tuy nhiên cũng dùng cả phương pháp phân lập vi rút trong phôi trứng – đã được xây dựng tại Cơ quan thú y vùng 6 (RAHO 6) tại thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Chẩn đoán thú y trung ương tại Hà Nội và Viện Thú y cũng ở Hà Nội. Vi rút được gửi từ Việt Nam đến các phòng thí nghiệm tham chiếu trong đó có Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ (USCDC) để tiến hành xác định bộ gien ban đầu và đặc tính kháng nguyên của vi rút. Cùng với sự tiến triển của dịch bệnh, các thông tin về bộ gien của vi rút được tích lũy ở Việt Nam và trên toàn cầu đã đóng góp thông tin về trình tự bộ gien của vi rút vào nỗ lực chung toàn cầu.
Các phòng thí nghiệm chẩn đoán đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống giám sát qua việc chẩn đoán nhanh và chính xác ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1. Sự phát triển năng lực chẩn đoán phòng thí nghiệm sẽ được đề cập đến trong một chương riêng, tuy nhiên cần lưu ý là mạng lưới phòng thí nghiệm đã được thành lập cùng với Trung tâm Chẩn đoán thú y trung ương. Tất cả mẫu có kết quả kiểm tra phân tử dương tính với cúm A đều được chuyển qua Trung tâm Chẩn đoán thú y trung ương để phân lập vi rút và từ những vi rút phân lập, vi rút được chọn ra để tiếp tục xác định các định đặc tính phân tử và đưa vào các kiểm tra vắc xin bằng thử thách cường độc. Trong nhiều năm qua, hệ thống phòng thí nghiệm đã tích lũy được một thư viện vi rút phân lập rất ấn tượng – thư viện vi rút phân lập này đã được dùng để tìm hiểu về sự tiến hóa của vi rút ở Việt Nam. Sự phân bố cả về mặt không gian và thời gian của các phân nhánh vi rút được theo dõi cùng với việc lập bản đồ và báo cáo thường xuyên tại các cuộc họp ở cấp địa phương, quốc gia và quốc tế.
39
Công tác giám sát vi rút giai đoạn 2011-2014 Ngay từ giai đoạn đầu của chương trình, hầu hết các vi rút được nghiên cứu là những mẫu bệnh phẩm lấy từ các ổ dịch với một số lượng nhỏ mẫu lấy từ chợ, và có một trường hợp là mẫu từ gà loại thải bị thu giữ khi được đưa vào Việt Nam từ Trung Quốc. Như đã đề cập ở phần trước, bằng chứng cho thấy vịt tại các chợ buôn bán gia cầm sống là đối tượng hữu ích cho việc phát hiện và theo dõi vi rút H5N1, và chính điều này đã dẫn đến việc chương trình giám sát chợ buôn bán gia cầm sống được bắt đầu thực hiện năm 2011. Các phương pháp phòng thí nghiệm dùng trong hỗ trợ giám sát đã được đề cập rõ ở phần “Công tác chẩn đoán phòng thí nghiệm”. Như đã thấy, xác định đặc tính gien lúc đầu được các phòng thí nghiệm tham chiếu quốc tế phối hợp thực hiện nên việc này bị phụ thuộc vào việc vận chuyện các vi rút phân lập ra ngoài lãnh thổ quốc gia. Đến năm 2010, với sự ra đời của dịch vụ giải trình tự gien nhanh, việc lấy thông tin trình tự gien từ các mẫu phân tử acid nucleic được gửi chuyển phát nhanh về phòng thí nghiệm giải trình tự gien hiệu năng cao của Hàn Quốc đã có thể thực hiện được. Trong Bảng 2 là số lượng vi rút cúm A đã được phân lập và xác định đặc tính qua từng năm.
rút mới và vi rút lưu hành ở gà mạnh hơn vịt. Trong khi đó, vùng dịch tễ ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long là nơi vi rút lưu hành rộng rãi trong hệ thống vịt nuôi thả đồng chiếm ưu thế. Việc phân chia rõ rệt hai miền và sự phân bổ của các nhánh vi rút giữa khu vực đồng bằng sông Cửu Long và vùng châu thổ sông Hồng đã có những lúc gặp phải thách thức do sự xuất hiện định kỳ của các nhánh vi rút mới (2.3.4 và 2.3.2.1) tuy nhiên các nhánh này chưa được phân lập nhiều lần, cho thấy chúng không được duy trì tại vùng dịch tễ này. Chỉ mới gần đây (năm 2013), vùng dịch tễ này mới bắt đầu thay đổi với sự xuất hiện và hình thành của nhánh 2.3.2.1 C tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, lưu hành cùng với nhánh vi rút 1 ở cấp độ gần như nhau (25 phân lập của nhánh 1, 28 phân lập của nhánh 2.3.2.1 C). Nhánh vi rút 2.3.2.1 C tiếp tục lưu hành vào đầu năm 2014 và bắt đầu chiếm ưu thế so với nhánh 1.1 (9 trong số 11 phân nhánh) là phân nhánh đã trải qua một số tiến hóa thành hai dòng khác biệt về phân tử L5 và L6 được xác định trên cơ sở thông tin giám sát và ổ dịch hiện có. Chỉ còn một điều khó hiểu là sự tăng đột biến của các ca nhiễm H5N1 ở người tại Campuchia năm 2013 (cả 3 ca nhiễm đều tử vong năm 2012, 14 ca tử vong trong tổng số 26 ca nhiễm năm 2013) trong khi ngay bên kia biên giới là Việt Nam thì số ca nhiễm H5N1 ở người do chính xác cùng nhánh vi rút lại thấp hoặc ở cùng mức độ trong các năm 2012-2013 (1 ca tử vong trong tổng số 2 ca nhiễm năm 2012, 2 ca tử vong trong tổng số 2 ca nhiễm năm 2013).
Sự phân bổ hàng năm của các nhánh vi rút từ năm 2003 đến 2014 được thể hiện trong cả Bảng 2.1 và Hình 2.6 và tất cả các nhánh được phát hiện qua hệ thống giám sát bị động và giám sát tại chợ gia cầm sống trong 3 tháng từ tháng 10/2012 đến tháng 1/2013 trong Hình 2.7.
Cùng với việc theo dõi các dòng vi rút xâm nhập vào Việt Nam, chương trình giám sát vi rút cũng xác định được phân bố địa lý của các chủng và các nhánh vi rút khác nhau. Việc lập bản đồ phân bố các các nhánh vi rút đóng góp quan trọng vào việc giúp hiểu rõ sự ổn định và tiến hóa của vi rút ở cấp độ quốc gia và khu vực, từ đó hình thành khái niệm vùng sinh thái/vùng dịch tễ vi rút. Phân bố không gian của virút là một trong những nền tảng quan trọng để FAO đề xuất phương pháp khoanh vùng kiểm soát dịch cúm gia cầm độc lực cao. Phương pháp kiểm soát này rõ ràng đã phân định rõ ranh giới các vùng sinh thái vi rút miền nam khỏi miền Bắc Việt Nam, trong đó miền Bắc chịu ảnh hưởng nặng nề của sự xuất hiện các chủng vi
Để giải quyết tốt hơn công tác kiểm soát cúm
40
Những thay đổi trong Nhánh virus H5N1 HA tại Việt nam giai đoạn 2003 - 2014
Số lượng virus H5N1 phát hiện được tại miền bắc trong năm
Nhánh HA
20 06
20 07
20 08
20 09
20 10
20 11
20 12
20 14
20 04
20 03
20 05
20 13
3
0
40
17
28
1
1
2
5
18
13
7
9
2.3.2
10
103
53
29
18
2.3.4.(0-4)
2.3.4.6
2
1
18
95
79
12
2.3.2.1A
9
27
1
2.3.2.1B
189
33
50
2.3.2.1C
Số lượng virus H5N1 phát hiện được tại miền nam trong năm
Nhánh HA
20 13
20 14
20 03
20 04
20 05
20 06
20 07
20 08
20 09
20 10
20 11
20 12
0
30
45
4
42
7
19
12
23
11
28
2
1
5
7
2.3.2
2.3.4
1
2.3.2.1A
2
4
1
2.3.2.1B
2.3.2.1C
11
25
9
Year
Transition of H5 HA clade
2004
Incursion of clade 1 and quick Sự xâm nhập của nhánh 1 và sự lây lan nhanh chóng trên phạm vi cả nước spread throughout the country
2005
Dominance of clade 1 continued Nhánh 1 tiếp tục chiếm ưu thế Sự xâm nhập của nhánh 2.3.4 (lác đác) Incursion of clade 2.3.4 (sporadic)
2006
Absence of outbreaks in north Không có bùng phát ổ dịch ở miền Bắc Nhánh 1 tiếp tục lây lan ở miền Nam Clade 1 kept circulating in south
2007
Spread of clade 2.3.4 in north Sự lây lan của nhánh 2.3.4 ở miền Bắc Nhánh 1 tiếp tục lây lan ở miền Nam Clade 1 kept circulating in south
Tiếp tục tình hình như năm 2007 Same situation as 2007 continued
2008
2009
2010
Sự xâm nhập của nhánh 2.3.2.1.a ở Incursion of clade 2.3.2.1.a in north miền Bắc Sự lây lan của nhánh 2.3.2.1.a ở miền Bắc Spread of clade 2.3.2.1.a in north Sự xâm nhập của nhánh 2.3.2.1.b ở Incursion of clade 2.3.2.1.b in north miền Bắc
Tiếp tục tình hình như năm 2010 Same situation as 2010 continued
2011
1
2012
Incursion of clade 2.3.2.1.c and quick Sự xâm nhập của nhánh 2.3.2.1.c và sự lây lan nhanh chóng khắp cả nước spread throughout the country
2.3.4
2013
Clade 2.3.2.1.a disappeared, while Nhánh 2.3.2.1.a biến mất trong khi nhánh clade 1 and 2.3.2.1.c kept circulating 1 và 2.3.2.1.c tiếp tục lây lan
2.3.2.1.A
2.3.2.1.B
2014
Dominance of clade 2.3.2.1.c in Nhánh 2.3.2.1.c chiếm ưu thế ở cả miền north and south Bắc và miền Nam Sporadic cases of clade 1 in south Rải rác có trường hợp nhánh 1 ở miền Nam
2.3.2.1.C
41
Ở phía bên phải là các nhóm nhánh khác nhau
42
i
n M g n u J i
K / O A F ©
gia cầm độc lực cao tại các khu vực biên giới, nhiệm vụ đặt ra là phải tiếp tục tạo điều kiện hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan đối tác của chính phủ để làm tốt hơn nữa các hoạt động tại vùng dịch tễ (vùng nguy cơ cao) bao gồm giám sát, ứng phó và truyền thông liên ngành (thú y/y tế) khi xuất hiện ổ dịch, nâng cao kiến thức và quản lý hoạt động vận chuyển động vật qua biên giới. Dự án đã hỗ trợ tổ chức các cuộc gặp giữa ngành thú y và y tế Việt Nam dọc theo khu vực biên giới ở cả vùng sinh thái đồng bằng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long.
cầm sống đã được phân tích và tháng 10/2014, Tạp chí Các dịch bệnh châu Á đã đăng bài “Tỷ lệ nhiễm và phân bố của các biến thể nhánh vi rút cúm gia cầm A/H5 N1 tại Việt Nam, giai đoạn 2011-2013”. Tóm lại, hệ thống giám sát vi rút này đã thực triển khai hiệu quả để phát hiện sự xâm nhập của các nhánh mới của vi rút cúm gia cầm độc lực cao H5N1 xâm nhập từ bên ngoài vào Việt Nam, để theo dõi sự tiến hóa của các nhánh vi rút ngay khi chúng xuất hiện, để xác nhận các trường hợp tử vong thực sự do cúm gia cầm độc lực cao H5N1 gây ra, và để thu thập vi rút từ địa bàn để theo dõi tác dụng của loại vắc xin đã được sử dụng.
Thêm vào đó, các thông tin từ phòng thí nghiệm và hệ thống giám sát tại các chợ buôn bán gia
trình đào tạo Dịch tế học thực địa dành cho các bác sỹ thú y trong khu vực (FETPV) tổ chức tại Thái Lan, và các khóa học thạc sỹ ở Trường đại học Massey, New Zealand. Năm 2006, vẫn tồn tại khoảng cách rất lớn về năng lực dịch tễ học cần phải khắc phục để tăng cường chất lượng kỹ thuật của hoạt động điều tra và báo cáo cũng như quản lý thông tin.
Xây dựng năng lực – dịch tễ học Một trong những sáng kiến đầu tiên được thực hiện để xây dựng kỹ năng dịch tễ học là việc kết nối các cán bộ đã được đào tạo về thú y với Chương trình đào tạo Dịch tễ học thực địa Việt Nam (FETP) do Bộ Y tế là cơ quan chủ quản. Một số lượng nhỏ các bác sỹ thú y đã được đào tạo dịch tễ học qua các khóa đào tạo ngắn hạn trong Chương trình đào tạo Dịch tễ học thực địa châu Âu tổ chức tại Tây Ban Nha, Chương
43
của Cục Thú y, chương trình này đã giúp nâng cao rõ rệt chất lượng điều tra và báo cáo thực địa. Thêm vào đó là sự hài lòng hơn với công việc của nhiều bác sỹ thú y ở cấp huyện và cấp tỉnh. Trong vòng 2 năm qua, để đáp ứng nhu cầu, các mô đun AVET nâng cao đã được thực hiện để đào tạo các mảng như đánh giá rủi ro bằng phương pháp định tính và định lượng, xây dựng mô hình rủi ro, dịch tễ học không gian, và khóa học mở đầu của Một sức khỏe có chủ đề “Điều tra dịch bệnh vật nuôi trên động vật hoang dã và y tế công cộng” (WILD). Mặc dù chương trình AVET được coi là một thành công lớn, thực tế cũng cho thấy là một số lượng lớn học viên sau khi hoàn thành chương trình thì lại tiếp tục chuyển sang nắm giữ các vai trò quan trọng trong hoạt động chuyên môn khác và vì vậy trình độ chuyên môn của họ bị mai một đi và các lợi ích mà chương trình mang lại cho họ phần nào không còn nữa do sự thăng tiến nghề nghiệp. Hiện nay hoạt động đánh giá tính phù hợp và chất lượng của các khóa học AVET vẫn được tiếp tục được thực hiện hàng năm.
Cục Thú y và FAO đã xác nhận rằng một phương pháp phù hợp để xử lý tình huống là phát triển một chương trình xây dựng năng lực hoàn chỉnh cho các địa phương và USAID đã đồng ý hỗ trợ sáng kiến này thông qua dự án 604. Kết quả là kế hoạch thành lập Chương trình đào tạo dịch tễ học thú y ứng dụng (AVET) liên kết với Khoa Thú y của Trường đại học Nông nghiệp Hà Nội đã được thực hiện. Cục Thú y và FAO đã cùng xây dựng chương trình giảng dạy. Chương trình bao gồm lý thuyết dịch tễ học, sau đó lập kế hoạch và tổ chức thực hiện nghiên cứu thực địa đã được phê duyệt đồng thời vẫn thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn bình thường và có buổi tổng kết cuối cùng để báo cáo kết quả nghiên cứu. Từ khi được thành lập năm 2009, chương trình này đã tổ chức 14 khóa học và 190 bác sỹ thú y đã tốt nghiệp hoàn thành chương trình học 4 tháng (10). Để hỗ trợ các học viên AVET sau tốt nghiệp, chương trình đã tổ chức gặp mặt cựu học viên hàng năm để trao đổi ý tưởng, thảo luận về các khó khăn thách thức hiện đang gặp phải, và cung cấp một nền tảng chia sẻ các thông tin liên quan. Theo ghi nhận
trọng điểm tại các chợ buôn bán gia cầm, các trang trại chăn nuôi động vật hoang dã, và các khu vực khác có tiếp xúc gần gũi với người và vật nuôi, ví dụ như tại các lò mổ, và iii) và phát hiện cúm gia cầm độc lực cao H5N1, các loại vi rút cúm A liên quan khác, các vi rút nguyên gốc, và các nguy cơ dịch bệnh mới ở vật nuôi và động vật hoang dã. Các quy trình, năng lực chẩn đoán và quản lý thông tin sẽ cần phải được hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng được trọng tâm giám sát đã được mở rộng.
Định hướng tương lai Cho dù công tác giám sát dịch bệnh vật nuôi đã đạt được nhiều kết quả trong những năm vừa qua, trước mắt vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Chu trình tiếp theo của dự án sẽ bắt đầu năm 2015 và tập trung vào việc phát hiện và phòng ngừa sớm các nguy cơ đại dịch. Việc này sẽ đòi hỏi phải phải giám sát nhắm đến mục tiêu một cách tích cực hơn nữa đối với các đàn gia cầm, kết hợp với phương pháp Một sức khỏe là giám sát tổng thể các mảng của hệ sinh thái con người-động vật hoang dã-vật nuôi. Cho đến nay, công tác giám sát đã được thực hiện chủ yếu để phát hiện cúm gia cầm độc lực cao H5N1 và các loại vi rút cúm A khác ở gia cầm. Công tác giám sát trong tương lai cần phải: i) nhắm đến gia cầm và các loài vật khác như lợn và động vật hoang dã, ii) tiến hành giám sát
Để nâng cao hiệu quả của công tác giám sát chủ động và bị động, triển khai thực hiện Hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu thú y là vô cùng cần thiết trong đó có sự tham gia của phòng thí nghiệm nhà nước và các đối tác dịch tễ học ở tất cả các
44
O A F ©
cấp. Mặc dù có những khó khăn vướng mắc về mặt cơ chế, quy định nhưng để đẩy nhanh dự án, các ứng dụng trên điện thoại thông minh và các công nghệ khác sẽ cần phải được sử dụng tại địa bàn để tăng cường báo cáo dịch bệnh ở cấp xã do người chăn nuôi thực hiện (giám sát bị động), và do nhân viên thú y và bác sỹ thú y thực hiện (chủ động).
phí, hoàn thành các mục tiêu rõ ràng nhằm tăng cường kiến thức hiểu biết về sự phát tán của mầm bệnh ở động vật. Trước mắt, với sự hỗ trợ kỹ thuật của FAO và các tổ chức khác, mục tiêu này có thể đạt được, tuy nhiên về lâu dài, việc này cần phải được Chính phủ Việt Nam quản lý và thực hiện đầy đủ. Trong tương lai, như đã đề cập ở phần nội dung bên trên, hoạt động giám sát cần phải được thực hiện đồng bộ với Bộ Y tế để giải quyết sự lây lan mầm bệnh giữa các lĩnh vực, trong bối cảnh thực hiện sáng kiến Một sức khỏe. Trong khi mục tiêu giám sát vẫn là mầm bệnh thì Bộ NN vàPTNT và Cục Thú y cần phải xem xét các vấn đề khác có thể có liên quan hoặc góp phần vào dịch bệnh trên động vật và rủi ro y tế công cộng bao gồm các thực hành sản xuất, an toan sinh học, vệ sinh, an toàn thực phẩm cùng với sử dụng kháng sinh, dư lượng kháng sinh và vi khuẩn kháng thuốc.
Trong những năm vừa qua, các đơn vị tài trợ, FAO và Cục Thú y đã bàn về việc chuyển giao chương trình cho Chính phủ và tính bền vững của chương trình giám sát chủ động nhưng chưa đưa ra được kết luận quan trọng nào. Thách thức đặt ra cho Chính phủ Việt Nam hiện nay là làm sao để thu hút được sự tham gia của các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vào chương trình giám quốc gia và mang lại lợi ích cho mạng lưới thú y các cấp. Quan điểm của FAO là các tổ chức tài trợ độc lập và các tổ chức quốc tế, Bộ NN vàPTNT, lãnh đạo tỉnh, và Bộ Tài chính cần phải cam kết ngân sách cho Cục Thú y để duy trì bền vững công tác giám sát thông minh đảm bảo hiệu quả chi
45
kiểm soát dịch bệnh. Chương trình AVET là một kết quả đầu ra quan trọng của dự án 604, đào tạo 190 cán bộ về dịch tễ học cơ bản, xóa bỏ khoảng cách quan trọng trong trình độ chuyên môn kỹ thuật.
Các đối tác của FAO và Cục Thú y đã tham gia giám sát liên tục cả về không gian và thời gian đối với vi rút cúm gia cầm độc lực cao H5N1 và tăng cường kiến thức hiểu biết về dịch tễ học vi rút ở Việt Nam và khu vực. Điều này đã giúp Cục Thú y, Bộ NN vàPTNT, Ban chỉ đạo quốc gia về Cúm gia cầm và các bên liên quan khác tiếp cận các nội dung chuyên môn trên cơ sở khoa học để đưa ra các quyết định đầy đủ thông tin. Đồng thời việc đó cũng giúp ích rất nhiều cho các đơn vị tài trợ cùng các bên quốc tế liên quan khác, cũng như vì lợi ích toàn cầu trong việc tiếp cận các nguồn thông tin tương tự như vậy.
Các điểm nổi bật trong công tác giám sát dịch bệnh Rõ ràng là chương trình giám sát đã tăng cường mức độ hiểu biết về các diễn biến của cúm gia cầm độc lực cao H5N1 tại Việt Nam. Các kết quả đạt được của sự hợp tác giữa FAO và Cục Thú y trong hàng loạt hoạt động liên quan đến giám sát là một ví dụ rõ nét về các lợi ích do hỗ trợ liên tục về tài chính và kỹ thuật mang lại. Cả Cục Thú y và FAO đều nỗ lực không ngừng trong nhiều năm để tìm ra giải pháp cho một vấn đề, vốn là mối lo ngại sâu sắc liên quan đến công tác kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao chẳng hạn như làm thế nào để nhanh chóng xác định ổ dịch, làm thế nào để ứng phó hiệu quả và để thu thập thông tin địa bàn để bổ sung thông tin tốt hơn vào kho kiến thức dịch tễ học. Bởi không có một giải pháp đơn giản và duy nhất nên các thông tin thu thập được trong bối cảnh còn những hạn chế về giám sát là bằng chứng quan trọng để các cấp có trách nhiệm có thể đưa ra các quyết định quản lý đầy đủ thông tin. Một hỗ trợ rất lớn cho công tác xây dựng năng lực dịch tễ học trong lĩnh vực thú y là việc tổ chức đào tạo về ứng phó dịch bệnh và điều tra ổ dịch. Việc tập trung vào cúm gia cầm độc lực cao đã tăng cường hiệu quả của chính công tác giám sát nói riêng đồng thời các mảng các của hoạt động xây dựng năng lực chung cũng mang lại những lợi ích cho các lĩnh vực khác trong
Việc tăng cường năng lực phòng thí nghiệm để đáp ứng được số lượng lớn mẫu bệnh phẩm từ các phát hiện cúm A cho đến phân tích gien như một phần hoạt động thường ngày trong chương trình giám sát chính là một thành tựu tuyệt vời của dự án. Chương trình theo dõi vi rút này cũng đã củng cố nỗ lực giám sát hiệu quả của
O A F ©
46
Sáng kiến mới đây về việc hợp tác với Campuchia trong công tác giám sát xuyên biên giới tại vùng sinh thái đồng bằng sông Cửu Long là một bước tiến đáng kể trong việc tăng cường hơn nữa kiến thức về cúm gia cầm độc lực cao H5N1 tại môi trường chung.
vắc xin ở Việt Nam, và điều này đã được đánh giá là một đóng góp quan trọng vào thành công tiêm phòng (Hình 2.7 cho thấy các kết quả phân tích phát sinh loài qua một giai đoạn được xác định cụ thể). Hơn nữa, việc giải trình tự gien và chia sẻ thông tin đã đóng góp vào lợi ích chung toàn cầu gắn với việc chuẩn bị sẵn sàng ứng phó dịch bệnh trên toàn cầu.
vấn đề về lưu hành và quản lý thông tin cùng với hoạt động điều tra và ứng phó dịch bệnh. Hầu như không thể đảm bảo rằng có nhiều cơ quan trong cả nước có đầy đủ kiến thức, được đào tạo và quan tâm để có thể quản lý ổ dịch tại địa phương cũng như chia sẻ những thông tin phù hợp với các đối tác của chính quyền trung ương. Đây chắc chắn sẽ là thực tế trong tương lai gần bởi vì Luật Thú y mới sẽ không bác thẩm quyền của chính quyền địa phương và vì thế khả năng có các phương pháp khác để điều tra, kiểm soát dịch bệnh và quản lý thông tin sẽ vẫn là một trở ngại lớn.
Các vấn đề tồn đọng và thách thức trong công tác giám sát dịch bệnh Mặc dù mô hình tăng cường giám sát thụ động không mang lại kết quả mang tính hiệu quả chi phí nhưng rõ ràng hệ thống giám sát thụ động là mô hình tốt nhất cho mục đích phát hiện ổ bệnh sớm với điều kiện đảm bảo minh bạch trong công tác báo cáo. Như vậy, vấn đề đặt ra là phải xác định các phương thức tăng cường mô hình này. Tuy nhiên, như đã nêu trong phần đánh giá các mô hình giám sát thụ động, hiện vẫn đang còn tồn tại nhiều hạn chế đòi hỏi phải nỗ lực giải quyết. Cơ sở của giám sát thụ động là người sản xuất tin rằng ngành thú y có đủ năng lực hỗ trợ họ một cách phù hợp. Và vì vậy, ngành thú y cần phải tiếp tục thể hiện mong muốn sẵn sàng cam kết với người dân, cố vấn kỹ thuật cho họ và có niềm tin vào cộng đồng người dân mà ngành đang phục vụ. Các nỗ lực cải thiện công tác giám sát bằng cách tăng cường tương tác và tiếp xúc giữa những người sản xuất với ngành thú y đã đưa lại những kết quả có phần không thực chất. Mặc dù việc đó tạm thời tăng cường tiếp xúc và có thể cải thiện việc báo cáo sớm, nếu không có cơ hội tương tác thì lại có vẻ như tình hình sẽ nhanh chóng quay ngược trở lại tình trạng ban đầu khi chủ vật nuôi có xu hướng tự giải quyết vấn đề của mình chứ không thông báo cho cơ quan thú y hoặc dịch vụ thú y tư.
Các hộ chăn nuôi khắp nơi trên thế giới đều sẽ tham gia vào các hoạt động thú y khi cần thiết nếu họ nhận thức được rằng hoạt động này mang lại các lợi ích tài chính và nếu sự tham gia đó không khiến họ bị phạt quá mức. Thực tế cho thấy ở Việt Nam, sự liên hệ giữa ngành thú y với hộ sản xuất thường chỉ được thực hiện khi có các vấn đề tiêu cực xảy ra (ví dụ như các vấn đề liên quan đến quy định) chứ ít khi vì lý do tích cực (ví dụ như ngành thú y có thể hỗ trợ như thế nào cho người sản xuất). Cả Cục Thú y không hề có một chuyên gia về các bệnh ở gia cầm nào và Cục Chăn nuôi thì hầu như không có chuyên môn sâu về các lĩnh vực quan trọng trong chăn nuôi gia cầm như lĩnh vực an toàn sinh học và quản lý lò ấp. Năng lực của ngành đã được nâng cao đáng kể nhờ các nỗ lực của dự
Sự thiếu liền mạch và các cơ chế phi tập trung của công tác quản lý thú y quốc gia đã gây ra các
47
cầm thả vườn đã gây ra những trở ngại lớn cho công tác báo cáo. Một số hạn chế áp đặt lên hoạt động buôn bán loại hàng hóa có giá trị kinh tế quan trọng của tỉnh cũng gây trở ngại việc báo cáo minh bạch và chia sẻ thông tin của chính quyền địa phương. Vì vậy rất khó để cố gắng thực hiện chương trình kiểm soát dịch bệnh dựa trên giám sát bị động một khi giai đoạn báo động nguy cấp đã qua. Đáng tiếc là tất cả nỗ lực xây dựng một hệ thống khả thi và hiệu quả về mặt chi phí đã không thể vượt qua được những trở ngại này. Ngay khi tính chất dịch địa phương của dịch được công nhận, mục đích giám sát đã thay đổi và các bên liên quan tại địa phương không còn động lực báo cáo nữa.
