
nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 11/2009 3
Vò Ngäc D−¬ng *
iện nay, trong khuôn khổ Liên hợp
quốc và các tổ chức thành viên (ICAO,
IMO, IAEA…) có 13 điều ước quốc tế đa
phương về chống khủng bố đã được thông
qua. Công ước chung về chống khủng bố
quốc tế mặc dù được tiến hành xây dựng từ
năm 1996(1) đến nay vẫn đang nằm dưới
dạng dự thảo vì còn nhiều ý kiến bất đồng
xung quanh vấn đề định nghĩa khủng bố. Ở
cấp độ khu vực cũng có 8 điều ước quốc tế
được kí kết. Ngoài ra còn rất nhiều các hiệp
định quốc tế song phương và các nghị quyết
của Đại hội đồng, Hội đồng bảo an Liên hợp
quốc về các biện pháp đấu tranh chống
khủng bố. Tuy hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật quốc tế về chống khủng bố tương
đối lớn nhưng chưa văn bản nào đưa ra được
định nghĩa rõ ràng, toàn diện về khủng bố.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, việc đưa ra
định nghĩa chung về khủng bố là cấp thiết vì
có như vậy mới nâng cao được hiệu quả hợp
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này.
1. Định nghĩa khủng bố theo quy định
tại các điều ước quốc tế
Có thể nói định nghĩa về khủng bố đầu
tiên xuất hiện tại điều ước quốc tế đa phương
là định nghĩa được nêu ra trong Công ước
Giơnevơ năm 1937 về ngăn ngừa và trừng trị
khủng bố quốc tế. Theo Công ước Giơnevơ
năm 1937 thì khủng bố là việc thực hiện các
hành vi phá hoại, hành vi gây nguy hiểm cho
nhiều người, việc vận chuyển, chuyển giao,
cố ý sử dụng các giấy tờ, tài liệu giả mạo, các
hành vi ám sát nguyên thủ quốc gia và các
nhà lãnh đạo của quốc gia khác… Tuy nhiên,
do không hội đủ số lượng thư phê chuẩn nên
Công ước đã không phát sinh hiệu lực.(2)
Trong 13 điều ước quốc tế thuộc khuôn
khổ Liên hợp quốc về đấu tranh chống
khủng bố hiện nay chỉ có 3 công ước trực
tiếp nhắc đến khái niệm “khủng bố” (terrorism)
ngay tại tiêu đề, đó là: Công ước New York
năm 1997 về trừng trị khủng bố bằng bom
(International convention for the suppression
of terrorist bombings); Công ước New York
năm 1999 về trừng trị hành vi tài trợ khủng
bố (International convention for the suppression
of the financing of terrorism); Công ước
New York năm 2005 về ngăn chặn các hành
vi khủng bố hạt nhân (International convention
for the suppression of acts of nuclear terrorism).
Các công ước còn lại quy định về những tội
phạm mà việc thực hiện các tội phạm đó
được coi như biểu hiện của khủng bố quốc
tế. Ví dụ tại phần mở đầu Công ước New
York năm 1979 về chống bắt cóc con tin ghi
nhận: “Xét rằng việc bắt cóc con tin là tội
phạm gây lo ngại sâu sắc cho cộng đồng
quốc tế...; Nhận thấy rõ sự cấp thiết phải
phát triển hợp tác quốc tế giữa các quốc gia
trong việc đưa ra các sáng kiến và sử dụng
H
* Trường Đại học Luật Hà Nội

nghiªn cøu - trao ®æi
4 t¹p chÝ luËt häc sè 11/2009
các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn, truy
tố và trừng trị tất cả các hành vi bắt con tin
như là những biểu hiện của khủng bố quốc
tế”; hay như Công ước Montreal năm 1991
về việc đánh dấu chất nổ dẻo để nhận biết
ghi nhận tại phần mở đầu: “Bày tỏ mối lo
ngại sâu sắc đối với các hành vi khủng bố
nhằm phá hoại tàu bay, các phương tiện
giao thông và các mục tiêu khác; Lo ngại
rằng các vật nổ dẻo vẫn được sử dụng cho
các hành vi khủng bố như vậy; Xét rằng việc
đánh dấu vật liệu nổ dẻo để nhận biết sẽ góp
phần quan trọng vào việc ngăn chặn các
hành vi bất hợp pháp đó”...
