BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRƯƠNG VIỆT HÙNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI - TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRƯƠNG VIỆT HÙNG

BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI - TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. VŨ ĐỨC ĐÁN THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tác

giả. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính

xác và trung thực.

Tác giả xin chân thành cảm ơn!

Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2021

Học viên

Trương Việt Hùng

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc PGS.TS. Vũ Đức

Đán đã hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tác giả hoàn thành

luận văn này. Tác giả cũng xin cảm ơn chân thành nhất đến Lãnh đạo, các

Giảng viên của Học viện Hành chính Quốc gia Hà Nội và khoa Sau đại học đã

quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tác giả học tập và tận tình

truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất

cho tác giả trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và cho đến khi thực hiện

đề tài luận văn.

Do hạn chế về thời gian và trình độ chuyên môn nên luận văn tốt

nghiệp này chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Tác giả rất mong nhận

được ý kiến phản hồi từ phía Giảng viên và bạn đọc.

Cuối cùng, Tác giả xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và

các bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ cho Tác giả rất nhiều trong suốt quá trình học

tập,và hoàn thiện đề tài luận văn thạc sĩ.

Trân trọng cảm ơn!

Học viên

Trương Việt Hùng

MỤC LỤC

Trang bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục viết tắt

Danh mục các sơ đồ, bảng biểu và biểu đồ

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài luận văn .......................................................................... 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn .................................... 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn .......................................... 6

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ...................... 6

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................... 7

7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 7

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN

CON NGƯỜI TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN LY HÔN CÓ YẾU TỐ

NƯỚC NGOÀI ............................................................................................. 8

1.1. Những vấn đề chung về quyền con người và quyền con người trong

vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài ............................................................... 8

1.1.1. Quan niệm về quyền con người và quyền con người trong vụ án ly hôn

có yếu tố nước ngoài ...................................................................................... 8

1.1.2. Quan niệm về ly hôn và ly hôn có yếu tố nước ngoài ................................. 18

1.1.3. Bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài .. 28

1.2. Những yếu tố tác động và điều kiện đảm bảo quyền con người trong

xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài .................................................. 33

1.2.1. Yếu tố khách quan ...................................................................................... 33

1.2.2. Yếu tố chủ quan .......................................................................................... 35

1.2.3. Điều kiện đảm bảo quyền con người trong xét xử vụ án ly hôn có yếu tố

nước ngoài ................................................................................................... 36

Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................ 37

Chương 2 THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG

XÉT XỬ VỤ ÁN LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI TẠI TÒA ÁN

NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH ........................................................... 38

2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng

Bình ............................................................................................................. 38

2.1.1. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình ............................... 38

2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình ..................... 40

2.1.3. Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình............................ 41

2.2. Tình hình bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có

yếu tố nước ngoài tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình ........................ 44

2.2.1. Tình trạng hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở tỉnh Quảng Bình ................... 44

2.2.2. Tình hình xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài và bảo vệ quyền con

người trong quá trình xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình ...................... 47

2.2.3. Đánh giá chung kết quả bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly

hôn có yếu tố nước ngoài tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình ......................... 73

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 84

Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO VỆ QUYỀN CON

NGƯỜI TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC

NGOÀI ........................................................................................................ 85

3.1. Quan điểm bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có

yếu tố nước ngoài ....................................................................................... 85

3.1.1. Yêu cầu bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ..................................................... 85

3.1.2. Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân do

Nhân dân vì Nhân dân .......................................................................................... 87

3.2. Giải pháp bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có

yếu tố nước ngoài ....................................................................................... 88

3.2.1. Giải pháp chung cho bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn

có yếu tố nước ngoài ............................................................................................. 88

3.2.2. Giải pháp riêng về bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có

yếu tố nước ngoài của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình .................................... 93

Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 98

KẾT LUẬN ................................................................................................. 99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 101

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Ký hiệu Nguyên nghĩa

BLDS Bộ luật Dân sự

BLTTDS Bộ luật Tố tụng Dân sự

ĐƯQT Điều ước quốc tế

HĐTTTP Hiệp định tương trợ tư pháp

LHNGĐ Luật Hôn nhân và gia đình

TAND Tòa án nhân dân

UTTP Ủy thác tư pháp

XHCN Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ VÀ CÁC BẢNG

Biểu đồ 2.1. Kết quả giải quyết các loại vụ án từ năm 2016 - 2020 .............. 42

Bảng 2.1: Số liệu xét xử các loại vụ án từ năm 2016 - 2020 ......................... 41

Sơ đồ 2.1.Tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình ...................... 39

Bảng 2.2: Số liệu kết hôn có yếu tố nước ngoài ............................................ 48

Bảng 2.3: Số liệu xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài .................. 48

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài luận văn

Quyền con người là một trong những vấn đề thiêng liêng, cơ bản mà

bất cứ quốc gia nào cũng phải thừa nhận và được quy định trong Hiến pháp và

pháp luật của chính quốc gia đó. Ở Việt Nam, bảo vệ quyền con người luôn là

truyền thống quý báu của dân tộc ta từ bao đời nay. Truyền thống đó càng

được phát triển rực rỡ từ khi Đảng ta lãnh đạo cách mạng của dân tộc, đấu

tranh giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, thống nhất đất nước, phá bỏ xiềng

xích áp bức bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, xây dựng một xã

hội tiến bộ, công bằng và tôn trọng phẩm giá con người. Một trong những tiêu

chí rất quan trọng của Nhà nước pháp quyền là bảo đảm cao nhất quyền công

dân trong mọi hoạt động của Nhà nước trong đó có hoạt động xét xử của Tòa

án. Đặc biệt hiện nay, chế định quyền con người đã được ghi nhận và được

thể chế hóa tại Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013: “Nhà nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”.

Điều 14, Hiến pháp 2013 khẳng định “ Ở nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự,

kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến

pháp và pháp luật”. Trong đó, quyền con người trong các vụ án ly hôn nói

chung, vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng đã được ghi nhận.

Trong những năm gần đây, ở Việt Nam nói chung và tại tỉnh Quảng

Bình nói riêng, cùng với việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong nhiều

lĩnh vực như chính trị, kinh tế, xã hội…giữa nước ta với các nước khác trên

thế giới ngày càng phát triển thì cũng kéo theo nó là vấn đề hôn nhân có yếu

tố nước ngoài nói chung cũng như ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng ngày

1

một gia tăng. Tình trạng kết hôn và ly hôn có yếu tố nước ngoài diễn ra khá

phức tạp, kéo theo đó là các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài ngày càng

tăng, do vậy việc nhận thức và vận dụng pháp luật để xét xử loại vụ án này

cũng như đảm bảo quyền con người trong hoạt động xét xử cũng gặp không ít

khó khăn. Tuy nhiên, với sự cố gắng của Tòa án, việc áp dụng pháp luật về

hôn nhân và gia đình cũng như pháp luật về tố tụng dân sự và đảm bảo quyền

con người trong xét xử các vụ án ly hôn nói chung và ly hôn có yếu tố nước

ngoài nói riêng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ góp phần giải quyết

kịp thời các mâu thuẫn bất hòa trong quan hệ hôn nhân, bảo vệ được các

quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, đồng thời góp phần làm ổn

định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình xét xử các vụ án ly

hôn có yếu tố nước ngoài, TAND tỉnh Quảng Bình gặp rất nhiều khó khăn,

bởi nhiều lý do khác nhau, như khó khăn trong việc xác định địa chỉ của bị

đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; trong việc tống đạt giấy

tờ, điều tra, thu thập chứng cứ, nhất là ở các nước không có hiệp định tương

trợ tư pháp hoặc không áp dụng nguyên tắc có đi có lại với Việt Nam; vấn đề

xung đột pháp luật giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài liên

quan; tính khả thi trong thi hành án liên quan đến con cái, tài sản ở nước

ngoài; hoặc cần làm rõ việc kết hôn trên có phải là kết hôn giả nhằm mục đích

ra nước ngoài sinh sinh sống hay không để áp dụng đúng thủ tục giải quyết.

Những tồn tại, bất cập trên không chỉ diễn ra ở TAND tỉnh Quảng Bình mà

đây còn là những bất cập chung đối với Tòa án các tỉnh trên cả nước, vì vậy

dẫn đến tình trạng việc thụ lý, giải quyết, xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố

nước ngoài thiếu sự thống nhất, có biểu hiện tùy tiện trong thụ lý, giải quyết

và xét xử phần nào làm ảnh hưởng đến quyền của của nguyên đơn và bị đơn

trong các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.

2

Mặt khác, do bản thân hiện tại đang công tác tại TAND tỉnh Quảng

Bình, đây là nơi đang trực tiếp thụ lý và xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố

nước ngoài và bản thân tác giả cũng đang rất tâm huyết về vấn đề bảo vệ

quyền con người trong vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nên đã chọn đề tài

này để nghiên cứu. Trước khi chọn đề tài này tác giả cũng đã tham khảo đề tài

của các khóa trước đây đã nghiên cứu tại Học viện Hành chính Quốc gia cũng

như tại các cơ sở đào tạo khác và thấy không có đề tài nào trùng lặp với đề tài

mà tác giả đang nghiên cứu.

Xuất phát từ những lý do trên nên tác giả chọn đề tài “Bảo vệ quyền

con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài - từ thực tiễn

Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình” để nghiên cứu.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Việc nghiên cứu những nội dung liên quan đến ly hôn có yếu tố nước

ngoài ở Việt Nam đã được một số nhà khoa học, nhà nghiên cứu, chuyên gia

pháp lý nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như: sách chuyên khảo của

TS. Nông Quốc Bình và TS. Nguyễn Hồng Bắc: “Quan hệ hôn nhân và gia

đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế” NXB

Tư pháp 2006; Luận văn thạc sĩ: “Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài theo

quy định của pháp luật Việt Nam và hướng hoàn thiện pháp luật” của tác giả

Phạm Trung Hòa; Luận văn thạc sĩ: “Thẩm quyền giải quyết ly hôn có yếu tố

nước ngoài ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” của tác giả Nguyễn Thanh

Hoa... Các công trình nghiên cứu này không đi chuyên sâu và toàn diện về

bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài

theo quy định pháp luật Việt Nam và ĐƯQT do Việt Nam ký kết hay gia nhập

mà mới chỉ nghiên cứu một số vấn đề pháp lý về các quy định của pháp luật

trong việc giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài; thẩm quyền giải quyết ly

hôn thep pháp luật Việt Nam.

3

Thực tế hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào phân

tích một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống dưới gốc độ lý luận và thực

tiễn về bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước

ngoài. Chỉ có một số công trình khoa học, bài viết các tác giả đã nghiên cứu

về một số khía cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến việc bảo đảm quyền

con người trong hoạt động giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình có yếu

tố nước ngoài nhưng chỉ nghiên cứu một hoặc một nhóm quyền đặc trưng về

vấn đề bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực ly hôn có yếu tố nước ngoài,

đó là các công trình, bài viết như: “Lý luận về quyền con người trong tố tụng

dân sự”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Năm 2013) của T.S Trương Thị Hồng

Hà; “Ly hôn có yếu tố nước ngoài ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Tòa án điện

tử (ngày 16/01/2019) của Thạc sĩ Đoàn Thị Ngọc Hải; Luận văn thạc sĩ:

“Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài qua thực tiễn xét xử tại TAND thành

phố Hà Nội” của tác giả Đỗ Thị Vân Anh... Tất cả các bài viết trên đều đã

đưa ra các quan điểm nhận định về quyền con người trong tố tụng dân sự nói

chung, các quyền cơ bản của đương sự; thẩm quyền và điều kiện đảm bảo

việc thực hiện các quyền của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố

tụng cũng như trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo

quyền của đương sự và những người có liên quan trong tố tụng dân sự; thực

tiễn đảm bảo quyền con người trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay và

các vấn đề về giải quyết yêu cầu của đương sự về ly hôn có yếu tố nước

ngoài…Từ đó, các tác giả đi sâu vào phân tích làm rõ lý luận và thực tiễn

cũng như thực trạng để giải quyết vụ án.

Ở các công trình nghiên cứu trên các tác giả chỉ nghiên cứu vấn đề về

quyền con người nói chung trong tố tụng dân sự và bảo đảm quyền con người

đối với những người tham gia tố tụng nhất định. Nhưng vấn đề về chủ thể

thực hiện vai trò bảo vệ quyền con người, thực trạng và các giải pháp bảo vệ

4

quyền con người trong các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài thì lại chưa

được nghiên cứu.

Như vậy, từ tình hình nghiên cứu trên đây cho phép khẳng định việc

nghiên cứu đề tài: “Bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có

yếu tố nước ngoài - từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình” là đòi

hỏi khách quan, cấp thiết, vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn.

Vì vậy đó chính là lý do để tác giả chọn đề tài này làm đề tài luận văn thạc

sĩ luật học của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích:

Mục đích nghiên cứu của luận văn là dưới góc Luật Hiến pháp và Luật

Hành chính để làm rõ hơn cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn trong xét xử các

vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Tòa án các tỉnh, thành phố nói chung và

tại TAND tỉnh Quảng Bình nói riêng trong giai đoạn hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ:

Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ

nghiên cứu sau:

Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, pháp lý bảo vệ quyền con người trong

xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.

Làm rõ các khái niệm, đặc điểm, nội dung, các quy định của pháp luật

và các yếu tố tác động và điều kiện bảo đảm quyền con người trong xét xử

các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.

Phân tích, đánh giá thực trạng bảo vệ quyền con người trong xét xử các

vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình.

Đưa ra các quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm bảo vệ quyền con

người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.

5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

Luận văn nghiên cứu các cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo vệ quyền

con người (quyền của các bên đương sự) trong các vụ án ly hôn có yếu tố

nước ngoài - từ thực tiễn xét xử tại TAND tỉnh Quảng Bình, không nghiên

cứu về vấn đề bảo vệ quyền con người trong giải quyết, xét xử các vụ án ly

hôn trong nước.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

Về không gian: Nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền con người trong

xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình.

Về thời gian: Nghiên cứu từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 9 năm 2020.

Về nội dung: Luận văn nghiên cứu nội dung bảo vệ quyền con người

trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài và những thực trạng,

vướng mắc trong quá trình xét xử các vụ án ly hôn tại TAND tỉnh Quảng

Bình. Từ đó đưa ra những quan điểm, giải pháp nhằm khắc phục những hạn

chế, vướng mắc để góp phần bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án

ly hôn có yếu tố nước ngoài.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp luận:

Luận văn được thực hiện dựa trên việc vận dụng các phương pháp

nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng; cơ

sở lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí

Minh và đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà

nước trong việc thực hiện bảo vệ quyền con người thông qua chức năng xét

xử của Tòa án.

6

5.2. Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể là phân tích, đối

chiếu, so sánh, thống kê và tổng hợp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn sau khi được đánh giá và nghiệm thu tại

Hội đồng bảo vệ luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề

bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài ở

Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Bình nói riêng.

Luận văn có thể sẽ là tài liệu tham khảo có ích đối với các nhà khoa

học, các nhà hoạch định chính sách và đặc biệt là đối với TAND tối cao,

TAND cấp cao và TAND các tỉnh, thành phố; ngoài ra luận văn còn có thể

phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy tại các Trường đại học Luật, các Học

viện như: Học viện Tư pháp; Học viện Tòa án và Đại học Kiểm sát...

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

chính của luận văn được kết cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật về bảo vệ quyền con người trong

xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.

Chương 2: Thực trạng bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án ly

hôn có yếu tố nước ngoài tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo vệ quyền con người trong xét

xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.