Mặc dù nguyên tắc phải có một cơ chế thực hiện quốc gia rất quan trọng đối với xây dựng năng lực và quyền sở hữu các kết quả, dự án đã không tham gia được đầy đủ các hoạt động thực địa để đảm bảo việc thực hiện phương pháp một cách đồng bộ. Một ví dụ của sự cam kết chặt chẽ đảm bảo cho kết quả tốt chính là dự án “Thu thập bằng chứng cho việc chuyển đổi chiến lược tiêm phòng cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở Việt Nam” (dự án GETS): giai đoạn thử nghiệm đã được tiến hành như một nghiên cứu và mức độ tham gia của dự án ở cấp độ địa phương được đưa ra đàm phán. Trong các trường hợp khác, khi sự cam kết của quốc tế hạn chế và các hoạt động phụ thuộc vào mô hình áp dụng tại thời điểm đó thì kết quả là đã không có được các thông tin nhất quán hoặc chính xác.
án, tuy nhiên vẫn còn thiếu sự chuyên môn hóa và điều đó đòi hỏi phải xây dựng năng lực bổ sung. Cả Cục Thú y và Cục Chăn nuôi đều đang thiếu nhân lực và nguồn lực tài chính để thực hiện các hoạt động.Thêm vào đó, vấn đề đặt ra là phải tiếp tục xây dựng niềm tin giữa các cơ quan thú y và người chăn nuôi. Việc này đòi hỏi cam kết mạnh mẽ hơn nữa của các cán bộ thú y và có thể thực hiện được bằng cách tăng cường yêu cầu hoạt động chuyên môn đúng quy trình. Tuy nhiên, rõ ràng là các điều chỉnh dài hạn này và sự gắn kết thông qua các đánh giá hiệu suất dịch vụ thú y của Tổ chức Thú y thế giới có thể đóng góp vào quy trình này nhưng việc đó phải do Cục Thú y đề xuất ở cấp chính sách quốc gia. Các vấn đề về cơ cấu của ngành thú y cũng góp thêm vào các hạn chế trong công tác giám sát. Có lo ngại rằng cán bộ địa phương không coi việc kiểm soát dịch bệnh là vấn đề quốc gia mà chỉ là vấn đề địa phương và vì vậy không nhận thức được yêu cầu phải báo cáo đầy đủ về tình hình dịch bệnh ở địa phương mình. Hiện thời, dòng thông tin dịch bệnh được coi là trách nhiệm của khối hành chính và vì vậy trách nhiệm và chức năng của bộ phận kỹ thuật không được coi trọng trong tình huống này. Các vấn đề chính sách có khả năng xảy ra khi thực hiện Luật thú y trong tình huống này sẽ rất phức tạp. Để khắc phục các hạn chế, cần phải xác định ra một giải pháp để tách biệt chức năng báo cáo dịch bệnh về mặt kỹ thuật khỏi chức năng hành chính ở cấp địa phương, và thiết lập trách nhiệm giải trình về mặt kỹ thuật nhiều hơn trong khuôn khổ kiểm soát dịch bệnh quốc gia.
Các biện pháp ứng phó ổ dịch ban đầu đã áp dụng ở Việt Nam chính là các hướng dẫn quốc tế được thiết kế cho các công ty chăn nuôi gia cầm ở quy mô lớn hơn có khả năng và năng lực kỹ thuật và cho các trường hợp mà việc không muốn báo cáo được khắc phục bằng các cơ chế bồi thường tài chính để bù đắp lại những thiệt hại do các biện pháp kiểm soát như giết bỏ gia cầm gây ra. Việc áp dụng các biện pháp này vào các hệ thống chăn nuôi nhỏ lẻ và các hộ nuôi gia
48
Kết luận Trong vòng 10 năm qua, cả Cục Thú y và FAO đã nỗ lực rất nhiều để tăng cường năng lực giám sát của ngành thú y. Tuy nhiên, việc báo cáo ổ dịch cuối cùng lại phụ thuộc vào các lo ngại tài chính của người sản xuất và thiện chí của lãnh đạo địa phương quyết định công bố thông tin. Các khó khăn vẫn còn nhưng mặc dù vậy thì một số lĩnh vực trong chương trình giám sát đã đạt được những tiến bộ lớn – Cục Thú y đã kiểm soát được phần nào hoạt động điều tra vi rút được tìm thấy từ ổ dịch và chợ buôn bán gia cầm sống. Trong tương lai gần, đây là khu vực có thể thu thập được những thông tin giá trị nhất, mang lại cho người ra quyết định các tài liệu tuyệt vời có cơ sở khoa học để xác định các can thiệp giảm thiểu dịch bệnh phù hợp. Các điểm nêu dưới đây là tóm tắt kết luận sau khi đầu tư và điều tra công tác tăng cường giám sát.
(i) Giám sát thụ động vẫn là nền tảng quan trọng của công tác giám sát cúm gia cầm độc lực cao
H5N1 tại Việt Nam.
(ii) Giám sát thụ động phát hiện sự xâm nhập của các chủng vi rút mới khá hiệu quả, mặc dù không xác định được là vi rút đã lưu hành trong đàn gia cầm bao lâu trước khi tỷ lệ ổ dịch tạo thành dấu hiệu được hệ thống giám sát ghi nhận.
(iii) Giám sát thụ động có hiệu quả khá thấp trong công tác báo cáo ổ bệnh có tính chất dịch địa phương và nhiều yếu tố ở cấp độ địa phương đã làm giảm hiệu quả của giám sát thụ động. Một số yếu tố liên quan đến cơ cấu và chức năng của ngành thú y, một số khác liên quan đến cơ cấu sản xuất gia cầm và các hệ thống buôn bán, một số là do thái độ của người sản xuất và số khác liên quan đến vai trò của cán bộ địa phương trong kiểm soát dịch bệnh.
(iv) Giám sát chủ động để phát hiện ổ dịch hoặc sự lây lan của vi rút rất tốn kém, không nhạy và
vì vậy không hiệu quả về mặt chi phí.
(v) Giám sát chủ động theo ngành dọc để phát hiện vi rút tại các chợ gia cầm sống không nhạy lắm, tốn kém và không mang lại thêm thông tin dịch tễ quan trọng hoặc tăng cường kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao tốt hơn so với hệ thống giám sát thụ động.
(vi) Giám sát tập trung cụ thể vào chợ gia cầm sống để theo dõi các chủng vi rút độc lực thấp hoặc
các đàn gia cầm có thể mang lại những thông tin dịch tễ hữu ích.
(vii) Phương pháp dịch tễ học trong điều tra và ứng phó ổ dịch không được lồng ghép chặt chẽ trong hoạt động thú y và các cơ hội thu thập thông tin quan trọng và tăng cường kiến thức hiện đang bị bỏ lỡ.
(viii) Quy luật phân bố của vi rút đã thay đổi do sự hình thành của nhánh mới tại khu vực đồng
bằng sông Cửu Long sau 8 năm ổn định ở dạng dịch địa phương của nhánh 1.
(ix) Hợp tác xuyên biên giới trong điều tra vùng sinh thái vi rút tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long đã chứng minh hiệu quả của việc tăng cường kiến thức dịch tễ học về cúm gia cầm độc lực cao H5N1.
49
50
© F A O
i
/ C Y G o p n a t h
51
i
h t a n p o G Y C /
O A F ©
TÓM TẮT
đây nhất là điều tra kỹ hơn nguồn gốc của tất cả 8 gien để phát hiện các thay đổi gien quan trọng, ví dụ như tái tổ hợp gien. Việc theo dõi phân bố địa lý của các nhánh vi rút đóng góp quan trọng vào việc hiểu được rõ hơn về dịch tễ học không gian của cúm gia cầm độc lực cao H5N1. Chi tiết của phân tích gien gần đây nhất (2013-2014) đã làm sáng tỏ những thay đổi tiến hóa, từ đó giúp tăng cường đáng kể hiểu biết về tình hình thực tế ở địa bàn và đóng góp vào tri thức toàn cầu về tập hợp vi rút này.
FAO Việt Nam đã phối hợp với các dự án khác để tăng cường an toàn sinh học và an ninh sinh học trong phòng thí nghiệm , và để lồng ghép thử nghiệm thành thạo và đảm bảo chất lượng trong toàn bộ mạng lưới phòng thí nghiệm toàn quốc. Sự tham gia tích cực với các phòng thí nghiệm tham chiếu, các dự án trong khu vực và các mạng lưới toàn cầu chính là để cập nhật những tiến bộ công nghệ và để đảm bảo các quy trình thực hành chuẩn tuân thủ thông lệ quốc tế. Ở cấp địa phương, FAO tăng cường liên kết với các phòng thí nghiệm của ngành y tế để đảm bảo độ tin cây cao hơn cho các phòng thí nghiệm thú y và các kết quả kiểm tra. Mặc dù đã đạt được những thành công nhưng vẫn còn tồn tại một số điểm yếu và Cục Thú y cần phải tiếp tục cam kết mạnh mẽ trong việc duy trì bền vững cơ cấu và chức năng của mạng lưới phòng thí nghiệm nếu muốn duy trì và nâng cao năng lực chuyên môn chẩn đoán hiện có.
Cục Thú y đặc biệt khen ngợi FAO về thành công trong việc hỗ trợ tăng cường năng lực chẩn đoán cúm gia cầm độc lực cao cho mạng lưới phòng thí nghiệm thú y và ghi nhận đóng góp vô cùng quan trọng của việc này đối với nỗ lực kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao ở Việt Nam. Một phần quan trọng của quy trình này là việc cố vấn liên tục với sự có mặt của một chuyên gia phòng thí nghiệm của FAO phối hợp chặt chẽ với các đồng nghiệp Việt Nam từ năm 2006. Những đóng góp của FAO tập trung vào việc cung cấp thuốc thử và đào tạo, hướng dẫn thử nghiệm hiệu quả của vắc xin, giám sát việc thực hiện các xét nghiệm chẩn đoán, thiết lập mối liên hệ giữa các phòng thí nghiệm với các nhóm dịch tễ học, xây dựng năng lực phân tích gien, và ở mức độ thấp hơn, FAO cũng cung cấp một số trang thiết bị cho phòng thí nghiệm. FAO cũng đóng góp vào việc tăng cường quản lý chung các phòng thí nghiệm và mở rộng năng lực chẩn đoán các bệnh khác ở lợn và gia cầm. FAO tập trung chuyên môn và tư vấn vào công tác giám sát khả năng gây bệnh của vi rút cúm gia cầm độc lực cao H5N1 đã được phân lập từ ổ dịch tại thực địa và giám sát các chợ buôn bán gia cầm sống. Song song với các nghiên cứu vi rút, hiệu quả của các loại vắc xin được Chính phủ mua về phục vụ cho chương trình kiểm soát bệnh cũng được giám sát. Hoạt động này được thực hiện sau khi xây dựng cơ sở cách ly động vật thí nghiệm an toàn tại Trung tâm chẩn đoán thú y trung ương. Một trọng tâm nữa của hoạt động hỗ trợ là xác định nhánh gien HA của các mẫu virus thu thập từ thực địa và gần
52
Giới thiệu
Trong công tác xử lý các trường hợp dịch bệnh khẩn cấp ở động vật, một trong những nền tảng chính cần có là năng lực thực hiện giám sát, trong đó yếu tố quan trọng nhất là khả năng đưa ra những chẩn đoán thí nghiệm nhanh chóng và đáng tin cậy. Một điều quan trọng nữa chính là phòng thí nghiệm, là nơi làm việc mà các tác nhân gây bệnh lây từ động vật sang người như cúm gia cầm độc lực cao H5N1 có thể được xử lý một cách an toàn, và các hoạt động tại đây không gây ra bất kỳ nguy cơ rủi ro nào cho môi trường bên ngoài.
Chẩn đoán tiêu chuẩn về cúm gia cầm độc lực cao thường dựa vào việc phát hiện vi rút H5N1 trong các mẫu xét nghiệm lấy từ gia cầm ốm hoặc chết. Phương pháp đầu tiên là nuôi cấy phân lập tác nhân gây bệnh trong trứng gà có phôi và sau đó là xác định type HA bằng cách sử dụng kháng huyết thanh tham chiếu. Việc này đòi hỏi nhiều thời gian và cũng có thể nói là một quy trình nguy hiểm vì đòi hỏi phải thao tác với các vi rút gây bệnh truyền nhiễm. Đầu năm 2004, các phòng thí nghiệm đã nhận thấy họ không thể áp dụng phương pháp này thường xuyên được. Phương pháp chẩn đoán thứ hai là sử dụng kỹ thuật phân tử để phát hiện sự có mặt của vật liệu di truyền vi rút trong các mẫu bệnh phẩm. Người ta đã dùng phương pháp RT-PCR và đến năm 2006 thì việc sử dụng phương pháp qRT-PCR được dùng phổ biến hơn vì quy trình chẩn đoán có nhiều thuận lợi hơn.
năng lực chẩn đoán sớm –Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ và Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (US CDC) hợp tác với Trung tâm chẩn đoán thú y trung ương (NCVD), Phòng thí nghiệm thú y Australia (AAHL) hợp tác với Cơ quan thú y vùng 6, và dự án của Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) hỗ trợ cho Viện Thú y (NIVR). Ban đầu, Viện Thú y là nơi tập trung nhiều năng lực nhất nhờ có dự án nghiên cứu hỗ trợ và có một chuyên gia vi rút có trình độ tiến sỹ. Vì vậy, Viện Thú y đã đóng vai trò là Phòng thí nghiệm tham chiếu trong một thời gian. Tuy nhiên hầu hết các mẫu thí nghiệm được gửi về đây đều được chuyển qua mạng lưới các phòng thí nghiệm chẩn đoán của 7 cơ quan thú y vùng. Các phòng thí nghiệm này là các cơ sở chẩn đoán tuyến đầu và cần phải phải tham gia vào chương trình để nhanh chóng xây dựng năng lực nhân sự, hậu cần và chẩn đoán. Hầu hết các phòng thí nghiệm thú y đều thiếu trang thiết bị và đào tạo để có thể đảm bảo an toàn khi xử lý các mẫu chẩn đoán, các phương pháp chẩn đoán đảm bảo Quy trình thực hành chuẩn (SOPs) chưa được thực hiện và tại Cục Thú y thì không có cơ sở để tiến hành công cường độc vi rút ở gia cầm một cách an toàn. Thêm nữa, quy trình thực hiện công việc cũng như việc bố trí không gian trong các phòng thí nghiệm có nguy cơ khiến các mẫu bệnh phẩm bị lây nhiễm chéo, đặc biệt là khi việc kiểm tra bằng kỹ thuật PCR được bắt đầu. Trong 2 năm đầu thực hiện các hoạt động chẩn đoán, năng lực của hệ thống đã được tăng cường nhưng cho đến năm 2006 các hạn chế cơ bản đối với một chẩn đoán có độ tin cậy vẫn còn tồn tại.
Ở giai đoạn đầu khi mới xuất hiện dịch năm 2004, chỉ có 3 phòng thí nghiệm ở Việt Nam – Trung tâm chẩn đoán thú y trung ương (NCVD) và Viện Thú y ở Hà Nội, và phòng thí nghiệm vi rút học tại Cơ quan thú y vùng 6 (RAHO 6) ở thành phố Hò Chí Minh là có năng lực chẩn đoán cúm gia cầm độc lực cao H5N1. Rất nhiều các chương trình hợp tác quốc tế có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ Cục Thú y phát triển
Việc xây dựng năng lực chẩn đoán được thực hiện qua các lớp đào tạo tại chỗ cho tất cả 6 phòng thí nghiệm thú y khu vực cũng như Trung tâm Chẩn đoán thú y trung ương, Viện Thú y và Phân viện Thú y miền Trung từ năm 2005-2006. Viện Thú y tại Hà Nội là viện đứng
53
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (US CDC) tổ chức tại Việt Nam và Mỹ năm 2004.
đầu về kỹ thuật nên một số cán bộ đã được tham dự khóa đào tạo “cầm tay chỉ việc” về chẩn đoán và phòng thí nghiệm được tổ chức ở Ôxtraylia vào tháng 11/2005. Ngoài dự án này ra, một số hoạt động đào tạo khác đã được
Năng lực phòng thí nghiệm và chẩn đoán giai đoạn 2006- 2010 Cho đến cuối năm 2005, đã có 4 phòng thí nghiệm thực hiện chẩn đoán cúm gia cầm độc lực cao H5N1 bằng phương pháp RT- PCR thông thường (Trung tâm chẩn đoán thú y trung ương - NCVD, Viện Thú y - NIVR, Cơ quan thú y vùng 6 - RAHO6 và Cơ quan thú y vùng 7 - RAHO7 (Cần Thơ), tuy nhiên mỗi phòng thí nghiệm lại sử dụng các phương pháp khác nhau tùy theo nguồn đào tạo. Tháng
1/2006, FAO đã thực hiện đánh giá nhu cầu của các phòng thí nghiệm để xác định các yêu cầu cấp thiết về trang thiết bị, đào tạo, an toàn sinh học và quy trình làm việc. Kết quả đánh giá đã chỉ ra những lỗ hổng về kỹ thuật và kinh nghiệm, việc thiếu kiến thức về các yêu cầu đối với quản lý và chu trình làm việc tại phòng thí nghiệm để có thể xử lý được một số lượng lớn mẫu thí nghiệm, đặc biệt là khi chương trình
Địa điểm
Nội dung chính
Cơ quan (Phòng thí nghiệm)
Tp HCM
Cơ quan Thú y Vùng 6 Quy trình thực hành chuẩn (SOP) cho Chẩn đoán
1
2006
3
Cúm A H5
2
2006
10
Cần Thơ
Cơ quan Thú y Vùng 7
Kiểm soát chất lượng nội bộ/bên ngoài
3
2007
5
Nha Trang
Viện thú y trung ương Chẩn đoán phân biệt cho Cúm gia cầm độc lực cao
4
2007
8
Nghệ An
Cơ quan Thú y Vùng 3 Quy trình thực hành chuẩn (SOP) cho chẩn đoán
hội chứng PRRS
5
2008
4
Hà Nội
Trung tâm chẩn đoán thú y TW/Cục Thú y
An ninh sinh học phòng thí nghiệm và Đảm bảo chất lượng
6
2008
10
Đà Nẵng
Cơ quan Thú y Vùng 4
Sửa đổi Quy trình thực hành chuẩn (SOP) cho Chẩn đoán H5N1
7
2009
10
Hải Phòng
Cơ quan Thú y Vùng 2 Chẩn đoán Cúm gia cầm và Giám sát, An ninh sinh
học Phòng thí nghiệm
8
2010
5
TpHCM
Cơ quan Thú y Vùng 6 An ninh sinh học Phòng thí nghiệm và Đảm báo
chất lượng
9
2010
12
Hiệu lực kháng sinh H5
Hà Nội
Trung tâm chẩn đoán thú y TW/Cục Thú y
12
Hà Nội
10
2011
Trung tâm chẩn đoán thú y TW/Cục Thú y
Sửa đổi Quy trình thực hành chuẩn (SOP) cho Chẩn đoán H5N1
11
2012
9
STT Năm Tháng
12
2013
10
Hà Nội
H7N9: Chẩn đoán phòng thí nghiệm và Giám sát
Trung tâm chẩn đoán thú y TW/Cục Thú y
13
2014
9
Hà Nội
Trung tâm chẩn đoán thú y TW/Cục Thú y
Tp HCM Cơ quan Thú y Vùng 6 An ninh sinh học Phòng thí nghiệm và Đảm báo chất lượng
H5N6: Chẩn đoán phòng thí nghiệm, hiệu lực kháng sinh, Giám sát
54
tiêm phòng được bắt đầu thực hiện và cần phải phục vụ chương trình giám sát sau tiêm phòng quy mô lớn. Tại thời điểm này, quyết định sử dụng kỹ thuật qRT-PCR để phát hiện vi rút đã được đưa ra bởi vì phương pháp này có thể quản lý một cách phù hợp các quy trình cần thiết tại phòng thí nghiệm và cơ sở vật chất đã sẵn sàng cho việc áp dụng các phương pháp. Các trang thiết bị cơ bản cần có là: tủ an toàn sinh học và máy qRT-PCR đã được mua về để phục vụ cho các dự án của USAID và Ngân hàng thế giới. Sau đó bắt đầu thực hiện đào tạo và thiết lập thực hành chuẩn tại phòng thí nghiệm.
vấn quốc tế và bố trí làm việc tại Trung tâm chẩn đoán thú y quốc gia (NCVD) để hỗ trợ kỹ thuật trực tiếp và liên tục cho các phòng thí nghiệm và điều phối ở mức nhiều nhất có thể sự hỗ trợ của tổ chức tài trợ cho lĩnh vực này. Trong thời gian dự án, các phòng thí nghiệm tiếp tục được hỗ trợ cung cấp thuốc thử và các vật tư tiêu hao để giúp phát triển, kiểm định và thực hiện các phương pháp chẩn đoán. Đầu năm 2007, chuyên gia đã đến thăm tất cả các phòng thí nghiệm trong đợt triển khai đào tạo tại chỗ, cố vấn xử lý sự cố, và tư vấn về các quy trình trong chẩn đoán bởi đây là những vấn đề thiếu sự đồng nhất giữa các phòng thí nghiệm. Các quy trình chẩn đoán chuẩn (SOPs) để chẩn đoán bệnh Newcastle và vi rút dịch tả vịt được đưa vào chiến lược chẩn đoán áp dụng cho các ổ dịch ở vịt. Thêm vào đó, một đợt thử nghiệm thành thạo đã được tổ chức để phản ánh về nhu cầu cần đầu tư hơn nữa cho một số phòng thí nghiệm. Đến cuối năm 2007, thực tế cho thấy cặp mồi prime và probe được quốc tế khuyên dùng trong kiểm tra bằng kỹ thuật qRT-PCR không còn hiệu quả nữa do sự xuất hiện của một chủng vi rút mới (nhánh 2.3.4). Việc nhanh chóng nhận ra vấn đề này là nhờ có chuyên gia đầy kinh nghiệm đánh giá kết quả lấy xét nghiệm của các phòng thí nghiệm. Trung tâm Chẩn đoán thú y trung ương đã kiểm tra hiệu quả của vắc xin với chủng vi rút đang lưu hành ngay tại thời điểm đó, đảm bảo với Cục Thú y rằng số vắc xin đã mua vẫn có tác dụng phòng ngừa. Trong năm 2007, FAO Việt Nam cũng đã làm việc với Mạng lưới phòng thí nghiệm khu vực - là một tổ chức được thành lập để hài hòa các phương pháp phòng thí nghiệm ở khu vực ASEAN, và phối hợp với mạng lưới toàn cầu OFFLU.
Đến thời điểm này, hệ thống phòng thí nghiệm thú y ở Việt nam chưa có kinh nghiệm hoạt động của một mạng lưới chẩn đoán tích hợp và vấn đề là cần phải xây dựng nền tảng cho mạng lưới phòng thí nghiệm để hỗ trợ đào tạo, phối hợp hài hòa, giám sát và trao đổi thông tin. Để tạo điều kiện cho việc tương tác giữa các phòng thí nghiệm, FAO đã đề nghị Cục Thú y chính thức thành lập mạng lưới phòng thí nghiệm thú y (Mạng lưới phòng thí nghiệm). Cuộc họp đầu tiên của Mạng lưới phòng thí nghiệm được tổ chức tại Cơ quan thú y vùng 6 ở thành phố Hồ Chí Minh tháng 3/2006 để chính thức hóa mạng lưới thành diễn đàn hoạt động liên tục để đưa ra các quyết định về các vấn đề liên quan đến cúm gia cầm độc lực cao H5N1, thiết lập các Quy trình thực hành chuẩn (SOPs) trong công tác chẩn đoán cúm gia cầm độc lực cao tại phòng thí nghiệm, và soạn thảo cẩm nang hướng dẫn cho bác sỹ thú y lấy mẫu thí nghiệm ở hiện trường. Cuộc họp cũng đưa ra khái niệm về Thử nghiệm thành thạo (PT), đợt thử nghiệm thành thạo đầu tiên được tiến hành vào tháng 6/2006 để đánh giá độ tin cậy của chẩn đoán cúm gia cầm độc lực cao H5N1 trong toàn mạng lưới. Kết quả của đợt thử nghiệm thành thạo đã cho thấy sự phát triển của năng lực chẩn đoán bằng phương pháp qRT-PCR đang tiến triển rất tốt.
Năm 2006, dự án đã tuyển một chuyên gia tư
Hai khóa đào tạo đã được tổ chức năm 2007; khóa học đầu tiên là về củng cố các phương pháp chẩn đoán và an toàn sinh học; và khóa thứ hai tập trung vào giám sát sau tiêm phòng và thu thập mẫu. Ngoài ra, FAO cũng hỗ trợ cho các phòng thí nghiệm trong việc áp dụng các
55
i
n M g n u J i
K /
O A F ©
kỹ năng chẩn đoán mới và trang thiết bị để ứng phó với các ổ vi rút gây bệnh Tai xanh thể độc lực cao. Để hỗ trợ quản lý tốt hơn khối lượng dữ liệu đã tăng lên nhiều tại các phòng thí nghiệm, Cục Thú y đã yêu cầu tất cả các phòng thí nghiệm đều sử dụng phần mềm LabNet (đây là một sáng kiến của Cục Thú y để kết nối báo cáo của các phòng thí nghiệm lên Phòng dịch tễ của Cục Thú y). Dự án đã hỗ trợ và tổ chức thêm khóa tập huấn về cách sử dụng LabNet và đã thuê một chuyên gia tin học trong nước để hỗ trợ nâng cấp phần mềm.
Nhánh 7 của virus cúm gia cầm độc lực cao H5N1 được tìm thấy trong số gà buôn lậu và cặp mồi đã được điều chỉnh thêm để tăng cường độ nhạy của phương pháp qRT-PCR. Một cặp mồi mới cho bệnh Newastlle cũng đã được bổ sung sau khi kết quả kiểm tra cho thấy độ nhạy đã giảm đi. Đợt thử nghiệm thành thạo tiếp theo sẽ cho thấy là tất cả các phòng thí nghiệm tham gia đều hoạt động tốt, và sau khi cài đặt phần mềm LabNet mới, cán bộ phòng thí nghiệm và những người khác ở Cục Thú y sử dụng phần mềm này đã được tập huấn về cách sử dụng. Các cuộc họp với Mạng lưới phòng thí nghiệm của các Cơ quan thú y vùng tiếp tục được thực hiện trong khi FAO và các phòng thí nghiệm trọng điểm trong dự án mạng lưới khu vực cùng tổ chức hội thảo cuối cùng tại Hà Nội. Để tạo điều kiện trao đổi thông tin và chuyên môn, các cuộc họp giữa Trung tâm Chẩn đoán thú y trung ương, FAO, Phòng thí nghiệm y tế quốc gia và chuyên gia phòng thí nghiệm của WHO đã được khởi xướng.