Trong 3 công ước quốc tế nhắc đến khái
niệm “khủng bố” ngay tại tiêu đề chỉ có
Công ước New York năm 1999 về trừng trị
hành vi tài trợ khủng bố đưa ra được định
nghĩa chung về khủng bố, các công ước còn
lại chỉ đưa ra định nghĩa về từng loại hành vi
khủng bố cụ thể. Công ước New York năm
1999 bên cạnh việc định nghĩa hành vi tài trợ
khủng bố đã gián tiếp quy định thế nào là
khủng bố. Theo Công ước này thì khủng bố
là: 1) “Bất kì hành vi nào cấu thành một tội
phạm trong phạm vi và được định nghĩa tại
một trong số các điều ước về đấu tranh
chống khủng bố được quy định tại phụ lục”
hoặc 2) “Bất kì hành vi nào khác với ý định
giết hại hoặc làm bị thương nghiêm trọng
đến thân thể thường dân, hoặc bất kì người
nào khác không tham gia vào chiến sự trong
bối cảnh xung đột vũ trang, nếu mục đích
của hành vi này về bản chất hoặc bối cảnh
xảy ra là nhằm hăm doạ dân chúng hay ép
buộc một chính phủ hoặc một tổ chức quốc
tế phải thực hiện hoặc không thực hiện bất kì
hành vi nào” (Điều 2). Tuy nhiên, khó có thể
coi quy định nêu ra tại Điều 2 Công ước
New York năm 1999 là định nghĩa khủng bố
hoàn chỉnh bởi: 1) Khoản 1 Điều này không
nêu được dấu hiệu cấu thành tội khủng bố
mà dẫn chiếu đến một số tội phạm được quy
định tại các công ước khác cho nên chỉ thuần
tuý mang tính chất liệt kê; 2) Khoản 2 bổ
sung cho khoản 1 có nêu được một số dấu
hiệu của tội khủng bố (về hành vi, khách thể,
mục đích…) nhưng cũng chỉ đề cập các hành
vi xâm phạm tính mạng và sức khoẻ con
người. Hai công ước quốc tế về chống khủng
bố còn lại (trực tiếp nhắc đến khái niệm
khủng bố tại tiêu đề) chỉ đưa ra định nghĩa
về từng hành vi khủng bố cụ thể thuộc phạm
vi điều chỉnh của công ước, ví dụ khủng bố
bằng bom là việc: “ném, đặt làm nổ hoặc
kích nổ một cách bất hợp pháp và cố ý một
thiết bị gây nổ hoặc gây chết người khác tại,
vào, hoặc chống lại một địa điểm công cộng,
một trang thiết bị của nhà nước hoặc chính
phủ, một hệ thống giao thông công cộng
hoặc cơ sở hạ tầng” (Điều 2 Công ước New
York năm 1997 về việc trừng trị khủng bố
bằng bom); theo Điều 2 Công ước New York
năm 2005 về ngăn ngừa các hành vi khủng
bố hạt nhân thì “một người bị coi là phạm tội
khủng bố hạt nhân nếu người đó, một cách
có chủ định và bằng con đường bất hợp
pháp sở hữu nguyên liệu phóng xạ, chế tạo
hay sở hữu thiết bị hạt nhân với mục đích
gây thương vong lớn hay nhằm phá hoại cơ
sở hạ tầng hay môi trường; sử dụng nguyên
liệu hay thiết bị phóng xạ, sử dụng hoặc phá
hoại cơ sở hạt nhân để tạo ra sự rò rỉ phóng
xạ gây thương vong lớn, nhằm phá hoại cơ

nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 11/2009 5
sở hạ tầng hay môi trường để ép buộc thể
nhân hay pháp nhân, tổ chức quốc gia hay
quốc gia phải thực hiện hay không thực hiện
hành động nào đó”.