7

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI

TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

1.1. Những vấn đề chung về quyền con người và quyền con người

trong vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài

1.1.1. Quan niệm về quyền con người và quyền con người trong vụ

án ly hôn có yếu tố nước ngoài

1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, tính chất về quyền con người

Từ thời cổ đại, quan niệm về quyền con người đã được các nhà tư

tưởng bàn đến và không ngừng được phát triển, bổ sung cùng với quá trình

phát triển của lịch sử nhân loại. Trên cơ sở các quan niệm về quyền con

người, năm 1776, lần đầu tiên quyền con người được ghi nhận trong Tuyên

ngôn độc lập của Mỹ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền được bình

đẳng, tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó

có quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc”.

Có rất nhiều định nghĩa về quyền con người, mỗi định nghĩa tiếp cận

vấn đề quyền con người từ một góc độ khác nhau, khó có thể bao quát đầy đủ

các thuộc tính của nó. Theo nghĩa chung nhất: Quyền con người là những

quyền cơ bản, không thể tước bỏ mà một người vốn được thừa hưởng đơn

giản vì họ là con người. Hay, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn

cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhận và các nhóm chống lại những hành động

hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do

cơ bản của con người.

Theo Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc thường được trích dẫn bởi các

nhà nghiên cứu, thì: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có

8

tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự

bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của

con người”. Bên cạnh đó, quyền con người còn được định nghĩa một cách

khái quát “là những quyền bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không

được hưởng thì chúng ta sẽ không thể sống như một con người”.

Trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

trích dẫn những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước

Mỹ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những

quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được

sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Đó chính là những biểu

hiện của quyền con người một cách rõ rệt nhất.

Trên phương diện nghiên cứu khoa học pháp lý, theo Từ điển Luật học

của Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, 1999, thì Quyền con người là những

quyền mặc nhiên khi được sinh ra cho đến trọn đời mà không ai có quyền

tước bỏ. Đó là những quyền cơ bản của con người như: quyền sống, quyền tự

do, quyền bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc. Quyền con người là thành

quả của quá trình đấu tranh của nhân loại chống các lực lượng áp bức xã hội

và chế ngự tự nhiên, không phải tự nhiên mà có hay do thượng đế ban cho

như quan niệm của một số người phương Tây.

Ở nước ta hiện nay, quyền con người được quy định trong Hiến pháp

2013 và được thể chế hóa bằng các luật, đạo luật nhằm ghi nhận và bảo vệ

quyền con người trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, theo đó quyền con

người được quan niệm là quyền tự nhiên vốn có của con người từ lúc sinh ra

(kể cả đối với người quốc tịch nước ngoài, người không quốc tịch, người có

quốc tịch Việt Nam đã bị tước hoặc hạn chế một số quyền công dân).

Từ những quan niệm trên theo Tác giả, quyền con người là những nhu

cầu, lợi ích tự nhiên vốn có của mỗi con người như quyền sống, quyền tự do,

9

quyền bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc được pháp luật ghi nhận và bảo

vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử.

Điều 14, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “các quyền con người,

quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội được công nhận,

tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.

Quyền con người mang một số đặc điểm như sau:

Một là, quyền con người được ghi nhận trong hệ thống pháp luật của

quốc gia và được bảo đảm thực hiện.

Sự xác lập các quyền nghĩa vụ này tạo thành một chế định quan trọng

của Luật Hiến pháp - chế định quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân. Ở nhiều

nước chế định này gọi là quyền và nghĩa vụ của công dân (Nhật Bản), quyền

và nghĩa vụ của con người và công dân (Nga). Nhưng với đặc trưng được ghi

nhận trong Hiến pháp, tức được điều chỉnh bằng Hiến pháp, mà Hiến pháp là

đạo Luật cơ bản nên các quyền và nghĩa vụ này ở nhiều nước thường gọi là

quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong Hiến pháp Việt Nam hiện

hành sử dụng cách gọi quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Với sự ghi

nhận bằng pháp luật các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm quyền

công dân được thực hiện và có cơ chế xử lý đối với hành vi vi phạm quyền

công dân của bất cứ đối tượng nào kể cả cơ quan quyền lực Nhà nước.

Hai là, quyền con người mang tính tự nhiên, vốn có.

Quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được

áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không

có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì, chẳng hạn như về chủng tộc, dân tộc,

giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân...Tuy nhiên, cũng cần lưu ý

là bản chất của sự bình đẳng về quyền con người không có nghĩa là cào bằng

mức độ hưởng thụ các quyền, mà là bình đẳng về tư cách chủ thể của quyền

con người.

10

Ba là, quyền con người là không thể chuyển nhượng.

Thể hiện ở chỗ các quyền con người không thể bị tước đoạt hay hạn

chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức

nhà nước, trừ một số trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như khi một người phạm

một tội ác thì có thể bị tước quyền tự do hoặc quyền sống.

Bốn là, quyền con người là không thể phân chia.

Thể hiện ở chỗ các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau,

về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào.

Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào đều tác động tiêu cực

đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người. Tuy nhiên, cần chú ý là

trong thực tế, tùy những bối cảnh cụ thể và với những đối tượng cụ thể, có thể

ưu tiên thực hiện một số quyền nhất định, miễn là phải dựa trên những cơ sở

và yêu cầu thực tế của việc bảo đảm các quyền đó chứ không phải dựa trên sự

đánh giá về giá trị của các quyền đó. Ví dụ, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-

19 đang lây lan trên khắp thế giới như hiện nay hoặc với những người bị bệnh

tật, quyền được ưu tiên thực hiện là quyền được chăm sóc y tế. Hoặc ở phạm

vi rộng hơn, các Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với

phụ nữ (CEDAW) và Công ước về quyền trẻ em (CRC) đặt ra một số quyền

ưu tiên cần được bảo đảm với phụ nữ, trẻ em. Những ưu tiên như vậy không

có nghĩa là bởi các quyền được ưu tiên thực hiện có giá trị cao hơn, mà là bởi

các quyền đó trong thực tế thường bị bỏ qua, có nguy cơ bị đe dọa hoặc bị vi

phạm nhiều hơn so với các quyền khác.

Năm là, quyền con người có tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.

Thể hiện ở chỗ việc bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một

phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một

quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm

11

các quyền khác, và ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực

tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác.

Quyền con người xét về nguồn gốc tự nhiên là quyền của tất cả các cá

nhân, không liên quan đến việc nó có được ghi nhận trong pháp luật một Nhà

nước cụ thể nào không. Tuy nhiên khi quyền con người đã được cụ thể hóa

bằng pháp luật của một quốc gia và bảo đảm thực hiện trong một Nhà nước cụ

thể thì quyền con người chính là quyền và nghĩa vụ cơ bản của mỗi một công

dân. Việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền công dân chính là đã thực

hiện nội dung cơ bản của quyền con người. Chính vì vậy quyền con người có

các tích chất cơ bản sau:

Một là, quyền con người mang tính phổ biến, thể hiện ở chỗ quyền con

người là quyền bẩm sinh, gắn với bản chất con người, là di sản chung của loài

người. Quyền con người mang tính phổ quát vì con người ở đâu trên trái đất

này cũng đều là thành viên của cộng đồng nhân loại;

Hai là, quyền con người mang tính đặc thù, thể hiện ở việc quyền con

người mang những đặc trưng, bản sắc riêng tuỳ thuộc vào trình độ phát triển

kinh tế - xã hội, truyền thống văn hóa, lịch sử ở từng khu vực, quốc gia, vùng

lãnh thổ. Sự thừa nhận tính đặc thù của quyền con người cho phép các quốc

gia có quyền đưa ra những quy định pháp luật cụ thể, không trái với các

chuẩn mực quốc tế ghi trong các ĐƯQT về nhân quyền, như quy định hạn chế

đối với một số quyền dân sự, chính trị hoặc mức độ bảo đảm các quyền kinh

tế, văn hoá, xã hội;

Ba là, quyền con người mang tính giai cấp, tuy không phải nằm trong

nội dung các quyền mà được thể hiện trong việc thực thi quyền con người.

Với tư cách là chế định pháp lý, quyền con người gắn liền với nhà nước và

pháp luật - là những hiện tượng mang tính giai cấp sâu sắc.

12

Quyền con người vừa có tính phổ biến vừa có tính đặc thù được thể

hiện ở tính nhân loại gắn với tính giai cấp và tính dân tộc. Quá trình hình

thành, phát triển quyền con người có tính phổ biến toàn nhân loại, chứ không

phải là “phát hiện” đặc thù của riêng phương Tây. “Quyền con người là thành

quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của Nhân dân lao động và các

dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của

loài người làm chủ thiên nhiên, qua đó, quyền con người trở thành giá trị

chung của nhân loại”. Con người thể hiện và khẳng định quyền của mình

thông qua các mối quan hệ xã hội cụ thể.Vì thế, quyền con người, một mặt là

giá trị phổ biến của nhân loại, bao hàm những quyền và nguyên tắc được áp

dụng phổ biến ở mọi nơi, mọi đối tượng. Mặt khác, quyền con người còn

mang tính đặc thù của mỗi giai cấp, dân tộc và quốc gia theo trình độ phát

triển kinh tế - xã hội, đặc điểm văn hoá và truyền thống dân tộc. Tuyên bố

Viên và Chương trình hành động về quyền con người năm 1993 đã khẳng

định: “Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ cập, không thể chia cắt,

phụ thuộc lẫn nhau và liên quan đến nhau. Trong khi phải luôn ghi nhớ ý

nghĩa của tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối cảnh khác nhau về lịch sử, văn

hóa và tôn giáo, thì các quốc gia, không phân biệt hệ thống chính trị, kinh tế,

văn hoá, có nghĩa vụ đề cao và bảo vệ tất cả các quyền con người và các tự do

cơ bản”. Do đó, nhất thiết không thể đối lập tính phổ biến với tính đặc thù của

quyền con người và ngược lại. Trong bối cảnh thế giới hiện đại, quan điểm

kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù còn là cơ sở phương pháp luận khoa học

để nhận thức và giải quyết đúng các vấn đề cụ thể về quyền con người trong

quan hệ quốc gia và quốc tế. Đây là phương châm cơ bản để bảo đảm “hội

nhập” mà “không hòa tan” trong lĩnh vực nhân quyền.

13

1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung quyền con người trong vụ án ly

hôn có yếu tố nước ngoài

Hiện nay, chưa có tài liệu nào nghiên cứu và đưa ra được khái niệm cụ

thể về quyền con người trong vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên

qua phân tích khái niệm quyền con người nói chung ở trên ta có thể hiểu khái

niệm một cách chung nhất về quyền con người trong vụ án ly hôn có yếu tố

nước ngoài chính là quyền của các bên đương sự trong tố tụng dân sự có yếu

tố nước ngoài mà pháp luật quy định cho họ được hưởng như: quyền yêu cầu

được ly hôn, quyền được tham gia tố tụng, quyền cung cấp chứng cứ, quyền

được nuôi con, quyền được phân chia tài sản, quyền kháng cáo bản án sơ

thẩm… mà Tòa án chính là cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện việc xét xử

vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm

cho đương sự được thực hiện các quyền đó trong suốt quá trình xét xử vụ án

đúng với quy định của pháp luật.

Quyền con người trong vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài mang những

đặc điểm, nội dung như sau:

Một là, quyền yêu cầu xét xử ly hôn, quy định tại Điều 51 LHNGĐ

năm 2014.

Hai là, quyền đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn, quyền đưa ra yêu cầu

của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ly hôn, quy định tại

Điều 72, Điều 73 BLTTDS 2015.

Ba là, quyền thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đương sự, quy định

tại các Điều 243, 244 BLTTDS 2015.

Bốn là, quyền tự thỏa thuận với nhau việc giải quyết vụ án hôn nhân và

gia đình của đương sự, quy định tại Điều 5, Điều 10 BLTTDS 2015.

Năm là, quyền chấp nhận, bác bỏ yêu cầu của người khác của đương

sự, quy định tại Điều 72 BLTTDS 2015.

14

Sáu là, quyền cung cấp chứng cứ và chứng minh bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của đương sự, quy định tại khoản 5 Điều 189 BLTTDS 2015.

Bảy là, quyền của đương sự yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp

chứng cứ và yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ, quy định tại các

Điều 97 và 106 BLTTDS 2015.

Tám là, quyền được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các

đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ các tài liệu, chứng cứ

có liên quan đến bí mật cá nhân, bí mật gia đình theo yêu cầu chính đáng của

đương sự, quy định tại Điều 70 BLTTDS 2015.

Chính là, quyền yêu cầu thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,

Thẩm tra viên, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Thư ký Tòa án, người giám

định, người phiên dịch, quy định tại các Điều 52, 53, 54, 60, 80, 82 BLTTDS

2015.

Mười là, quyền tham gia phiên tòa, phiên họp của đương sự, quy định

tại các Điều 227, 248 và 367 BLTTDS 2015.

Mười một là, quyền tranh tụng trong tố tụng dân sự: Tòa án có trách

nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám

đốc thẩm, tái thẩm.

Mười hai là, quyền khiếu nại của đương sự đối với các quyết định,

hành vi tố tụng trái pháp luật: Để bảo đảm việc thực hiện quyền khiếu nại của

đương sự đối với các quyết định, hành vi tố tụng trái pháp luật; các Điều 499,

500, 501, 504, 505, 506, 512, 514 BLTTDS 2015.

Mười ba là, quyền tự bảo vệ hoặc nhờ Luật sư hay người khác bảo vệ

trong xét xử các vụ án ly hôn, quy định tại Điều 9 BLTTDS 2015.

Mười bốn là, quyền ủy quyền cho luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc

người khác đại diện trong tố tụng dân sự của đương sự.

15

1.1.1.3. Quy định của pháp luật về bảo vệ quyền con người trong vụ án

ly hôn có yếu tố nước ngoài

Bảo vệ quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự

trong các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài được quy định tại Điều 121,

LHNGĐ năm 2014, cụ thể:

Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quan hệ hôn nhân và gia

đình có yếu tố nước ngoài được tôn trọng và bảo vệ phù hợp với các quy định

của pháp luật Việt Nam và ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên.Trong quan hệ

hôn nhân và gia đình với công dân Việt Nam, người nước ngoài tại Việt Nam

có các quyền, nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt

Nam có quy định khác. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo

hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài trong quan

hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước

sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế.

Tại khoản 4 Điều 5 của LHNGĐ năm 2014 quy định: danh dự, nhân

phẩm, uy tín, bí mật đời tư và các quyền riêng tư khác của các bên được tôn

trọng, bảo vệ trong quá trình giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình.

Về tài sản, Điều 33, LHNGĐ năm 2014 quy định:

Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập

do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài

sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp

được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được

thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa

thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết

hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa

kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản

16

riêng. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng

để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng

đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài

sản chung.

Điều 81, LHNGĐ năm 2014 quy định:

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc,

nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực

hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự

nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên

quan. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của

mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì

Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi

về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện

vọng của con. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ

trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc,

nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích

của con.

Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên

thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom,

nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng

của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận

được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ

và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.

17

1.1.2. Quan niệm về ly hôn và ly hôn có yếu tố nước ngoài

1.1.2.1. Quan niệm về ly hôn

Theo Lê Nin: “Thực ra tự do ly hôn tuyệt không có nghĩa là làm “tan

rã” những mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ

đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc

trong xã hội văn minh”.

Trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin về tự do hôn nhân, trong

đó có tự do kết hôn và tự do ly hôn, pháp luật của nước ta bảo đảm cho vợ

chồng quyền tự do ly hôn. Ly hôn là mặt trái của quan hệ hôn nhân, đồng thời

là mặt không thể thiếu khi quan hệ hôn nhân thực chất tan vỡ. Khi quan hệ vợ

chồng mâu thuẫn đến mức vợ chồng không thể tiếp tục sống chung thì họ có

quyền yêu cầu ly hôn. Quyền ly hôn chỉ thuộc về vợ, chồng (tức là thuộc về

cá nhân đó). Quan điểm của nhà nước ta là cho phép vợ chồng được tự do ly

hôn, nhưng quyền tự do đó được đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của nhà nước

và tuân theo các quy định của pháp luật, nhằm tránh hiện tượng vợ chồng lạm

dụng gây hậu quả xấu cho gia đình và xã hội, đồng thời cũng tránh việc giải

quyết ly hôn tùy tiện. Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của vợ, chồng hoặc

công nhận thuận tình ly hôn của cả hai vợ chồng phải dựa vào thực chất quan

hệ vợ chồng và phải phù hợp với các căn cứ ly hôn mà pháp luật quy định.

Khi vợ, chồng ly hôn, các quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng về nhân thân và

tài sản, quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng đối với con cái sẽ được giải quyết

theo pháp luật. Kể từ ngày bản án cho ly hôn hoặc quyết định công nhận

thuận tình ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì quan hệ hôn nhân chấm

dứt trước pháp luật. Ly hôn là giải pháp cho những cặp vợ chồng mà cuộc

sống chung của họ đã mất hết ý nghĩa và họ không thể cùng sống chung để

xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.

18

Theo pháp luật Việt Nam, cơ sở pháp lý để chấm dứt một quan hệ hôn

nhân bằng việc ly hôn là một bản án hoặc quyết định của Tòa án. Điều 39,

BLDS năm 2015 quy định: “Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn…”. Tuy nhiên,

khái niệm ly hôn chỉ được quy định rõ tại LHNGĐ. Cụ thể, theo quy định tại

khoản 14 Điều 3 LHNGĐ năm 2014 thì: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ

chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án".

Xét về mặt xã hội, ly hôn chính là giải pháp giải quyết sự khủng

khoảng trong mối quan hệ vợ chồng. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhưng

đồng thời nó cũng là mặt không thể thiếu khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ còn

là hình thức vì tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có tiếng nói

chung. Trong quan hệ hôn nhân, việc kết hôn giữa nam và nữ được xây dựng

trên cơ sở tự nguyện, hợp pháp mà tình cảm và sự đồng cảm giữa hai bên là

nguồn cội của sự tự nguyên. Khi tình cảm vợ chồng không còn, kết hợp với

nhiều yếu tố khác khiến cho quan hệ hôn nhân rạn nứt thì giải pháp hữu hiệu

nhất và cũng là thông dụng nhất mà các cặp vợ chồng hướng tới là ly hôn.

Như vậy, pháp luật không có quyền yêu cầu nam nữ phải kết hôn khi họ

không tự nguyện và cũng không có quyền từ chối khi họ có nhu cầu ly hôn.

Việc ly hôn nhằm giải phóng cho vợ, chồng khỏi cuộc sống chung đầy đau

khổ hiện tại, giúp thoát khỏi những mâu thuẫn sâu sắc mà không thể giải

quyết được.

Về mặt pháp lý, quan hệ vợ chồng được phát sinh kể từ khi vợ, chồng

được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn

và chỉ chấm dứt khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án

công nhận về việc ly hôn. Trên thực tế, có nhiều cặp vợ chồng không còn tình

cảm với nhau, không sống cùng nhau, độc lập về kinh tế cũng như các hoạt

động cá nhân khác nhưng không có quyết định hoặc bản án của Tòa án công

nhận về việc ly hôn giữa hai vợ chồng thì về mặt pháp lý quan hệ giữa hai

19

người vẫn là quan hệ vợ chồng, vẫn bị ràng buộc với nhau bởi các quy định

của pháp luật liên quan đến quan hệ giữa vợ và chồng.

Trên cơ sở đó có thể hiểu một cách tổng quát nhất ly hôn là chấm dứt

quan hệ hôn nhân do Tòa án quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc

cả hai vợ chồng, hủy bỏ trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm của hôn nhân và

các ràng buộc dân sự khác. Tòa án là cơ quan duy nhất có trách nhiệm ra phán

quyết chấm dứt quan hệ hôn nhân của vợ chồng. Phán quyết ly hôn của Tòa

án được thể hiện dưới hai hình thức: bản án hoặc quyết định. Nếu hai bên vợ

chồng thuận tình ly hôn thỏa thuận với nhau giải quyết được tất cả các nội

dung quan hệ vợ chồng khi ly hôn thì Tòa án công nhận ra phán quyết dưới

hình thức Quyết định. Nếu vợ chồng có mâu thuẫn, tranh chấp thì Tòa án ra

phán quyết dưới dạng bản án ly hôn.

1.1.2.2. Quan niệm về ly hôn có yếu tố nước ngoài

Ly hôn có yếu tố nước ngoài đã được quy định trong LHNGĐ từ năm

1986. Tuy nhiên, trong LHNGĐ năm 1986 đã không quy định như thế nào là

ly hôn có yếu tố nước ngoài và cũng không quy định Tòa án nào có thẩm

quyền giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài theo thủ tục sơ thẩm, trình tự

thủ tục giải quyết tại Tòa án cấp sơ thẩm là như thế nào...

LHNGĐ trước đây đã dành nhiều điều luật để quy định về vấn đề ly

hôn có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, cho đến nay, trải qua nhiều lần sửa đổi,

bổ sung LHNGĐ cũng như các văn bản pháp luật khác vẫn chưa có quy định

rõ ràng, định nghĩa cụ thể thế nào là “Ly hôn có yếu tố nước ngoài".

Tại khoản 2 Điều 663 của BLDS năm 2015 quy định về khái niệm quan

hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường

hợp sau đây: có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân

nước ngoài; các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam

nhưng viêc xác lập, thay đổi, thực hiện hoăc chấm dứt quan hệ đó xay ra tại

20

nước ngoài; các bên tham gia đều là công dân Viêt Nam, pháp nhân Việt Nam

nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.

Quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung và quan hệ ly hôn có yếu tố

nước ngoài nói riêng thuộc phạm trù quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nên

có thể áp dụng toàn bộ quy định của BLDS về vấn đề quan hệ dân sự có yếu

tố nước ngoài để kết hợp với luật chuyên ngành để giải quyết quan hệ ly hôn

có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, việc xây dựng được khái niệm ly hôn có yếu

tố nước ngoài một cách đầy đủ, toàn diện và chuẩn mực trong đạo luật chuyên

ngành là cần thiết.

Khoản 25 Điều 3 LHNGĐ năm 2014 đã quy định rõ về quan hệ hôn

nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.

Mặt khác, ly hôn theo quy định tại BLTTDS năm 2015 được xem là

một vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Điều 464 Bộ luật

này có quy định rõ thế nào là một vụ việc dân sự: “các bên tham gia đều là

công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó

ở nước ngoài”.

Từ những vấn đề trên theo tác giả “Ly hôn có yếu tố nước ngoài là việc

chấm dứt quan hệ vợ chồng giữa vợ và chồng mà ít nhất một trong hai bên là

người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; hoặc giữa công dân

Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ hôn

nhân theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài; hoặc tài sản liên

quan đến việc ly hôn ở nước ngoài ”.

Từ các cơ sở trên ta có thể thấy quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài

tồn tại các yếu tố sau:

- Yếu tố chủ thể:

Quan hệ ly hôn được coi là có yếu tố nước ngoài khi có ít nhất một

trong các bên chủ thể tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư

21

ở nước ngoài. Pháp luật Việt Nam quy định người nước ngoài là người không

có quốc tịch Việt Nam, bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và người

không quốc tịch.

- Yếu tố làm chấm dứt quan hệ hôn nhân:

Bao gồm căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ hôn nhân. Đó

chính là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ hôn nhân. Điều kiện để xác

định việc ly hôn có yếu tố nước ngoài hay không trong trường hợp này là sự

kiện pháp lý đó phải theo pháp luật nước ngoài hoặc xảy ra ở nước ngoài.

Đối với những quan hệ này, yếu tố chủ thể không được đặt ra. Nghĩa là,

trong trường hợp các bên chủ thể tham gia đều là công dân Việt Nam, nhưng nếu

sự kiện pháp lý là chấm dứt quan hệ hôn nhân xảy ra ở nước ngoài hoặc theo

pháp luật nước ngoài thì quan hệ đó là quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài.

- Yếu tố vị trí của tài sản liên quan đến quan hệ ly hôn:

Trong trường hợp này, không cần xét đến hai yếu tố trên, nếu tài sản

liên quan đến quan hệ ly hôn không nằm trên lãnh thổ Việt Nam mà ở nước

ngoài, thì quan hệ đó cũng được coi là quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài.

Bên cạnh đó, một quan hệ ly hôn khi không xét đến cả ba yếu tố trên

nhưng nếu quan hệ ly hôn chấm dứt bằng một bản án, quyết định ly hôn của

Tòa án hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài thì đó cũng là một

trong những dấu hiệu xác định quan hệ ly hôn đó là quan hệ ly hôn có yếu tố

nước ngoài.

Như vậy, để xác định một quan lệ ly hôn có yếu tố nước ngoài cần xét

đến một trong các yếu tố trên, nếu đáp ứng điều kiện đối với ít nhất một yếu

tố để quan hệ ly hôn đó trở thành quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài thì

không cần xét đến các yếu tố còn lại.

Có thể khẳng định ly hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt

Nam là quan hệ ly hôn giữa công dân Việt Nam với công dân nước ngoài,

22

giữa công dân Việt Nam với người không quốc tịch; giữa người nước ngoài

với nhau thường trú tại Việt Nam; giữa công dân Việt Nam với nhau mà có

căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài;

hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài; giữa công dân Việt Nam

với nhau mà một hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài.

Tóm lại, ly hôn có yếu tố nước ngoài là chấm dứt quan hệ hôn nhân có

yếu tố nước ngoài do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ

hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng.

1.1.2.3. Xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài

Xét xử nói chung là hoạt động đặc trưng, là chức năng nhiệm vụ của

Tòa án. Tòa án là cơ quan duy nhất được đảm nhiệm chức năng xét xử. Mọi

bản án do Tòa án tuyên đều phải qua xét xử. Phán quyết của Tòa án là phán

quyết của cơ quan thay mặt Nhà nước nhằm khôi phục trật tự nếu nó bị xâm

phạm, hoặc nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng của công dân, của

tập thể, của quốc gia và xã hội. Vì vậy, đây là một hoạt động quyền lực nhà

nước đặc thù, nó không đơn thuần chỉ là dàn xếp, hòa giải, mặc dù về thực

chất, dàn xếp và hòa giải cũng có mục đích như vậy và do đó, có mối liên

quan khăng khít với hoạt động xét xử.

Hoạt động xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước nhằm

xem xét, đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của

hành vi pháp luật hay quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn

giữa các bên có lợi ích khác nhau trong các tranh chấp hay mâu thuẫn đó.

Yếu tố “nhân danh quyền lực nhà nước” trong hoạt động xét xử có

nghĩa rằng, đây không phải là hoạt động của cá nhân công dân, cũng không

phải là hoạt động xã hội hay nghiệp đoàn. Và do đó, khi cần thiết, phán quyết

của cơ quan nhân danh Nhà nước được bảo đảm thi hành bởi sự cưỡng chế

hợp pháp của Nhà nước; “xem xét, đánh giá và ra phán quyết” là những yếu

23

tố đặc trưng của hoạt động xét xử và do đó, có thể gọi hoạt động tư pháp là

hoạt động xét xử. Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định: “TAND là cơ quan xét

xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.

Trong tranh chấp hay xung đột mà Tòa án xem xét và phán quyết phải có từ

hai chủ thể trở lên có vị trí độc lập đối với nhau về lợi ích, chứ không thể chỉ

là sự dàn xếp cho những người khác nhau về địa vị, nhưng không có gì tranh

chấp với nhau. Do đó, có thể gọi sự tranh chấp của các chủ thể khác nhau về

lợi ích này là sự tranh tụng (nên còn được gọi là “tố tụng” - tố tụng dân sự, tố

tụng hình sự...). Bất kỳ một hoạt động nào có hàm chứa những nội dung trên

thì đều có thể được coi là hoạt động xét xử, dù nó thuộc lĩnh vực nào: hình sự,

dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính.

- Về đặc điểm xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài:

+ Tòa án chỉ thụ lý xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nếu vợ

chồng trong quan hệ đó đã đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền của Việt Nam, tuân theo pháp luật Việt Nam hoặc việc đăng ký kết hôn

của họ được công nhận trên lãnh thổ Việt Nam, hoặc việc kết hôn của họ đã

được hợp pháp hóa lãnh sự và đã được ghi chú vào sổ các thay đổi về hộ tịch

theo quy định của pháp luật.

+ Đơn khởi kiện xin ly hôn của đương sự ở nước ngoài phải được

chứng thực hợp pháp, tức là phải được hợp pháp hóa lãnh sự nếu đương sự là

người nước ngoài, hoặc phải được xác nhận của cơ quan đại diện ngoại giao

của Việt Nam ở nước ngoài nơi công dân đó đang cư trú nếu đương sự là

công dân Việt Nam đang ở nước ngoài.

+ Việc tiến hành các bước tố tụng như lấy lời khai của đương sự, tống

đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho đương sự ở nước ngoài, việc điều tra,

xác minh, thu thập chứng cứ ở nước ngoài phải được thực hiện qua con đường

ngoại giao, Tòa án UTTP theo quy định chung của Tư pháp quốc tế.

24

+ Thủ tục hòa giải trong vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài đối với

đương sự đang ở nước ngoài không được đặt ra, coi như trường hợp không

thể hòa giải nên Tòa án không phải báo gọi đương sự ở nước ngoài về tham

gia phiên hòa giải. Tuy nhiên đối với đương sự ở nước ngoài về nước trong

thời gian Tòa án hòa giải thì Tòa án vẫn tiến hành hòa giải đối với họ theo thủ

tục chung.

+ Tòa án không phải triệu tập đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng

tại phiên tòa, trường hợp này Tòa án chỉ thông báo cho họ biết việc Tòa án

mở phiên tòa. Tuy nhiên pháp luật không quy định Tòa án thông báo cho họ

trong thời hạn bao lâu từ khi thông báo đến khi mở phiên tòa.

+ Sau khi Tòa án xét xử thì việc Tòa án tống đạt bản án, quyết định của

Tòa án cho đương sự ở nước ngoài cũng được thực hiện qua con đường UTTP.

+ Việc xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài được thực hiện

trên nguyên tắc tôn trọng các Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kế hoặc tham

gia; người nước ngoài tại Việt Nam được hưởng các quyền và có nghĩa vụ tố

tụng như công dân Việt Nam, bên cạnh đó nhà nước ta cũng bảo hộ quyền lợi

ích hợp pháp của công dân Việt Nam, pháp luật của nước sở tại và tập quán

quốc tế trên cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong

quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài.

- Về nội dung, trình tự thủ tục xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài:

Ở Việt Nam cũng như hầu hết các quốc gia trên thế giới, Tòa án là cơ

quan duy nhất có thẩm quyền xét xử các vụ án ly hôn và ly hôn có yếu tố

nước ngoài. Khi xét xử các vụ án ly hôn Tòa án phải thực hiện đúng nhiệm

vụ, quyền hạn và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm

vụ, quyền hạn của mình. Tòa án tiến hành các hoạt động tố tụng theo trình tự,

thủ tục và những nguyên tắc cơ bản được quy định trong luật tố tụng dân sự.