Đến năm 2008, việc nâng cấp đại tu cơ sở hạ tầng, được gọi là nâng cấp cơ sở cách ly động vật, đã được hoàn thành tại Trung tâm chẩn đoán thú y trung ương để có thể thực hiện công cường độc vi rút một cách an toàn hơn. Trong năm này, việc thử nghiệm vắc xin trên gà con và vịt con được hỗ trợ và giám sát để xác định các chế độ tiêm phòng tối ưu đối với các đàn gia cầm nuôi lấy thịt. Thêm vào đó, các kết quả cho thấy loại vắc xin véc tơ đậu gà không có tác dụng phòng ngừa cho những đàn gà tại địa phương, trái ngược với một thử nghiệm đã thực hiện tại một phòng thí nghiệm quốc tế trên số gà không có tác nhân gây bệnh (SPF).
Năm 2009, dự án đã hỗ trợ lắp đặt máy chủ LabNet mới và tiến hành khảo sát thiết bị phòng thí nghiệm. Đã tiến hành điều chỉnh một chút về thuốc thử dùng trong kỹ thuật qRT- PCR để
56
gia cầm được nộp về phòng thí nghiệm cho đến khi có kết quả chẩn đoán dương tính với cúm gia cầm độc lực cao mất 1,1 ngày và đến khi có kết quả xác nhận âm tính là 2,2 ngày cho thấy hệ thống chẩn đoán phòng thí nghiệm đã hoạt động hiệu quả hơn như thế nào. Tuy nhiên, 31% số mẫu nộp về không có thông tin dịch tễ kèm theo. Phần mềm mới dùng cho mạng lưới phòng thí nghiệm hiện đang hoạt động tốt, sau khi gặp một số vấn đề trong thời gian khởi động, và cẩm nang an toàn sinh học cho phòng thí nghiệm đã hoàn thành, và trình lên Cục Thú y để xin phê duyệt. Trong thời gian này, FAO đã tích cực vận động để Cục Thú y thông qua các biện pháp an toàn sinh học và an ninh sinh học phù hợp tại các phòng thí nghiệm, đặc biệt là các phòng thí nghiệm xử lý các tác nhân gây bệnh có khả năng lây từ động vật sang người.
đảm bảo duy trì độ nhạy với hàng loạt các loại vi rút khác nhau. Sáng kiến đưa lên mạng các thông tin trình tự gien H5N1 của vi rút ở Việt Nam đã được thực hiện. Thêm vào đó, chẩn đoán phân biệt các bệnh ở lợn bằng kỹ thuật qRT-PCR cũng được chú trọng hơn. Hai đợt thử nghiệm thành thạo đã cho thấy mặc dù kết quả đánh giá định tính là 100% nhưng không phải tất cả các phòng thí nghiệm đều tuân thủ chính xác các quy trình, và đây là vấn đề cần phải giải quyết. Trong năm này, đã tiến hành nhiều khóa tập huấn về an toàn sinh học do các tổ chức khác nhau tài trợ, hai cuộc họp LabNet đã được tổ chức. Một cán bộ phụ trách an toàn sinh học của Mạng lưới phòng thí nghiệm quốc gia đã được giao nhiệm vụ đến giữa năm 2010 sẽ hoàn thành bộ quy tắc hướng dẫn về an toàn sinh học cho các phòng thí nghiệm của Cục Thú y, sau đó sẽ hướng dẫn xây dựng cẩm nang an toàn sinh học cho mỗi phòng thí nghiệm. Để hỗ trợ chương trình tại thực địa, các thử nghiệm vắc xin đã được thực hiện tại Trung tâm chẩn đoán thú y trung ương để xác định ngưỡng bảo hộ đối với ngan.
Tóm lại, đến năm 2010, năng lực của các phòng thí nghiệm đã được xây dựng ở mức có thể thực hiện chẩn đoán một cách hiệu quả và đáng tin cậy. Chương trình nâng cao an toàn sinh học và an ninh sinh học tại các phòng thí nghiệm đã được thực hiện, việc quản lý thông tin đã được chuẩn hóa bằng gói phần mềm chia sẻ toàn mạng lưới và việc kiểm tra hiệu quả của vắc xin đã cho thấy số vắc xin mua của Trung Quốc (Re-1) vẫn có tác dụng phòng ngừa đối với các chủng virus đang hoạt động mạnh ở thực địa.
Việc kiểm tra hiệu quả của vắc xin và các cuộc họp LabNet tiếp tục diễn ra trong năm 2010, cùng với đó là việc đầu tư liên tục cho hoạt động giám sát và cố vấn cho chương trình chẩn đoán. Báo cáo LabNet chỉ rõ, với thời gian trung bình tính từ thời điểm mẫu bệnh phẩm
O A F ©
Hộp LabNet, 2010
57
Với những hỗ trợ thêm từ dự án của Ngân hàng thế giới, các phòng thí nghiệm của các Cơ quan thú y vùng bắt đầu tổ chức tập huấn thực hiện tiêu chuẩn ISO 17025 cho các xét nghiệm thú y trong phòng thí nghiệm và đến năm 2013, Trung tâm chẩn đoán thú y trung ương và các phòng thí nghiệm của 6 cơ quan thú y vùng (trừ Cơ quan thú y vùng 5) đã được cấp chứng chỉ - đây là một bước tiến quan trọng trong việc củng cố vai trò của các phòng thí nghiệm quốc gia và khu vực trong chẩn đoán dịch bệnh động vật ở Việt Nam. Trong giai đoạn này, FAO đã tạo điều kiện cho việc thảo luận trong phạm vi Cục Thú y về lộ trình chiến lược cho hệ thống phòng thí nghiệm liên quan đến chức năng, vai trò và bền vững tài chính của mạng lưới quan trọng này.
Năng lực phòng thí nghiệm và chẩn đoán giai đoạn 2011-2014 Đầu năm 2011, hệ thống phòng thí nghiệm đã xác định nhánh mới 2.3.2 của vi rút cúm gia cầm độc lực cao H5N1 đã xâm nhập vào Việt Nam và trở thành chủng vi rút hoạt động mạnh nhất ở các tỉnh miền Bắc - nhánh này đã thay thế hoàn toàn cho nhánh 2.3.4 tồn tại trước đó. Các thử nghiệm hiệu quả vắc xin ban đầu đã xác nhận vắc xin Re-1 hiện có vẫn còn hiệu quả , tuy nhiên sau đó nhánh 2.3.2 xâm nhập khiến hai loại vắc xin sẵn có không còn hiệu quả nữa. Giải trình tự gien vẫn là phương pháp được lựa chọn để nhanh chóng phân loại nhánh gien HA, và một số giải trình tự gien đã được thực hiện tại Cơ quan thú y vùng 6 bởi vì cơ quan đã mua được thiết bị giải trình tự gien thế hệ mới. Tuy nhiên, năm 2012, việc giải trình tự gien đã được mở rộng để bao gồm nhiều gien hơn và cuối cùng là giải trình tự cả bộ gien để đánh giá nòi giống gien – việc này đã được Trung tâm Chẩn đoán thú y trung ương tổ chức sắp xếp. Kết quả của công tác này đã được thảo luận dưới sự giám sát và đã cho thấy năng lực kỹ thuật được tăng cường đã đóng góp quan trọng vào việc giúp tìm hiểu rõ hơn về dịch tễ học và tiến hóa của vi rút tại Việt Nam.
Năm 2010, cuộc họp của mạng lưới phòng thí nghiệm đã được mở rộng sang cả mạng lưới phòng thí nghiệm dịch tễ - đây được coi là sự mở rộng của mạng lưới phòng thí nghiệm được thành lập từ năm 2006. Các cuộc họp chung phối hợp nhiều ngành này đã thu hút sự tham gia của hầu hết các viện và tổ chức có liên quan đến cúm gia cầm độc lực cao, chẩn đoán và nghiên cứu các bệnh lây từ động vật sang người ở Việt Nam. Diễn đàn này đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy chia sẻ thông tin giữa các bên liên quan và đưa ra các khuyến nghị phối hợp chung.
Sự xuất hiện gần đây của cúm gia cầm H7N9 ở Trung Quốc đã đặt ra nguy cơ vi rút có thể sẽ ngay lập tức xâm nhập vào Việt Nam. Để chuẩn bị sẵn sàng nếu có sự xâm nhập của vi rút, việc quan trọng là phải xây dựng năng lực chẩn đoán tác nhân gây bệnh, đánh giá và chuẩn bị sẵn các bộ mồi/thăm dò cho mạng lưới phòng thí nghiệm. Trong đợt kiểm tra đầu tiên, cả ngân hàng mẫu quy mô lớn đặt tại Cơ quan thú y vùng 2 đã được kiểm tra vi rút H7 và tất cả đều cho kết quả âm tính.
58
Các điểm nổi bật trong công tác xây dựng năng lực phòng thí nghiệm và chẩn đoán
Năng lực các phòng thí nghiệm cũng được phát triển để theo dõi các thay đổi gien và kháng nguyên trong kho vi rút cúm gia cầm độc lực cao H5N1, và để diễn giải kết quả từ góc độ dịch tễ học của vi rút hoặc các hệ quả ảnh hưởng đến tính hiệu quả của vắc xin.
Hoạt động tập huấn tại chỗ cho nhân viên phòng thí nghiệm, giám sát và cố vấn nhiều lần tại cơ sở, cũng như việc lựa chọn kỹ thuật và trang thiết bị phù hợp với mục đích chẩn đoán nhanh trong các điều kiện ở Việt Nam đã củng cố đáng kể năng lực chẩn đoán của mạng lưới phòng thí nghiệm.
Hai bài viết được đăng trên tạp chí nước ngoài phần lớn dựa trên cơ sở các kết quả giám sát vi rút được quản lý qua các phòng thí nghiệm.
8 phòng thí nghiệm thú y của Cục Thú y và 2 phòng thí nghiệm nghiên cứu của Bộ NN và PTNT đã được phát triển năng lực chẩn đoán phân tử để có thể xác nhận nhanh các ổ dịch nghi ngờ (trong vòng 2 ngày) và thực hiện chương trình giám sát vi rút cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở quy mô lớn.
Việc xây dựng mạng lưới phòng thí nghiệm đã đóng góp vào việc chuẩn hóa các quy trình phòng thí nghiệm, giám sát hiệu quả của các phòng thí nghiệm, xử lý sự cố, và tạo động lực thúc đẩy nhân viên thông qua việc tăng cường trao đổi thông tin và hợp tác giữa các phòng thí nghiệm.
Năng lực phòng thí nghiệm đã được tăng cường đủ để có thể quản lý và xét nghiệm số lượng lớn mẫu bệnh phẩm của chương trình giám sát sau tiêm phòng.
Các vấn đề và thách thức đối với mạng lưới phòng thí nghiệm
quy trình công việc, an toàn sinh học trong phòng thí nghiệm, đảm bảo chất lượng, và các hệ thống lưu trữ dữ liệu để theo dõi mẫu bệnh phẩm và kho thuốc thử, hóa chất.
Mô hình điều tra phòng thí nghiệm vẫn chưa được thực hiện hoàn chỉnh và cho đến nay, những gì phòng thí nghiệm có thể làm được vẫn chỉ hạn chế ở việc kiểm tra mẫu thí nghiệm một cách đơn giản. Cần phải nỗ lực hơn nữa để hướng dẫn và thiết lập các kỹ thuật vi sinh “truyền thống” cho chẩn đoán xác định và chẩn đoán phân biệt cũng như năng lực nghiên cứu. Cần chú ý nhiều hơn nữa đến việc tăng cường quản lý phòng thí nghiệm ở các lĩnh vực như:
Một số thái độ làm việc không có lợi cho chức năng dịch vụ phòng thí nghiệm và một số cung cách làm việc đã bén rễ quá sâu và khó thay đổi một cách có hệ thống trong một khoảng thời gian ngắn.
59
Hệ thống báo cáo, quản lý dữ liệu của phòng thí nghiệm cần phải được cải tiến hơn nữa, đặc biệt là trong việc kết nối kết quả xét nghiệm với các thông tin dịch tễ học.
thiếu năng lực chẩn đoán sâu. Các cơ quan thú y vùng cần phải phát triển các dịch vụ có chất lượng và có phương pháp tiếp cận toàn diện hơn trong điều tra dịch bệnh để mang lại doanh thu cần thiết trong tương lai nhằm duy trì hệ thống phòng thí nghiệm.
Thiếu cán bộ có kiến thức kỹ thuật chuyên sâu về các quy trình chẩn đoán và năng lực xử lý sự cố khi việc thực hiện xét nghiệm không diễn ra như mong muốn. Trong tương lai, cần có nhiều cán bộ được đào tạo bài bản hơn nữa được giữ lại để họ có thể trở thành lãnh đạo. Điều này có thể thực hiện được nếu họ có sự thăng tiến tốt trong hệ thống phòng thí nghiệm.
Có thể có các nguồn hỗ trợ tiếp tục giúp các phòng thí nghiệm phát triển các nguồn lực chẩn đoán (các cặp mồi/thăm dò) và vắc xin, từ đó giúp Việt Nam phụ thuộc ít hơn vào việc phải thuê từ bên ngoài các công cụ quản lý và chẩn đoán quan trọng.
Nguồn ngân sách từ Chính phủ để vận hành các phòng thí nghiệm và duy trì nguồn nhân sự có năng lực rất hạn chế. Nhìn chung trong hệ thống ngân sách chính phủ, các phòng thí nghiệm thú y không nằm trong hạng mục được ưu tiên cao. Chính vì vậy, Chính phủ Việt Nam cần phải đưa ra một lộ trình xây dựng và duy trì năng lực phòng thí nghiệm và chẩn đoán chất lượng bền vững.
Hệ thống phòng thí nghiệm thú y không có liên hệ chặt chẽ với ngành chăn nuôi và thường
Lý tưởng nhất là nếu có thêm cán bộ đã được đào tạo thạc sỹ về mảng kỹ thuật làm các nghiên cứu ứng dụng thì có thể giúp duy trì bền vững các kỹ năng cao để giảm phụ thuộc vào các nguồn từ bên ngoài trong việc quy trì chất lượng và độ tin cậy trong chẩn đoán vi rút. Thực tế cũng cho thấy các tiêu chuẩn, quy trình và quy định quốc gia cần phải hài hòa với an ninh sinh học, an toàn sinh học và quy trình chẩn đoán tại các phòng thí nghiệm của Trung tâm chẩn đoán thú y trung ương và các phòng thí nghiệm của các cơ quan thú y vùng trên toàn quốc.
60
61
i
h t a n p o G Y C /
O A F ©
62
63
i
h t a n p o G Y C /
O A F ©
TÓM TẮT
vào đó, dự án tăng cường năng lực giám sát liên tục các chủng vi rút tại cơ sở đã thông báo cho Chính phủ và FAO một cách nhanh chóng và đầy đủ về hiệu quả của vắc xin sử dụng. Chương trình đã xây dựng được một cơ sở thử nghiệm vắc xin an toàn, khi chủng vi rút H5N1 xâm nhập nhanh chóng đánh giá được hiệu quả của vắc xin và cung cấp cho Cục Thú y các thông tin cần thiết. Hai yếu tố này đã ngăn ngừa được một số vấn đề phát sinh của chương trình tiêm phòng ở nơi sự phối hợp chưa chặt chẽ và công tác kiểm soát chất lượng chưa sẵn sàng.
Cam kết của Chính phủ về việc hỗ trợ tài chính cho chương trình tiêm phòng theo kế hoạch đã xác định sẽ được đánh giá thường xuyên là một nét quan trọng trong nỗ lực kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao ở Việt Nam. Mối quan hệ đối tác giữa Chính phủ và FAO là một mối quan hệ công tác chặt chẽ, thông qua liên tục đối thoại và tiếp cận chuyên môn, và chính điều này đã giúp củng cố cam kết của Chính phủ Việt Nam với chương trình tiêm phòng quốc gia. Nếu chính quyền trung ương không sẵn sàng tiếp thu và có thiện chí tham gia đầy đủ với các cơ quan quốc tế và ngược lại thì kết quả đã không tốt như vậy. Sự linh hoạt, đánh giá thông tin, nghiên cứu và điều chỉnh là những yếu tố quan trọng của một chương trình tiêm phòng. Dự án nghiên cứu ứng dụng (GETS – xem phần nội dung bên trên) sử dụng phương pháp tiếp cận tiêm phòng có trọng điểm cho thấy có thể giảm bớt việc tiêm phòng đại trà và kết quả của dự án hỗ trợ cho quyết định của Chính phủ hạn chế chi tiêu công vào việc tiêm phòng đại trà.
Theo dõi sau tiêm phòng là một trong các khuyến nghị quan trọng được FAO và Tổ chức Thú y thế giới (OIE) đề xuất nhằm hướng dẫn các chương trình tiêm phòng cúm gia cầm độc lực cao H5N1. Dự án đã hỗ trợ Cục Thú y xây dựng chương trình theo dõi sau tiêm phòng kết hợp nâng cao năng lực phòng thí nghiệm để tiến hành thử nghiệm huyết thanh cần thiết. Ngoài ra, dự án cũng đã đảm bảo giám sát kỹ thuật cho phân tích dữ liệu.
Chính phủ Việt Nam kiểm soát việc nhập khẩu, phân phối vắc xin và chủng loại vắc xin đưa vào sử dụng. Việc này giúp ngăn ngừa ảnh hưởng của việc sử dụng vắc xin không phù hợp hoặc dùng vắc xin chất lượng không đảm bảo. Thêm
Do tình hình dịch bệnh chuyển từ giai đoạn dịch lớn sang giai đoạn dịch địa phương nên đòi hỏi phải nỗ lực hơn nữa để duy trì sự nhiệt tình tham gia của cả người chăn nuôi và cả nhân
64
kết quả của nghiên cứu ứng dụng đã giúp đưa ra những điều chỉnh phù hợp về mặt kỹ thuật cho chương trình và hạn chế việc tiêm phòng đại trà sử dụng ngân sách nhà nước.
viên thú y tại địa bàn. “Sự mệt mỏi với tiêm phòng” xảy ra ở cuối năm thứ 3 của chương trình tiêm phòng đại trà, vì vậy cần phải ứng phó lại bằng sự linh hoạt và điều chỉnh phù hợp về mặt kỹ thuật trong những trường hợp có thể. Sự kết hợp của kiến thức về các loại vi rút và phân bố của chúng, tính hiệu quả của vắc xin và
Giới thiệu
cầm có tầm quan trọng trong việc đảm bảo sinh kế. Chiến lược kiểm soát nhằm chống lại sự lây lan tiếp diễn của tác nhân gây bệnh và giảm mức độ phơi nhiễm ở người rõ ràng cần phải điều chỉnh.
Tính đến năm 2005, quyết định tiêm phòng cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở Việt Nam là một yếu tố then chốt để kiểm soát một dịch bệnh nghiêm trọng với số lượng ca nhiễm và tử vong ở người tăng cao ở mức báo động. Ở thời điểm đó, mối quan ngại về nguy cơ xảy ra đại dịch H5N1 ở người trên toàn cầu tăng cao và sự lây lan của vi rút H5N1 sang các nước phương Tây là những khía cạnh quan trọng để quyết định này ra đời. Nhận thức rõ tính khách quan của vấn đề này, Việt Nam nhìn nhận rằng việc phải hạn chế số ca nhiễm ở người càng nhanh càng tốt là một trách nhiệm quan trọng. Bên cạnh đó, có các lo ngại sâu sắc cả trong và ngoài nước về việc tiêm phòng cúm cho gia cầm và những ý kiến gay gắt của các lãnh đạo y tế toàn cầu về những tổn thất có thể gây ra nếu biện pháp này được thực hiện. Tuy nhiên, ngay từ đầu, FAO đã ủng hộ mạnh mẽ quyết định cho tiêm phòng của Chính phủ Việt Nam, và thông qua hỗ trợ của các đơn vị tài trợ, đã liên tục hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam khi được yêu cầu.
Đến giữa năm 2005, số lượng ca nhiễm cúm ở người đã gia tăng ở mức nguy hiểm bất chấp việc Chính phủ Việt Nam đã kiên quyết áp dụng các biện pháp kiểm soát truyền thống là “diệt tận gốc” – có nghĩa là giết hủy toàn bộ gia cầm trên diện rộng nhằm bao vây khu vực có đàn gia cầm nhiễm bệnh. Không những không ngăn ngừa được việc các ca nhiễm ở người tiếp tục tăng, chính sách này đã gây ra những tổn thất nặng nề ngoài dự kiến cho các hộ thu nhập thấp - là những gia đình mà đối với họ đàn gia
Tại thời điểm này, cần lưu ý là tiêm phòng được thực hiện như một biện pháp bổ sung chứ không phải để thay thế cho các biện pháp khác đang được tiến hành. Ai cũng thấy rằng việc tăng cường năng lực trong vệ sinh thú y là một khía cạnh quan trọng khác để khống chế dịch bệnh và việc này đòi hỏi cần phải có thời gian, vì vậy cần phải có ngay một biện pháp bổ sung để sớm ổn định tình hình. Trong bối cảnh ấy, Chính phủ đã quyết định sử dụng tiêm phòng như một biện pháp kiểm soát bổ sung trong khi các biện pháp kỹ thuật khác như giám sát, hỗ trợ tăng cường năng lực phòng thí nghiệm, an toàn sinh học, và ứng phó ổ dịch được tăng cường. Thêm vào đó, điều chỉnh các tập quán sản xuất có nguy cơ cao như không có quy định cho chợ gia cầm sống, mất vệ sinh và các hoạt động buôn bán thiếu an toàn trở nên cần thiết để giảm nguy cơ lây lan dịch bệnh nói chung. Tuy nhiên, không thể hy vọng những điều chỉnh này có thể thực hiện trong thời gian ngắn. Chương trình tiêm phòng cúm gia cầm độc lực cao H5N1 bắt đầu thực hiện một cách có chiến lược vào cuối năm 2005 với mục tiêu ban đầu là giảm số ca nhiễm cúm ở người đồng thời đảm bảo tỷ lệ lớn số gia cầm đạt mức miễn dịch phòng ngừa trong thời gian trước Tết Nguyên đán năm 2006. Tính theo mùa đây là
65
i
h t a n p o G Y C /
O A F ©
thời gian việc chăn nuôi gia cầm, buôn bán và sự vận chuyển gia cầm tăng cao khiến nguy cơ nhiễm cúm ở người càng nghiêm trọng.
thể, hỗ trợ về thú y được tập trung vào công tác đào tạo, bổ sung thù lao và trang bị cho các nhóm tiêm phòng tại cơ sở để tăng cường công tác giám sát và đào tạo cán bộ địa bàn trong các hoạt động ứng phó khẩn cấp. Đóng góp này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong thành công bước đầu của chiến dịch tiêm phòng.
Việc ứng phó dịch bằng cách tiêm phòng đã được bắt đầu ở hai tỉnh thí điểm là Nam Định và Tiền Giang từ giữa năm 2005 đến tháng 9 năm 2005 khi Chính phủ Việt Nam ban hành Quyết định số 2586/QĐ/BNN-TY về tiêm phòng. Chiến dịch tiêm phòng cuốn chiếu được bắt đầu thực hiện từ quý 4 năm 2005 cho 46 tỉnh dù không được tiến hành đồng thời tại tất cả các tỉnh này. Trong thời gian này, Chính phủ Việt Nam và các tổ chức LHQ phối hợp trong một nỗ lực chung nhằm gây quỹ từ các đơn vị tài trợ ở trong nước để hỗ trợ cho hoạt động ứng phó khẩn cấp, và FAO đã đóng vai trò là một đối tác quan trọng trong quá trình này. Cụ
Một nghiên cứu tình huống có tên gọi là “Tiêm phòng cúm gia cầm độc lực cao H5N1 cho gia cầm ở Việt Nam” đã xem xét kỹ các góc độ lịch sử và kỹ thuật của chương trình tiêm phòng sớm. Nghiên cứu này đã cung cấp những thông tin hữu ích về nhiều vấn đề cần phải được cân nhắc trước khi thực hiện tiêm phòng đại trà cho những người chịu trách nhiệm ra quyết định và trả lời cho câu hỏi vì sao chương trình lại được thiết kế như vậy.
Tình hình năm 2006 Việc nhấn mạnh tầm quan trọng của mục tiêu cho chính sách tiêm phòng không bao giờ là thừa. Trong trường hợp này, chương trình tiêm phòng có 2 mục tiêu chính: 1) giảm số ca nhiễm cúm ở người, và 2) giảm ảnh hưởng của dịch bệnh lên đàn gia cầm. Việc đánh giá thành công
không có gì phức tạp và có thể thực hiện được – số ca nhiễm và tử vong ở người do cúm đã được Bộ Y tế thống kê bằng chương trình giám sát đặc biệt, trong khi đó, ảnh hưởng của dịch bệnh lên đàn gia cầm được đánh giá thông qua số gia cầm chết khi xảy ra dịch do chính quyền địa
66
Theo dõi sau tiêm phòng (PVM) cũng là một hoạt động quan trọng trong số các khuyến nghị của FAO và OIE đưa ra để hướng dẫn chương trình tiêm phòng cúm gia cầm độc lực cao H5N1. Dự án đã hỗ trợ Cục Thú y xây dựng phương pháp theo dõi sau tiêm phòng và sau đó tạo điều kiện điều chuyển viện trợ để hỗ trợ cho một hoạt động có quy mô lớn là kết hợp khía cạnh dịch tễ học của công tác giám sát với năng lực phòng thí nghiệm để tiến hành thử nghiệm huyết thanh cần thiết. Thêm vào đó, dự án đã giám sát kỹ thuật cho công tác phân tích dữ liệu. Trước khi có quyết định giảm bớt tiêm phòng đại trà, một đánh giá chương trình theo dõi sau tiêm phòng đã kết luận là chương trình này đã đưa ra các thông tin hữu ích về mặt kỹ thuật tuy nhiên nếu tiến hành một số điều chỉnh thì có thể sẽ có được những thông tin sâu hơn về hiệu suất của chương trình tại địa bàn.
phương ghi chép và có trong số liệu của các hoạt động kiểm soát các dịch bệnh khác. Chương trình tiêm phòng do Chính phủ hỗ trợ được thực hiện theo các giai đoạn 2 năm, gồm các chiến dịch tiêm phòng đại trà được thực hiện một năm 2 lần và các đánh giá kỹ thuật do Cục Thú y và FAO thực hiện. Giai đoạn 1 bắt đầu năm 2005 và kéo dài đến cuối năm 2006, giai đoạn 2 được thực hiện trong năm 2007 và 2008, và giai đoạn 3 được thực hiện trong các năm 2009 và 2010. Giai đoạn 4 đã được lên kế hoạch nhưng không thực hiện được do chương trình tiêm phòng bị gián đoạn vào cuối năm 2010 do những vấn đề về hiệu quả của các loại vắc xin sẵn có đối với các chủng vi rút cúm gia cầm độc lực cao H5N1 mới nổi, và thông tin thu được từ dự án GETS (xem nội dung bên dưới). Một mục tiêu phụ của việc thực hiện tiêm phòng là phần nào giúp ổn định tình hình dịch bệnh tại địa bàn để cán bộ thú y có thể tập trung nguồn lực vào việc xây dựng năng lực và có các biện pháp phòng ngừa để giảm mức độ “cứu hỏa” lúc đó. Ở thời điểm này, các hoạt động đã được bắt đầu thực hiện để tăng cường năng lực kỹ thuật trong giám sát, chẩn đoán phòng thí nghiệm, an ninh sinh học và ứng phó ổ dịch. Thêm vào đó, một số điều chỉnh đã được thực hiện tại một số chợ và đơn vị sản xuất, nhờ vậy mà các biện pháp kiểm soát ban đầu đã được tăng cường.