Các nghị quyết của Hội đồng bảo an Liên
hợp quốc về các biện pháp phòng, chống
khủng bố cũng không đưa ra định nghĩa nào
về vấn đề này. Đặc biệt Nghị quyết số 1373
ngày 28/9/2001 làm cơ sở ra đời Uỷ ban
chống khủng bố thuộc Hội đồng bảo an Liên
hợp quốc mặc dù kêu gọi “các quốc gia hợp
tác khẩn thiết nhằm phòng và trấn áp các
hành động khủng bố, thông qua sự tăng
cường hợp tác và thực hiện đầy đủ các công
ước quốc tế liên quan đến chủ nghĩa khủng
bố” cũng không đưa ra định nghĩa khủng bố.
Hầu hết các điều ước quốc tế khu vực
cũng không đưa ra được định nghĩa khủng
bố. Các điều ước này trong phạm vi hợp tác
đấu tranh chống khủng bố lại dẫn ra những
hành vi được quy định tại 13 công ước quốc
tế đa phương của Liên hợp quốc. Ví dụ,
Công ước của châu Âu về chống khủng bố
năm 1977 ngay tại Điều 1 đã đưa ra các hành
vi thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước,
yêu cầu các quốc gia thành viên phải tội
phạm hoá, đó là các hành vi được nêu trong
Công ước La Haye năm 1970 về trừng trị
việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay; Công
ước Montreal năm 1971 về trừng trị các
hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng
không dân dụng; Công ước New York năm
1973 về ngăn ngừa và trừng trị các tội phạm
chống lại những người được hưởng bảo hộ
quốc tế, bao gồm viên chức ngoại giao. Thời
gian kí kết Công ước châu Âu năm 1977 thì
Công ước về chống bắt cóc con tin năm
1979 hay Công ước trừng trị khủng bố bằng
bom năm 1997... chưa ra đời, tuy nhiên các
tội phạm nghiêm trọng liên quan đến bắt
cóc, giam giữ trái phép, tội phạm nghiêm
trọng liên quan đến việc sử dụng bom, lựu
đạn, rocket, súng tự động, bom thư... đã
được liệt kê trong Công ước. Gần đây nhất,
vào tháng 11/2007 tại Cebu, các quốc gia
trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN) đã kí
Công ước chung về chống khủng bố
(ASEAN Convention on Counter Terrorism.
Điều 2 Công ước này quy định về “Những
hành vi phạm tội khủng bố” đã ghi nhận các
hành vi theo 13 Công ước đa phương về đấu
tranh chống khủng bố trong khuôn khổ Liên
hợp quốc: “Đối với các mục đích của Công
ước này, tội phạm có nghĩa là bất kì hành vi
phạm tội trong phạm vi được liệt kê như sau:
- Công ước La Haye năm 1970 về trừng
trị việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay.
- Công ước Montreal năm 1971 về trừng
trị những hành vi bất hợp pháp chống lại an
toàn hàng không dân dụng.
- Công ước New York năm 1973 về ngăn
chặn và trừng trị các tội phạm chống lại
những người được bảo hộ quốc tế, bao gồm
viên chức ngoại giao.
- Công ước New York năm 1979 về
chống bắt cóc con tin.
- Công ước Viên năm 1979 về bảo vệ an
toàn vật liệu hạt nhân.
- Nghị định thư Montreal năm 1988 về
trừng trị các hành vi bạo lực bất hợp pháp
tại cảng hàng không dân dụng quốc tế.
- Công ước Rome năm 1988 về trừng trị
các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn
hành trình hàng hải.

nghiªn cøu - trao ®æi
6 t¹p chÝ luËt häc sè 11/2009
- Nghị định thư Rome năm 1988 về trừng
trị các hành vi bất hợp pháp chống lại
những công trình cố định trên thềm lục địa.