25

Vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài cũng phát sinh tại Tòa án từ khi vợ

chồng hoặc cả hai vợ chồng có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Tòa án

tiến hành giải quyết qua nhiều thủ tục tố tụng khác nhau như: nhận đơn khởi

kiện, thụ lý vụ án, điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ, hòa giải, chuẩn bị

xét xử, đưa vụ án ra xét xử, ra bản án, quyết định, cụ thể như sau:

Sau khi xem xét đơn khởi kiện của người khởi kiện, Tòa án kiểm tra

đơn cùng các tài liệu kèm theo để nghiên cứu, nếu thấy đủ điều kiện thụ lý thì

Tòa án thông báo cho họ để họ tiến hành nộp án phí ly hôn. Sau khi người

khởi kiện đã nộp án phí ly hôn và nộp biên lai cho Tòa án, trong thời hạn luật

định Tòa án phải cho tiến hành thụ lý vụ án để giải quyết. Tòa án chỉ thụ lý

giải quyết các vụ việc ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và tiến

hành các hoạt động tố tụng theo trình tự, thủ tục chung.

Trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài thì việc

xác định thẩm quyền giải quyết, quyền khởi kiện, điều kiện khởi kiện, tư cách

đương sự là rất quan trọng, tiền đề cho các giai đoạn tố tụng tiếp theo.

Như vậy xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài là việc Tòa án có

thẩm quyền tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật về

giải quyết vụ án theo các giai đoạn tố tụng từ khởi kiện, thụ lý vụ án, chuẩn bị

xét xử, hoà giải và mở phiên toà xét xử vụ án để ra phán quyết theo đúng quy

định của pháp luật. Khi xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, Tòa án

phải tiến hành theo trình tự, thủ tục được quy định trong pháp luật tố tụng dân

sự, một mặt phải đảm bảo lợi ích của chủ thể tham gia quan hệ đó, một mặt

phải đảm bảo thực hiện đúng đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của

Nhà nước, bảo đảm việc mở rộng và phát triển quan hệ hợp tác quốc tế tốt

đẹp giữa nước ta với các nước khác trên thế giới.

- Về chủ thể:

26

Chủ thể của vụ án ly hôn và ly hôn có yếu tố nước ngoài là những

người tham gia tố tụng, bao gồm:

+ Nguyên đơn: là người khởi kiện, trong vụ án ly hôn nguyên đơn phải

là vợ hoặc chồng, Tòa án chỉ thụ lý vụ án ly hôn trên cơ sở sự tự nguyện yêu

cầu ly hôn của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng. Nếu thiếu sự tự nguyện

yêu cầu ly hôn thì Tòa án không giải quyết cho ly hôn vì có thể là do bị cưỡng

ép ly hôn, lừa dối ly hôn, thuận tình ly hôn giả để che dấu một nội dung khác.

+ Bị đơn: là người bị nguyên đơn khởi kiện, trong vụ án ly hôn bị đơn

có thể là vợ hoặc chồng bị nguyên đơn khởi kiện.

+ Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: là trường hợp những người

tham gia tố tụng trong vụ án ly hôn tuy không có đơn khởi kiện, không bị

kiện nhưng việc giải quyết vụ án ly hôn có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ

của họ mà Tòa án đưa họ vào tham gia tố tụng. Đối với người có quyền lợi

nghĩa vụ liên quan pháp luật chia thành người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan

có yêu cầu độc lập và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu

cầu độc lập, họ có thể đứng về phía nguyên đơn hoặc đứng về phía bị đơn.

+ Người đại diện của đương sự: cũng giống như các vụ án dân sự khác,

trong vụ án ly hôn có thể xuất hiện tư cách của người đại diện của đương sự

có thể là đại diện theo ủy quyền hoặc đại diện theo pháp luật. Khi vợ chồng ly

hôn thì họ có thể ủy quyền cho người khác thay mặt họ giải quyết một số

quan hệ như về con cái hay quan hệ tài sản. Ly hôn là một quan hệ đặc biệt,

do vậy có 3 quan hệ trong vụ án ly hôn đó là quan hệ nhân thân, quan hệ con

cái và quan hệ tài sản. Ở quan hệ thứ nhất vợ chồng không được phép ủy

quyền cho người khác thay mặt họ để giải quyết mà họ phải tự tham gia, bởi

đó là là quyền nhân thân không thể tách rời, do vậy đối với việc ly hôn, đương

sự phải tự mình tham gia mà không được ủy quyền cho người khác.

27

Đối với vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nếu đương sự đang ở nước

ngoài mà có ủy quyền cho người khác thay mặt họ tham gia tố tụng thì Tòa án

cũng phải kiểm tra xem thủ tục ủy quyền đúng chưa, giấy ủy quyền đó đã

được hợp pháp hóa lãnh sự chưa, nội dung ủy quyền đến đâu để xác định

người được ủy quyền có thực hiện đúng nội dung được ủy quyền không, thực

hiện có vượt quá phạm vi được ủy quyền hay không. Trong thực tiễn xét xử

cho thấy có trường hợp đương sự chỉ ủy quyền cho người khác thay mặt mình

tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng người được ủy quyền lại thực hiện hành

vi vượt quá phạm vi được ủy quyền như rút đơn khởi kiện. Có trường hợp

đương sự ủy quyền chết, quá trình giải quyết vụ án Tòa án chỉ báo gọi người

đại diện theo ủy quyền của họ đến để giải quyết vụ án và vẫn xác định người

đã chết trong vụ án là đương sự, đây là những trường hợp vi phạm nghiêm

trọng thủ tục tố tụng.

1.1.3. Bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án ly hôn có yếu tố

nước ngoài

1.1.3.1. Khái niệm bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án ly hôn có

yếu tố nước ngoài

Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử,

thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con

người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân. Vì vậy, bảo vệ quyền con

người trong xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài đòi hỏi phải tiếp cận

trong tổng thể quyền con người được quy định trong Hiến pháp và các văn

bản pháp luật khác gắn với toàn bộ quá trình tố tụng dân sự, từ giai đoạn khởi

kiện đến thụ lý, đến xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và ra bản án và thi hành án ly

hôn, cũng như các thủ tục khác của tố tụng dân sự như thủ tục rút gọn, cung

cấp và bảo vệ chứng cứ, thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực

28

pháp luật và cả trong các tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và

thực hiện pháp luật tố tụng.

Từ những nghiên cứu cụ thể của bản thân trong quá trình xét xử các vụ

án ly hôn có yếu tố nước ngoại tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, theo

quan điểm của tác giả, bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án ly hôn có

yếu tố nước ngoài là việc Tòa án có thẩm quyền đưa ra các quyết định theo

đúng quy định của pháp luật, phát hiện được những sai sót cần phải sửa, đồng

thời bảo đảm quyền hợp pháp của đương sự không bị vi phạm, không bị mất

đi trong quá trình xét xử vụ án.

1.1.3.2. Hình thức bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án ly hôn có

yếu tố nước ngoài

Bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài

là một phần hợp thành của việc bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tố

tụng dân sự nói chung, vì vậy bảo đảm vệ quyền con người của đương sự

trong vụ án ly hôn nói chung và ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng có

cùng đặc điểm giống nhau. Quyền con người ở đây thực chất là những quyền

được thể hiện trong quá trình xét xử một vụ án ly hôn và có những đặc thù

riêng về chủ thể, phạm vi và nội dung:

Xét về ngôn ngữ học,“bảo vệ” được hiểu là chống lại mọi sự xâm

phạm để giữ cho luôn luôn được nguyên vẹn. Theo đó, nội dung của việc bảo

vệ gồm hai hoạt động: một là, chống lại các hành vi xâm phạm; hai là, giữ gìn

cho luôn được nguyên vẹn. Còn bảo đảm là, “làm cho chắc chắn thực hiện

được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết”; hoặc là “hứa chịu

trách nhiệm về điều gì”, “cam đoan giữ được, làm được đầy đủ”. Bảo đảm là

điều kiện cần phải có để thực hiện một điều gì, công việc gì. Như vậy, bảo

đảm và bảo vệ là hai vấn đề khác nhau nhưng có nội dung tiếp giáp nhau và

có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Bảo vệ chỉ đặt ra khi các quyền lợi hợp pháp

29

bị xâm phạm, còn bảo đảm là tạo ra các điều kiện cần thiết để chủ thể thực

hiện được các quyền lợi hợp pháp ngay cả khi không có sự xâm phạm.

Từ những phân tích trên, có thể thấy, vấn đề bảo vệ quyền con người

trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài chỉ đặt ra khi có hành vi

xâm phạm tới quyền. Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

là năng lực pháp luật tố tụng dân sự của các chủ thể và mọi chủ thể đều được

bình đẳng về quyền. Trong tố tụng dân sự, dựa vào tính chất của từng loại

quan hệ dân sự mà nhà lập pháp xây dựng các thủ tục phù hợp để giải quyết

các quan hệ đó. Việc xây dựng các thủ tục tố tụng phù hợp giúp cho việc bảo

vệ quyền lợi hợp pháp được nhanh chóng, hiệu quả và tiết kiệm. Hiện nay,

thủ tục xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài được bắt đầu bằng hành vi

nộp đơn khởi kiện tại Tòa án. Như vậy, quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ được

thể hiện qua hình thức là khởi kiện vụ án ly hôn tại Tòa án. Điều này được cụ

thể hóa tại khoản 1 Điều 4 BLTTDS năm 2015: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân

do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết

việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo

vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và

lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác”. So với BLTTDS năm 2004

(sửa đổi, bổ sung năm 2011), BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thêm vai trò của

Tòa án trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân để

phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013.

Quyền con người, quyền công dân của đương sự thể hiện nổi bật đầu

tiên trong nguyên tắc quy định tại Điều 4 của BLTTDS năm 2015, đó là

quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. So với BLTTDS năm

2004, BL TTDS năm 2015 đã mở rộng quyền công dân tiếp cận Tòa án để

yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bằng quy định “Tòa án không được từ

chối giải quyết vụ việc dân sự vì chưa có luật để áp dụng”.

30

Quyền tiếp theo được BLTTDS năm 2015 ghi nhận rất cụ thể tại Điều 5

là quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Đương sự là chủ thể của

quyền và lợi ích hợp pháp nên đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện,

yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Vì vậy, Tòa án chỉ

có thể thụ lý để giải quyết vụ việc dân sự khi có yêu cầu của đương sự, đồng

thời Tòa án cũng chỉ được giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự.

Không chỉ dừng ở đó, BLTTDS năm 2015 còn quy định rõ trong quá trình

giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của

mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm

của luật và không trái đạo đức xã hội.

Vì đương sự là chủ thể của quyền, lợi ích nên họ hiểu rõ nhất quyền, lợi

ích của mình, từ đó họ sẽ là chủ thể chứng minh hiệu quả nhất. Nhằm bảo

đảm quyền, lợi ích hợp pháp của họ, BLTTDS năm 2015 đã ghi nhận đương

sự vừa có quyền, vừa có nghĩa vụ chứng minh. Quyền bình đẳng giữa các

đương sự được quy định tại Điều 8 BLTTDS năm 2015 cũng là một quyền thể

hiện rất rõ nguyên tắc bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố

tụng dân sự. Đây không còn là quyền bình đẳng trước pháp luật nói chung mà

là quyền bình đẳng, quyền ngang bằng giữa các đương sự trong vụ việc dân

sự. Ngoài các quyền trên, Điều 9, Điều 10 BLTTDS năm 2015 còn nhấn

mạnh những quyền khác của đương sự như quyền tự mình tham gia tố tụng

hoặc nhờ luật sư, người khác hỗ trợ mình tham gia tố tụng; quyền thỏa thuận

với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự. Các quyền này thực sự là những

cơ sở pháp lý vững chắc để đương sự tự tin tham gia tố tụng, thể hiện rất rõ

quyền con người, quyền công dân của đương sự.

BLTTDS năm 2015 quy định trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo

đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự. Tòa án,

người tiến hành tố tụng là một chủ thể trong tố tụng dân sự nên nguyên tắc

31

tuân thủ pháp luật cũng đặt ra cho nhóm chủ thể này và đây cũng là nguyên

tắc nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân của đương sự. Có tuân

thủ pháp luật thì việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án mới khách quan,

công bằng và đúng đắn. Có tuân thủ pháp luật thì hoạt động tiến hành tố tụng

của người tiến hành tố tụng trong việc giải quyết yêu cầu của đương sự mới

minh bạch, không thể lạm dụng quyền hạn của mình. Có thể nói, trách nhiệm

phải tuân thủ pháp luật được đặt ra đầu tiên cho các chủ thể trong các vụ án ly

hôn có yếu tố nước ngoài là cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm quyền con người,

quyền công dân của đương sự trong các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.

1.1.3.3. Trách nhiệm của các chủ thể tham gia xét xử vụ án trong bảo

vệ quyền con người

Chủ thể trực tiếp tham gia xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài

là những người tiến hành tố tụng, đó là Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Kiểm sát

viên và các Hội thẩm nhân dân. Khi xét xử vụ án ly hôn Tòa án phải áp dụng

pháp luật để giải quyết vụ án trong suốt quá trình tiến hành tố tụng từ khi

đương sự có đơn khởi kiện tại Tòa án, Tòa tiến hành thụ lý vụ án, điều tra, thu

thập chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, ra bản án, quyết định và phải

do người tiến hành tố tụng thực hiện theo trình tự, thủ tục được quy định

trong pháp luật tố tụng dân sự. Vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài thường nảy

sinh các quan hệ đa dạng, phức tạp. Do vậy, khi xét xử từng vụ việc cụ thể đòi

hỏi người tiến hành tố tụng phải đặc biệt linh hoạt để áp dụng pháp luật cho

phù hợp với quan hệ đó. Nếu đội ngủ Thẩm phán, Thư ký tham gia tố tụng do

nhận thức, năng lực trình độ hạn chế, sẽ dẫn đến các quyền con người cần

được bảo vệ trong quá trình xét xử khó có thể bảo đảm một cách trọn vẹn.

Trong quá trình tiến hành tố tụng, muốn bảo đảm quyền con người

trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, các chủ thể khi được

Chánh án Tòa án phân công xét xử phải thực hiện đúng các quy định của pháp

32

luật tố tụng và các văn bản pháp luật khác có liên quan; luôn nhiệt tình, trung

thực, thận trọng, công tâm, khách quan toàn diện, đảm bảo tính công khai,

dân chủ, nghiêm minh trong xét xử; biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến của các

bên đương sự.

Kể từ khi tiếp nhận đơn khởi kiện ly hôn cho đến khi xét xử vụ án,

Thẩm phán, Thư ký phải giải thích, hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho

đương sự để họ thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của

pháp luật. Tiếp xúc với đương sự phải đúng nơi quy định, bảo đảm tính khách

quan, minh bạch, rõ ràng, không gây sách nhiễu, trì hoãn hoặc chậm trễ, gây

khó khăn phiền hà cho đương sự...Không được làm sai lệch hồ sơ vụ án, kết

quả xét xử vụ án; truy ép, gợi ý cho đương sự trình bày sự việc theo ý muốn

chủ quan của mình hoặc của người khác, đồng thời không được tiết lộ bí mật

đời tư của các đương sự trừ các trường hợp pháp luật có quy định. Những quy

định này thực sự là căn cứ pháp lý hữu hiệu để bảo đảm quyền con người,

quyền công dân của đương sự trong vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.

1.2. Những yếu tố tác động và điều kiện đảm bảo quyền con người

trong xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài

1.2.1. Yếu tố khách quan

1.2.1.1. Yếu tố pháp luật

Quyền con người và pháp luật là hai yếu tố không thể tách rời mà có

tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Quyền con người chỉ tồn tại

khi nó được xã hội thừa nhận và được pháp luật công nhận, bảo vệ. Còn Pháp

luật là tiền đề, là nền tảng tạo cơ sở pháp lý để Tòa án bảo đảm quyền con

người, là phương tiện chính thức hoá các giá trị xã hội của quyền con người

làm cho quyền con người trở thành ý chí và mục tiêu hành động của xã hội.

Thông qua pháp luật, quyền con người được lên tiếng bảo vệ. Để bảo đảm

quyền con người, pháp luật đưa ra những điều cấm và những hành vi bắt buộc

33

phải làm nhằm ngăn ngừa và chống lại các hành vi vi phạm các quyền đó.