Cục Thú y đã đề nghị dự án hỗ trợ để phát triển một ứng dụng phần mềm quản lý công tác lưu trữ vắc xin sử dụng để giám sát việc sử dụng và theo dõi nguồn dự trữ vắc xin trong mạng lưới phân phối cấp tỉnh. Phần mềm này đã được một công ty công nghệ thông tin trong nước phát triển và được đưa vào sử dụng thường xuyên vào năm 2010 tại các tỉnh dự án. Sau khi chương trình tiêm phòng đại trà kết thúc, một số chi cục thú y vẫn đang sử dụng phần mềm này để theo dõi việc sử dụng vắc xin tại cơ sở.
Việc quản lý lưu trữ vắc xin đúng quy cách có ý nghĩa vô cùng quan trọng và Chính phủ Việt Nam đã đề nghị dự án hỗ trợ để cải thiện dây chuyền lạnh để vận chuyển vắc xin và đặc biệt là nâng cấp các cơ sở lưu trữ tại các trung tâm phân phối cấp tỉnh. FAO đã hỗ trợ điều chuyển một khoản viện trợ của chính phủ Ai-len cho yêu cầu này, gồm thực hiện đánh giá nhu cầu và sau đó, hỗ trợ việc nâng cấp và lắp đặt 12 phòng lạnh có máy phát điện và 36 thùng bảo quản lạnh cho 12 tỉnh mục tiêu. Trong đó có 5 tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng sông Hồng, 4 tỉnh khu vực miền Trung và Tây Nguyên và 3 tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long.
Các chi tiết về chương trình giám sát vi rút được nêu rõ trong chương Công tác giám sát. Sự liên quan đến chương trình tiêm phòng là do việc đưa các chủng vi rút mới ở địa bàn vào chương trình thường xuyên hoặc trong một số trường hợp Trung tâm chẩn đoán thú y Trung ương của Cục Thú y thực hiện kiểm tra thử thách cường độc khẩn cấp của vắc xin theo hướng dẫn của FAO. Sau khi hoàn thành cơ sở thử thách vi rút năm 2007, các thử nghiệm kiểm tra tính an toàn của vắc xin đã được tiến hành thường xuyên. Tổng số 52 thử nghiệm đã được tiến hành trong giai đoạn 2007-2014 để theo dõi khả năng gây
67
nghiên cứu thú y Harbin, Trung Quốc để tìm hiểu những kinh nghiệm trực tiếp về các công tác kiểm soát chất lượng vắc xin. Mặc dù một số công ty trong nước đã cố gắng sản xuất và phân phối vắc xin cúm gà nhưng nếu có đầu tư thêm vào công nghệ vắc xin mới thì Việt Nam có thể tiến tới tự sản xuất đủ vắc xin cho nhu cầu trong nước.
bệnh của các chủng vi rút mới lây lan ở địa bàn và tính phù hợp kháng nguyên của các chủng vắc xin mới với các loại vi rút trên thực địa. Trên cơ sở của các kết quả này, các chủng vắc xin được sử dụng đã được cập nhật, đặc biệt là từ năm 2011. Tổng số có 4 thay đổi lớn về chủng lại vi rút tại thực địa: nhánh 1 đến nhánh 2.3.4 vào năm 2007 và không có sự thay đổi về vắc xin vì vắc xin Re-1 vẫn có hiệu quả đối với cả hai chủng này; nhánh 2.3.4 đến 2.3.2.1a và b vào năm 2009-2010 và vắc xin Re-6 được đưa vào sử dụng cho nhánh 2.3.2.1b; nhánh 2.3.2.1c vào năm 2012, tuy nhiên không có sự thay đổi về vắc xin bởi vì vắc xin Re-6 vẫn có tác dụng đối với chủng vi rút này; sự xuất hiện của nhánh 2.3.4.6 (H5N6) vào năm 2014 đòi hỏi việc quay trở lại sử dụng vắc xin Re-5 bởi vì vắc xin Re-6 không có tác dụng đối với chủng 2.3.4.6. Từ khi dừng chương trình tiêm phòng đại trà, một số tỉnh đã quyết định tiếp tục chương trình tiêm phòng mục tiêu ở các khu vực được chi cục thú y đánh giá là các khu vực có nguy cơ cao và với sự hỗ trợ của dự án, Cục Thú y đã tiếp tục theo dõi tính hiệu quả các loại vắc xin đang được sử dụng. Mới gần đây, sau khi xảy ra cúm H5N6, Cục Thú y đã thực hiện một thử nghiệm các vắc xin khác để xác định liệu 3 loại vắc xin cúm H5N1 sử dụng ở Việt Nam có tác dụng phòng ngừa chéo cho chủng vi rút mới H5N6 không. Kết quả cho thấy có 2 trong số 3 vắc xin có thể phòng ngừa trên gà.
Một phần của quy trình điều chỉnh chính sách và đi theo hướng tiêm phòng theo hướng mục tiêu là việc thực hiện dự án “Thu thập bằng chứng cho việc chuyển đổi chiến lược tiêm phòng cúm gia cầm độc lực cao ở Việt Nam” (GETS) do Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kì hỗ trợ. Dự án này đã thực hiện nghiên cứu ứng dụng trong 2 năm về phương pháp tiếp cận có điều chỉnh trong tiêm phòng được gọi là chương trình tiêm phòng cho vịt theo nhóm tuổi và ngừng chương trình tiêm phòng đại trà cho gà trong vùng thí điểm. Kết quả cho thấy có thể giảm sự lây truyền của vi rút H5N1 qua vịt trưởng thành nuôi lấy thịt bằng việc tiêm phòng có mục tiêu và phòng ngừa nhiễm bệnh trong các đàn gà ở làng lân cận. Các kết quả của dự án GETS hỗ trợ cho Chính phủ quyết định ngừng việc tiêm phòng đại trà. Mặc dù một số thử nghiệm và nghiên cứu quy mô nhỏ đã được các nhóm nghiên cứu khác nhau thực hiện từ năm 2004, nhưng đây là nghiên cứu ứng dụng có quy mô lớn đầu tiên được thực hiện tại 4 tỉnh dự án. FAO đã hỗ trợ đáng kể về trang thiết bị, giám sát, phân tích dữ liệu, và truyền thông cần thiết. Ngoài ra, dự án đã cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật bổ sung cho dự án GETS để đảm bảo hoạt động của chương trình diễn ra theo kế hoạch.
Chính phủ Việt Nam đã bày tỏ mong muốn phát triển năng lực sản xuất vắc xin và đảm bảo các quy trình tái đóng chai số lượng lớn vắc xin đã mua, tuân thủ các tiêu chuẩn Thực hành sản xuất tốt. Dự án đã tạo điều kiện cho 1 chuyên gia quốc tế thực hiện kiểm tra hai cơ sở sản xuất vắc xin đang hoạt động và sau đó là chương trình tập huấn về Thực hành sản xuất tốt nhằm nâng cao tiêu chuẩn xử lý vắc xin. Ngoài ra, dự án cũng đã hỗ trợ một nhóm nghiên cứu kỹ thuật gồm 4 cán bộ của Trung tâm Kiểm nghiệm thuốc thú y trung ương đến thăm cơ sở sản xuất vắc xin cúm gia cầm ở Viện
Nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong công tác tiêm phòng đã mang lại các kết quả thứ cấp rất quan trọng. Những nhóm ra quyết định cả về hành chính và kỹ thuật ở cấp bộ, cấp cục vụ và cấp địa phương đều có kiến thức tốt hơn và hiểu rõ hơn về việc tận dụng chiến lược tiêm phòng đại trà cũng như các điểm yếu có thể có của chương trình này. Chẳng hạn như, dựa
68
trên kinh nghiệm và hiểu biết về nguy cơ tại địa phương, một số khu vực đã quyết định chuyển sang chương trình tiêm phòng theo mục tiêu chứ không chọn tiêm phòng theo diện rộng. Đến nay, các hộ dân cũng đã mong muốn coi tiêm phòng là một biện pháp phòng ngừa thường xuyên chứ không phải chỉ thực hiện khi có nguy cơ khẩn cấp nữa. Thêm vào đó, ấn tượng rõ nét từ cơ sở là chương trình tiêm phòng đã giúp các hộ chăn nuôi xích lại gần hơn với ngành thú y. Điều này cũng có nghĩa là thực hành chăn nuôi gia cầm cũng như công tác giám sát dịch bệnh đã được nâng cao. Một điều khá rõ nữa là người chăn nuôi gia cầm mong muốn hoạt động tiêm phòng được điều chỉnh phù hợp hơn với các chu trình và nhu cầu chăn nuôi, và điều này đã được ngành thú y ở nhiều nơi tiếp thu thực hiện. Sau khi kết thúc chương trình tiêm phòng bằng ngân sách nhà nước, nhiều địa phương đã bãi bỏ chương trình tiêm phòng đại trà cố định và thay vào đó là phương pháp tiếp cận linh hoạt hơn tùy theo địa phương.
Tóm lại, khi chương trình tiêm phòng phát triển và có thông tin sẵn sàng, dự án đã hỗ trợ tư vấn kỹ thuật và nhiều hỗ trợ khác, nhưng quan trọng nhất là việc đánh giá kỹ thuật đã được thực hiện định kỳ ở Việt Nam và thành công lớn nhất là công tác đánh giá chính sách với sự tham gia của cán bộ Bộ NN và PTNT. Chiến lược giám sát sự xuất hiện của các chủng vi rút trên thực địa và liên tục thử nghiệm các chủng vắc xin cho thấy Chính phủ Việt Nam có khả năng đối phó kịp thời với các nguy cơ mới nổi do nhiều chủng vi rút khác nhau gây ra. Trong thời gian thực hiện chương trình từ năm 2006 đến nay, đã có 4 lần các chủng vi rút biến đổi và xuất hiện mới trên thực địa và kéo theo là 2 lần thay đổi vắc xin phòng ngừa. Gần đây, việc xuất hiện các biến chủng vi rút mới đã khiến dịch bệnh tăng lên trong một khoảng thời gian ngắn, tuy nhiên sự phối hợp và tăng cường các hoạt động kết hợp với việc triển khai nhanh chóng các vắc xin mới đã làm cho việc tái xuất hiện các trường hợp lây nhiễm ở người như năm 2005 không diễn ra.
y u h T n e y u g N g n a H /
O A F ©
69
Kết quả của chương trình tiêm phòng giai đoạn 2006-2010 Điều quan trọng là trong suốt giai đoạn này, của chương trình kiểm soát dịch bệnh bằng chương trình tiêm phòng do các cơ quan nhà biện pháp tiêm phòng được thể hiện qua số ca nước thực hiện đã được Chính phủ Việt Nam nhiễm ở người giảm xuống đáng kể vào năm hỗ trợ toàn bộ chi phí. FAO đã cung cấp hỗ trợ 2006 và trên thực tế, số gia cầm mắc bệnh ốm kỹ thuật theo yêu cầu, trong đó có việc hỗ trợ chết cũng đã giảm đi đáng kể. Một phần là do dây chuyền lạnh và các trang thiết bị bảo quản yêu cầu giết hủy gia cầm trên diện rộng để kiểm vắc xin, đặc biệt là ở giai đoạn đầu chương trình. soát dịch bệnh đã được hiện tốt hơn vì tự tin là Tuy nhiên, để có một bức tranh toàn cảnh, một các ổ dịch ở địa phương sẽ không lây lan nhanh số thông tin về các kết quả đạt được của chương chóng trong các đàn gia cầm đã được tiêm trình tiêm phòng đã được thảo luận ở đây trước phòng. Về cơ bản, hai mục tiêu của chương khi kết thúc phần nội dung này. Thành công trình tiêm phòng đều đã đạt được.
Thực tế triển khai Chiến dịch tiêm phòng quốc gia
lượt tiêm phòng đầu tiên, có hiện tượng các hộ chăn nuôi cá thể hộ gia đình giảm bớt sự hăng hái và ý thức tuân thủ, những người khác lại cho rằng tiêm phòng hoặc chỉ gây tổn thất cho người chăn nuôi hoặc gây rắc rối cho việc quản lý bởi việc tiêm phòng đã không phù hợp với chu kỳ sản xuất. Thêm vào đó, ngành thú y cũng giảm bớt sự nhiệt tình trong việc duy trì một khối lượng lớn các hoạt động liên quan.
Mặc dù chương trình tiêm phòng được công nhận cả trong và ngoài nước vì đã đóng góp lớn trong việc giảm số trường hợp nhiễm bệnh ở người và động vật, nhưng thực tế vẫn còn nhiều thách thức cần phải giải quyết. Trong khi chương trình thí điểm ban đầu đang được thực hiện tại hai tỉnh để đánh giá quy trình thực hiện thì kế hoạch đã nhanh chóng chuyển sang giai đoạn triển khai chính thức do những áp lực lớn về việc phải làm giảm các ca nhiễm bệnh ở người đang tiếp tục gia tăng. Vì là trường hợp ứng phó khẩn cấp, Chính phủ đã không có đủ thời gian để thu thập thông tin đầu vào như mong muốn trước khi quyết định sử dụng vắc xin.
Từ góc độ kinh tế, việc tiêm phòng cho đàn vịt trưởng thành nuôi lấy thịt không được người chăn nuôi hưởng ứng vì có thể gây ra các phản ứng dưới cơ do các chất bổ trợ. Nhiều hộ chăn nuôi có đàn vịt đẻ có vòng đời dài hơn đã nhìn nhận việc tiêm phòng theo cách rất tiêu cực vì vịt sau khi tiêm phòng cho năng suất trứng thấp. Trong tương lai không xa Chính phủ mong đợi đưa chương trình tiêm phòng thành một trong những biện pháp kiểm soát dịch bệnh thông thường cho các hệ thống sản xuất chăn nuôi vịt thả đồng. Và như vậy thì về lâu dài, việc thực hiện các can thiệp “thân thiện với sản xuất chăn nuôi” nhằm giảm tỷ lệ nhiễm bệnh và sự lưu hành của vi rút trên đàn vịt một cách hiệu quả là yếu tố then chốt trong việc duy trì bền vững các hoạt động kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao H5N1 ở Việt Nam.
Trên thực tế ở lượt tiêm đầu tiên hiệu quả tiêm phòng không tốt được chấp nhận, một phần có lẽ vì chủng vắc xin được lựa chọn theo hướng dẫn quốc tế về việc cho phép áp dụng thử nghiệm để phân biệt gia cầm nhiễm bệnh và gia cầm đã được tiêm phòng (phương pháp tiếp cận DIVA) (ví dụ như vắc xin H5N2) và phần nữa là do thiếu các trang thiết bị và tài chính hỗ trợ cần thiết cho lực lượng tiêm phòng. Sau lượt tiêm đầu tiên, vắc xin được đổi sang biến chủng vắc xin H5N1 từ Trung Quốc, phù hợp với chủng đang có trên thực địa hơn, và hiệu quả của vắc xin đã được nâng cao. Sau một số
70
Các vấn đề tồn tại và thách thức trong công tác tiêm phòng
Có thể nói, thách thức chính về mặt kỹ thuật trong tương lai là thực hiện các chương trình tiêm phòng hiệu quả hơn trên vịt. Việc phát triển được vắc xin kết hợp cho cả cúm gia cầm và bệnh dịch tả vịt gần đây có thể mang lại những tiến bộ mới trong lĩnh vực này. Kết quả là sẽ có thể không còn phải cần đến nhiều loại vắc xin, đảm bảo thời gian đề kháng dài hơn, kết hợp vắc xin cúm với một chương trình quản lý dịch bệnh sẵn có cho đàn vịt và không phải tiêm chất bổ trợ thẳng vào cơ của vịt nuôi lấy thịt nữa.
Điều quan trọng hiện nay là một chủng vi rút mới có khả năng sẽ xuất hiện ở Việt Nam vì người ta đã xác định là một số chủng vi rút trên thực địa chính là các sản phẩm của việc tái tổ hợp gien di truyền giữa các nhánh H5N1khác nhau . Việt Nam có thể sẽ phải tăng cường năng lực nghiên cứu để nhanh chóng sản xuất được vắc xin tái tổ hợp gien để kiểm soát dịch, đặc biệt là ở vịt. Cùng với điều này, gần đây Bộ NN và PTNT đã thành lập Ban chỉ đạo quốc gia về phát triển vắc xin cho động vật với mục tiêu để giám sát các hoạt động nghiên cứu phát triển vắc xin ở Việt Nam.
Có rất nhiều khó khăn trong công tác duy trì công tác tiêm phòng như một công cụ dự phòng tại các môi trường có nguy cơ cao do mối lo về dịch bệnh đã giảm đi đáng kể trong tư tưởng của cơ quan quản lý nhà nước và của người sản xuất. Khi có nhận thức tốt về các mối đe dọa liên tục thì với một hệ thống giám sát được điều chỉnh hợp lý, năng lực ứng phó và nguồn lực dành cho công tác đền bù cho hộ chăn nuôi bị ảnh hưởng của dịch bệnh, cùng với các biện pháp kiểm soát tốt, lúc đó mới có thể bỏ công tác tiêm phòng ra khỏi danh sách các hoạt động kiểm soát dịch bệnh. Tuy nhiên, trong tương lai trung hạn, chắc chắn chưa thể làm được điều này.
Rõ ràng là H5N1 đã trở thành dịch bệnh địa phương ở cả Việt Nam và Trung Quốc, và Việt Nam đang phải phụ thuộc vào nguồn cung cấp các loại vắc xin phù hợp của Trung Quốc. Tính đến nay, chưa phát hiện thêm chủng vi rút H5N1 mới nào ở Việt Nam mà trước đó chưa xuất hiện ở Trung Quốc. Sự xâm nhập của các chủng vi rút mới từ Trung Quốc hết lần này đến lần khác có nghĩa là vi rút trên thực địa sẽ phải được kiểm tra liên tục bằng vắc xin, và điều này đòi hỏi phải có cam kết liên tục cả về tài chính và kỹ thuật từ phía Chính phủ Việt Nam. Mặc dù sự xâm nhập của các chủng vi rút mới đặt ra thách thức với công tác kiểm soát dịch bệnh nói chung nhưng điều quan trọng là Việt Nam được liên tục tiếp cận các loại vắc xin mới được sản xuất nhằm đối phó với các vi rút mới nổi vẫn đang tiếp tục xuất hiện ở các tỉnh miền Bắc. Tuy nhiên, không có gì đảm bảo cho nguồn cung cấp vắc xin bởi việc này có thể bị gián đoạn nếu có các vấn đề chính trị nào đó có thể xảy ra trong tương lai.
71
O A F ©
72
73
© FAO
TÓM TẮT
Quy trình xây dựng các phương pháp phù hợp mục đích đảm bảo an toàn sinh học trong sản xuất vừa và nhỏ đã đạt được những tiến bộ ổn định trong chương trình phòng chống cúm gia cầm độc lực cao. Ngay khi dịch bệnh vừa xuất hiện, các biện pháp và các phương pháp an toàn sinh học trên cơ sở thực nghiệm đã được áp dụng ở cấp cơ sở sản xuất để ứng phó với những hạn chế nghiêm trọng trong kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao. Tuy nhiên từ năm 2008, dự án đã phối hợp với Cục Chăn nuôi trong một lộ trình bắt đầu từ thời điểm các hệ thống sản xuất gia cầm ở quy mô vừa và nhỏ hầu như không có kinh nghiệm kỹ thuật gì trong việc tiếp cận an toàn sinh học cho đến khi đạt được những thành tựu có giá trị nhất định là việc đưa ra được các thực hành quản lý tốt ở cấp cơ sở sản xuất cũng như dọc theo chuỗi giá trị ở cấp tỉnh hoặc cấp vùng. Và khi các chuỗi giá trị đó vượt qua ranh giới quốc tế, các nỗ lực đã được thực hiện để xây dựng chiến lược đối với các tình huống phức tạp xuyên biên giới và điều này sẽ tiếp tục được thực hiện về lâu dài thông qua các phương pháp tiếp cận vùng dịch tễ xuyên quốc gia.
Khi các hoạt động trong lĩnh vực này tiến triển hơn, thực tế cho thấy phần lớn nỗ lực khuyến khích các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ áp dụng các nguyên tắc an toàn sinh học trong hệ thống sản
xuất của họ đã không nhận được sự hưởng ứng của các hộ chăn nuôi gia cầm. Các lý do đằng sau việc thiếu cam kết đã được điều tra và phân tích. Kết quả cho thấy cần phải có một phương pháp toàn diện hơn chứ không chỉ là một sáng kiến dịch bệnh đơn lẻ, và cần phải tuân thủ một mô hình trong đó quản lý sức khỏe vật nuôi tốt có nghĩa là sản xuất tốt hơn và lợi nhuận cao hơn. Các biện pháp an toàn sinh học mới đã được xây dựng tập trung vào các lĩnh vực có khả năng thành công ở cả cấp doanh nghiệp và chuỗi thị trường. Từ góc độ an toàn sinh học ở cấp khu vực, việc áp dụng phân tích rủi ro đặc biệt mang lại kết quả khả quan giúp hiểu rõ hơn về các khía cạnh khác nhau của vi rút cúm H5N1 xuyên suốt các chuỗi giá trị. Khi xem xét vấn đề an toan sinh học ở cấp khu vực, việc áp dụng phân tích rủi ro mang lại kết quả đáng khích lệ trong việc xây dựng hiểu biết về các khía cạnh của cúm gia cầm độc lực cao H5N1 trong các chuỗi giá trị. Để đạt được sự minh bạch, lồng ghép và hài hòa hơn giữa các phương pháp, dự án tích cực hỗ trợ Cục Chăn nuôi thành lập và đưa vào hoạt động Nhóm Công tác về an toan sinh học với sự tham gia của các bên liên quan chính. Thêm vào đó, việc đưa ra các phương pháp dựa trên cơ sở phân tích rủi ro để giám sát và quản lý dịch bệnh đã giúp xây dựng năng lực đáng kể cho các dịch vụ thú y trong việc giải quyết rộng rãi nhiều vấn đề dịch bệnh.
74
về “an toan sinh học” cho con người – đó chính là việc duy trì hàng rào vệ sinh giữa vật nuôi và chủ tại các trang trại hoặc hộ gia đình, và giữa vật nuôi với những người làm việc trong các chuỗi giá trị.
Để phát triển các bài học này thành các thực hành quản lý tốt, các dự án an toàn sinh học đã được thực hiện trên hai lĩnh vực sản xuất - ấp nở quy mô vừa và nhỏ, và chăn nuôi đàn bố mẹ. Việc áp dụng các thực hành tốt được khuyến khích, mặc dù một số chủ cơ sở sản xuất có xu hướng lệ thuộc vào sự hỗ trợ của dự án để được cung cấp trang thiết bị và không muốn tự mình bỏ vốn đầu tư. Thành tựu lớn nhất của sự phối hợp ổn định và liên tục giữa dự án với các bên liên quan ở cấp tỉnh cũng như các đơn vị tham vấn cấp trung ương chính là việc Bộ NN và PTNT đã ban hành văn bản Hướng dẫn thực hiện biện pháp an toàn sinh học cho các cơ sở ấp nở. Hướng dẫn cho đàn bố mẹ cũng đã được soạn thảo và sẽ sớm được Cục Chăn nuôi ban hành trên cơ sở các hoạt động của dự án.
Nhiều hạn chế căn bản trong việc tăng cường hàng rào ngăn chặn lây truyền bệnh trong chuỗi sản xuất gia cầm vẫn đang tồn tại và sẽ không thể loại bỏ được trừ khi đảm bảo được việc sản xuất gia cầm ở mức cầm chừng với số lượng gia cầm cả đầu vào và đầu ra ở mức rất thấp. Hơn nữa, gia cầm được trông đợi là mặt hàng thực phẩm giá rẻ đối với người tiêu dùng ở khu vực đô thị nhưng đồng thời cũng cần phải cải thiện hệ thống hạ tầng, công tác quản lý, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc. Điều này đòi hỏi phải có cam kết cả về mặt kỹ thuật và tài chính từ phía Chính phủ. Những cải tiến trong công tác quản lý, đặc biệt là ở khâu buôn bán và giết mổ trong chuỗi giá trị đòi hỏi phải có chính sách môi trường và đầu tư tài chính đúng đắn, để những chi phí này được phân bổ một cách hiệu quả và giúp tăng cường hiệu suất. Việc quản lý tình hình cúm gia cầm độc lực cao là trách nhiệm của Chính phủ Việt Nam và hy vọng là những cán bộ đã được tăng cường năng lực đều hiểu rõ các nguyên tắc vi mô và vĩ mô về phân tích rủi ro và giảm thiểu rủi ro có thể đưa các kiến thức đó vào chiến lược an toàn sinh học ở cấp doanh nghiệp một cách thực tế, nhằm giảm sự xâm nhập và lây lan của mầm bệnh cúm gia cầm, đặc biệt là cúm gia cầm độc lực cao H5N1.
Có một thực tế là nhiều người sản xuất thịt và trứng gia cầm ở quy mô vừa và nhỏ là những người nhận thức rõ các thông điệp về an toàn sinh học và được đào tạo nhưng không biến kiến thức thành hành động cụ thể. Tuy nhiên, cũng không thể nói rằng những nỗ lực phổ biến thông tin không mang lại một số ảnh hưởng nhất định đến tư duy của hộ chăn nuôi về nguy cơ dịch bệnh và giảm nhẹ rủi ro. Nhìn chung, một số thay đổi trong dịch tễ học của dịch bệnh có thể nói chính là kết quả của việc các cơ sở sản xuất và các bên liên quan khác đã nhạy bén trong công tác quản lý cúm gia cầm độc lực cao. Những thay đổi nhỏ chính là kết quả của việc các cơ sở vừa tự thích ứng và vừa áp dụng các bài học từ bên ngoài. Khi dịch bệnh đang duy trì ở điểm cân bằng trong vùng thì cũng là lúc chúng ta phải gián tiếp tăng cường thông điệp
75
O A F ©
Giới thiệu Một định nghĩa khá hữu hiệu về an toàn sinh học trong bối cảnh đang diễn ra dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 là: đó là tổng cộng tất cả các biện pháp đã được tiến hành để xây dựng hàng rào ngăn chặn sự xâm nhập của mầm bệnh đến một khu vực cụ thể hoặc một cơ sở sản xuất gia cầm, hoặc những nơi buôn bán và giết mổ gia cầm, và để ngăn chặn việc mầm bệnh lây lan ra bên ngoài sau khi ở khu vực đó có gia cầm nhiễm bệnh hoặc có cơ sở hoặc môi trường đã bị lây nhiễm. Phần sau của định nghĩa này nói đến việc ngăn chặn sinh học và phòng chống lây nhiễm lan rộng của dịch bệnh. Tại Việt Nam, đã từng tồn tại (và sẽ tiếp tục tồn tại) các vấn đề nghiêm trọng liên quan đến sự di chuyển của vi rút H5N1 dọc theo hệ thống chợ và nhiều dự án đã tập trung nỗ lực chính vào việc nâng cao các quy tắc thực hành vệ sinh tại các điểm kiểm soát quan trọng như các điểm thu mua gia cầm và chợ gia cầm sống nhằm ngăn ngừa dịch bệnh tiếp tục lây lan trên diện rộng. Có thể một trong những khó khăn về mặt nhận thức nảy sinh trong công tác truyền thông về an toàn sinh học chính là việc ý tưởng đưa ra là ngăn chặn sinh học tích cực, tuy nhiên các biện pháp thiết lập hàng rào ngăn chặn sự xâm nhập hoặc lan rộng của mầm bệnh cần phải được đánh giá theo thang điểm đánh giá giảm thiểu rủi ro, mà trong điều kiện địa phương thì hiếm khi đạt được mức hoàn hảo. Thêm vào đó, ngay từ giai đoạn đầu khi xảy ra dịch bệnh, chúng ta chưa có một bằng chứng rõ ràng nào về việc biện pháp nào sẽ mang lại kết quả tốt nhất đối với các hộ sản xuất nhỏ lẻ. Điều quan trọng cần nắm được là các điểm bắt đầu hoặc các mục tiêu thay đổi trong kiến thức và thực hành an toàn sinh học hiển nhiên là có liên quan đến các vấn đề kinh tế xã hội, tác động đến việc đưa ra quyết định của các bên liên quan trong ngành chăn nuôi gia cầm cho dù đó là bên sản xuất hay các bên tham gia trong chuỗi thị trường. Lúc đầu, các tổ chức hỗ trợ kỹ thuật quốc tế đã không coi trọng các động lực kinh doanh mà thực chất vốn là yếu tố quyết định thái độ trong toàn bộ chuỗi thị trường.