- Công ước New York năm 1997 về trừng
trị khủng bố bằng bom.
- Công ước New York năm 1999 về trừng
trị hành vi tài trợ cho khủng bố.
- Công ước Viên năm 2005 (sửa đổi
Công ước Viên năm 1980) về bảo vệ an toàn
vật liệu hạt nhân.
- Công ước New York năm 2005 về ngăn
ngừa các hành vi khủng bố bằng hạt nhân.
- Nghị định thư năm 2005 bổ sung Công
ước về ngăn chặn các hành vi phi pháp
chống lại an toàn hàng hải.
- Nghị định thư năm 2005 bổ sung Nghị
định thư về trừng trị những hành vi bất hợp
pháp chống lại những công trình trên thềm
lục địa kí tại London ngày 14/10/2005”.(3)
Như vậy, hiện nay cộng đồng quốc tế
vẫn chưa đưa ra được định nghĩa chung
hoàn chỉnh về khủng bố mà mới chỉ ghi
nhận một số hành vi nhất định là khủng bố
và các biện pháp để hợp tác đấu tranh chống
lại các hành vi này.
2. Vấn đề xây dựng định nghĩa chung
về khủng bố
Việc xây dựng định nghĩa chung về
khủng bố là vấn đề cấp thiết hiện nay nhằm
nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tội phạm
này. Để xây dựng được định nghĩa về khủng
bố cần xuất phát từ những vấn đề mang tính
lí luận từ lâu được thừa nhận trong công
pháp quốc tế, đó là xem xét khủng bố dưới
giác độ tội phạm hình sự. Về nguyên tắc, tội
phạm được thực hiện trên lãnh thổ quốc gia
nào thì quốc gia đó có thẩm quyền xét xử.
Tuy nhiên, nhiều hoạt động tội phạm hiện
nay vượt qua biên giới quốc gia và hậu quả
cũng liên quan đến nhiều quốc gia mà khủng
bố nằm trong số đó. Từ những năm đầu của
thế kỉ XX, khủng bố đã vượt ra khỏi biên
giới quốc gia, trở thành mối lo ngại của cộng
đồng quốc tế và vấn đề hợp tác đấu tranh
chống khủng bố đã trở nên ngày càng cấp
thiết. Tội phạm trong khoa học luật quốc tế
được phân thành 3 loại đó là tội phạm quốc
tế (còn gọi là tội ác quốc tế); tội phạm có
tính chất quốc tế và tội phạm hình sự chung.
Tội phạm có tính chất quốc tế là nhóm tội
phạm mặc dù được thực hiện nhằm xâm
phạm trật tự pháp luật quốc gia nhưng cũng
xâm hại đến các quyền lợi của cộng đồng
quốc tế. Xét về bản chất, khủng bố thuộc
nhóm tội phạm có tính chất quốc tế cùng với
các tội như cướp biển, buôn bán bất hợp pháp
ma tuý và các chất hướng thần, tội buôn bán
nô lệ, buôn bán phụ nữ và trẻ em(4)… Các tội
phạm này xâm phạm đến quyền lợi chung của
cộng đồng quốc tế và để đấu tranh hiệu quả
cần sự chung tay của tất cả các quốc gia.
Như đã phân tích ở trên, vì khủng bố là
tội phạm có tính quốc tế nên định nghĩa phải
bắt đầu từ hành vi và lấy hành vi làm trung
tâm. Bên cạnh dấu hiệu hành vi, cần xem xét
các dấu hiệu khác của tội phạm như chủ thể,
khách thể, động cơ, mục đích.
a. Về hành vi
Trên thực tế cũng như qua nghiên cứu
cho thấy hành vi khủng bố rất đa dạng, bao
gồm các loại hành vi như xâm hại tính mạng,
thân thể con người, tài sản hay tổng hợp các
loại hành vi đó (như vụ khủng bố 11/9 tại
Hoa Kì năm 2001). Phần lớn hành vi khủng

nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 11/2009 7
bố là các hành vi sử dụng vũ lực hoặc đe doạ
sử dụng vũ lực, tuy nhiên hiện nay, với sự
phát triển của khoa học công nghệ, hành vi
khủng bố đã lan sang cả các hình thức
không mang tính vũ lực như chống phá
bằng công nghệ thông tin (tin tặc); làm ô
nhiễm nguồn nước, phát tán mầm bệnh...