Pháp luật được coi là một điều kiện thiết yếu để bảo đảm quyền con người

trong hoạt động giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình và có vai trò là

phương tiện pháp lý để công dân được bảo đảm các quyền của mình khi tham

gia hoạt động giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình với tư cách là

đương sự. Vậy nên hệ thống pháp luật nói chung cũng như pháp luật về tố

tụng dân sự, pháp luật về hôn nhân và gia đình nói riêng khi cần thiết phải

được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện để thực sự trở thành một hành lang pháp

lý thông suốt, minh bạch, thuận lợi để bảo đảm quyền con người, quyền công

dân trong lĩnh vực giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và vụ việc hôn

nhân và gia đình nói riêng.

Với các quy định của pháp luật còn tạo ra nhiều thiết chế giám sát, đối

trọng như gia tăng vai trò của luật sư, tăng cường vai trò kiểm sát tư pháp của

Viện kiểm sát và vai trò giám sát xã hội của các cơ quan, cá nhân, tổ chức

khác đối với vấn đề bảo đảm quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn

có yếu tố nước ngoài.

1.2.1.2 . Yếu tố văn hóa pháp lý

Văn hóa pháp lý bao gồm ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật, việc

thực hiện pháp luật và những con người áp dụng pháp luật. Văn hóa là cái tự

thân trong mỗi cá nhân con người cũng như đặc điểm, cách ứng xử chung,

mang tính phổ biến, mang tính tích cực và tiến bộ của cả cộng đồng người. Ý

thức pháp luật là một thành tố quan trọng của văn hóa pháp lý. Ý thức pháp

luật nếu phân chia theo cấu trúc, trước hết bao gồm ý thức pháp luật nhóm và

ý thức pháp luật cá nhân. Theo lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, ý

thức pháp luật nhóm phản ánh quan điểm, tư tưởng, tình cảm của một nhóm

xã hội nhất định về pháp luật, ý thức pháp luật cá nhân phản ánh quan điểm,

tư tưởng, tình cảm của một cá nhân cụ thể về pháp luật. Về lý thuyết, trong

34

lĩnh vực tố tụng dân sự, nhóm xã hội này là các chủ thể sử dụng pháp luật và

áp dụng pháp luật, có hiểu biết sâu sắc về pháp luật và có địa vị trong xã hội,

chính vì vậy, nếu có hành vi trái pháp luật trong hoạt động nghề nghiệp, hoạt

động tố tụng, thì những hành vi trái pháp luật chủ yếu xuất phát từ sự cẩu thả,

tắc trách, thiếu trách nhiệm, hoặc cố ý thực hiện hành vi trái pháp luật vì động

cơ cá nhân, vì tham nhũng hoặc vì các quan hệ chính trị, xã hội mang tính tiêu

cực khác. Do vậy vấn đề bảo đảm quyền con người khi thực hiện xét xử các

vụ án dân sự nói chung và vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng sẽ

không được bảo đảm. Ngược lại, sẽ không thể bảo đảm được quyền con

người trong hoạt động xét xử các vụ án ly hôn nếu chính bản thân công dân

không ý thức được về quyền của mình, không đóng vai trò chủ động trong

quá trình thực hiện pháp luật. Sự tự ý thức của công dân giúp cho công dân

hiểu rõ về giới hạn quyền của bản thân và những nghĩa vụ mà họ cũng phải

thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình.

1.2.2. Yếu tố chủ quan

Để bảo đảm quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố

nước ngoài, ngoài các quy định của pháp luật, mỗi quốc gia còn cần xây dựng

một hệ thống các cơ quan Nhà nước và đội ngũ công chức Nhà nước tại cơ

quan tư pháp có ý thức trách nhiệm với công dân, có lương tâm và đạo đức

nghề nghiệp. Trong hoạt động đảm bảo quyền con người của công dân nói

chung và đảm bảo quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án ly hôn

có yếu tố nước ngoài nói riêng. Nếu như cơ quan lập pháp có chức năng xây

dựng và ban hành các văn bản pháp luật ghi nhận các quyền con người, quyền

và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quy định các biện pháp cũng như trách

nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền

công dân; Cơ quan hành pháp lại có chức năng triển khai các hoạt động đảm

bảo quyền con người, quyền công dân thì Cơ quan tư pháp lại là cơ quan bảo

35

vệ pháp luật, bảo vệ các quy định của pháp luật về đảm bảo quyền con người,

quyền công dân. Tuy là cơ quan bảo vệ pháp luật nhưng ngay trong hoạt động

giải quyết của mình các cơ quan tư pháp gồm Tòa án, Viện kiểm sát cũng

phải có trách nhiệm đảm bảo quyền con người, quyền công dân theo đúng quy

định của pháp luật.

1.2.3. Điều kiện đảm bảo quyền con người trong xét xử vụ án ly hôn

có yếu tố nước ngoài

Để bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên

đương sự trong vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, trước hết, cần đảm bảo

quyền độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi tham gia xét

xử vụ án. Thẩm phán phải được tuyển chọn, bổ nhiệm đúng chất lượng, trình

độ và quy chuẩn đạo đức. Quá trình thanh lọc các Thẩm phán không đủ tiêu

chuẩn, trình độ và đạo đức cần phải tiến hành từ phía kiến nghị của người dân

bên cạnh việc dựa vào các quy định về tiêu chuẩn của Thẩm phán theo quy

định của pháp luật.

Thứ hai, phải đảm bảo địa vị bình đẳng của các chủ thể tham gia tố tụng

trong các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, đặc biệt là cơ chế để luật sư,

người bào chữa tham gia các quá trình tố tụng theo nhu cầu của nguyên đơn,

bị đơn.

Thứ ba, cần đảm bảo về thời gian thu thập và xuất trình chứng cứ, thời

gian UTTP, thời gian tống đạt, niêm yết công khai các văn bản tố tụng nhằm

đảm bảo tối đa quyền, lợi ích hợp pháp cho công dân.

Thứ tư, việc đảm bảo tranh tụng được xem là một nguyên tắc trong tố

tụng dân sự song có sự phân biệt cụ thể và rõ ràng giữa sự khác nhau của

tranh tụng trong tố tụng hình sự với tranh tụng trong tố tụng dân sự từ thu

thập chứng cứ, UTTP, chứng minh chứng cứ lẫn phán quyết.

36

Thứ năm, pháp luật cần có các cơ chế phù hợp để đảm bảo quyền tố

tụng dân sự của các cá nhân khi quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm

phạm trong lĩnh vực hôn nhân gia đình. Bên cạnh đó, khi thực hiện thủ tục tố

tụng dân sự, cần lưu ý sao cho vấn đề được giải quyết nhanh, đúng trình tự

thủ tục trong mối liên hệ với bảo vệ quyền công dân, bảo vệ được pháp chế xã

hội chủ nghĩa.

Tiểu kết Chương 1

Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận về quyền con người trong xét xử

các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, tác giả đã nêu ra những quan niệm về

quyền con người và quyền con người trong vụ án ly hôn có yếu tố nước

ngoài, đồng thời phân tích các khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò quyền

con người trong hoạt động xét xử các vụ án dân sự nói chung và hoạt động

xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng nhằm làm rõ quyền

con người chứa đựng những nội dung gì? Có đặc điểm như thế nào và vai trò

của nó có ảnh hưởng, tác động ra sao trong hoạt động tố tụng của Tòa án khi

giải quyết vụ án.

Trên cơ sở tiếp cận cụ thể về lý luận, tác giả đã đi sâu phân tích các nội

dung cụ thể của quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố

nước ngoài đó chính là pháp luật quy định cho đương sự được thực hiện

những quyền gì và pháp luật bảo đảm cho họ ra sao để các quyền đó được bảo

vệ theo đúng quy định của pháp luật. Đồng thời chỉ ra các yếu tố tác động

trực tiếp và gián tiếp dưới góc độ xã hội và pháp luật đến việc bảo đảm quyền

con người trong hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài trong

hệ thống Tòa án nói chung và tại TAND tỉnh Quảng Bình nói riêng.

37

Chương 2

THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG

XÉT XỬ VỤ ÁN LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI TẠI

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Bình

2.1.1. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

Năm 1989, sau khi tách tỉnh Bình Trị Thiên thành 3 tỉnh Quảng Bình,

Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, TANDtỉnh Quảng Bình được thành lập theo

Quyết định của Bộ Tư pháp. Hiện nay TAND tỉnh Quảng Bình có 3 Tòa

chuyên trách, 3 phòng nghiệp vụ và 8 đơn vị TAND cấp huyện thuộc tỉnh,

tổng số biên chế hiện nay là 147 công chức và người lao động, trong đó có 20

Thẩm phán trung cấp (bao gồm cả cấp tỉnh và cấp huyện) và 22 Thẩm phán

sơ cấp ở TAND cấp huyện. Theo Quyết định số 1847/QĐ-TCCB ngày

15/10/2018 của TAND tối cao về tổ chức Tòa chuyên trách tại TAND tỉnh

Quảng Bình gồm có 3 Tòa chuyên trách: Tòa Hình sự (xét xử các vụ án hình

sự; các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa gia đình và người

chưa thành niên), Tòa Dân sự (giải quyết các vụ, việc dân sự; hôn nhân gia

đình; kinh doanh thương mại; phá sản; lao động), Tòa Hành chính (giải quyết

các vụ việc hành chính); theo Quyết định số 345/2016/QĐ-CA ngày

07/4/2016 của TAND tối cao quyết định về tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền

hạn của các đơn vị trong bộ máy giúp việc của TAND tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương; TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, bộ máy

giúp việc của TAND cấp tỉnh gồm: Văn phòng; Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và

thi hành án; Phòng Tổ chức cán bộ, thanh tra và Thi đua khen thưởng. Bộ

máy giúp việc của TAND cấp huyện là Văn phòng.

38

Cơ cấu tổ chức bộ máy TAND hai cấp tỉnh Quảng Bình được thể hiện

theo sơ đồ sau:

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

ỦY BAN THẨM PHÁN

Tòa Dân sự

Văn phòng

Tòa Hình sự

Tòa Hành chính

Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án

Phòng Tổ chức cán bộ, thanh tra và thi đua khen thưởng

TÒA ÁN NHÂN DÂN CÁC HUYỆN, THỊ XÃ, THÀNH PHỐ

Sơ đồ 2.1.Tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

(Nguồn: Tác giả)

39

2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

Về chức năng: Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “TAND là cơ quan

xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư

pháp. TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền

và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.

Trên cơ sở quy định đó, Điều 2 Luật Tổ chức TAND năm 2014 đã cụ

thể hoá quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của

TAND nói chung và tại chương IV (từ Điều 37 đến Điều 43) Luật Tổ chức

TAND năm 2014 quy định cụ thể đối với TAND tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương.

Về nhiệm vụ, quyền hạn: theo Điều 37 Luật tổ chức TAND năm 2014

quy định TAND tỉnh Quảng Bình có nhiệm vụ, quyền hạn như sau: “1. Sơ

thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật. 2. Phúc thẩm vụ việc mà bản án,

quyết định sơ thẩm của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và

tương đương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy

định của pháp luật. 3. Kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, khi

phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố

tụng thì kiến nghị với Chánh án TAND cấp cao, Chánh án TAND tối cao xem

xét, kháng nghị. 4. Giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật”.

Các Tòa chuyên trách của TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm, phúc thẩm

(Điều 40 Luật tổ chức TAND năm 2014) theo thẩm quyền địa giới hành chính

tỉnh. Như vậy, TAND tỉnh Quảng Bình có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ

việc theo thẩm quyền do Bộ luật tố tụng hình sự, BLTTDS và Luật tố tụng

hành chính quy định. Đồng thời, xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ

thẩm của TAND cấp huyện thuộc tỉnh chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng

40

cáo, kháng nghị. Căn cứ Điều 36, BLTTDS 2015 quy định về thẩm quyền của

Tòa án theo cấp những vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài (có một bên ở

nước ngoài hoặc tài sản ở nước ngoài) thì thẩm quyền giải quyết thuộc TAND

cấp Tỉnh giải quyết.

Ngoài thẩm quyền về xét xử, TAND tỉnh Quảng Bình là đơn vị trực

tiếp quản lý các đơn vị TAND cấp huyện về công tác tổ chức cán bộ, cơ sở

vật chất, công tác kiểm tra nghiệp vụ và hướng dẫn nghiệp vụ.

2.1.3. Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

Theo số liệu thống kê, trong 5 năm (từ năm 2016 đến 2020), TAND hai

cấp tỉnh Quảng Bình đã giải quyết, xét xử 12.270 vụ án các loại, cụ thể:

Bảng 2.1: Số liệu xét xử các loại vụ án từ năm 2016 - 2020

Tổng Cộng Năm Án Hình sự Án Dân sự Án Hôn nhân & gia đình Án Lao động Án Hành chính

1.189 Án Kinh doanh thương mại 70 18 14 1.972 445 236 2016

1.445 59 2 41 2.181 391 243 2017

1.411 88 0 23 2.158 314 322 2018

1.600 117 2 21 2.798 613 445 2019

1.717 79 4 46 3.161 778 537 2020

Tổng 2.541 1.783 7.362 413 26 145 12.270 cộng

(Nguồn: Hệ thống phần mềm thống kê các loại án Tòa án nhân dân)

41

Biểu đồ 2.1. Kết quả giải quyết các loại vụ án từ năm 2016 - 2020

(Nguồn: Hệ thống phần mềm thống kê các loại án Tòa án nhân dân)

Trong những năm qua việc xét xử các vụ án hình sự đảm bảo kết án

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm cũng như không

làm oan người vô tội; hình phạt Tòa án áp dụng đối với các bị cáo đảm bảo

nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, đáp

ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay.

Đặc biệt là đối với các vụ án lớn, trọng điểm, dư luận xã hội quan tâm đều

được TAND tỉnh và các TAND cấp huyện khẩn trương nghiên cứu hồ sơ để

đưa ra xét xử kịp thời, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Đối với các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương

mại, lao động TAND hai cấp tỉnh Quảng Bình đã làm tốt công tác hoà giải,

thông qua công tác hoà giải giúp cho việc giải quyết vụ án nhanh chóng, đồng

thời góp phần củng cố mối đoàn kết trong nội bộ Nhân dân.

Đối với các vụ án hành chính, việc tổ chức đối thoại giữa người khởi

kiện và người bị kiện được chú trọng nên nhiều vụ án sau khi đối thoại, các

bên đã thống nhất cách thức giải quyết và người khởi kiện đã rút đơn khởi

42

kiện. Các Thẩm phán được phân công xét xử đã xác định đúng các quan hệ

pháp luật tranh chấp, khiếu kiện hành chính, thời hiệu khởi kiện, tư cách tố

tụng của đương sự…nên đã hạn chế đến mức thấp nhất các vụ việc bị cấp

phúc thẩm, giám đốc thẩm hủy do vi phạm thủ tục tố tụng. Quyền bình

đẳng của các đương sự trong việc cụng cấp chứng cứ, tranh luận tại phiên

tòa được thực hiện nghiêm túc. Bên cạnh đó, các Tòa án cũng đã quan tâm

làm tốt công tác phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng hồ sơ vụ

án, thu thập đầy đủ chứng cứ cần thiết nhằm đảm bảo giải quyết vụ án đúng

quy định của pháp luật.