76
Tình hình năm 2006 Có thể nói là ở giai đoạn đầu khi xảy ra dịch bệnh, hầu hết các cơ sở sản xuất gia cầm không hề có khái niệm gì về an toàn sinh học, và phần lớn hoạt động sản xuất gia cầm ở Việt Nam được thực hiện theo cách chưa hoặc không thể có điều kiện áp dụng các nguyên tắc an toàn sinh học. Và đồng thời, ngay chính ngành thú y hoặc chăn nuôi cũng hầu như không coi trọng kinh nghiệm an toàn sinh học. Tình hình này đã đặt ra một vấn đề cần chú ý tức thì đối với nhiều nhà quan sát quốc tế và đã có một cú hích mang tính quyết định để ngay lập tức phải tăng cường an toàn sinh học trong toàn bộ lĩnh vực sản xuất nhỏ lẻ. Thông tin về việc cần phải tăng cường an toàn sinh học và những hành động cần tiến hành đã trở thành một chuyên đề nổi bật trong các tài liệu truyền thông được chính những học viên đang tham gia nâng cao nhận thức cho các hộ sản xuất nhỏ lẻ (còn gọi là các hộ sản xuất lạc hậu nhưng về cơ bản là những hộ nuôi gà thả vườn) tuyên truyền. Tuy nhiên, nhiều người trong số này, ở một mức độ nhất định, “bỏ ngoài tai” các thông điệp này, và họ không có những hỗ trợ kỹ thuật để đánh giá tính thích hợp của các thông điệp trong bối cảnh địa phương và không biết các biện pháp thay thế nào có thể được áp dụng để giảm rủi ro lây truyền tác nhân gây bệnh sang các hệ thống gia cầm thả vườn. Thời gian đầu không có các tài liệu chuyên sâu về đặc điểm của cộng đồng
chăn nuôi ở Việt Nam, vốn là điều ảnh hưởng đến thái độ đối với dịch bệnh và kiểm soát dịch bệnh. Thực tế đã cho thấy các thông điệp phổ biến về việc nuôi nhốt gia cầm thả vườn ở nông thôn mang lại tác dụng ngược lại và khiến hộ chăn nuôi nghi ngờ - họ không có nguồn lực tài chính để nuôi nhốt gia cầm hoặc để giải quyết các vấn đề khác có thể nảy sinh, chẳng hạn như cần phải cung cấp thức ăn hoặc quản lý các dịch bệnh khác mà gia cầm nuôi nhốt thường mắc phải. Khi chú trọng vào gà thả vườn, dự án đã nhận thấy rằng nguồn cúm gia cầm độc lực cao quan trọng đối với chuỗi thị trường chính là các cơ sở kinh doanh vừa và nhỏ. Các nhóm đối tượng này cũng nhất định không chấp nhận thay đổi và không chấp nhận bỏ ra các khoản đầu tư cần thiết để nâng cao an toàn sinh học, mặc dù nhiều người trong số họ đã phải tạm dừng công việc kinh doanh vì dịch cúm gia cầm độc lực cao đã trở thành gánh nặng quá lớn đối với lợi nhuận. Đồng thời lúc đó cũng không có các nghiên cứu chuyên sâu về hành vi và động lực của những người tham gia trong chuỗi thị trường từ “cổng trang trại” đến người tiêu dùng. Năm 2006, hiểu biết dưới góc độ kỹ thuật về an toàn sinh học của ngành thú y cũng như các dịch vụ sản xuất còn rất hạn chế. Đồng thời các dịch vụ nhà nước và các tổ chức quốc tế trong đó có FAO cũng chỉ hiểu rất ít về các mạng lưới phức tạp của các hệ thống chăn nuôi gia cầm ở
Ổ đẻ không sạch sẽ là hiện trạng trước khi thực hiện các biện pháp an toàn sinh học do dự án khuyến cáo
O A F ©
77
cúm gia cầm độc lực cao.
Có thể đặt câu hỏi về việc có phải do ở giai đoạn đầu, những đóng góp của các tổ chức quốc tế đã không thật sự thích hợp với hệ thống chăn nuôi gia cầm hộ gia đình vừa và nhỏ vẫn tồn tại vào năm 2005-2006. Cũng có thể đó là tình huống “thanh xà ngang đặt quá cao” khiến nhiều người chơi bỏ cuộc. Tuy nhiên, lúc đó đang tồn tại nguy cơ lây bệnh từ động vật sang người cùng với việc không có đầy đủ kiến thức dịch tễ học về tình hình hiện tại nên vấn đề được coi là khẩn cấp, đòi hỏi phải tiến hành một thay đổi quan trọng ở phía những hộ chăn nuôi nhỏ lẻ. Việc truyền tải các thông điệp kỹ thuật là rất khó thực hiện và lúc đó thay bằng việc đánh giá xem các hộ chăn nuôi gia cầm có thể làm gì để bảo vệ chính mình và gia đình mình khỏi mầm bệnh và cứu số tiền đầu tư của mình thì người ta lại chỉ tập trung phân tích xem các thực hành sản xuất có gì sai. Quả thực, vấn đề có vẻ nằm ở việc truyền thông đến hộ chăn nuôi về khái niệm rủi ro và vấn đề này sẽ được đề cập lại ở phần nội dung nói về công tác truyền thông. Nhìn chung, khoảng cách về mặt khái niệm này liên quan đến việc không coi trọng “lý thuyết mầm bệnh” và không coi tác nhân gây bệnh là một “vi sinh vật sống” . An toàn sinh học được coi là một phí tổn và bất kể mức độ đầu tư như thế nào đi chăng nữa nó vẫn được đánh giá trên cơ sở chi phí kinh tế nhận thấy được cùng với khả năng rõ ràng về bùng phát dịch bệnh, và vẫn không được coi là thành tựu công ích. Nhìn ngược lại thời gian, có thể thấy là nếu một hộ chăn nuôi chỉ có những thực hành kém trong hầu hết các hoạt động chăn nuôi gia cầm thì hộ đó khó có khả năng đưa ra được một thực hành chuẩn mực cao để có thể mang lại dù chỉ là một chút lợi ích hữu hình. Sự cải tiến để an toàn sinh học được lồng ghép trong phương thức quản lý gia cầm tốt đã được nhận được sự đánh giá cao trong lĩnh vực này.
Việt Nam cũng như cách thức hoạt động của các hệ thống này. Thêm vào đó, cũng không có nhiều thông tin về hoạt động căn bản của các hộ kinh doanh vừa và nhỏ ở cấp thôn, hoặc sự lớn mạnh nhanh chóng của tiểu ngành chăn nuôi vịt. Mức độ hiểu biết kỹ thuật của những người nông dân này không đủ để giúp họ giải quyết được vấn đề gặp phải và phần lớn trong số họ không đủ trình độ kiến thức để có thể dễ dàng tiếp thu và nắm bắt khối lượng lớn thông tin mang tính khái niệm được đưa đến ồ ạt trong một thời gian ngắn như vậy. Như đã nói đến ở phần trước, vấn đề là họ không thấy được lợi ích của việc tiến hành thay đổi kể cả khi đã có các cơ chế xử lý tình huống. Trong khi Bộ NN và PTNT có một mảng dịch vụ khuyến nông đáng kể thì phần lớn trọng tâm của mảng dịch vụ này chỉ dồn vào nông học mà không có mấy kinh nghiệm về thú y và mở rộng sản xuất, vì vậy một mạng lưới đào tạo dành cho nông dân chăn nuôi gia cầm đã không được xây dựng. Ngoài ra, Cục Chăn nuôi không có chi cục cấp tỉnh hoặc văn phòng cấp huyện, như hệ thống của Cục Thú y. Kết quả là, không có cổng thông tin sẵn sàng để liên lạc với người nông dân lúc này đang cùng với chính phủ giải quyết vấn đề trong một môi trường thuận lợi. Thực tế cũng cho thấy Hướng dẫn an toàn sinh học được Cục Chăn nuôi (mới thành lập năm 2006) ban hành có lẽ không phù hợp với tình hình lúc đó. Tại Cục Thú y không có chuyên gia về các bệnh gia cầm hay một nhà nghiên cứu bệnh học nào cả. Tất cả những điều này dẫn đến việc thiếu sự gắn kết giữa các cơ quan thú y với hộ sản xuất. Lĩnh vực buôn bán quy mô lớn lúc đó nắm được các kỹ năng kỹ thuật về quản lý gia cầm trong đó có kiểm soát dịch bệnh, tuy nhiên sự gắn kết về mặt kỹ thuật giữa lĩnh vực tư nhân với các dịch vụ thú y của chính phủ rất mờ nhạt. Rõ ràng là chính các đơn vị tư nhân là người tư vấn cho khách hàng của mình, và có thể cảnh báo về yêu cầu phải thắt chặt an toàn sinh học tại các trang trại nuôi gia cầm thương phẩm, tuy nhiên không thấy sự liên kết hiệu quả giữa nhà nước và khu vực tư nhân trong việc quản lý vấn đề
78
O A F ©
sinh học quan trọng khi vi rút xuất hiện. Thêm vào đó, có rất nhiều trường hợp sử dụng chất khử trùng không hợp lý tại các cơ sở chăn nuôi - ở đó nhiều người dân đã dùng chất khử trùng một cách không hợp lý và lãng phí, trong một số trường hợp còn có thể gây ra ảnh hưởng đến môi trường. Điều quan trọng là, các cơ quan thú y ở cấp cơ sở hầu như không có kiến thức kỹ thuật về việc sử dụng hợp lý và thêm vào đó là việc không coi trọng yêu cầu cần phải dọn, rửa sạch các chất hữu cơ trước khi phun chất khử trùng. Để giải quyết vấn đề này, dự án đã tổ chức hàng loạt khóa tập huấn kỹ thuật cho cán bộ thú y cấp tỉnh và cán bộ ở các huyện của các tỉnh mà dự án có trách nhiệm hỗ trợ công tác kiểm soát dịch bệnh. Xây dựng năng lực cho ngành thú y về việc sử dụng hợp lý chất khử trùng hứa hẹn mang lại nhiều hiệu quả lan tỏa, bao gồm cả năng lực tư vấn cho người dân sử dụng chất khử trùng trong ứng phó với các dịch bệnh khác và các tình huống với các loài khác.
Tình hình giai đoạn 2006-2010 Ở giai đoạn 2006-2010, các dự án của Chương trình cúm gia cầm giữa Chính phủ Việt Nam và FAO bắt đầu thu thập thông tin từ thực địa và sau đó thăm dò việc can thiệp kỹ thuật vào các vấn đề an toàn sinh học đã được xác định. Một số tổng quan kỹ thuật đã nhận được hỗ trợ của dự án 604, tuy nhiên các nguồn hỗ trợ khác là do các bên đối tác khác của chương trình cúm gia cầm như Chương trình chung LHQ (UNJP) thực hiện. Hầu hết các can thiệp về an toàn sinh học ở cấp làng xã đều do các tổ chức phi chính phủ thực hiện, trong khi điều quan trọng đối với Chương trình cúm gia cầm là phải tìm ra các điểm tác động thích hợp vì quy trình làm việc là phải thông qua các ban ngành kỹ thuật của chính quyền trung ương và các mối quan hệ của họ với các ban ngành địa phương. Các đánh giá đã được tiến hành trên nhiều lĩnh vực ở cấp cơ sở và đánh giá đầu tiên cho thấy vấn đề tồn tại ở giai đoạn này là việc sử dụng chất khử trùng trong các hoạt động ứng phó dịch bệnh. Trong khi các hành động ứng phó với bùng nổ dịch bệnh thường không được cân nhắc trong danh mục an toàn sinh học thì thực tế việc khử trùng thích hợp là một hành động ngăn chặn
Một vấn đề đặc biệt quan trọng đối với Chính phủ Việt Nam và với FAO là việc xử lý xác gia cầm chết vì dịch bệnh và/hoặc tiêu hủy gia cầm
79
cơ chế khuyến khích sự minh bạch và điều phối các hoạt động tập trung vào an toàn sinh học.
Chương trình cúm gia cầm cũng đã tổ chức cho nhiều chuyên gia tư vấn giàu kinh nghiệm về lĩnh vực chăn nuôi gia cầm quốc tế đến tìm hiểu về các thực hành an toàn sinh học trong lĩnh vực chăn nuôi gia cầm thương mại quy mô vừa và nhỏ. Một số vấn đề đã được nêu bật lên đặc biệt là các tiêu chuẩn hiện hành đang được áp dụng tại nhiều cơ sở ấp nở ở quy mô vừa và nhỏ còn rất sơ sài và hoàn toàn có thể nâng cao các tiêu chuẩn đó để mang lại lợi ích ngay cho sức khỏe của vịt con 1 ngày tuổi và sự phát triển của hệ miễn dịch. Một vấn đề khác đã được nêu lên là chất thải từ các trang trại nuôi vịt chính là chất gây ô nhiễm nghiêm trọng đối với các nguồn nước mà thời điểm đó lại không có đủ các quy định xử lý các phụ phẩm này. Bằng phương pháp khuyến khích sự tham gia và lấy hộ chăn nuôi làm tâm điểm, sau đó Chương trình cúm gia cầm đã bắt đầu đề ra các hoạt động để giải quyết các mối lo này.
khi xảy ra dịch bệnh. Chính phủ Việt Nam đã tiến hành đánh giá môi trường đối với các điểm chôn gia cầm trong thời gian xảy ra dịch lớn và Chương trình cúm gia cầm đã tiếp nối bằng việc xây dựng bộ hướng dẫn kỹ thuật cho các hoạt động chôn xác gia cầm chết bệnh trong tương lai thông qua các kịch bản môi trường khác nhau. Trong khuôn khổ hoạt động này, Chương trình cúm gia cầm đề xuất tiến hành ủ phân compost chính là một giải pháp thay thế thân thiện với môi trường thay cho phương thức chôn xác gia cầm ở những địa điểm không thích hợp. Tuy nhiên, thực tế là đã không đạt được một thỏa thuận chính sách với Chính phủ Việt Nam về việc ủ phân compost như một giải pháp thay thế hoàn toàn hợp lý về mặt kỹ thuật, an toàn và thiết thực so với việc chôn gia cầm chết bệnh. Trong khi việc này có thể được coi như là một thất bại của nỗ lực đầu tư thì hướng dẫn đầu tiên về hoạt động chôn xác gia cầm chết bệnh đã được chấp nhận, và thực sự là không lường trước được sự phản đối của các cán bộ kỹ thuật với phương pháp ủ phân compost như một giải pháp thay thế đúng đắn cho việc chôn gia cầm chết bệnh. Chương trình cúm gia cầm không đi sâu tìm hiểu thêm về sự do dự này mà chỉ lưu vào tài liệu các lý do chính được cung cấp – khó khăn trong việc quy định chính sách về các điểm ủ phân để đảm bảo các điểm này không bị can thiệp. Cuốn cẩm nang về xử lý rác thải an toàn và ủ phân compost hiện vẫn còn đó và các khuyến nghị về xử lý chôn lấp đã được chấp nhận đưa vào văn bản quy định nhà nước. Nhằm đưa ra cơ cấu tổ chức cho sự hỗ trợ từ các nguồn khác nhau và để cung cấp cho Cục Chăn nuôi một diễn đàn để phối hợp chặt chẽ với các bên liên quan, Chương trình cúm gia cầm đã hỗ trợ thành lập và vận hành Nhóm công tác về an toàn sinh học. Diễn đàn này có chức năngkhơi gợi các vấn đề kỹ thuật cần cân nhắc, củng cố và hài hòa tài liệu thông tin do các bên tham gia khác nhau cung cấp, chia sẻ kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau, đồng thời đưa ra các chương trình đã có được lý luận chặt chẽ để cùng xây dựng và thực hiện. Về cơ bản, diễn đàn này mang lại một
Các hội thảo tham vấn quốc tế khác đã được tổ chức, sử dụng phương pháp tiếp cận đã được chuẩn hóa để đánh giá các thực hành an toàn sinh học tại nơi các khóa tập huấn do nhiều tổ chức phi chính phủ quốc tế thực hiện. Các bằng chứng thu được cho thấy tại thời điểm đó hầu hết những hộ chăn nuôi đã được tham gia tập huấn đều nhận thức rất rõ về các thông tin đã truyền tải đến họ, tuy nhiên họ vẫn chưa sẵn sàng thực hiện những thay đổi như đã được mô tả vì lý do chi phí tốn kém, áp lực của thị trường đối với lợi nhuận, và do họ nhận thức rằng rủi ro chỉ là những nguy cơ trước mắt. Thêm vào đó, các bằng chứng cũng cho thấy sự thiếu hiểu biết về mặt kỹ thuật về nguyên tắc và thực hành an toàn sinh học của các cán bộ thú y – là những người đang tư vấn và hướng dẫn hộ chăn nuôi cấp huyện, xã. Một điều khá rõ nữa là phương pháp “tập trung vào một bệnh” không thu hút được sự tham gia của các hộ sản xuất một cách hiệu quả và cần phải nhấn mạnh vào các lợi ích
80
của thực hành quản lý tốt bao gồm đảm bảo vệ sinh và giảm mầm bệnh.
Để đáp ứng nhận thức đang dần được nâng cao của người dân, Chương trình cúm gia cầm bắt đầu đi sâu nghiên cứu vấn đề tồn tại trong cơ cấu của ngành chăn nuôi gia cầm và các hệ thống chợ, để hỗ trợ nghiên cứu, sơ đồ mô tả về ngành chăn nuôi gia cầm tại các tỉnh dự án đã được xây dựng. Phạm vi công việc này cũng được mở rộng thêm đến các ban quản lý các chợ chủ chốt và các lò mổ lân cận nhằm hiểu biết sâu hơn về hoạt động của các cơ sở này
cũng như việc làm thế nào để có thể giảm bớt nguy cơ lây truyền vi rút tại các mắt xích này của chuỗi thị trường. Một kết quả quan trọng đạt được trong quá trình này là bản đồ trang trại chăn nuôi gia cầm, lò ấp và chợ đã được hoàn thành trong một bộ Atlas về chăn nuôi gia cầm cho các tỉnh tham gia dự án. Dù chỉ là những khuôn hình tĩnh nhưng bản đồ này giúp ích rất nhiều trong việc thuyết minh với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về sự cần thiết phải hiểu rõ các thông tin về ngành chăn nuôi gia cầm để có thể quản lý các vấn đề xảy ra trong lĩnh vực này.
O A F ©
Cán bộ hạt nhân về an ninh sinh học và đánh giá lò ấp tại Cần Thơ, 2013
Tình hình giai đoạn 2010 - 2014 Trong giai đoạn này, dự án 604 đã tiếp tục hỗ trợ tài chính cho các sáng kiến liên quan đến an toàn sinh học và các hoạt động được thiết kế trên cơ sở của các kết quả đầu ra trước đây của chương trình cúm gia cầm. Cho đến cuối giai đoạn củng cố này, dự án đã từng bước chuyển trọng tâm một cách chiến lược từ áp dụng các biện pháp an toàn sinh học đối với chăn nuôi gia cầm vừa và nhỏ sang các hoạt động nhằm mục tiêu đưa ra các căn cứ thực tiễn để xây dựng chính sách cho các mảng khác nhau của lĩnh vực chăn nuôi gia cầm như đã đề cập ở
trên. Trong vòng 4 năm sau đó, các hướng dẫn thực hiện an toàn sinh học tại cơ sở ấp trứng gia cầm và các trại chăn nuôi gia cầm bố mẹ quy mô vừa và nhỏ đã được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện, cùng với đó là việc tổ chức các khóa tập huấn cho cán bộ thú y của các chi cục về kỹ năng kiểm tra các cơ sở ấp nở theo tiêu chuẩn an toàn sinh học. Nhiều mô hình trang trại đã được xây dựng để thử nghiệm và chứng minh hiệu quả của các hướng dẫn trên. Các hướng dẫn cho hoạt động của cơ sở ấp nở và trại chăn nuôi gia cầm bố mẹ phù hợp tiêu chuẩn đã
81
được lồng ghép trong các văn bản hướng dẫn kỹ thuật chính thức của Bộ NN và PTNT và Cục Chăn nuôi đã được ban hành hoặc sẽ được ban hành. Dự án này tiếp tục là động lực cho nhóm công tác về an toàn sinh học và kết quả từ các hoạt động tại thực địa vẫn tiếp tục được báo cáo và đánh giá trên diễn đàn này.
tỉnh về các nguyên tắc và ứng dụng thực tế của các phương pháp phân tích rủi ro định tính đã được sử dụng, và vì vậy việc xây dựng những năng lực quan trọng chính là một sản phẩm phụ của quá trình này. Sản phẩm cuối cùng của hội thảo tham vấn là đưa ra phương pháp quản lý dịch cúm gia cầm độc lực cao toàn quốc trên cơ sở đánh giá rủi ro và hiểu rõ đường đi của vi rút H5N1 cả trong và ngoài phạm vi biên giới lãnh thổ. Trong quá trình đánh giá rủi ro, vai trò của hoạt động buôn bán xuyên biên giới đã được xác định là một yếu tố rủi ro quan trọng đối với an toàn sinh học ở cấp quốc gia. Các hoạt động tiếp theo sẽ được tiếp tục tiến hành để giải quyết vấn đề này trong bối cảnh phân tích chuỗi giá trị xuyên biên giới và quản lý rủi ro.
Để đẩy mạnh hơn nữa phương pháp phân tích rủi ro đối với an toàn sinh học, 3 chương trình đánh giá khu vực chính đã được thực hiện theo quy trình tư vấn và có sự tham gia. Các hội thảo tham vấn này đã đưa ra một bức tranh rõ nét về rủi ro chung mà vi rút H5N1 hoặc các mầm bệnh khác gây ra cho các đàn gia cầm. Trong quá trình này, các khóa tập huấn cũng được tổ chức để giới thiệu với cán bộ các chi cục thú y
vững mạnh, một phần vì hai lĩnh vực này có xu hướng hoạt động tách rời, và có thể bởi vì trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện nay, hai lĩnh vực này không phù hợp với nhau. Theo ý kiến đánh giá của nhiều chuyên gia phân tích độc lập, với thực tế không có các tổ chức độc lập đại diện và vận động hành lang cho các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ có nghĩa là các cơ sở này sẽ khó có tiếng nói để gây áp lực lên bất kỳ cấp chính quyền nào. Cần phải tăng cường hơn nữa năng lực kinh nghiệm về chăn nuôi gia cầm trong khối cơ quan nhà nước và để làm được như vậy thì các cơ sở chăn nuôi gia cầm quy mô vừa và nhỏ cần phải được tích hợp vào nền kinh tế chính thống và phải được đánh giá và hỗ trợ như một tài sản vô giá của quốc gia.
Tương lai và tính bền vững FAO đã rất nỗ lực phối hợp trên tinh thần xây dựng với Cục Chăn nuôi trong phạm vi chương trình và đề xuất một phương pháp đã được biện luận chặt chẽ và logic để từng bước tăng cường năng lực kỹ thuật cho cán bộ các cấp về các thực hành quản lý tốt trong đó có an toàn sinh học. Hiện giờ là trách nhiệm của các ban ngành kỹ thuật trong đó có các Trung tâm khuyến nông trong việc duy trì bền vững và phát huy phương pháp này. Điều này một phần phụ thuộc vào vai trò của chính quyền các cấp trong việc xem xét hỗ trợ chăn nuôi gia cầm quy mô vừa và nhỏ. Để duy trì bền vững các kết quả đạt được cho đến nay, cần tiếp tục có sự quan tâm và nhất quán đến các chiến lược an toàn sinh học cho sản xuất chăn nuôi quy mô vừa và nhỏ cũng như việc quản lý các rủi ro liên quan đến các mầm bệnh mới và mới nổi trong các lĩnh vực này. Cho đến nay, Nhóm công tác về an toàn sinh học đã đóng một vai trò quan trọng và hoạt động của nhóm này sẽ cần đến sự cam kết của Chính phủ Việt Nam và nhất là sự tham gia phối hợp của khu vực tư nhân. Trong vòng 8 năm qua, mối liên kết công-tư này chưa thực sự
82
các cơ sở ấp nở và các trại chăn nuôi gia cầm bố mẹ là kết quả cuối cùng của hoạt động tham vấn có sự tham gia của các bên liên quan. Việc Bộ NN và PTNT sau đó đưa bộ hướng dẫn này thành chính sách được Cục Chăn nuôi đánh giá là một thành quả chính của dự án. Quyết định số 1057/QĐ-BNNPTNT ra ngày 10/05/2013 là quy định chính thức về các tiêu chuẩn an toàn sinh học tối thiểu cho cơ sở ấp trứng gia cầm, và dự thảo hướng dẫn kỹ thuật hiện đang được hoàn thiện để quy định về các điều kiện an toàn sinh học cho các cơ sở chăn nuôi gia cầm bố mẹ. Những quy định bổ sung này sẽ được kết hợp với Quyết định số 1057 để quản lý trên diện rộng hơn đối với chất lượng các đàn giống gia cầm.
Các câu chuyện thành công Các câu chuyện thành công chính trong lĩnh vực hoạt động này của dự án được mô tả là sự cam kết ổn định giữa FAO và đối tác kỹ thuật là Cục Chăn nuôi, tham gia từ phân tích tình huống tại hiện trường và xây dựng các giải pháp mang tính thực tiễn và phù hợp với nhu cầu của người chăn nuôi – đây là điều khác với mô hình chính quyền truyền thông theo phương thức “chỉ đạo từ trên xuống”. Điều này đòi hỏi phương pháp phải linh hoạt và cần nhiều nỗ lực từ phía chuyên gia nước ngoài cũng như sự tận tâm tận lực của đội ngũ chuyên gia tư vấn trong nước. Thành công trong việc hợp tác với Sở NN và PTNT của các tỉnh vốn không thực sự nhiệt tình với công tác phòng chống cúm gia cầm độc lực cao đã mang lại những tiến bộ quan trọng cho chương trình an toàn sinh học dành cho các cơ sở ấp nở và các trại nuôi vịt bố mẹ.