Tội khủng bố xét về biểu hiện của hành vi
rất giống với các tội phạm thông thường
khác như tội giết người, tội huỷ hoại tài sản,
bắt cóc đòi tiền chuộc, cướp biển nhưng
khác nhau ở các dấu hiệu như mục đích, đối
tượng tác động... Hành vi khủng bố cũng có
biểu hiện giống các hành vi cấu thành tội ác
quốc tế như diệt chủng, chống nhân loại, tội
phạm chiến tranh nhưng khác nhau về mục
đích và mức độ nghiêm trọng. Ví dụ: Cũng
là hành vi giết người nhưng tội diệt chủng
được thực hiện nhằm tiêu diệt toàn bộ hay
một bộ phận nhóm dân tộc, sắc tộc, chủng
tộc hoặc tôn giáo. Cũng là hành vi giết
người nhưng tội chống nhân loại được thực
hiện một cách có hệ thống, trên diện rộng
nhằm vào cộng đồng dân thường nào đó.
Hiện nay, theo quy định của các công ước
quốc tế về chống khủng bố, hành vi khủng
bố bao gồm: các hành vi chống lại an toàn
hàng không dân dụng, chống lại an toàn
hành trình hàng hải và những công trình cố
định trên thềm lục địa, tài trợ khủng bố,
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ con người,
tài sản bằng các thiết bị gây nổ; chống lại
những người được hưởng bảo hộ quốc tế
bao gồm viên chức ngoại giao, bắt cóc con
tin, xâm phạm an toàn sức khoẻ, tính mạng,
tài sản con người bằng thiết bị hạt nhân.
b. Về mục đích
Theo quan điểm của tác giả thì mục đích
là dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội khủng bố
vì nếu không có dấu hiệu mục đích thì tội
khủng bố sẽ có cấu thành giống các tội phạm
khác như tội giết người, cướp biển hay huỷ
hoại tài sản... Không thể đánh đồng việc sát
hại quan chức ngoại giao nhằm cướp tài sản
với việc sát hại nhằm mục đích chính trị,
cũng không thể đồng nhất việc bắt cóc vì
động cơ vụ lợi (đòi tiền chuộc) với bắt cóc
nhằm gây sức ép với chính phủ phải có hành
động hoặc không được có hành động nào đó.
Dấu hiệu mục đích cũng là một trong những
dấu hiệu được nhắc đến trong hầu hết quan
điểm của các học giả nghiên cứu về khủng
bố và pháp luật hình sự của các nước trên thế
giới. Hành vi khủng bố tuy xâm phạm tính
mạng, tự do thân thể con người hoặc xâm
phạm tài sản nhưng đó không phải là mục
đích phạm tội. Người phạm tội muốn thông
qua các hành vi đó gây hoảng loạn, khiếp
đảm trong công chúng nhằm mục đích cuối
cùng là chính trị. Có người cho rằng bên
cạnh mục đích chính trị thì hành vi phạm tội
khủng bố còn có các mục đích khác như lí
tưởng, tôn giáo, tuy nhiên suy cho cùng thì lí
tưởng hay tôn giáo cũng đều là các vấn đề
chính trị hiểu theo nghĩa chính trị “là tất cả
những hoạt động, những vấn đề gắn với
quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia và các
nhóm xã hội …”.(5) Trong một số công ước
quốc tế về chống khủng bố thì mục đích
chính trị cũng đã được nhắc đến, ví dụ Công
ước quốc tế về chống bắt cóc con tin quy
định hành vi thuộc phạm vi điều chỉnh của
Công ước phải là hành vi bắt giữ, giam giữ,