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ

Chính trị về “ Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, trên cơ sở quy

định của pháp luật và hướng dẫn của TAND tối cao, TAND tỉnh Quảng Bình

đã triển khai sâu rộng việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên Tòa

xét xử, đảm bảo cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các

quyền và nghĩa vụ của họ, chú trọng việc đánh giá chứng cứ trong hồ sơ và

các chứng cứ mới. Việc đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên Tòa

không chỉ giới hạn ở các phiên Tòa xét xử hình sự mà được áp dụng đối với

các phiên Tòa xét xử các vụ án dân sự, hành chính. Để thực hiện tốt việc điều

hành tranh luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử đặc biệt là Thẩm phán chủ toạ

phiên Tòa xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch xét hỏi và tranh luận theo

hướng phát huy dân chủ, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ

chức và công dân, đảm bảo cho các bên trình bày hết ý kiến của mình về

những vấn đề liên quan tới việc giải quyết vụ án, từ đó các phán quyết của

Tòa án căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên Tòa trên cơ sở xem xét

toàn diện, khách quan các chứng cứ của vụ án, nên chất lượng giải quyết, xét

xử ngày được nâng lên, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao.

43

2.2. Tình hình bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly

hôn có yếu tố nước ngoài tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

2.2.1. Tình trạng hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở tỉnh Quảng Bình

Trong những năm gần đây, cùng với quá trình mở cửa hội nhập quốc tế

của đất nước, nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ, đời sống

kinh tế của người dân được thay đổi nhanh chóng. Số người đi xuất khẩu lao

động ra nước ngoài ngày càng đông, trong đó có tỉnh Quảng Bình. Tỉnh

Quảng Bình mỗi năm có trên 2000 người đi xuất khẩu lao động, việc người

dân đi xuất khẩu lao động đông phần nào đã giải quyết bài toán khó khăn về

việc làm, điều kiện kinh tế của nhiều gia đình được cải thiện đáng kể; nhiều

nhà cao tầng đã mọc lên, xe máy, ô tô xuất hiện ngày một nhiều hơn, đường

xá khang trang, đổi mới…

Phần đông người Quảng Bình xuất thân từ nông thôn, cuộc sống của họ

gặp nhiều khó khăn, do đó muốn ra nước ngoài lao động để hàng tháng gửi về

cho gia đình một khoản thu nhập không nhỏ, góp phần phát triển kinh tế cho

gia đình và phát triển kinh tế tại địa phương. Do đó, họ đã tìm nhiều cách để

được đi xuất khẩu lao động, đi du lịch, đi du học, sau đó ở lại nước ngoài

bằng cách kết hôn với người nước sở tại hoặc kết hôn với người Việt Nam có

quốc tịch nước ngoài. Cá biệt, có rất nhiều trường hợp sau khi hết hạn hợp

đồng lao động với các công ty của nước ngoài thì họ không về nước mà bỏ

trốn để ở lại trái phép hoặc đi du lịch rồi bỏ trốn để ở lại trái phép.

Việc kết hôn có yếu tố nước ngoài cũng có những tác động cả tích cực,

và tiêu cực trên các mặt của đời sống xã hội. Việc kết hôn với người nước

ngoài đã góp phần giải quyết được một lượng lớn lao động của địa phương.

Nhất là đối với phụ nữ nông thôn, không tìm kiếm được việc làm tại địa

phương, góp phần làm giảm áp lực về việc làm tại địa phương...

44

Bên cạnh việc kết hôn, tình trạng ly hôn có yếu tố nước ngoài diễn ra

khá phổ biến trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ

mâu thuẫn gia đình hoặc do hoàn cảnh phải sống mỏi mòn chờ tin chồng

(hoặc vợ) trong khi chồng (hoặc vợ) của họ không hề quan tâm đến họ và con

cái trong thời gian dài hay vì nhiều lý do khác nên dẫn đến tình trạng ly hôn

xảy ra nhiều trong những năm gần đây.

Ví dụ: Chị A, sinh năm 1985 ở xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Bình và

chồng là anh B kết hôn với nhau, hai vợ chồng chưa có con. Năm 2015, anh B

đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc. Sau một thời gian, chị A thấy chồng

mình có một số biểu hiện khác thường, không thường xuyên gọi điện liên lạc,

cũng không gửi tiền về cho vợ và không quan tâm đến vợ như trước đây,

trong khi ở nhà thì giữa chị A và mẹ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn. Từ tháng

9/2018 đến nay, chị A không còn liên lạc được với chồng. Mặt khác trên

facebook cá nhân, chồng chị còn khoe ảnh hạnh phúc bên một người phụ nữ

khác ở Hàn Quốc. Chị A đành viết đơn xin ly hôn.

Có trường Hợp chị M ở Phường ĐS, thành phố Đồng Hới đi du học tại

Trung Quốc và kết hôn với anh T người Trung Quốc năm 2012 (đăng ký kết

hôn tại Trung Quốc), Chị M sinh được cháu V tại Trung Quốc năm 2014,

Năm 2018, chị M và anh T xảy ra mâu thuẩn trầm trọng nên chị M về nước

sinh sống cho đến nay. Do không hàn gắn được tình cảm nên chị M gửi đơn

lên Tòa án tỉnh Quảng Bình xin ly hôn.

Hoặc trường hợp chị C ở xã B, huyện M, tỉnh Quảng Bình, kết hôn với

chồng là anh V ở thành phố Đ vào năm 2005, hai vợ chồng có với nhau một

con chung là cháu C, năm 2008, anh V đi xuất khẩu lao động sang Anh (theo

diện xuất khẩu chui), thời gian đầu thì vợ chồng chị còn thỉnh thoảng liên lạc

với nhau, chị có biết được địa chỉ của chồng ở Anh. Từ năm 2010 đến thời

điểm hiện tại thì chồng chị là anh V không liên lạc với vợ, cũng từ thời điểm

45

đó thì chị và gia đình chồng thường xảy ra mâu thuẫn, Chị C chuyển vào Huế

sinh sống và chị làm thủ tục ly hôn. Còn rất nhiều trường hợp khác nữa mà

trong quá trình thụ lý các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài TAND tỉnh

Quảng Bình đã gặp phải những tình huống tương tự như vậy.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng ly hôn có yếu tố nước ngoài

ngày một tăng, như có nhiều trường hợp nhiều người kết hôn với người nước

ngoài chỉ với mục đích nhập quốc tịch để ra nước ngoài, họ coi việc kết hôn

như một bản hợp đồng, hôn nhân thật sự không tồn tại, khi mục đích kết hôn

đã đạt được thì họ buộc phải chấm dứt bản hợp đồng đó để không còn sự ràng

buộc về mặt thực tế và về mặt pháp lý. Cũng có nhiều trường hợp nguyên

nhân ly hôn là do các cô gái người Việt Nam kết hôn với người chồng ngoại

quốc không xuất phát từ tình yêu thực sự mà có người kết hôn theo trào lưu

lấy chồng ngoại quốc, hay do sự khó khăn về kinh tế, nhiều cô gái muốn được

đổi đời một cách nhanh chóng nên họ dễ dàng chấp nhận kết hôn với người

chồng ngoại quốc cho dù người chồng ấy hơn họ rất nhiều tuổi nhưng khi

bước vào cuộc sống hôn nhân đã phát sinh nhiều vấn đề như bất đồng về ngôn

ngữ, văn hóa, lối sống, chêch lệch về tuổi tác. Cuộc sống hôn nhân không như

mong muốn nên họ đã lựa chọn giải pháp ly hôn để giải phóng cho mình.

Một nguyên nhân cực kỳ quan trọng mà tác giả nhận thấy rằng đó là sự

quản lý công dân của một số cơ quan chức năng có thẩm quyền còn quá lỏng

lẻo, dẫn đến tình trạng xuất khẩu lao động chui thông qua con đường du lịch;

làm các thủ tục để du lịch ở nước ngoài sau đó chốn ở lại không trở về Việt

Nam, dẫn đến không xác định được địa chỉ nơi cư trú cũng như nơi làm việc ở

nước ngoài, nguyên đơn ở Việt Nam muốn ly hôn cũng không được vì không

cung cấp được nơi cư trú và xin xác nhận được của cơ quan có thẩm quyền

của nước ngoài nơi mà bị đơn đang cư trú nên phía Tòa án Việt Nam không

thụ lý để giải quyết.

46

Như vậy, ly hôn có yếu tố nước ngoài thực chất là giải pháp để chủ thể

trong quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài lựa chọn để yêu cầu Tòa án giải

phóng cho bản thân khỏi cuộc sống hôn nhân thực sự không tồn tại trên thực

tế, hôn nhân không có hạnh phúc. Ly hôn là một việc cần thiết cho cả vợ

chồng và cho xã hội, vì nó giải phóng cho tất cả mọi người, cho cả vợ chồng,

các con cũng như các thành viên trong gia đình thoát khỏi xung đột, mâu

thuẫn bế tắc trong cuộc sống chung. Vì vậy, ly hôn không phải hoàn toàn

mang nghĩa tiêu cực mà nó còn mang một ý nghĩa tích cực, đó là bảo vệ

quyền tự do của con người, giúp con người thoát khỏi những ràng buộc trong

quan hệ hôn nhân thật sự tan vỡ.

2.2.2. Tình hình xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài và bảo vệ

quyền con người trong quá trình xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

2.2.2.1. Tình hình xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài

Trong những năm qua hoạt động xét xử nói chung và hoạt động xét xử

các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình nói riêng

đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Mặc dù số vụ án ly hôn có yếu tố

nước ngoài không nhiều so với số vụ án ly hôn trong nước cũng như các loại

vụ án khác, tuy nhiên công tác xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài

của TAND tỉnh Quảng Bình đã luôn bảo đảm đúng quy định của pháp luật.

Nhiều vụ án ly hôn có tính chất phức tạp về thủ tục ủy thác tư pháp, phân chia

tài sản…được TAND tỉnh xét xử kịp thời, đúng quy định của pháp luật, được

dư luận Nhân dân đồng tình. Qua đó góp phần lớn vào việc bảo vệ quyền con

người nói chung và quyền của đương sự trong các vụ án nói riêng.

Theo số liệu thống kê của TAND tỉnh Quảng Bình, từ năm 2016 -

2020, TAND tỉnh đã thụ lý tổng số 449 vụ, đã xét xử 255 vụ, đạt tỷ lệ giải

quyết là 56,79%. Thể hiện qua bảng số liệu sau:

47

Bảng 2.2: Số liệu kết hôn có yếu tố nước ngoài

Năm 2016 2017 2018 2019 2020 Tổng cộng

49 57 68 42 27 243 Số lượng người kết hôn có yếu tố nước ngoài

(Nguồn: Hệ thống phần mềm thống kê các loại án Tòa án nhân dân)

Bảng 2.3: Số liệu xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài

(Từ năm 2016 đến năm 2020)

Năm 2016 2017 2018 2019 2020

Tổng số thụ lý (vụ) 80 83 86 95 105

Tổng số xét xử (vụ) 35 45 63 45 67

Tỷ lệ xét xử 43,75% 54,22% 73,26% 47,37% 63,81%

(Nguồn: Hệ thống phần mềm thống kê các loại án Tòa án nhân dân)

Qua hai bảng số liệu trên cho thấy trong khoảng thời gian 5 năm từ

năm 2016 đến năm 2020, số lượng người Quảng Bình kết hôn có yếu tố

nước ngoài có xu hướng giảm trong hai năm trở lại đây có thể một phần là

do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nên việc đi xuất khẩu lao động bị

dừng lại. Số lượng vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tăng đều qua các năm

nguyên nhân đa số là do những người này đã kết hôn từ những năm trước

2016; tỷ lệ xét xử các vụ án dao động và tăng đều trong khoảng 43% đến

63%. Số lượng vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài TAND tỉnh Quảng Bình

đã thụ lý tuy không nhiều và tỷ lệ xét xử chỉ đạt mức trung bình. Điều đó

cho thấy lượng án ly hôn có yếu tố nước ngoài còn tồn đọng còn nhiều chưa

được xét xử hết.

So với số vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài của TAND các tỉnh khác

đã xét xử trong 5 năm qua như TAND tỉnh Quảng Trị: 220 vụ; TAND tỉnh

Thừa Thiên Huế: 315 vụ; TAND tỉnh Nghệ An: 662 vụ thì số vụ án ly hôn có

yếu tố nước ngoài TAND tỉnh Quảng Bình đã xét xử ở mức trung bình.

48

Nguyên nhân là do dân số và các điều kiện kinh tế xã hội ở các địa phương

trên cao hơn nhiều so với tỉnh Quảng Bình do đó số vụ án ly hôn có yếu tố

nước ngoài cũng nhiều hơn.

Trong quá trình xét xử, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của

nguyên đơn, bị đơn, Hội đồng xét xử đã căn cứ vào từng trường hợp để xét xử

vụ án bảo đảm đúng quy định của pháp luật, cụ thể:

Trường hợp thứ nhất: Thẩm phán xem xét giải quyết đơn không yêu

cầu người khởi kiện chứng minh tính xác thực về địa chỉ của bị đơn mà họ

cung cấp, cho rằng địa chỉ mà người khởi kiện cung cấp trong đơn khởi kiện

chính là địa chỉ của bị đơn ở nước ngoài, vì vậy chỉ xem xét, kiểm tra các điều

kiện khác như: đơn khởi kiện ly hôn; bản sao có chứng thực căn cước công

dân, chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu, thẻ thường trú, bản sao trích lục kết

hôn hoặc giấy chứng nhận kết hôn... nếu các điều kiện này đáp ứng được yêu

cầu của việc thụ lý vụ án, thì Thẩm phán thụ lý vụ án. Sau đó, Thẩm phán

được phân công giải quyết vụ án thực hiện việc ủy thác tư pháp cho Đại sứ

quán, Lãnh sự quán, Văn phòng đại diện kinh tế - văn hóa Việt Nam tại nước

ngoài, hoặc cho Cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài thông qua Bộ Tư pháp

để chuyển các loại giấy tờ cho bị đơn và tiến hành một số hoạt động thu thập

chứng cứ. Các loại giấy tờ đó là: đơn khởi kiện ly hôn; thông báo thụ lý vụ án

của Tòa án; bản sao trích lục kết hôn hoặc giấy chứng nhận kết hôn; văn bản

về yêu cầu bị đơn cung cấp cho Tòa án ý kiến, lời khai, tài liệu, chứng cứ đối

với các nội dung mà nguyên đơn nêu trong đơn khởi kiện; một số trường hợp

có thể còn thêm các loại giấy tờ khác như bản tự khai của nguyên đơn; thông

báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; thông

báo về việc mở phiên tòa giải quyết vụ án. Đồng thời Tòa án cũng yêu cầu các

cơ quan trên trong trường hợp không thực hiện được việc chuyển giao giấy tờ

49

thì đăng tải thông báo các nội dung trên tại cổng thông tin điện tử của cơ quan

mình, rồi thông báo kết quả thực hiện cho Tòa án.

Nếu trong trường hợp không có phản hồi của các cơ quan được ủy

thác, hoặc có thông báo của các cơ quan này là không chuyển giao được các

loại giấy tờ trên cho bị đơn, vì không tìm được địa chỉ, bị đơn không đến

nhận, bưu chính trả lại vì không có người nhận, không có kết quả phản hồi

của người nhận, thì Tòa án sẽ tiến hành thông báo trên Hệ phát thanh đối

ngoại quốc gia Đài tiếng nói Việt Nam (VOV5) về thời gian, địa điểm mở

phiên tòa, yêu cầu bị đơn có mặt tham gia phiên tòa; yêu cầu VOV5 xác nhận

đã đăng phát thông báo với các nội dung trên, cùng biên lai thu lệ phí gửi cho

Tòa án, đồng thời niêm yết quyết định đưa vụ án ra xét xử tại nơi đăng ký hộ

khẩu của bị đơn trước khi bị đơn xuất cảnh và thông báo trên trang thông tin

điện tử của Tòa án. Sau khi thực hiện các công việc trên và hoãn phiên tòa

một lần do bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo

điểm b khoản 2 Điều 227 BLTTDS (xét xử trong trường hợp bị đơn không có

yêu cầu phản tố và đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt).