Thành công trong việc xây dựng các hướng dẫn về an toàn sinh học phù hợp mục đích dành cho
Cam kết này cùng với việc xây dựng năng lực cho nhóm công tác quốc gia là một câu chuyện thành công khác. FAO đã mời một số chuyên gia tư vấn nước ngoài có nhiều kinh nghiệm và
O A F ©
83
Quá trình thiết lập phân tích rủi ro khu vực đã được nói đến trong phần nội dung về kinh tế xã hội bởi việc này giúp chúng ta hiểu được cơ cấu ngành và các rủi ro đi kèm đồng thời mang lại một cơ sở vững chắc cho phương pháp kiểm soát trong khu vực. Dự án coi hoạt động này là một đóng góp quý giá giúp hiểu rõ các khía cạnh khác nhau của cúm gia cầm độc lực cao H5N1 trong lĩnh vực chăn nuôi tại Việt Nam.
năng lực đến chia sẻ kiến thức về các lĩnh vực mà FAO vốn không có kinh nghiệm, đặc biệt là với các cơ sở chăn nuôi gia cầm thương phẩm. Việc xây dựng công cụ đánh giá kết quả những đóng góp đầu vào cho an toàn sinh học ở cấp làng xã, sau đó là các phân tích và các hoạt động ứng phó tiếp theo là bước quan trọng trong mô hình nhiều bước tăng dần để đạt được kết quả sản xuất. Phân tích như vậy rất quan trọng để truyền tải thông điệp đến các nhà tài trợ về hướng đi cần thiết cho chương trình trong tương lai.
Kỹ thuật ủ compost xác gia cầm chết được dự án coi là một thành công về mặt kỹ thuật và là một sản phẩm đầu ra quan trọng của dự án, đặc biệt việc này có khả năng giảm đáng kể ảnh hưởng môi trường của việc tiêu hủy và xử lý xác gia cầm.
Nhóm công tác về an toàn sinh học chính là một sáng kiến quan trọng và mối quan hệ đối tác với Cục Chăn nuôi đã được thực hiện rất hiệu quả. Nhóm công tác về an toàn sinh học cũng đã hỗ trợ việc thu hút sự tham gia của các bên liên quan khác và giúp dự án tiếp cận được với các hoạt động về an toàn sinh học của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài trong việc tổ chức đánh giá và phân tích phương pháp tiếp cận.
Phương pháp tận dụng những ngày trình diễn mô hình để khuyến khích thực hiện an toàn sinh học tại cơ sở ấp nở và trại chăn nuôi gia cầm bố mẹ mang tính thực tế cao và đánh trúng tâm lý người dân, chủ yếu bởi vì những biện pháp đơn giản như tăng cường vệ sinh hoặc cải tiến ổ đẻ đã giúp tăng tỷ lệ ấp nở lên 5% và tương ứng với đó là 5% tỷ lệ trứng không nứt vỡ.
Thực hiện các thay đổi trong hệ thống chăn nuôi không phải là việc dễ dàng tuy nhiên đã được hoàn thành tốt nhờ các nỗ lực đáng kể để hiểu rõ quá trình đưa ra quyết định của người nông dân, là những người có các giá trị xã hội riêng cần phải được giải quyết để có thể thực hiện chuyển đổi cơ cấu chăn nuôi.
Nhóm công tác về an toàn sinh học đã cùng với dự án xử lý linh hoạt những khó khăn trong việc xây dựng hướng dẫn nuôi dưỡng động vật hoang dã. Đây rõ ràng là một việc không thuộc phạm vi chuyên môn kỹ thuật cũng như lĩnh vực quan tâm của FAO nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc liên kết mối quan hệ tương tác động vật hoang dã-con người. Việc này cũng giúp xây dựng mối liên kết với các dự án khác có cùng mối quan tâm đến tương tác động vật hoang dã-con người như dự án USAID PREDICT và RESPOND.
Mặc dù bộ bản đồ chăn nuôi gia cầm và cơ sở ấp nở là những mô tả tĩnh về số lượng gia cầm ở từng tỉnh nhưng đã cung cấp được những minh họa rất tốt về nhu cầu dịch vụ thú y và lao động tham gia sản xuất để từ đó hiểu được các khía cạnh khác nhau của lĩnh vực chăn nuôi, là những vấn đề sẽ được giải quyết thông qua các hoạt động lập kế hoạch và quản lý rủi ro.
84
85
hỏi về việc nếu trước đó người ta thực hiện một nghiên cứu về các yếu tố văn hóa định hình việc ra quyết định về dịch bệnh và xử lý trong các tình huống khác nhau thì liệu có đạt được các kết quả tốt hơn hay không.
Các hạn chế và thách thức còn tồn tại Khái niệm an toàn sinh học và các nguyên tắc an toàn sinh học được đưa vào Việt Nam từ cuối năm 2003 khi xuất hiện những ổ dịch đầu tiên và đặc biệt là từ lúc dự án bắt đầu. Tuy nhiên, khái niệm này vẫn chưa được tất cả các bên liên quan chấp nhận đầy đủ. Có lẽ lý do là bởi vì ngành sản xuất gia cầm với an toàn sinh học thấp đã là truyền thống có từ lâu đời và nhìn chung người dân không có kiến thức hoặc hiểu biết về các nguyên tắc và cũng không đủ năng lực ứng phó. Cũng có thể có lý do nữa là Chính phủ chưa nhấn mạnh đủ tầm quan trọng của việc hỗ trợ hoặc khuyến khích thực hiện các biện pháp an toàn sinh học. Ở môi trường làng xóm, rất khó duy trì an toàn sinh học bởi gia cầm nuôi thả vườn là một nét truyền thống và một phần của phong tục xã hội, và gia cầm thả vườn cũng khá gần các cơ sở chăn nuôi vừa và nhỏ. Một việc khó thực hiện nữa là cách ly các trang trại do điều kiện địa lý của các thôn xóm. Các hạn chế này hiện vẫn đang tồn tại.
Chương trình này đã không thu hút được sự tham gia được coi là rất quan trọng của khu vực tư nhân – cho đến cuối năm 2012, chương trình cũng đã cố gắng lôi kéo sự tham gia của các đơn vị tư nhân vào các cuộc thảo luận về phương pháp tiếp cận an toàn sinh học trong khu vực và tổ chức tập huấn về một số phạm trù kỹ thuật của an toàn sinh học. Tuy nhiên, như đã đề cập đến ở phần trước, vào thời điểm đó không có diễn đàn để thu hút được nhóm đối tượng này. Cán bộ Cục Thú y, Cục Chăn nuôi và Sở NN và PTNT chưa từng bao giờ phải làm việc với khu vực tư nhân và đây lại không phải là một hoạt động bắt buộc và được nhìn nhận là có giá trị. Tình trạng này vẫn đang tiếp diễn.
Các phân tích rủi ro khu vực là cơ sở cho việc đưa ra đề xuất về một phương pháp tổng thể để kiểm soát dịch cúm gia cầm độc lực cao ở Việt Nam và về cơ bản chính là việc áp dụng các biện pháp an toàn sinh học ở quy mô khu vực. Dịch tễ học cơ bản có lẽ vẫn có giá trị trừ khi có sự thay đổi lớn trong các hoạt động chăn nuôi, tuy nhiên ở một chừng mực nhất định, động lực và giá trị của các nỗ lực kỹ thuật đã suy giảm đáng kể. Đây có thể được coi là kết quả của việc thất bại trong công tác truyền thông vận động do thiếu cán bộ truyền thông có năng lực chuyên môn và tận tâm.
FAO và các tổ chức khác đã phải mất nhiều thời gian để nhận ra rằng các phương pháp tiếp cận an toàn sinh học đang được sử dụng chưa đi vào được các hệ thống đánh giá của người nông dân, và để họ cân nhắc rủi ro khi không có các mối nguy tức thì là một việc rất khó. Đồng thời cũng cần phải suy nghĩ kỹ về việc làm thế nào để tuyên truyền về “lý thuyết mầm bệnh”. Ở cấp tỉnh, không có cách nào để xác định được rõ ràng nên tiếp tục đầu tư đến mức nào vào phân tích rủi ro và xây dựng sơ đồ mô tả ngành chăn nuôi gia cầm ở địa phương ngoài những cam kết hỗ trợ của quốc tế: chưa thấy có phương pháp nào chứng tỏ là phương pháp tốt nhất trong chương trình này.
Có thể nhận xét tương tự như vậy khi nói đến những đầu tư đáng kể về mặt kỹ thuật để đề ra các tiêu chuẩn ủ xác gia cầm chết làm phân compost trong các trường hợp xảy ra dịch cúm gia cầm độc lực cao. Ở một chừng mực nhất định, chương trình an toàn sinh học phát triển nhờ học hỏi và chương trình này đã đưa ra câu
Mặc dù có thể xây dựng các giải pháp hợp lý về mặt kỹ thuật để giải quyết vấn đề nhưng không phải lúc nào những giải pháp đó cũng nghiễm nhiên được cơ quan đối tác chấp nhận. Tuy nhiên, không thể xác định trước được vấn đề này.
86
87
i
n M g n u J i
K /
O A F 88©
89
i
n M g n u J i
K /
O A F ©
TÓM TẮT
về cơ cấu và hoạt động của cả hệ thống chăn nuôi gà thương phẩm và các hệ thống chăn nuôi vịt khác.
Phân tích kinh tế -xã hội được dùng như một phương pháp để điều chỉnh các hướng dẫn kỹ thuật cho kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao cho phù hợp với bối cảnh văn hóa và chính trị ở Việt Nam. Dịch bệnh và nỗ lực kiểm soát dịch bệnh đã có những ảnh hưởng lớn đến sinh kế của nhiều bên liên quan trong ngành chăn nuôi. Nhiều người đã buộc phải rời bỏ nghành chăn nuôi gia cầm và không thể lấy lại được thị phần hoặc vì thiệt hại tài chính (ví dụ những cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi) hoặc vì nhận thức về an toàn sản phẩm (những hộ chăn nuôi gia cầm thương phẩm quy mô nhỏ sử dụng công nghệ thấp). Việc tiêu hủy gia cầm trên diện rộng quanh khu vực có đàn gia cầm nhiễm bệnh để lại hậu quả thiệt hại rất nặng nề và gây ra cho người dân nhiều nỗi lo sinh kế. Những nỗ lực ban đầu thực hiện phân tích kinh tế xã hội tập trung vào việc áp dụng các cơ chế hỗ trợ tài chính như một khoản thù lao để khuyến khích người dân báo cáo dịch bệnh. Sau đó trọng tâm được chuyển sang phát triển thành các chính sách lớn hơn, hiểu rõ ảnh hưởng kinh tế của các chương trình giám sát và tiêm phòng. Ví dụ để hỗ trợ hơn nữa việc xây dựng chính sách tiêm phòng vắc xin, dự án GETS đã được thực hiện trong 2 năm, cung cấp các bằng chứng đáng tin cậy để Chính phủ Việt Nam giảm đầu tư vào tiêm phòng trên diện rộng. Ngoài ra, nhiều hoạt động đã được thực hiện để thu thập thông tin
Dự án cũng bắt đầu xem xét kỹ lưỡng hơn về chuỗi tiêu thụ/chuỗi giá trị gia cầm. Trong một số trường hợp, phân tích này bao gồm thông tin về các hoạt động gia tăng giá trị, tuy nhiên hầu hết phân tích chủ yếu để làm rõ vai trò, địa điểm và các mối liên kết. Các phân tích này bắt đầu thực hiện năm 2005 trước khi có dự án này và được tiếp tục đến năm 2014 với trọng tâm là phân tích nguy cơ của các chuỗi giá trị, quy mô và cách thức vận chuyển và sử dụng phương pháp phân tích này để cải thiện quản lý hoạt động vận chuyển gia cầm trong nước cũng như vận chuyển xuyên biên giới. Các vấn đề kinh tế -xã hội rất phức tạp ảnh hưởng đến nỗ lực tăng cường an toàn của các chuỗi giá trị gia cầm, cả ở phương diện lây lan vi rút cúm gia cầm độc lực cao trong đàn gia cầm và người tiêu dùng sản phẩm cuối cùng do H5N1 và mầm bệnh sinh ra từ thực phẩm. Kinh nghiệm phòng chống cúm gia cầm độc lực cao cho thấy việc xây dựng lại chợ và lò mổ cùng các cơ sở hạ tầng khác là không đủ - những thay đổi này cần phải kết hợp với các hành động giảm thiểu rủi ro và thay đổi hành vi của các bên liên quan, đặc biệt là những người buôn bán và vận chuyển gia cầm. Một vấn đề rất rõ ràng là mức độ cam kết của bộ
90
máy chính quyền liên quan đến những lo ngại về quyền của người tiêu dùng – một ví dụ minh họa chính là biện pháp giảm thiểu rủi ro bằng cách chuyển đổi các chợ buôn bán gia cầm sống sang cơ sở chế biến giết mổ đã được thực hiện
tại thành phố Hồ Chí Minh – cần phải được đảm bảo sẵn sàng để tiến hành các thay đổi về cơ cấu, chức năng và hành động cần thiết để giảm rủi ro của việc vi rút và mầm bệnh trong thực phẩm xâm nhập và lây lan.
Giới thiệu
ngay khi mới xảy ra dịch, nhu cầu về gà trên thị trường sụt giảm mạnh dẫn đến việc giá cả thị trường đi xuống, gây thêm các ảnh hưởng kinh tế. Có những lo ngại về ảnh hưởng của dịch bệnh và các biện pháp kiểm soát dịch bệnh đến sinh kế của nhóm người dân có hoàn cảnh khó khăn hơn ở khu vực nông thôn.
Tình hình ngành chăn nuôi trong nước đã được đề cập trong phần giới thiệu chính. Không có nguồn thông tin đáng tin cậy nào về sự sụt giảm của ngành chăn nuôi vào năm 2003 và số lượng vật nuôi được đưa ra thị trường thời điểm đó. Tuy nhiên, số liệu này đã làm sáng tỏ phần nào tình hình – ước tính nhu cầu năm 2014 cho thành phố HCM với dân số 8,4 triệu người là 308.000 con gia cầm/ngày. Trứng cũng là một mặt hàng có nhu cầu cao. Một số gia cầm được đưa vào các chợ có nguồn gốc từ hệ thống nuôi thả vườn ít đầu tư, đặc biệt là có những gia cầm được ưa chuộng vì có chúng có vị riêng. Tuy nhiên, cũng có nhiều gia cầm có nguồn gốc từ mô hình chăn nuôi phổ biến hoặc cơ sở chăn nuôi hộ gia đình sản xuất với chi phí đầu tư và quản lý thấp giúp người dân lấy công làm lãi. Dịch cúm gia cầm độc lực cao tấn công đã gây ảnh hưởng lớn đến những hộ sản xuất cá thể này cũng như những người cho vay. Rõ ràng là các cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi quy mô nhỏ đang cung cấp cho các hộ chăn nuôi này đã phải gánh chịu tổn thất nặng nề và nhiều người đã phá sản. Điều này cho thấy việc hiểu rõ khía cạnh kinh tế -xã hội của bối cảnh là yếu tố then chốt để đạt được kết quả kiểm soát.
Trong bối cảnh dịch cúm gia cầm độc lực cao ở Việt Nam, kinh tế- xã hội là một phương pháp tiếp cận đa ngành để phân tích, tìm hiểu và ứng phó với các ảnh hưởng và động lực xã hội và kinh tế của dịch bệnh và các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định của các bên liên quan về các vấn đề liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến kiểm soát dịch bệnh. Đầu năm 2004, Chính phủ Việt Nam đã phải đối mặt với một áp lực lớn do những lo ngại toàn cầu về nguy cơ đại dịch cúm gia cầm độc lực cao H5N1 đang nổi lên cùng những lo lắng trong nước về sự lan rộng nhanh chóng của dịch bệnh ở gia cầm và việc bắt đầu xuất hiện các trường hợp tử vong ở người. Trong bối cảnh như vậy cần phải áp dụng khẩn cấp các biện pháp kiểm soát tiêu chuẩn để giảm bớt dịch bệnh bao gồm việc tiêu hủy gia cầm tại ổ dịch và các khu vực xung quanh ổ dịch để giảm tải lượng vi rút/vật chủ, kiểm dịch các khu vực bị ảnh hưởng trong thời gian quy định (21 ngày), hạn chế buôn bán và vận chuyển gia cầm trong khu vực có dịch. Cùng với đó là tiến hành hạn chế vận chuyển gia cầm liên tỉnh ngay khi có thông báo dịch – việc này đã ảnh hưởng đáng kể đến chuỗi thị trường, từ đó ảnh hưởng đến cả người tiêu dùng và những người sản xuất cung ứng cho các chuỗi thị trường này. Các lĩnh vực kinh tế- xã hội cần quan tâm gồm có các cơ chế hỗ trợ quy mô rộng, ảnh hưởng về giới của dịch bệnh và kiểm soát dịch bệnh, hiểu rõ chi phí và hiệu quả của các hoạt động can thiệp, các bộ tiêu chuẩn dành cho các trại chăn nuôi gia cầm quy mô sản xuất khác nhau, các chuỗi giá trị và hệ quả của công tác kiểm soát dịch bệnh, khung pháp lý cho kiểm soát dịch bệnh và các phương pháp chiến lược để tái cơ cấu ngành chăn nuôi gia cầm. Ngoài ra,
Nhìn chung, để đảm bảo hoạt động trong hợp phần này của dự án, Cục Thú y chịu trách
91
thống sản xuất, chuỗi giá trị và tái cơ cấu ngành chăn nuôi.
nhiệm trong các nghiên cứu liên quan đến công tác giám sát hoặc tiêm phòng, và Cục Chăn nuôi phụ trách các vấn đề liên quan đến các hệ
vườn vừa để có thu nhập cho gia đình vừa là nguồn bổ sung dinh dưỡng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy dù có thể đề xuất các biện pháp tăng cường bình đẳng nhưng việc thực hiện lại là một vấn đề khác. Thêm vào đó, không có sự hỗ trợ trực tiếp của quốc tế để tăng cường nguồn tiền hỗ trợ và các chế độ hỗ trợ hiện nay đều là tiền ngân sách nhà nước. Mục đích của chương này không phải là để đưa ra tài liệu chứng minh tổn thất của công tác kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao gây ra cho Chính phủ Việt Nam mà để thừa nhận là ngay từ đầu, chương trình kiểm soát dịch bệnh chung đã là một gánh nặng kinh tế lớn và quyết định thực hiện tiêm phòng đã một phần dựa trên những cân nhắc về mặt kinh tế -xã hội bởi vì những khó khăn nổi lên trong công tác kiểm soát dịch bệnh vẫn còn tiếp tục và sự đền bù thỏa đáng vẫn là điều chưa thực hiện được.
Tình hình năm 2006 Tình hình trở nên rõ ràng hơn vào năm 2004 và tiếp đó là năm 2005 cho thấy việc kiểm soát dịch bệnh theo cách tiêu hủy gia cầm trên diện rộng thực ra chỉ mang lại những hiệu quả hạn chế trong việc giảm tỷ lệ mắc bệnh mà lại ảnh hưởng tiêu cực đến sinh kế của người dân và chuỗi cung ứng. Một phần lý do của việc giảm sút hiệu quả kiểm soát là do sự phân tán rộng của tác nhân gây bệnh từ trước khi bị phát hiện và ứng phó, còn một phần khác là do bản chất kinh tế- xã hội đã khiến việc kiểm soát trở nên phức tạp hơn. Một đặc điểm của phương pháp kiểm soát dịch bệnh bằng cách tiêu hủy gia cầm, đặc biệt là những gia cầm vẫn khỏe mạnh đang có nguy cơ nhiễm bệnh cao và có thể bị thu giữ từ vùng có dịch cần thiết có sự hợp tác của hộ chăn nuôi có thể được khuyến thích bằng các chế độ đền bù nhanh và thỏa đáng. Tuy nhiên, việc thiết lập và quản lý được các chế độ đền bù đó rất khó thực hiện trong hệ thống chăn nuôi vừa và nhỏ bao gồm rất nhiều bên liên quan và không có hộ chăn nuôi nào chính thức đăng ký hoạt động sản xuất kinh doanh, và đứng từ quan điểm của chính quyền thì làm như vậy lại gây nhiều tốn kém. Trong năm 2004, ở cấp độ toàn cầu, FAO đã nghiên cứu tìm hiểu nhiều cơ chế đền bù phù hợp mục đích để khuyến khích hộ chăn nuôi tuân thủ quy định. FAO đã cử chuyên gia đi công tác tại khu vực này trong đó có Việt Nam để tìm hiểu và tư vấn về các cơ chế hỗ trợ hiện có. Nhìn chung, các vấn đề đã được xác định là: các mức hỗ trợ không phản ánh được những thiệt hại của thị trường và tiền hỗ trợ không kịp thời để bù đắp lại những khó khăn do mất thu nhập gây ra. Nghiên cứu giới cho thấy ảnh hưởng của dịch bệnh và kiểm soát dịch bệnh gây ra cho sinh kế của các hộ gia đình rất lớn, đặc biệt là các hộ nghèo và những phụ nữ đang phải phụ thuộc vào nguồn gia cầm thả
Cũng cần phải thừa nhận là ở thời điểm này, các quyết định ứng phó do các bên liên quan đưa ra một phần đã khiến dịch bệnh lây lan. Ngay khi dịch xảy ra, một cơ chế ứng phó để cứu vãn được phần nào số tiền đã đầu tư là nếu có trường hợp gia cầm bị nghi ngờ nhiễm bệnh thì sẽ phải nhanh chóng bán ngay số gia cầm đó. Đặc biệt, vào năm 2004, những người buôn bán đã mua gia cầm giá rẻ từ các vùng có dịch do các hộ chăn nuôi hoảng sợ trước dịch bệnh mới với tỷ lệ chết cao, sau đó vận chuyển số gia cầm này đến các vùng có chợ buôn bán gia cầm vẫn hoạt động mạnh. Mặc dù sự khác biệt của tác nhân thị trường có thể không rõ nét như khi dịch bệnh còn hoành hành nhưng việc cứu vãn đầu tư bằng cách bán chạy gia cầm như vậy vẫn còn nhiều khả năng xảy ra. Cả hai hành động này đều khiến vi rút lây lan nhanh và khiến các nỗ lực kiểm soát dịch bệnh bị thất bại. Khi
92
dịch bệnh tiếp tục tiến triển theo thời gian, các hộ chăn nuôi và chính quyền địa phương đã giảm dần việc báo cáo các dịch bệnh do sự ảnh hưởng rộng rãi đến cộng đồng và các hoạt động giao thương liên tỉnh, và vì vậy những nỗ lực kiểm soát dịch bệnh đã tiếp tục giảm xuống. Các tình huống ảnh hưởng đến công tác kiểm soát dịch bệnh này chịu tác động mạnh mẽ của những suy xét từ góc độ kinh tế- xã hội. Một thực tế cũng được ghi nhận sau đó là các yếu tố kinh tế đã có tác động lớn đến động lực thực hiện các biện pháp an toàn sinh học của người chăn nuôi trước và trong khi xảy ra dịch.
cấu cũng như chức năng của ngành gia cầm, dự án đã tiến hành một số điều tra ban đầu ở quy mô rộng để nghiên cứu chuỗi thị trường và các hệ thống sản xuất. Kết quả điều tra nhanh chóng cho thấy nhiều đặc điểm của hệ thống chăn nuôi hộ gia đình nhỏ lẻ dẫn đến việc tồn tại các điểm yếu quan trọng của môi trường kỹ thuật và hệ quả là gây ra các hạn chế cố hữu cho công tác kiểm soát dịch bệnh. Đã và vẫn đang có một số hiệp hội hoặc hợp tác xã hoạt động hiệu quả trong việc hỗ trợ cho người sản xuất chăn nuôi và thay mặt người sản xuất để đàm phánvới chính quyền. Do chăn nuôi gia cầm chịu đựng nhiều rủi ro nên số lượng người sản xuất ở khu vực công cao hơn nhiều so với mảng dịch vụ, và phần lớn trong số họ không có nguồn lực để chi trả cho tư vấn hoặc dịch vụ kỹ thuật có chất lượng. Hệ quả là các dịch vụ thú y tư nhân chưa phát triển, ngoại trừ các dịch vụ hỗ trợ cho các trang trại quy mô lớn và các dịch vụ này thường gắn liền với các công ty hoạt động ở các lĩnh vực khác như cung cấp giống và thức ăn chăn nuôi. Trong bối cảnh này, các hộ sản xuất nhỏ không có nguồn lực để đầu tư vào thức ăn công nghiệp, chuồng trại tốt hoặc con giống tốt. Vì vậy, cúm gia cầm độc lực cao trở thành một gánh nặng lớn với ngành sản xuất có phần dễ bị tổn thương này. Trong bối cảnh tương tự, vấn đề tồn tại là các hạn chế của môi trường pháp lý. Trong một số trường hợp, chưa có sẵn các quy định có thể áp dụng hoặc cán bộ có trách nhiệm vẫn còn do dự trong việc thực hiện quy định đưa ra vì họ cho rằng làm như vậy là không thực tế hoặc gây khó khăn và không thoải mái cho người dân.
Khi có các tình huống dịch lớn khẩn cấp xảy ra hoặc có các chương trình kiểm soát dịch được đưa ra thực hiện, điều quan trọng là các cơ quan thực hiện phải hiểu rõ cơ cấu, chức năng và tổ chức của ngành chăn nuôi trong đó có các chuỗi thị trường để có thể can thiệp thành công. Các thông tin này cũng hỗ trợ công tác trao đổi thông tin và hợp tác giữa các cơ quan kiểm soát dịch bệnh và các bên liên quan. Thời gian đầu khi diễn ra chiến dịch kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao, có rất ít tài liệu về các khía cạnh này của ngành chăn nuôi ở Việt Nam và vì vậy năm 2005, FAO đã tài trợ cho các nghiên cứu về thị trường gia cầm/chuỗi giá trị trong nước. Mặc dù vậy, vẫn còn những thiếu hụt lớn về kiến thức liên quan đến các khía cạnh quan trọng khác của các chuỗi thị trường và các hệ thống sản xuất. Mặc dù bằng chứng phát sinh loài cho thấy virus H5N1 tại Việt Nam có cùng nguồn gốc với vi rút H5N1 tìm thấy tại miền nam Trung Quốc và có khả năng đã di chuyển dọc theo tuyến đường buôn bán nhưng thông tin về hoạt động buôn bán trứng, gà con và gia cầm sống lại rất hạn chế. Tương tự, cần phải có thêm nhiều thông tin hơn nữa về hoạt động buôn bán xuyên biên giới với Lào và Campuchia. Hơn nữa, cũng không có nhiều tài liệu nói về các hệ thống chăn nuôi vịt ở Vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long.