Trường hợp thứ hai: Đây là các trường hợp Cơ quan đại diện của Việt

Nam ở nước ngoài được ủy thác không xác nhận việc đã chuyển giao được

các loại giấy tờ theo yêu cầu của Tòa án theo các phương thức mà pháp luật

quy định, nhưng lại gửi cho Tòa án biên bản xác nhận bị đơn đã gửi bản trả

lời các câu hỏi của Tòa án đến cơ quan mình (tức cơ quan được ủy thác), kèm

theo bản trả lời câu hỏi được cho là của bị đơn. Bản trả lời câu hỏi gửi kèm

này không được công chứng, chứng thực theo quy định tại điểm c khoản 2

Điều 478 BLTTDS. Trường hợp này, Tòa án chấp nhận đây là văn bản của bị

đơn, mở phiên tòa xét xử vụ án vắng mặt bị đơn sau khi đã tiến hành một số

thủ tục mang tính hình thức khác.

50

Trường hợp thứ ba: Đây là các trường hợp mà việc ủy thác tư pháp

không có kết quả, nhưng sau đó Tòa án lại nhận được tài liệu từ nước ngoài

gửi về, trong đó người lập tài liệu tự nhận mình là bị đơn, nội dung tài liệu

đáp ứng các yêu cầu của Tòa án về cho ý kiến đối với các yêu của của nguyên

đơn. Tài liệu không có chứng thực của các cơ quan đại diện của Việt Nam ở

nước ngoài theo quy định tại điểm c Điều 478 BLTTDS. Sau khi nhận được

có tài liệu này, Tòa án đã tiến hành trưng cầu Cơ quan công an giám định chữ

ký trong tài liệu gửi về với chữ ký của bị đơn trong giấy kết hôn, hoặc chữ ký

trong một số văn bản khác như thư từ mà nguyên đơn cung cấp, cho rằng đó

là các văn bản do bị đơn đã viết và ký tên. Sau khi có kết quả giám định, xác

định hai chữ ký trong hai tài liệu gửi đi giám định do cùng một người ký ra,

Tòa án tiến hành một số thủ tục khác, như niêm yết quyết định đưa vụ án ra

xét xử tại nơi đăng ký hộ khẩu của bị đơn trước khi bị đơn xuất cảnh, tại Tòa

án và thông báo trên trang thông tin điện tử của Tòa án (trong trường hợp tài

liệu gửi về không có nội dung người tự nhận là bị đơn yêu cầu tòa án xét xử

vắng mặt) và tiến hành xét xử vụ án.

Trường hợp thứ tư: Đây là trường hợp sau khi Tòa án thụ lý vụ án,

Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án tiến hành thực hiện việc ủy thác

tư pháp để chuyển các loại giấy tờ nói trên của Tòa án cho bị đơn và thu thập

chứng cứ, nhưng các cơ quan được ủy thác không thực hiện được việc chuyển

giao giấy tờ, vì các lý do như đã nói ở các phần trên, Thẩm phán đã tiến hành

triệu tập bố mẹ của bị đơn đến Tòa án lấy lời khai, nội dung yêu cầu họ cho

biết con họ có biết việc nguyên đơn có đơn khởi kiện ly hôn hay không, có

thỉnh thoảng có liên lạc qua điện thoại với bố mẹ, người thân ở Việt Nam hay

không. Trong trường hợp không triệu tập được bố mẹ của bị đơn đến Tòa án

để lấy lời khai, Thẩm phán có thể trực tiếp một mình hoặc nhờ cán bộ Tư

pháp xã, phường, thị trấn cùng mình đến nhà bố mẹ bị đơn để lấy lời khai với

51

các nội dung trên. Khi xác định được bố mẹ bị đơn cũng không phản đối việc

khởi kiện yêu cầu được ly hôn của nguyên đơn, có khai thỉnh thoảng con họ

có liên lạc với họ và người thân qua điện thoại, Tòa án sẽ tiến hành một số thủ

tục chủ yếu mang tính hình thức như các cách thức đã tiến hành ở phần trước,

rồi mở phiên tòa xét xử vụ án vắng mặt bị đơn với lý do bị đơn cố tình dấu địa

chỉ.

Để tiến hành xét xử được một vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài bảo

đảm bảo vệ cho quyền lợi chính đáng của nguyên đơn. Trên thực tế, TAND

tỉnh Quảng Bình gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là trong hoạt động UTTP

trong một số công việc như ghi lời khai, tống đạt giấy tờ, thu thập chứng cứ,

xác minh địa chỉ, trưng cầu giám định. Việc UTTP để ghi lời khai của những

cá nhân đang ở những nước mà Việt Nam chưa ký HĐTTTP thì hầu như

không có kết quả. Những việc Tòa án Việt Nam UTTP cho Tòa án nước ngoài

thì kết quả trả lời thường rất chậm, thậm chí nhiều trường hợp không nhận

được sự trả lời. Chính vì vậy, việc lấy lời khai, tống đạt các văn bản của Tòa

án hoặc xác định tài sản ở nước ngoài là không thực hiện được làm cho vụ án

bị kéo dài, vi phạm thời hạn xét xử, ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự.

Nhiều vụ không thể thụ lý giải quyết do công dân Việt Nam xin ly hôn chỉ

cung cấp cho Tòa án bản đăng ký kết hôn có địa chỉ của bên kia, ngoài ra thì

không có một thông tin nào khác của bị đơn. Điều này dẫn đến thực tế nhiều

cuộc hôn nhân chỉ mang tính hình thức mà vẫn bị kéo dài, ảnh hưởng đến

cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của nguyên đơn. Bên cạnh đó, thủ tục

hợp thức hóa lãnh sự đối với các việc mà Tòa án Việt Nam yêu cầu thì nhiều

Tòa án nước ngoài chưa đáp ứng kịp thời, do vậy cũng đã gây khó khăn cho

việc xét xử.

Mặt khác, việc xác định thẩm quyền của Tòa án. Theo quy định của

Luật Quốc tịch thì “người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt

52

Nam và người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn sinh sống lâu dài ở nước ngoài”.

Tuy nhiên, thời gian để xác định “lâu dài” không được quy định cụ thể trong

một văn bản nào. Trường hợp người Việt Nam đi công tác, học tập hoặc du

lịch nhưng khi hết thời hạn họ ở lại nước sở tại thì có được xem là người Việt

Nam định cư nước ngoài hay không? Vấn đề này ảnh hưởng đến việc xác

định thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Không ít trường hợp công dân Việt Nam, thậm chí kể cả các pháp nhân

Việt Nam không chịu tìm hiểu kỹ điều kiện, địa chỉ cụ thể của người nước

ngoài; của pháp nhân nước ngoài; không yêu cầu người nước ngoài, pháp

nhân nước ngoài cung cấp địa chỉ tại nơi mà họ đang sinh sống, trụ sở pháp

nhân đang hoạt động… dẫn đến tình trạng quyền và lợi ích bị xâm phạm. Khi

khởi kiện đến Tòa án thì không xác định được địa chỉ hoặc không có địa chỉ

người nước ngoài, khiến Tòa án rất khó khăn trong xác định địa chỉ. Nhiều

trường hợp, bị đơn trong vụ án là người đang ở nước ngoài khi biết mình bị

khởi kiện tại Tòa án luôn tìm cách né tránh, thay đổi địa chỉ nên Tòa án không

thể triệu tập họ tham gia tố tụng và không có chế tài xử lý.

2.2.2.2. Bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố

nước ngoài

Hoạt động xét xử nhằm bảo đảm bảo vệ quyền con người trong các vụ

án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình được tuân thủ chặt

chẽ các trình tự, thủ tục chung tại giai đoạn sơ thẩm theo quy định của pháp

luật Tố tụng dân sự. Việc nhận đơn và hướng dẫn thủ tục cho đương sự được

giao cho các Thư ký ở bộ phận hành chính tư pháp trực thuộc Văn phòng đảm

nhiệm, sau đó chuyển cho Chánh Văn phòng xem xét các điều kiện khởi kiện,

căn cứ thụ lý và thẩm quyền giải quyết, nếu đủ điều kiện thụ lý thì đề xuất lên

Chánh án phân công Thẩm phán giải quyết và chuyển Thư ký để vào sổ thụ

lý. Sau đó Thẩm phán tiến hành ra thông báo về việc thụ lý, thông báo các

53

đương sự giao nộp chứng cứ, tiến hành hòa giải, xác minh thu thập chứng cứ

(trong trường hợp các đương sự không thể tự mình cung cấp chứng cứ hoặc

Viện kiểm sát có yêu cầu), tuỳ tính chất của vụ án và trong thời hạn luật định

để có thể ra một trong các quyết định: tạm đình chỉ, đình chỉ, trả lại đơn khởi

kiện, quyết định đưa vụ án ra xét xử. Đối với vụ án có tranh chấp trong quan

hệ hôn nhân và gia đình phải đưa ra xét xử theo trình tự sơ thẩm thì Thẩm

phán phải chủ động tiến hành các bước tại phiên toà, điều khiển phiên toà

tuân theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định về thủ tục hỏi tại phiên tòa, tranh

luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án.

Từ việc tuân thủ chặt chẽ trình tự giải quyết theo pháp luật tố tụng và

áp dụng chính xác, thận trọng pháp luật về nội dung, TAND tỉnh Quảng Bình

đã bảo đảm thực hiện tốt về quyền con người của các đương sự trong quá

trình xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, được thể hiện qua các nội

dung sau:

Thứ nhất là, bảo đảm quyền khởi kiện của nguyên đơn và quyền được

tham gia tố tụng.

Hoạt động xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài được bắt đầu bằng

sự kiện công dân gửi đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của mình

khi có tranh chấp trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. TAND tỉnh đã thực

hiện đổi mới thủ tục hành chính tư pháp đó là bố trí một phòng làm việc

khang trang ở ngay vị trí trung tâm tầng 1 trụ sở TAND tỉnh (Bộ phận một

cửa) và phân công ba đồng chí Thư ký viên có kinh nghiệm trong việc nắm

bắt thủ tục, thẩm quyền giải quyết để tiếp nhận đơn khởi kiện và hồ sơ các

loại vụ án trong đó có hồ sơ khởi kiện xin ly hôn có yếu tố nước ngoài và trực

tiếp hướng dẫn, giải thích cho đương sự khi đến nộp đơn khởi kiện. Việc tập

trung tiếp nhận hồ sơ tập trung tại một bộ phận như thế đã giúp cho người dân

rút ngắn được thời gian và thủ tục nộp đơn khởi kiện, đơn khiếu nại, tố cáo,

54

hạn chế tình trạng đơn bị chậm, bị quá hạn hoặc đương sự phải đi lại nhiều

lần gây phiền hà. Có nhiều trường hợp tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi

kiện mà đương sự cung cấp không trùng khớp hoặc mâu thuẩn nhau như các

thông tin về hộ khẩu, chứng minh nhân dân, giấy đăng ký kết hôn, giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất… mà công dân không thể tự mình chứng minh, thu

thập được thì các Thư ký viên đã tích cực hướng dẫn cho họ liên hệ trực tiếp

với chính quyền địa phương hoặc cơ quan có thẩm quyền về lĩnh vực hộ tịch,

để đề nghị xác nhận, cung cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện

quyền khởi kiện ra Tòa án.

Khi vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài được Tòa án thụ lý thì quyền và

nghĩa vụ tố tụng của các đương sự được xác lập. TAND tỉnh Quảng Bình đã

thực hiện việc thông báo, triệu tập các đương sự tham gia các hoạt động tố

tụng theo trình tự vụ, việc để các đương sự có thể thực hiện quyền thay đổi,

bổ sung chứng cứ; quyền được tự mình thu thập hoặc yêu cầu cung cấp chứng

cứ; quyền được tham gia hoà giải nhằm tôn trọng quyết định độc lập của các

đương sự, quyền được tham gia vào các hoạt động như: định giá tài sản, tham

gia phiên toà, phiên họp; quyền được đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn,

quyền đưa ra yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Nhằm để đảm bảo cho đương sự được thực hiện đầy đủ các quyền trên một

cách có hiệu quả, vừa bảo vệ được lợi ích của đương sự, vừa đáp ứng các điều

kiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, tuỳ thuộc vào tính chất của

từng vụ, việc khi giải quyết mà TAND tỉnh Quảng Bình thực hiện việc thông

báo, triệu tập để đương sự đều được tham gia vào các hoạt động tố tụng đó.

Việc triệu tập được Tòa án thực hiện đúng quy định thông qua đường bưu

chính, thông qua cổng thông tin đối ngoại quốc gia, thông báo trên Cổng

thông tin điện tử của Tòa án và thông qua chính quyền địa phương giao trực

tiếp cho người được triệu tập. Trong 05 năm (2016-2020) không có trường

55

hợp nào đương sự khiếu nại, tố cáo về việc vi phạm quyền được tham gia tố

tụng của họ. Viện kiểm sát các cấp cũng không có kiến nghị, kháng nghị nào

về việc vi phạm quyền được tham gia tố tụng của đương sự.

- Ví dụ đối với vụ án ly hôn do mâu thuẩn về tình cảm, không có

tranh chấp về tài sản hoặc con cái:

Vụ án dân sự thụ lý số: 34/2018/TLST-HNGĐ ngày 19/12/2018 về việc

ly hôn theo đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Lê Hoàng G, sinh năm 1980;

nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình với bị đơn anh

ALJ, sinh năm 1981, Quốc tịch Australia (Úc), địa chỉ cư trú tại Australia.

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai của chị Lê Hoàng G: Chị G và anh ALJ kết

hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký tại UBND thành phố Đ, tỉnh

Quảng Bình ngày 14/10/2016. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống với

nhau một thời gian tại nước Úc nhưng sau đó đã thường xuyên xảy ra mâu

thuẫn về tình cảm, nguyên nhân do bất đồng quan điểm về kinh tế, ngôn ngữ,

phong tục tập quán của hai nước, tình trạng này kéo dài, vợ chồng đã cố gắng

khắc phục nhưng không thể tìm được tiếng nói chung, hiện tại mỗi người

sống một nơi. Do không còn tình cảm với anh ALJ nên chị G làm đơn yêu cầu

được ly hôn với anh ALJ. Về con chung hai vợ chông chưa có con chung nên

không yêu cầu Tòa án giải quyết; về tài sản chung, Chị Lê Hoàng G trình bày

vợ chồng không có tài sản chung, không có ai nợ vợ chồng và vợ chồng

không nợ ai nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về phía bị đơn anh ALJ: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện việc

tống đạt các văn bản tố tụng trực tiếp cho anh ALJ theo 02 địa chỉ do nguyên

đơn cung cấp. TAND tỉnh Quảng Bình nhận được bản tường trình của anh

ALJ qua đường bưu điện, sau đó bản tường trình được tiến hành dịch sang

tiếng Việt Nam có chứng thực theo quy định của pháp luật. Theo bản tường

trình của anh ALJ đã được Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại SYDNEY -

56

AUSTRALIA (Úc), anh ALJ khai đúng như lời khai của chị G. Đồng thời đề

nghị TAND tỉnh Quảng Bình giải quyết vắng mặt vì lý do khó khăn, trở ngại

sắp xếp công việc. Tại phiên tòa vắng mặt cả hai bên đương sự. Đại diện Viện

kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Trong quá trình giải quyết vụ án việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán,

Hội đồng xét xử tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Việc thu thập

chứng cứ, đương sự tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định, đảm bảo các

quy định của BLTTDS.