Để hiểu rõ hơn về môi trường dịch bệnh và cơ
Liên quan đến môi trường kinh tế - xã hội của nhiều hộ chăn nuôi gia cầm, chăn nuôi gia cầm quy mô nhỏ lẻ giúp giải quyết nhu cầu sinh kế của những hộ nghèo, đặc biệt là việc nuôi vịt thả đồng đối với các hộ dân không có đất canh tác. Thông tin sau đó cho thấy số lượng người dân không có đất canh tác phải nuôi vịt chạy đồng ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long là rất lớn và các hệ thống chăn nuôi được thực hiện
93
ở đây, trong đó có việc chạy đồng từ tỉnh này sang tỉnh khác sau khi thu hoạch lúa, không có lợi cho việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh. Thêm vào đó, các hộ gia đình chăn nuôi nhiều loài vật nuôi được xem là một hình thức bảo hiểm để giảm rủi ro tài chính, cùng với việc gia cầm được nuôi theo
mô hình nuôi gối các lứa liên tục thay vì quy trình cùng vào-cùng ra là mô hình giúp phòng ngừa tốt hơn tình trạng dịch bệnh tồn tại dai dẳng. Vì vậy, dự án đã đóng vai trò là cầu nối để tư vấn và hỗ trợ tăng cường kiểm soát dịch bệnh, đồng thời tăng cường hiểu biết về mối quan hệ giữa sinh kế và kiểm soát dịch bệnh.
Diễn biến dịch bệnh giai đoạn 2006-2010
vụ thu hoạch thành thực phẩm. Dự án đặt ra mục tiêu trong 4 năm tới sẽ tìm hiểu kỹ hơn về các hệ thống chăn nuôi vịt và cơ cấu của các hệ thống sản xuất và tiêu thụ gia cầm tại các tỉnh dự án. Hai hội thảo quốc tế đã được tổ chức năm 2007, trong đó một hội thảo tập trung bàn về tương lai của các hộ dân chăn nuôi gia cầm ở Việt Nam sau dịch cúm gia cầm độc lực cao và hội thảo thứ hai về chủ đề nuôi vịt thả đồng và các lựa chọn khả thi để kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao trong hệ thống này. Một nghiên cứu khác về các hệ thống chăn nuôi vịt (vịt nuôi thả tự do, vịt đẻ nuôi thả tự do kết hợp chạy đồng xa từ tỉnh nọ sang tỉnh kia, và các hộ nuôi vịt lấy thịt thương phẩm) và cúm gia cầm đã được thực hiện ở vùng đồng bằng sông Hồng để tìm hiểu về các khía cạnh hoạt động khác nhau của ngành chăn nuôi vịt và để tìm hiểu các thực hành đã áp dụng để giảm ảnh hưởng của cúm gia cầm độc lực cao, nhằm đưa ra một số kiến nghị để nâng cao năng suất sản xuất ở khu vực đồng bằng sông Hồng.
Để có cái nhìn sâu sắc hơn về các hạn chế trong kiểm soát dịch bệnh và lợi ích kinh tế của việc tiêm phòng, dự án đã tiến hành phân tích chi tiết các chuỗi giá trị ở cấp tỉnh. Phân tích kinh tế cho thấy chi phí tiêm phòng tính trên đầu gia cầm có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận của các hệ thống nuôi gà, vịt lấy thịt, và nuôi vịt đẻ nhưng lại có thể chấp nhận được để phòng ngừa thiệt hại do dịch bệnh gây ra cho các hệ thống chăn nuôi gà đẻ. Kinh tế sản xuất và nguy cơ dịch bệnh mà các doanh nghiệp phải đối mặt cho
Ngay từ đầu chương trình, thực tế đã cho thấy vịt là nguồn tàng trữ lớn nguồn vi rút H5N1 và do đó cũng là nguồn vi rút lây sang gà nuôi tại gia đình. Và cũng chính vì vậy, áp lực đặt ra là phải thay đổi hoạt động cơ bản của hệ thống chăn nuôi vịt, tuy nhiên lại có bằng chứng cho thấy là nuôi vịt giúp ích nhiều cho hệ sinh thái sản xuất lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long ở phương diện kiểm soát sâu bệnh và cỏ dại, cung cấp phân bón và tận dụng lúa rơi vãi sau
94
nở rộ. Hơn nữa, thực tế là việc tái cấu trúc lại các chuỗi thị trường và trong một số trường hợp việc bổ sung cơ sở vật chất là không đủ để cải thiện hệ thống – việc này còn đòi hỏi có sự thay đổi tư duy của một bộ phận người buôn bán và các bên liên quan khác, những người có xu hướng không thừa nhận thực tế là đang tồn tại những vấn đề cần giải quyết.
thấy những hộ chăn nuôi vịt và các hộ nuôi gia cầm lấy thịt có quy mô nhỏ ít có xu hướng tiêm phòng cho đàn gia cầm của mình. Tuy nhiên, do vịt đóng vai trò là nguồn tàng trữ vi rút ở thể ẩn nên nguồn ngân sách công nên được tiếp tục sử dụng để cung cấp vắc xin cho đối tượng này. Một khảo sát để xác định mức độ sẵn sàng chi trả phí cho việc tiêm phòng cúm gia cầm độc lực cao của hộ chăn nuôi được thực hiện ở Việt Nam nhưng điều đó chưa đủ để đưa ra kết luận. Tuy nhiên, nghiên cứu này đã đóng góp vào Bản tóm tắt chính sách về chi chí và hiệu quả chi phí của công tác tiêm phòng do Trụ sở chính của FAO thực hiện.
Dự án đánh giá cụ thể khả năng thay đổi chiến lược tiêm phòng (Thu thập bằng chứng cho việc thay đổi chiến lược– GETS) đã được thực hiện tại một số tỉnh trong giai đoạn 2009-2011. Mục đích của dự án GETS là để kiểm tra giả thuyết cho rằng việc hạn chế chương trình tiêm phòng dùng nguồn ngân sách nhà nước chỉ tập trung vào vịt có thể giúp giảm nguồn vi rút lây lan sang gà. Mặc dù đợt thực hiện thử nghiệm cho kết quả giảm được 21% chi phí vắc xin nhưng chi phí giám sát lại tăng gấp 5 lần. Dự án này đã giúp Chính phủ quyết định dừng cấp tiền cho chương trình tiêm phòng trên diện rộng dùng tiền từ ngân sách nhà nước. Giai đoạn thử nghiệm này cũng chứng tỏ giá trị của việc thu thập tốt dữ liệu ban đầu trước khi can thiệp bởi vì nhiều đánh giá tác động khác đã gặp phải khó khăn khi thực hiện do thiếu các thông tin ban đầu.
Do những lo ngại trong khu vực về các hoạt động buôn bán xuyên biên giới, hai hội thảo tham vấn khu vực đã được tổ chức để thiết lập cơ chế phối hợp và sau đó xây dựng phương thức thực hiện. Ở Việt Nam, đã xác định hai tỉnh trọng điểm thuộc hai khu vực biên giới – tỉnh Kiên Giang giáp biên giới Campuchia và tỉnh Quảng Trị giáp ranh với Lào – ngoài ra trọng tâm chú ý vào các tỉnh giảm bớt đi và dồn vào khu vực biên giới với Trung Quốc. Dự án đã phối hợp với Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD) để tiến hành các nghiên cứu này ở miền Bắc. Sau đó, trên cơ sở của các ý kiến đánh giá, Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn đã đưa ra đề xuất chính sách về việc vận chuyển gia cầm xuyên biên giới và những đóng góp của dự án trong tương lai cho lĩnh vực này. Dự án cũng phối hợp với một dự án khu vực do Ngân hàng Phát triển châu Á tài trợ thực hiện một phân tích các chuỗi giá trị xuyên biên giới với Campuchia và Lào. Phương pháp phân tích hệ thống đã được xây dựng sau khi dự án tham vấn với Trung tâm Phát triển nông thôn/ Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn để đưa ra thông tin về các đặc điểm khác nhau của việc vận chuyển gia cầm qua biên giới ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long so với việc vận chuyển ở vùng biên giới phía Bắc. Những thông tin này đã được cân nhắc trong quá trình xây dựng chiến lược.
Điều tra ban đầu về chuỗi giá trị đã cho thấy sự khác biệt vùng miền trong nước và ở miền Bắc Việt Nam, các chuỗi thị trường được quản lý lỏng lẻo hơn với số lượng lớn gia cầm sống, có một phần trong số đó được nghi ngờ là vận chuyển từ Trung Quốc sang. Thực tế, có thể là những cơn sốc thị trường và những điều chỉnh trên thị trường khiến nhiều hộ sản xuất quy mô nhỏ không thể trụ lại sau giai đoạn 2004-2005 đã tạo điều kiện cho hoạt động nhập khẩu này
Dự án đã hết sức cố gắng mô tả cơ cấu ngành gia cầm như đã nêu ở phần trên. Cuộc khảo sát chính đầu tiên đã được tổ chức năm 2008 tại 4 tỉnh để tìm hiểu về lĩnh vực chăn nuôi gia cầm
95
thương lái cho rằng hệ thống truy xuất nguồn gốc gia cầm được khách hàng nhất trí ủng hộ thì vẫn còn sự ngờ vực phần nào về việc công nhận an toàn sản phẩm trong chuỗi thị trường. Nhìn chung, người tiêu dùng dường như vẫn còn thiếu sự tin tưởng vào con dấu của cơ quan nhà nước như một sự đảm bảo cho an toàn sản phẩm.
thương phẩm. Đây là một khảo sát hoàn chỉnh, nghiên cứu cả hai biến số kinh tế - xã hội cũng như các biện pháp an toàn sinh học. Các số liệu kinh tế- xã hội như năng suất sản xuất, mức độ sử dụng các dịch vụ kỹ thuật, mức độ áp dụng các giải pháp kỹ thuật, năng lực lập kế hoạch, liên kết với hoạt động của doanh nghiệp, mạng lưới và cơ chế thu mua và tiếp thị, và các dòng tín dụng đã được tập trung cho các cơ sở chăn nuôi gà, vịt và cơ sở ấp. Những thông tin hoàn chỉnh này đã giúp hình thành chiến lược phát triển trong các dịch vụ của chính phủ, tăng cường năng lực chuyên sâu ở cấp địa phương để tìm hiểu về cơ cấu và chức năng của ngành chăn nuôi gia cầm. Cán bộ của các Sở NN và PTNT tại các tỉnh và Cục Chăn nuôi đã được đào tạo phương pháp lập bản đồ ngành chăn nuôi, với các dòng hàng hóa khác nhau và các chuỗi thị trường riêng cho các mặt hàng này, xây dựng hồ sơ thông tin tổng thể ngành chăn nuôi và mô tả chuỗi giá trị. Việc áp dụng phương pháp này tại các địa phương giúp hiểu rõ hơn rất nhiều về hoạt động của ngành chăn nuôi gia cầm. Hoạt động xây dựng năng lực này sẽ được sử dụng làm nền tảng để xây dựng chính sách ở cả cấp địa phương và quốc gia. Cũng cần phải nói thêm là hồ sơ mở rộng và thông tin mô tả chuỗi giá trị sau đó đã được sử dụng để phân tích rủi ro và xây dựng chiến lược kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao.
Liên quan đến phạm vi kinh tế - xã hội của hoạt động này, dự án cũng đã hỗ trợ Chính phủ Việt Nam rà soát điều chỉnh lại các quy định về thú y và phát triển năng lực cho cán bộ Cục Thú y để đáp ứng được các trách nhiệm và nhiệm vụ mới về an toàn thực phẩm. Mặc dù những người chăn nuôi gia cầm rất quan tâm đến việc nâng cao năng suất và các tiêu chuẩn nói chung trong chuỗi thị trường, chính quyền lại không có năng lực kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu đó. Hơn nữa cũng không có một khung chính sách quốc gia đủ mạnh để khuyến khích cải tiến trong các hệ thống sản xuất và tiếp thị, và hệ thống pháp lý nhìn chung vẫn còn yếu kém. Liên quan đến chính sách, một lĩnh vực vẫn chưa đạt được sự đồng bộ hoàn toàn giữa Chính phủ Việt Nam và FAO chính là các kế hoạch tái cơ cầu ngành chăn nuôi gia cầm. Trong khi FAO rất ủng hộ nhu cầu cần có các phương thức sản xuất cải tiến hơn, an toàn sinh học được nâng cao hơn và vẫn tiếp tục cam kết cho vấn đề này thì lại có những ý kiến phản đối việc Chính phủ ủng hộ kế hoạch tiến tới một nền sản xuất công nghiệp quy mô lớn với nhiều vấn đề liên quan cần giải quyết trong đó có vấn đề về sự ảnh hưởng đến sinh kế của người dân ở khu vực nông thôn. Dù vậy, lĩnh vực tư nhân đã điều chỉnh để tái cơ cấu các cơ hội và cảm nhận chung là với những nhu cầu trong nước hiện nay thì sẽ cần có một khung hỗ trợ được quy định cụ thể về mặt pháp lý.
Ở một cấp độ khác, dự án đã hỗ trợ tìm hiểu việc thành lập một chuỗi thị trường có thể liên kết các cơ sở chăn nuôi quy mô nhỏ với người tiêu dùng để có được sản phẩm an toàn. Về cơ bản, đây là dự án điều tra truy xuất nguồn gốc gia cầm. Phần lớn hoạt động của dự án này giúp hiểu rõ hơn về hoạt động vi mô của các hệ thống chợ và các mối quan hệ khác nhau giữa các các bên tham gia trong chuỗi thị trường. Trong phạm vi chuỗi thị trường nghiên cứu, các mối quan hệ có vai trò rất quan trọng và rõ ràng là niềm tin, tính tin cậy, uy tín, giải quyết xung đột, và thực hiện cam kết là những cấu phần cơ bản của các mối quan hệ này. Trong khi một số
96
Tình hình giai đoạn 2010-2014
Môt cơ quan đầu mối quan trọng để tiếp nhận các thông tin mới đã được xây dựng trên cơ sở sử dụng các phương pháp phân tích kinh tế -xã hội đã nêu ở phần trên. Dự án đã từng bước tiến tới thúc đẩy cam kết mạnh mẽ hơn cả về kỹ thuật và chiến lược của các dịch vụ của chính phủ dành cho ngành gia cầm. Trong hầu hết các trường hợp, hoạt động được điều chỉnh theo hướng để hiểu rõ hơn về chuỗi thị trường với rất nhiều các mắt xích trước và sau giữa các bên liên quan, và ở một vài trường hợp lại tập trung vào phân tích chuỗi giá trị để mô tả số lượng và giá trị của các sản phẩm khác nhau khi sản phẩm đó được chuyển từ tác nhân này sang tác nhân khác. Để hiểu rõ cách thức tương tác giữa các bên tham gia trong chuỗi giá trị, điều quan trọng là phải hiểu được các dòng chảy thương mại và các mạng lưới xã hội để xác định các điểm đang có nguy cơ lây nhiễm cao, và đồng thời để xác định các cơ hội can thiệp hoặc gia tăng giá trị, chính là nguồn khuyến khích sự tham gia của các cơ sở chăn nuôi.
Một trong những kết quả quan trọng của việc phân tích chuỗi giá trị và xây dựng hồ sơ thông tin ngành chăn nuôi là đưa ra được quy trình đánh giá rủi ro để thiết lập các bản đồ rủi ro của các ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao và từ đó xây dựng các chiến lược quản lý dịch bệnh theo vùng. Các chiến lược này chính là sự đúc kết từ các phân tích kinh tế- xã hội và đã được trình lên Chính phủ Việt Nam xem xét làm cơ sở cho chiến lược kiểm soát cúm gia cầm mới. Mặc dù phương pháp quản lý dịch bệnh theo vùng không được công nhận là một chính sách nhưng quy trình đánh giá rủi ro sẽ là cơ sở kỹ thuật để thiết lập các vùng an toàn dịch bệnh được Chính phủ khuyến khích.
Trong năm 2010, một nghiên cứu thí điểm đã được thực hiện trong phạm vi dự án hỗ trợ hợp tác công-tư (PPP) và tăng cường thể chế cho các hệ thống chăn nuôi gia cầm. Hệ thống giám
sát giá gia cầm được cho là cần thiết để hiểu rõ hơn nữa các động lực kinh tế trong thị trường, để đảm bảo các thông tin thị trường và sản xuất được công bố rộng rãi, và để giảm nguy cơ thất bại của thị trường. Hệ thống này được đưa vào thực hiện thí điểm tại 3 thành phố lớn của Việt Nam với sự phối hợp của Trung tâm Tư vấn chính sách nông nghiệp/ Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn thuộc Bộ NN và PTNN . Trung tâm đã thành lập một trang web với mục tiêu phổ biến thông tin và thông tin về nghiên cứu này đã được phát trong chương trình truyền hình quốc gia vào tháng 10/2011. Mặc dù kết quả thực hiện thí điểm đã được đại diện cả khu vực nhà nước và tư nhân hoan nghênh tại cuộc họp tổng kết chương trình nhưng sáng kiến này đã không được tiếp tục thực hiện sau khi hỗ trợ tài chính của dự án chấm dứt và trang web thì không được kết nối với trang web của Cục Chăn nuôi như thiết kế ban đầu. Đây chính là một trường hợp điển hình của việc một sáng kiến do chính Chính phủ Việt Nam đề xuất nhưng cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện lại không phải là cơ quan chủ quản và sáng kiến đã không thể tồn tại bền vững với nguồn lực sẵn có của chính phủ. Một khảo sát toàn diện đã được thực hiện để đánh giá chương trình giám sát do dự án USAID hỗ trợ. Nhóm đánh giá đã xem xét cụ thể các hoạt động đã được dự án thực hiện và so sánh chi phí của các hoạt động đó với chi phí dành cho các hoạt động giám sát của các dự án khác diễn ra cùng thời điểm. Tuy nhiên vẫn có những hạn chế trong việc xác định hiệu quả chi phí thực của các khoản đầu tư vào chương trình giám sát, chủ yếu là do thiếu các thông tin ban đầu và tính chất hồi tố của hoạt động. Có điều rõ ràng là với một hoạt động như vậy sẽ cần phải có các thông tin ban đầu hoặc số liệu đối chứng, và đưa hoạt động thu thập dữ liệu vào trong thiết kế dự án. Tuy nhiên, báo cáo đã chỉ ra là chi phí phát hiện một ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao sẽ tăng khi tỷ lệ nhiễm bệnh
97
giảm nhờ các biện pháp kiểm soát, vì vậy sẽ làm giảm hiệu quả chi phí của công tác giám sát. Phân tích cuối cùng đã chỉ ra rằng công tác giám sát tốn kém nhưng một số cấp độ giám sát là cần thiết để phát hiện và ứng phó với các ổ dịch. Phân tích cũng đề xuất một mô hình lý thuyết đánh giá tác động của công tác giám sát ở các mức độ đầu tư khác nhau có thể đã giúp hiểu rõ hơn vấn đề, tuy nhiên do chi phí lớn nên việc điều chỉnh thực nghiệm phù hợp mục đích đã được tiến hành như một chiến lược thay thế.
các chuỗi giá trị xuyên biên giới đã cho phép tập trung vào các phương pháp dựa trên rủi ro để kiểm soát sự lây lan của dịch bệnh trong các hệ thống chợ, mặc dầu phân tích cũng cho thấy rằng việc giảm thiểu rủi ro trong chuỗi giá trị còn đang thiếu các quy định hiệu quả đòi hỏi phải đảm bảo lợi ích của các bên trung gian và người buôn bán. Lo ngại lớn nhất là nhu cầu tại thị trường Việt Nam đối với gà thải loại Trung Quốc rất lớn trong khi nhu cầu tiêu dùng đối với sản phẩm này thì không đáng kể do những lo ngại về tính an toàn của sản phẩm này. Nhìn chung, phân tích cho thấy cung đang vượt cầu. Mâu thuẫn này cho thấy có sự thao túng hoặc bóp méo thị trường, và một số hoạt động đã được tiến hành để xác định quy mô và bản chất của các tác nhân thị trường. Dự án đã tiếp tục tìm hiểu kỹ hơn nữa về các hệ thống chợ tại các tỉnh miền Bắc thông qua việc tăng cường công tác lập bản đồ các chợ và các chuỗi cung ứng tại 15 tỉnh. Gần đây nhất, một phân tích mạng lưới đã được áp dụng với các dữ liệu và việc này đã xác nhận vai trò quan trọng của một số chợ buôn bán gia cầm sống trong việc phát tán mầm bệnh do sự kết nối chặt chẽ với nhiều chợ khác.
Liên quan đến hoạt động buôn bán gia cầm qua biên giới, dự án đã hỗ trợ tổ chức nhiều cuộc gặp giữa các bên liên quan của Việt Nam và Trung Quốc để giúp các bên hiểu rõ hơn về các chuỗi giá trị đặc biệt là về bên cung ứng qua biên giới. Phương pháp chuỗi giá trị ban đầu được thực hiện với chuỗi giá trị xuyên biên giới tại Việt Nam nhằm tìm hiểu xem những nguồn lợi nhuận lớn nhất đến từ đâu. Các chứng cứ và phân tích đã chỉ ra sự thiếu hiệu quả của các hoạt động kiểm dịch tại các khu vực biên giới bởi vì động cơ để trốn tránh các biện pháp đó là rất lớn cùng với thực tế là các biện pháp và hệ thống để qua mặt các điểm kiểm tra… đã và đang có từ lâu Việc hiểu rõ hơn bản chất của
Các hoạt động trong tương lai Dự án phòng chống cúm gia cầm, cúm ở người và dự phòng đại dịch (VAHIP) do Ngân hàng Thế giới tài trợ đã thực hiện quy hoạch lại và xây dựng quy mô lớn tại chợ gia cầm sống Hà Vỹ ở ngoại thành Hà Nội. Mặc dù không phải là dự án của FAO nhưng FAO đã có một số đóng góp kỹ thuật vào chương trình thông qua một vị trí cố vấn kỹ thuật cho dự án VAHIP. Có điều không hiểu lý do vì sao mà những người buôn bán ở chợ lại miễn cưỡng không muốn thực hiện đầy đủ các biện pháp vệ sinh mà dự án VAHIP đã cố gắng giới thiệu. Một nghiên cứu sâu về các mắt xích cuối của chuỗi thị trường có nhiệm vụ xác định các vấn đề then chốt quyết định niềm tin
vào hệ thống và để xem thực ra niềm tin có thể được tạo dựng trong điều kiện có các thói quen của người tiêu dùng địa phương không. Môi trường chính sách liên quan tới các chuỗi cung ứng gia cầm cần phải tận dụng chính những lo ngại của người tiêu dùng về an toàn thực phẩm làm đòn bẩy để tạo điền kiện tốt hơn cho những can thiệp hợp lý trong tình huống bất ngờ. Tuy nhiên, rõ ràng là thành phố Hồ Chí Minh đã thay đổi được cách thức tiếp thị và phân phối gia cầm cho nhu cầu tiêu dùng và chuỗi cung ứng đã thích ứng được với cách thức mới. Dự án đang phối hợp với Sở NN và PTNT thành phố Hồ Chí Minh tiến hành một nghiên cứu
98
thời gian dài để kiểm soát sự xuất hiện của vi rút H7N9 cho thấy các hộ buôn bán ở các chợ lân cận Hà Nội không ủng hộ chủ trương này. Sự khác nhau trong kết quả thu được, ở một mức độ nào đó, là do văn hóa thương mại rõ nét hơn của ngành gia cầm ở miền nam nhưng đồng thời cũng là do có cam kết mạnh mẽ của chính quyền thành phố Hồ Chí Minh trong việc tiến hành các thay đổi cần thiết.
chung để tìm hiểu về cách thức đưa hệ thống truy xuất nguồn gốc vào thực hiện trong ngành chăn nuôi gia cầm thương phẩm, đặc biệt là để đối phó với tình huống bất ngờ khi có sự xâm nhập của vi rút H7N9 hoặc sự nổi lên của các tác nhân gây bệnh lây từ động vật sang người. Tuy nhiên, một hệ thống như vậy cũng sẽ hỗ trợ các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm nói chung. Thẩm định hiện trường cho kế hoạch dự phòng trong trường hợp chợ phải đóng cửa trong một
Chú giải:
Lớn
Trung bình Chợ trong phạm vi nghiên cứu Chợ ngoài phạm vi nghiên cứu Trung tâm tỉnh
Quốc lộ
Tỉnh lộ
99
liên tỉnh đã góp phần vào việc tăng cường làm rõ các thông tin về ngành chăn nuôi gia cầm nói chung, các nguy cơ đằng sau các thực hành cụ thể và dịch tễ học của bệnh.
Các kết quả chính đạt được sau khi áp dụng các phương pháp tiếp cận kinh tế-xã hội trong kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao ở Việt Nam Không ngừng nỗ lực thu hút sự tham gia của Sở NN và PTNT và Chi cục Thú y trong việc xây dựng hồ sơ thông tin ngành gia cầm, mô tả chuỗi giá trị và phân tích nguy cơ mang lại kết quả là giúp xây dựng năng lực trong dài hạn và tạo ra sự liên kết chặt chẽ hơn giữa chăn nuôi và y tế để quản lý các vấn đề chung liên quan đến thực hành tốt trong quản lý gia cầm.
Phương pháp phân tích chuỗi giá trị đối với việc vận chuyển gia cầm xuyên biên giới từ Trung Quốc sang Việt Nam đã tạo nên một khuôn khổ hợp lý để giải quyết nguy cơ lây truyền dịch bệnh và tạo nền tảng phát triển chính sách hiệu quả.
Dự án GETS là một cách tiếp cận thành công sử dụng phân tích kinh tế -xã hội bởi vì dự án này đã chứng minh được giá trị của một dự án nghiên cứu hoạt động với các thông tin ban đầu được thu thập trước khi áp dụng can thiệp. Chính vì vậy, kết quả nghiên cứu đã được chấp nhận rộng rãi và được đưa vào thay đổi chính sách tiêm phòng.
Việc áp dụng phân tích chuỗi giá trị cho các mạng lưới gia cầm trong phạm vi các tỉnh và
Nỗ lực đáng kể trong việc thực hiện khảo sát chuyên sâu về người chăn nuôi và các phương pháp chăn nuôi đã đóng góp quan trọng vào việc hiểu rõ hơn về các hệ thống chăn nuôi vịt tại các địa phương khác nhau, sự liên kết chăn nuôi trong toàn khu vực rộng như đồng bằng sông Cửu Long và nguy cơ lây lan cúm gia cầm độc lực cao do các thực hành khác nhau.
100
Điểm yếu và thách thức Ở giai đoạn ứng phó ban đầu, các chuyên gia tư vấn có nhận xét là phụ nữ có vai trò rất lớn trong hoạt động chăn nuôi gà ở hộ chăn nuôi quy mô nhỏ, tuy nhiên họ lại rất hiếm khi xuất hiện trong các hoạt động của dự án, và như vậy ở khía cạnh này, có thể nói các hoạt động chưa được thiết kế hiệu quả để thu hút được nữ giới. Thực tế này có thể đã có những thay đổi nhỏ nhưng vẫn cần phải chú ý nhiều hơn đến vấn đề giới.
Mặc dù kiểm tra sơ bộ có thể đề xuất những hành động can thiệp để giảm nguy cơ dịch bệnh gắn với chuỗi giá trị nhưng rõ ràng là các mối quan hệ buôn bán hiện nay có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của các mạng lưới và việc phát triển các mối quan hệ mới có thể rất phức tạp. Phương pháp tận dụng các mối quan hệ và các cơ chế sẵn có là rất quan trọng, tuy nhiên phải cân bằng hài hòa với sự chống lại thay đổi cũng như nâng cấp các tiêu chuẩn và thực hành trong hệ thống hiện thời.
Đến thời điểm này có lẽ cần chú ý hơn vào việc đánh giá hiệu quả của các biện pháp giảm thiểu rủi ro, bao gồm ảnh hưởng của các biện pháp này đến sinh kế của những các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ và gia đình của họ. Bất kỳ chiến lược can thiệp nào cho lĩnh vực này cũng đều phải cân nhắc kỹ xem làm thế nào để số lượng lớn các hộ chăn nuôi gia cầm nhỏ lẻ cũng như các cơ sở chăn nuôi vừa và nhỏ có thể tham gia vào các các chuỗi cung ứng phục vụ nhu cầu của các khu vực đô thị mà vẫn đảm bảo tăng cường các tiêu chuẩn an toàn sinh học chung. Hoàn toàn hợp lý khi mong đợi vấn đề này cũng được áp dụng với các hệ thống chăn nuôi khác, đặc biệt là khi an toàn thực phẩm trở thành vấn đề được quan tâm chính ở các chợ trung tâm đô thị. Cam kết mạnh mẽ giữa FAO và Chính phủ về việc phát triển chính sách liên quan đến chăn nuôi gia cầm cho đến nay vẫn chưa phải là một đặc trưng của mối quan hệ, tuy nhiên có dấu hiện cho thấy là điều này có thể thay đổi khi sự hợp tác chung trong ngành hiệu quả hơn.
Bối cảnh thể chế để hỗ trợ các quy định luật pháp về thú y vẫn còn phức tạp với sự tham gia của rất nhiều các tổ chức quốc tế có các phương pháp tiếp cận cơ bản khác nhau. Ở Việt Nam đã tham vấn các chuyên gia tư vấn có kiến thức về luật pháp về thú y của Hoa Kỳ, các chuyên gia về luật thú y của Pháp làm việc cho OIE và qua dự án này cũng đã tham vấn một chuyên gia tư vấn về luật thú y của EU và Vương quốc Anh.
Mặc dù các hiểu biết về các chuỗi giá trị và phương pháp áp dụng đánh giá nguy cơ cho các chuỗi giá trị này đã tăng lên đáng kể nhưng hiện vẫn còn thiếu sự gắn kết chặt chẽ giữa các bộ phận thú y và bộ phận kỹ thuật chăn nuôi. Điều đó có nghĩa là những hiểu biết này chưa mang lại được lợi ích cao nhất. Việc chia phương pháp kỹ thuật thành từng phần đặc biệt bất lợi cho việc xây dựng tiếp các chiến lược hiệu quả để giải quyết rủi ro từ việc vận chuyển gia cầm qua biên giới.
101
i
n M g n u J i
K / O A F ©
102
103
i
n M g n u J i
K / O A F ©
TÓM TẮT
trách nhiệm thay mặt LHQ phụ trách truyền thông về cúm gia cầm độc lực cao. UNICEF cũng gặp một số khó khăn khi thực hiện hoạt động này do chưa có nhiều kinh nghiệm làm việc về các vấn đề kinh tế - xã hội liên quan đến chăn nuôi, phạm vi mà người chăn nuôi là người ra quyết định.Tuy nhiên, trong lĩnh vực y tế, UNICEF đã quá quen thuộc với các mục tiêu và phương pháp truyền thông.
Khi cúm gia cầm độc lực cao H5N1 bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam thì cả FAO và Cục Chăn nuôi hầu như không có chuyên môn gì trong việc hướng dẫn phương thức hiệu quả để đưa số lượng lớn thông tin cần thiết cho người dân nắm được tình hình dịch bệnh và các biện pháp cần tiến hành để kiểm soát dịch bệnh. Mặt khác, qua các chương trình kiểm soát dịch bệnh khác Cục Chăn nuôi hiểu rõ rằng người dân cần nhận thức đầy đủ để thực hiện hiệu quả các biện pháp ứng phó, đặc biệt trong tình huống khẩn cấp. FAO lúc đó cũng trong tình trạng tương tự, hầu như không có kinh nghiệm về truyền thông thú y, nhưng FAO hiểu rất rõ sự cần thiết phải áp dụng phương pháp truyền thông thật hợp lý. Trước đây FAO đã nhận thấy rằng truyền thông đã được các cơ quan khác quảng bá tích cực, bởi đó là cách hiệu quả nhất để giải quyết hàng hoạt vấn đề liên quan đến kiểm soát dịch bệnh. Tuy nhiên FAO không tham gia trực tiếp vào các hoạt động truyền thông đại chúng như nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi.
Lần đầu tiên FAO tham gia vào công tác truyền thông là năm 2005 qua việc sản xuất một video với nội dung kỹ thuật phục vụ công tác tập huấn tiêm phòng. Video được thực hiện bằng tiếng Việt và sau đó có thêm phụ đề tiếng Anh và được FAO sử dụng ở châu Phi. Ở quy mô phối hợp giữa các tổ chức LHQ, UNICEF được giao
Một điểm quan trọng trong các chiến dịch truyền thông là vào đầu năm 2006, Chính phủ Việt Nam đưa ra Chương trình hành động quốc gia phòng chống dịch cúm gia cầm và cúm ở người giai đoạn 2006-2010, còn được gọi là Sách xanh. Chương trình OPI giao nhiệm vụ cho Đối tác phòng chống dịch cúm gia cầm và cúm ở người (PAHI) vai trò điều phối chiến lược quốc gia. Chương trình OPI cũng được biết là Nhóm công tác về Thông tin, Giáo dục và Truyền thông (NCTVTTGDVTT) đã được thành lập năm 2005 nhằm hài hòa các nỗ lực của các đối tác thực hiện, và Nhóm công tác về Thông tin, Giáo dục và Truyền thông đã có kế hoạch mở rộng phối hợp với các cơ quan thực hiện khác và các tổ chức phi chính phủ. Tuy nhiên, Chương trình OPI đã không tập trung nhiều vào các hoạt động thay đổi hành vi và nhận thức cho người dân trong lĩnh vực nông nghiệp. Vào thời điểm xây dựng và thành lập
104
người dân giúp ngăn chặn các cú sốc thị trường và các ảnh hưởng kinh tế đến ngành chăn nuôi gia cầm, đặc biệt ở cấp địa phương.
Chương trình OPI, thực tế “có nhiều tổ chức chính phủ, tổ chức đa phương, song phương và các tổ chức phi chính phủ cùng đang xây dựng và tuyên truyền thông điệp và tài liệu”. Vì vậy chương trình này nhận thấy rằng việc điều phối các thông điệp và phương pháp điều phối là các yếu tố quan trọng, đồng thời cần có cách tiếp cận không gây bối rối cho người dân và không bị trùng lặp. Chương trình cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải có một nghiên cứu ban đầu và các thông điệp kỹ thuật ngắn gọn, súc tích.
FAO đã rất thành công trong việc vận động và kết nối với các Sở NN và PTNT, Chi cục Chăn nuôi và Chi cục Thú y tỉnh để xây dựng chương trình đánh giá hệ thống chợ, đánh giá rủi ro và nâng cấp lò ấp, kết quả là không chỉ tạo được sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa chính quyền địa phương với hộ chăn nuôi để thực hiện các thực hành chăn nuôi an toàn hơn, mà các kết quả của những nỗ lực này đã xây dựng được các hướng dẫn và tiêu chuẩn quốc gia.
Sau một thời gian và qua những thay đổi trong dịch cúm gia cầm độc lực cao ở Việt Nam, FAO, Cục Thú y và các đối tác đã cùng đóng góp xây dựng một bộ thông tin chung tập trung nhiều hơn vào việc giải quyết cho các bên liên quan có rủi ro cao (người chăn nuôi, người buôn bán và người bán lẻ gia cầm tại chợ), nhằm phòng ngừa các ảnh hưởng và ngăn chặn lây lan dịch bệnh. Các nỗ lực truyền thông bổ sung tập trung vào việc truyền tải các thông tin phù hợp đến cho
Cuối cùng, chính bằng sự minh bạch và chia sẻ thông tin tại các hội thảo, hội nghị quốc gia, khu vực và toàn cầu về kết quả giám sát và các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh ở Việt Nam, quốc gia đã được công nhận là một đối tác toàn cầu minh bạch trong công tác phòng chống cúm gia cầm độc lực cao H5N1.
Truyền thông và vận động chính sách giai đoạn 2006-2010 Tại Việt Nam, mặc dù dự án có chuyên gia thú y nhưng lại không có chuyên gia truyền thông để tham gia sâu vào các hoạt động truyền thông cần thiết trong lĩnh vực thú y. Vì vậy dự án đã đảm nhận vai trò cố vấn cho các tổ chức khác về các thông điệp kỹ thuật khi có yêu cầu. Tuy nhiên, việc thiếu năng lực truyền thông chuyên sâu trong dự án đó là một khoảng trống và sự thiếu hụt đó chỉ được giải quyết sau khi tuyển dụng một chuyên gia tư vấn truyền thông quốc tế và một chuyên gia tư vấn truyền thông người Việt Nam. Nhóm truyền thông dành toàn bộ thời gian để xây dựng và duy trì cơ sở thông tin về tình hình cúm gia cầm độc lực cao để đảm bảo các thắc mắc gửi đến FAO về tình hình dịch bệnh, bao gồm cả các thắc mắc của cộng đồng quốc tế, có thể được giải đáp một cách nhanh chóng và chính xác. Ngoài ra còn phải giải đáp các thắc mắc tương tự của báo chí và thiết lập các mối quan hệ để đảm bảo nội
105
O A F ©
dung báo cáo cân bằng và có cơ sở khoa học. Liên quan đến báo chí trong nước, nhóm dự án đã hỗ trợ các đối tác chính phủ để cho ra đời một dự án truyền thông đa phương tiện với sáng kiến cấp học bổng báo chí cho các ứng viên được lựa chọn từ tất cả các loại hình báo chí – báo in, phóng viên ảnh, phát thanh/ truyền hình. Các phóng viên được học bổng đã phản ánh cuộc sống của những người chăn nuôi và các bên liên quan khác đang phải gánh chịu ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm độc lực cao ở Việt Nam. Nguyên tắc của chương trình học bổng này là nhằm tăng cường nhận thức về giá trị và tầm quan trọng của của việc phản ánh các vấn đề mà các cộng đồng người dân bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cúm gia cầm độc lực cao đang phải đối mặt để vừa thay họ làm công tác vận động vừa nhanh chóng cung cấp các thông tin quan trọng đến công chúng. Một sản phẩm quan trọng nữa của dự án này là một phim tài liệu về kinh nghiệm phòng chống cúm gia cầm độc lực cao ở Việt Nam đã được nhiệt liệt đón nhận và được trình chiếu tại Hội
nghị Bộ trưởng quốc tế về “Cúm gia cầm và đại dịch: Định hướng cho tương lai” (IMCAPI) tổ chức tại Hà Nội năm 2010. Cuốn phim này đã phản ánh chi tiết ảnh hưởng của cúm gia cần độc lực cao đến sinh kế của người chăn nuôi gia cầm, về các các biện pháp đã được áp dụng để giảm nhẹ gánh nặng, về sự đóng góp của cộng đồng quốc tế, và về những nguy cơ mà quốc gia vẫn đang đối mặt. Ngoài ra, ECTAD và nhóm truyền thông còn phát triển một trang tin có thể cập nhật các thông tin mới nhất về cúm gia cầm độc lực cao trên trang web của FAO Việt Nam. Ngay khi vừa thành lập, dự án Quỹ Tín thác Nhật Bản đã tuyển một Giám đốc dự án làm việc tại địa bàn, chịu trách nhiệm chính trong việc tăng cường kiểm soát dịch bệnh tại các tỉnh thí điểm dự án ở miền Bắc. Trong giai đoạn các hoạt động của dự án Quỹ Tín thác Nhật Bản diễn ra tại địa bàn, các đường dây nóng đã được thiết lập và cùng với đó một chương trình truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng đã được nhóm truyền thông thành lập tác động đến tất cả các cấp trong hệ thống kiểm soát cho
106
y khi làm việc với các hộ chăn nuôi gia cầm. Sau khi thực hiện khảo sát KAP, nhóm cán bộ truyền thông của dự án đã đưa ra một phương pháp chiến lược có tên gọi là ParaComm tập trung vào năng lực truyền thông và kỹ thuật vào ứng phó tuyến đầu ở cấp thôn. Mặc dù dự án đã nỗ lực phát triển chiến lược này nhưng sau đó chiến lược đã không duy trì được do nhận thức trong cộng đồng truyền thông cho rằng chiến lược này cần phải được lồng ghép vào các hoạt động khác và bởi vì nguồn tài chính cho các cán bộ chủ chốt không bền vững.
đến các hoạt động tại địa bàn, bao gồm việc sử dụng đường dây nóng và các thông điệp chính về kiểm soát dịch bệnh. Một trong những hoạt động quan trọng của dự án Quỹ Tín thác Nhật Bản đã được thực hiện chính là vận động sự tham gia kiểm soát dịch bệnh của các cơ quan chính quyền, đoàn thể cấp tỉnh, huyện và xã. Dự án này nhấn mạnh vai trò của mối liên kết chặt chẽ với các cơ chế hiện thời của chính phủ, có thể kể tên như các Ban chỉ đạo phòng chống cúm gia cầm (BCĐPCDCGC) và nhóm điều tra ổ dịch được thành lập khi xảy ra dịch. Để tiếp tục truyền thông vận động cho phương pháp này, các tài liệu truyền thông như tờ rơi áp phích, lịch, bản đồ và cẩm nang đã được in và phân phát. Nội dung kỹ thuật trong cẩm nang được bổ sung thêm các thông tin hữu ích gồm các quy định và nghị định cần thiết cho ngành thú y. Đáng chú ý, dự án đã thực hiện điều tra để xác định rõ tần suất tiếp xúc giữa người chăn nuôi với các cửa hàng bán thức ăn chăn nuôi và vai trò của người bán thức ăn chăn nuôi trong việc phổ biến thông tin về dịch cúm gia cầm độc lực cao.
Tháng 1/2007, các cán bộ truyền thông đã thực hiện các chuyến thực địa để quan sát các nỗ lực truyền thông đại chúng trên quy mô rộng của UNICEF vào dịp trước Tết Nguyên đán. Sau đó, một cuộc khảo sát tại địa bàn đã được thực hiện để tìm hiểu về Kiến thức, Thái độ và Thực hành (khảo sát KAP) của nhân viên thú y cũng như các cán bộ kiểm soát dịch bệnh ở tuyến cơ sở. Kết quả điều tra đã được báo cáo tại một hội thảo quốc tế tổ chức tại Hà Nội là hội thảo “Từ nghiên cứu đến chính sách”. Kết luận chung là các nhân viên thú y cấp xã chính là các cán bộ truyền thông ở tuyến đầu, trực tiếp tuyên truyền về dịch cúm gia cầm độc lực cao và công tác kiểm soát dịch bệnh. Tuy nhiên rất ít người trong số họ được trang bị đầy đủ để thực hiện vai trò này. Có thể đưa đến cho người nông dân những thông điệp rõ ràng và nhất quán là điều cần thiết không chỉ để kiểm soát dịch bệnh mà còn để xây dựng uy tín cho các nhân viên thú
Đánh giá dự án Quỹ Tín thác Nhật Bản cho thấy dự án này đã tạo được ảnh hưởng quan trọng ở cấp quốc gia. Về cơ bản, báo cáo dự án cho biết Nhóm công tác về Thông tin, Giáo dục và Truyền thông (NCTVTTGDVTT), do một cán bộ của Quỹ Tín thác Nhật Bản giám sát, đóng vai trò chủ chốt trong việc phát triển một chương trình được phối hợp rất tốt về nâng cao nhận thức thông tin, giáo dục và truyền thông dành cho cán bộ y tế và thú y, các bên liên quan trong chương trình kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao, cộng đồng chăn nuôi gia cầm các cấp, và công chúng nói chung. Trong thời gian này, Nhóm công tác về Thông tin, Giáo dục và Truyền thông (NCTVTTGDVTT) đã phối hợp chặt chẽ với Cục Thú y và Cục Chăn nuôi cũng như Chương trình đối tác PAHI, và các đối tác quốc tế như UNICEF và WHO, các tổ chức đối tác của USAID, Viện Phát triển giáo dục Hòa Kỳ và Tổ chức Abt Associates, Care International cùng các đối tác khác để xây dựng các tài liệu truyền thông cho các mục tiêu của Chương trình hành động quốc gia phòng chống dịch cúm gia cầm và cúm ở người (OPI). Đặc biệt, Nhóm công tác về Thông tin, Giáo dục và Truyền thông (NCTVTTGDVTT) đã điều phối các hoạt động đóng góp của dự án cho công tác chuẩn bị Khung chiến lược về Truyền thông kiểm soát và phòng ngừa cúm gia cầm và cúm ở người giai đoạn 2008-2010. Công tác chuẩn bị này được Đối tác PAHI điều phối và kết quả cuối cùng là đưa ra một cách tiếp cận
107
kỹ thuật để giúp điều phối các thông điệp và các hoạt động truyền thông do các cơ quan đối tác thực hiện. Tuy nhiên, ngân sách cho vị trí này đã bị dừng năm 2009.
được Chính phủ Việt Nam chấp nhận vào tháng 7/2008 để phối hợp tất cả các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi liên quan đến cúm gia cầm và cúm ở người. Có rất nhiều các tổ chức tham gia lĩnh vực truyền thông hướng đến thay đổi hành vi và Đối tác PAHI đã tổ chức Nhóm công tác Truyền thông thay đổi hành vi với sự tham gia của nhóm cán bộ dự án. Đáng chú ý là vào thời điểm đó chương trình đã sử dụng rất nhiều thông điệp khác nhau và vì vậy cần phải cân nhắc để hợp lý hóa và lựa chọn các thông điệp phù hợp. Nhóm công tác về Thông tin, Giáo dục và Truyền thông (NCTVTTGDVTT) đóng vai trò quan trọng bởi vì nếu không thì nhiệm vụ điều phối truyền thông và đóng góp kỹ thuật cho truyền thông thú y trong các hoạt động được các tổ chức đối tác thực hiện sẽ phải giao cho các cố vấn kỹ thuật (các bác sỹ thú y) – những người đã bị quá tải công việc ngay trong lĩnh vực chuyên môn chính của mình và không được đào tạo chuyên môn truyền thông. FAO cho rằng cần phải có một đầu mối thông tin liên lạc ở mảng
Trong giai đoạn từ sau năm 2009 đến 2010, vị trí trợ lý truyền thông quốc gia vẫn tiếp tục được duy trì và vì vậy thông tin về tình trạng dịch cúm gia cầm độc lực cao trên trang web của FAO được cập nhật liên tục. Một chiến dịch thông tin truyền thông lớn đã được thiết kế và thực hiện để hỗ trợ các hoạt động của dự án GETS tại 4 tỉnh mục tiêu. Nhờ có nỗ lực này, dự án khảo sát địa bàn tăng cường đã thành công. Nhóm cán bộ kỹ thuật của dự án cũng tiếp tục hỗ trợ kỹ thuật đáng kể cho các đối tác khác của USAID với các hoạt động thực địa, tuy nhiên mức độ sáng kiến truyền thông do FAO khởi xướng ở diện rộng đã giảm xuống đáng kể. Các địa phương cũng đã nỗ lực nâng cao nhận thức cho người dân trước dịp Tết Nguyên đán 2010 ở 5 tỉnh dự án, đặc biệt là để hỗ trợ chương trình giám sát thụ động.
Truyền thông Vận động trong giai đoạn 2011-2014
Vì vẫn còn rất nhiều việc phải làm tại địa bàn liên quan đến an toàn sinh học và các chuỗi giá trị nên cần có rất nhiều hoạt động truyền thông và vận động chính sách để có được sự hỗ trợ của Sở NN và PTNT vốn chỉ tham gia rất ít vào các nỗ lực phòng chống dịch cúm gia cầm độc lực cao hoặc lĩnh vực chăn nuôi gia cầm nói riêng. Thêm vào đó, một số hoạt động cũng đã được thực hiện để vận động các bên tham gia ở quy mô lớn hơn trong lĩnh vực kinh doanh gia cầm. Bằng cách này, các thông điệp truyền thông về phòng chống dịch bệnh liên kết chặt chẽ hơn với cách thức tương tác của dự án với chính quyền địa phương chứ không phải là những nỗ lực truyền thông tách rời và phương
pháp này đã trở thành một mô hình thực hiện dễ chấp nhận hơn. Hàng tháng, những thông tin cập nhật của FAO ECTAD Việt Nam được viết và gửi đến các đối tác. Hàng quý, bản tin điện tử được gửi đến nhóm các bên liên quan mở rộng gồm các đối tác của Sáng kiến Một sức khỏe (SKMSK) đồng thời được đăng tải trên trang web. Các hoạt động này giúp liên tục chia sẻ thông tin về các nỗ lực đáng trân trọng của Cục Thú y, Cục Chăn nuôi và FAO trong công tác phòng chống dịch cúm gia cầm độc lực cao. Dự án cũng tiếp tục phối hợp với báo chí địa phương, cung cấp cho phóng viên các báo cáo tổng quát về tình hình cúm gia cầm độc lực cao, đặt tình hình vào bối cảnh quốc gia, khu vực và toàn cầu. Ở cấp khu vực và toàn cầu, thông tin về diễn biến của cúm gia cầm độc lực cao cùng các phương pháp sáng tạo cho công tác giám sát,
108
các tiêu chuẩn an toàn sinh học, các hướng dẫn của cơ quan chuyên môn ban hành và cuối cùng sẽ được đưa vào chính sách quốc gia trong tương lai.
ứng phó, nghiên cứu chuỗi giá trị và Sáng kiến Một sức khỏe để giải quyết cúm gia cầm độc lực cao đã được chia sẻ tại rất nhiều hội thảo. Các hình thức chia sẻ bao gồm tham gia và thuyết trình tại các hội thảo trong nước ví dụ như tại Trường đại học Nông nghiệp Hà Nội, cho đến các hội thảo khu vực hoặc xuyên quốc gia như hội thảo về Các bệnh lây từ vật sang người mới nổi tổ chức tại Campuchia, và các đóng góp tại các hội thảo toàn cầu như Hội thảo Một sức khỏe PMAC với chủ đề “Một thế giới đoàn kết phòng chống bệnh truyền nhiễm – Các giải pháp liên ngành” tại Thái Lan (2013). Để tăng cường truyền thông về an toàn sinh học trong chăn nuôi gia cầm và nâng cao năng suất lò ấp, hai bộ phim đã được sản xuất với sự phối hợp của các cơ quan đối tác chính phủ. Cả hai bộ phim đều chứa đựng các thông tin kỹ thuật và thông tin tuyên truyền không chỉ hỗ trợ tăng thu nhập sinh kế cho người dân địa phương mà còn giúp tăng cường an toàn sinh học và thực hành sản xuất tốt để giảm nguy cơ dịch bệnh và lây lan dịch bệnh. ECTAD FAO cũng hỗ trợ việc bàn giao các cuốn phim này và những thông tin hiện đang được Trung tâm Khuyến nông quốc gia (Bộ NN và PTNT), Cục Chăn nuôi và Cục Thú y sử dụng cũng như được lồng ghép vào
chuẩn quốc gia.
Việt Nam đã được công nhận là đối tác toàn cầu minh bạch vì đã chia sẻ thông tin và thuyết trình về cúm gia cầm độc lực cao trong nước cùng với các phương pháp tiếp cận sáng tạo để phòng ngừa, ứng phó và kiểm soát cúm gia cầm độc lực cao tại các diễn đàn quốc gia, khu vực và quốc tế.
Những điểm nổi bật trong công tác truyền thông vận động FAO và các đối tác chính phủ đã đóng góp đáng kể về mặt kỹ thuật, vận động và xây dựng thông điệp truyền thông đại chúng để hỗ trợ các cơ chế truyền thông phối hợp ở quy mô quốc gia và LHQ thông qua UNICEF và Đối tác PAHI. Dự án đã rất thành công trong việc vận động và kết nối với các Sở NN và PTNT, Chi cục Chăn nuôi và Chi cục Thú y tỉnh để xây dựng chương trình đánh giá hệ thống chợ, đánh giá rủi ro và nâng cấp lò ấp. Kết quả của quy trình này là sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa chính quyền địa phương với hộ chăn nuôi để thực hiện các thực hành sản xuất tốt hơn. Kết quả của những nỗ lực này là việc thiết lập các hướng dẫn và tiêu
Từ góc độ tổ chức, Cục Thú y và nhóm cán bộ truyền thông đã thu hút được sự quan tâm của hệ thống thông tin đại chúng cũng như đáp ứng những yêu cầu cao về cung cấp thông tin vào
109
đối tác và các bên liên quan khác của cộng đồng quốc tế là một đóng góp quan trọng của dự án.
những thời điểm nhất định, đặc biệt là khi có áp lực truyền thông cung cấp . Việc có các bản tin cập nhập hàng tuần và tờ tin hàng quý cho các
Những nhược điểm của công tác truyền thông và vận động chính sách Việc gián đoạn nguồn vốn hỗ trợ cho nhóm cán bộ truyền thông đã gây ra sự mất mát rất nhiều cho mối quan hệ với cơ quan báo chí và ECTAD. Cũng có thể nói là một số chương trình vận động thực hiện chính sách đã có thể thành công hơn nhiều nếu có chương trình có cán bộ có kinh nghiệm để không phải phụ thuộc vào nhóm kỹ thuật hoặc yêu cầu họ làm một phần công việc vận động này.
gia truyền thông. Đối với Bộ NN và PTNT, việc có một chuyên gia truyền thông được đào tạo bài bản sẽ rất tốt để hỗ trợ cho công tác truyền thông vận động ngay trong cơ quan chuyên môn để kêu gọi hỗ trợ, đảm bảo minh bạch hơn và thực hiện các biện pháp kiểm soát ở cấp , để các bên liên quan có nguy cơ cao hành động ngăn chặn các ảnh hưởng tiếp tục của dịch bệnh, và để người dân phòng ngừa cú sốc thị trường cũng như ảnh hưởng kinh tế liên quan đến các sự cố dịch bệnh.
Cho đến nay, Cục Thú y, Cục Chăn nuôi hoặc các Trung tâm khuyến nông vẫn chưa có chuyên
như các quá trình vận động chính sách vốn luôn không thể hiện ra rõ ràng bởi vì kết quả của vận động chính sách không trực tiếp gắn kết với với tổ chức. Có lẽ đây là lúc để đưa ra câu hỏi về việc liệu công tác truyền thông và vận động chính sách có thành công hơn nếu có một chuyên gia chịu trách nhiệm. Trong phân tích cuối cùng, do dự án không tham gia trực tiếp vào các chương trình truyền thông đại chúng nên các nỗ lực đóng góp không thực sự rõ nét.
Kết luận Đóng góp quan trọng mà dự án và FAO có được chính là đội ngũ cán bộ truyền thông có năng lực đã hỗ trợ nhiều cơ quan đối tác. FAO, Cục Thú y và Cục Chăn nuôi đã dành nhiều thời gian hỗ trợ cho các đối tác khác về mặt kỹ thuật trong các chương trình truyền thông của họ và quá trình này, cùng với việc tham gia vào các nhóm công tác về truyền thông đã được sự hỗ trợ của các chuyên gia truyền thông. Ở một chừng mực nào đó, chính các sản phẩm truyền thông đã nói lên tất cả, điều này không giống
110
111
책안에서첫표지
604 Legacy Document Lessons learned from 604
ISBN 978-92-5-009214-0
9
7 8 9 2 5 0
0 9 2 1 4 0
I5611Vi/1/04.16