Sau khi xem xét các lời khai, tài liệu có tại hồ sơ vụ án; Ý kiến của đại

diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tại phiên tòa, Hội đồng xét xử

nhận định: Bị đơn anh ALJ có quốc tịch Úc sinh sống và làm việc tại nước

Úc, vì vậy xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân

tỉnh Quảng Bình; về phương thức tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự là

người nước ngoài: “....Theo đường dịch vụ bưu chính đến địa chỉ của đương

sự đang ở nước ngoài với điều kiện pháp luật nước đó đồng ý với phương

thức tống đạt này”, do đó Tòa án tỉnh Quảng Bình đã tống đạt trực tiếp các

văn bản tố tụng cho anh ALJ theo đường bưu điện là đúng quy định pháp luật,

phù hợp với hướng dẫn về việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước

ngoài trong các vụ việc dân sự, vụ án hành chính; Về công nhận giấy tờ của

đương sự ở nước ngoài gửi cho Tòa án: Bản tưởng trình của anh ALJ gửi cho

Tòa án Quảng Bình có xác nhận của Tổng lãnh sự sứ quán Việt Nam tại nước

Úc vào ngày 23/8/2019, được dịch ra tiếng Việt có công chứng, chứng thực

hợp pháp theo quy định pháp luật Việt nam, do đó Tòa án công nhận Bản

tường trình của anh ALJ; về sự vắng mặt của chị Lê Hoàng G và anh ALJ:

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành các phương thức tống đạt, thông báo

văn bản tốt tụng của Tòa án cho các đương sự, các đương sự đã nhận được

thông báo của Tòa án trong đó có ấn định rõ giờ, ngày tháng năm mở phiên

57

họp hoà giải và phiên toà. Tuy nhiên, chị G có đơn yêu cầu giải quyết vắng

mặt vì lý do đi làm ăn xa không thể có mặt. Anh ALJ đề nghị giải quyết việc

ly hôn vắng mặt do khó khăn sắp xếp công việc để có mặt tại TAND tỉnh

Quảng Bình, vì vậy Tòa án lập biên bản không hòa giải được. Căn cứ các quy

định của pháp luật, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị Lê Hoàng G

và anh ALJ.

Từ các căn cứ pháp lý trên TAND tỉnh Quảng Bình đã áp dụng các quy

định của pháp luật tuyên xử chị Lê Hoàng G được ly hôn anh ALJ. Về quan

hệ con chung và tài sản chung Tòa án không xem xét. Chị Lê Hoàng G có

quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án; Anh

ALJ có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 01 tháng kể từ ngày bản án

được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử, vụ án trên đã có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo,

kháng nghị, khiếu nại.

Thứ hai là, bảo đảm quyền cung cấp chứng cứ và chứng minh bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự bảo đảm quyền của đương sự yêu cầu

cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ và yêu cầu Tòa án xác minh,

thu thập chứng cứ.

Đối với hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, Thẩm

phán khi được phân công giải quyết vụ án sẽ yêu cầu các đương sự giao nộp

các chứng cứ liên quan đến vụ án, bởi việc thu thập chứng cứ để chứng minh

cho yêu cầu của mình là có căn cứ thuộc nghĩa vụ chứng minh của các đương

sự, các đương sự có trách nhiệm tự viết bản tự khai và ký tên mình trước mặt

Thẩm phán, Thư ký để xác định tính tự nguyện, khách quan về những thông

tin mà đương sự cung cấp. Trường hợp nguyên đơn hoặc bị đơn đang ở nước

ngoài thì Tòa án yêu cầu gửi bản tự khai và các giấy tờ có liên quan có xác

nhận của Đại sứ quán nước sở tại. Đồng thời Tòa án đã tạo điều kiện và

58

hướng dẫn đương sự yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ để

bảo đảm quyền lợi cho mình. Trong trường hợp đương sự không thể tự mình

cung cấp đầy đủ các tài liệu, chứng cứ thì đương sự có quyền yêu cầu Tòa án

xác minh, thu thập chứng cứ bằng nhiều biện pháp, trong đó có biện pháp

UTTP ra nước ngoài. Thẩm phán phụ trách giải quyết vụ án tùy theo tính chất

của từng vụ án sẽ tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ

khác như: đối chất giữa các đương sự, người làm chứng nhằm làm sáng tỏ sự

thật khách quan vụ án.

Quá trình xác minh thu thập chứng cứ luôn tuân thủ chặt chẽ các quy

định của BLTTDS nhằm bảo đảm tính khách quan, công bằng để làm rõ bản

chất sự thật khách quan của vụ án để có được kết quả cao nhất trong việc xác

minh, thu thập chứng cứ của vụ án. Đồng thời thực hiện thu thập chứng cứ

với phương châm luôn luôn bảo đảm các quyền của công dân trong hoạt động

giải quyết các vụ án ly hôn. Quá trình giải quyết các Thẩm phán đã có nhiều

cố gắng trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ chính xác nên việc xét xử, giải

quyết các vụ án ly hôn đạt hiệu quả cao.

- Ví dụ đối với vụ án ly hôn mà một bên đương sự vắng mặt cần

phải có giám định chữ ký:

Vụ án dân sự thụ lý số: 43/2019/TLST-HNGĐ Ngày 19/6/2019 về việc

ly hôn theo đơn khởi kiện của nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Đức T, sinh ngày

10/3/1994, Quốc tịch: Việt Nam; Nơi ĐKNKTT: Số 82 đường L, phường H,

thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Bị đơn: Anh Phạm Minh H, sinh ngày

07/7/1987, Quốc tịch: Hoa Kỳ, Địa chỉ: 10421 Mapledale St, Bellflower CA

90706, Hoa Kỳ.

Theo đơn khởi kiện về việc ly hôn và quá trình giải quyết vụ án,

nguyên đơn chị Hoàng Thị Đức T trình bày:

59

Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị Đức T và anh Phạm Minh H kết

hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng

Bình vào ngày 12/01/2016. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc

được 02 tháng thì anh Phạm Minh H quay lại Hoa Kỳ để làm ăn, thời gian đầu

vợ chồng vẫn thường xuyên liên lạc nhưng gần hai năm trở lại đây giữa vợ

chồng phát sinh mâu thuẫn nên dần dần mất liên lạc. Nguyên nhân mâu thuẫn

là do vợ chồng sống xa nhau thiếu sự tin tưởng về tình cảm lẫn kinh tế. Tình

trạng vợ chồng lạnh nhạt này diễn ra kéo dài và không còn khả năng khắc

phục. Hiện tại mỗi người ở mỗi nước khác biệt, không ai có nổ lực hàn gắn lại

hạnh phúc gia đình. Xét thấy tình cảm vợ chồng thực sự không còn, nếu kéo

dài quan hệ hôn nhân thì mục đích hôn nhân cũng không thể đạt được nên chị

T làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Minh H.

Về con chung: Chị Hoàng Thị Đức T trình bày vợ chồng không có con

chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Chị T trình bày vợ

chồng không có nên không yêu cầu giải quyết.

Về phía bị đơn anh Phạm Minh H: Thông qua dịch vụ bưu chính Tòa

án đã gửi cho anh Phạm Minh H thông báo thụ lý vụ án và công văn yêu cầu

anh H cung cấp tài liệu chứng cứ lời khai trình bày quan điểm. Ngày

06/02/2020 Tòa án nhận được Bản tự khai đề ngày 01/12/2019 của anh H gửi

từ nước ngoài về, nội dung anh đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án.

Anh H thống nhất như trình bày của chị T về quá trình tìm hiểu và kết hôn.

Do cuộc sống mỗi người một nơi, giữa vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn,

nguyên nhân là do tính cách, quan điểm sống, thiếu niềm tin và sự quan tâm

lẫn nhau. Hiện tại, anh H xác định tình cảm vợ chồng không còn, hạnh phúc

gia đình không thể hàn gắn được nên cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị

T. Về con chung: anh H trình bày vợ chồng không có con chung nên không

yêu cầu Tòa án giải quyết.

60

Về tài sản chung: vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải

quyết.

Vì điều kiện ở xa nên anh H không thể về Việt Nam để tham gia phiên

tòa theo thời gian đã được ấn định, anh xin được vắng mặt tại các phiên hòa

giải và phiên tòa, đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Xét thấy việc trưng cầu giám định đối với chữ viết, chữ ký tại bản tự

khai do anh Phạm Minh H gửi về là cần thiết cho việc làm căn cứ giải quyết

vụ án. Ngày 17/02/2020, TAND tỉnh Quảng Bình đã ra Quyết định số

241/2020/QĐ-TCGĐ trưng cầu giám định đối với chữ viết, chữ ký của Phạm

Minh H ở mục ký tên tại Bản tự khai của anh Phạm Minh H gửi cho Tòa án.

Tại kết luận giám định số 160/PC09(GĐ) ngày 02/3/2020 của Phòng kỹ thuật

hình sự Công an tỉnh Quảng Bình đã xác định chữ viết, chữ ký tại Bản tự khai

mà TAND tỉnh Quảng Bình nhận được và chữ viết, chữ ký trên tài liệu mẫu

so sánh là do cùng một người viết (chữ viết, chữ ký tại Bản tự khai là do

chính anh Phạm Minh H viết ra).

Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Hoàng Thị Đức T giữ nguyên yêu cầu

khởi kiện xin được ly hôn với anh Phạm Minh H. Đại diện Viện kiểm sát

nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên tòa nhận xét: Thẩm phán, Hội thẩm

nhân dân, Thư ký phiên tòa tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Việc

thu thập chứng cứ đảm bảo đúng quy định, đảm bảo quyền lợi nghĩa vụ của

các đương sự.

Sau khi xem xét các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và nghe ý kiến của Đại

diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tại phiên tòa, Hội đồng xét xử

nhận định về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn yêu cầu ly hôn với người có quốc tịch Hoa Kỳ; đây là vụ

kiện tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên vụ án thuộc thẩm quyền của

TAND tỉnh Quảng Bình. Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã thực hiện phương

61

thức tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của Tòa án cho đương sự ở nước

ngoài theo đường dịch vụ bưu chính đến địa chỉ của anh Phạm Minh H ở Hoa

Kỳ đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt và đã có ý

kiến đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt tại bản tự khai. Theo quy định thì việc

vắng mặt của đương sự trong trường hợp này, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ

án với sự vắng mặt của bị đơn.

Về nội dung: Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy: Quan hệ hôn

nhân giữa chị Hoàng Thị Đức T và anh Phạm Minh H là hợp pháp. Sau khi

kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được 02 tháng thì anh Phạm Minh H

quay lại Hoa Kỳ để làm ăn. Trong thời gian vợ chồng sống xa nhau, giữa vợ

chồng đã không có sự quan tâm, chia sẽ lẫn nhau thường xuyên nên đã phát

sinh mâu thuẫn, hạnh phúc gia đình lâu ngày không được vun đắp nên có

nhiều rạn nứt. Hiện tại hai bên đều xác định tình cảm vợ chồng không còn,

không ai có mong muốn hàn gắn lại hạnh phúc gia đình. Chị T có yêu cầu giải

quyết ly hôn và anh H đồng ý. Xét thấy, cuộc sống chung trên thực tế không

tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và

gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Hoàng Thị Đức T, xử

cho chị Hoàng Thị Đức T được ly hôn anh Phạm Minh H là hoàn toàn phù

hợp. Trên cơ sở các nội dung đã được làm rõ tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã

tuyên xử cho chị Hoàng Thị Đức T được ly hôn anh Phạm Minh H; về con

chung: không có, không xem xét. Về tài sản chung: các bên không yêu cầu

nên không xem xét. Về án phí: Chị Hoàng Thị Đức T phải chịu 3.540.000

đồng chi phí giám định tư pháp (chị T đã nộp đủ).

Án sơ thẩm xử công khai, chị Hoàng Thị Đức T có quyền kháng cáo

trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Phạm Minh H có quyền kháng

cáo trong hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm

yết. Sau khi xét xử, bản án không bị kháng cáo, kháng nghị hay khiếu nại.

62

Thứ ba là, bảo đảm quyền tự thỏa thuận của đương sự.

Một trong những nguyên tắc cơ bản và đặc trưng của việc xét xử các vụ

án ly hôn nói chung cũng như vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng là

tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự. Đối với thủ tục

giải quyết các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại cấp sơ thẩm, thủ tục bắt

buộc đó là Tòa án phải tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với

nhau về việc giải quyết vụ án. Đặc biệt với các vụ án ly hôn các mâu thuẫn

phát sinh chủ yếu xuất phát từ tình cảm việc hòa giải sẽ giúp cho các đương

sự có cái nhìn đúng đắn và lựa chọn hướng giải quyết hợp tình, hợp lý nhất.

Kết quả hòa giải có thể sẽ được các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích

mích một cách ổn thỏa, giải quyết các tranh chấp, bất đồng giữa các bên bằng

thương lượng với nhau; có thể giúp cho vợ chồng đoàn tụ, khôi phục, hàn gắn

tình cảm vợ chồng, hạn chế tình trạng bạo lực gia đình.

Khi thực hiện thủ tục hòa giải trong vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài,

Thẩm phán là bên thứ ba đóng vai trò trung gian, hoàn toàn độc lập với hai

bên, không có quyền áp đặt, thiên vị; giúp hai bên ngồi lại với nhau và tìm

cách đưa các bên tới những điểm mà họ có thể thỏa thuận được. Vậy nên sau

khi thu thập đầy đủ các chứng cứ cần thiết liên quan đến vụ án, nếu không

thuộc những trường hợp không được hòa giải quy định tại Điều 206 BLTTDS

và những vụ án không tiến hành hòa giải tại Điều 207 BLTTDS thì Thẩm

phán tiến hành thông báo về phiên hòa giải. Khi tiến hành hòa giải, Tòa án đã

áp dụng các quy định về nguyên tắc tiến hành hòa giải được quy định tại Điều

205, thành phần phiên hòa giải quy định tại Điều 209, nội dung hòa giải quy

định tại Điều 210 và lập biên bản hòa giải được quy định tại Điều 211 của

BLTTDS 2015. Khi tiến hành hòa giải các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài,

Tòa án luôn xác định rõ mục đích quan trọng nhất của phiên hòa giải là đạt

được sự thỏa thuận giữa các đương sự để giải quyết tranh chấp giữa họ, trong

63

đó luôn hướng tới mục đích hoà giải đoàn tụ thành để vụ án giải quyết được

nhanh gọn, không mất nhiều thời gian, công sức cũng như tình cảm mà lại đạt

được kết quả cao.

Thứ tư là, bảo đảm quyền yêu cầu thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân

dân, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, người giám định, người phiên dịch.

Theo quy định tại Điều 16 BLTTDS 2015 thì những người tiến hành tố

tụng hoặc tham gia tố tụng dân sự gồm có: Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội

thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên,

người phiên dịch, người giám định. Những người tiến hành tố tụng và tham

gia tố tụng dân sự giúp Tòa án làm rõ các vấn đề của vụ án ly hôn có yếu tố

nước ngoài, các vấn đề ấy được thực hiện thông qua nhiệm vụ, quyền hạn của

họ trong quá trình tố tụng. Các hoạt động của những người tiến hành tố tụng,

người tham gia tố tụng mục đích là để giúp Tòa án giải quyết vụ án, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, bảo đảm sự công bằng xã hội. Vì thế

trong quá trình tham gia, tiến hành tố tụng họ phải vô tư trong khi làm nhiệm

vụ, đảm bảo nguyên tắc vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố

tụng được quy định của pháp luật. Tuy nhiên trong trường hợp mà đương sự

có yêu cầu thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Thư ký

Tòa án, người giám định, người phiên dịch vì có căn cứ cho rằng họ không

thể vô tư, khách quan trong khi thực hiện nhiệm vụ, giải quyết các vụ, việc

hôn nhân và gia đình, nếu yêu cầu của đương sự đúng với Điều 52, 53, 54 của

BLTTDS 2015 thì Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh ra quyết định thay đổi

người tiến hành tố tụng hoặc những người tố tụng có thể từ chối tham gia hoạt

động xét xử vụ án.

Thứ năm là, bảo đảm quyền được tranh tụng trong tố tụng dân sự.

Theo quy định tại Điều 24 BLTTDS thì bảo đảm tranh tụng trong xét xử là

một trong những nguyên tắc của tố tụng dân sự nhằm đảm bảo cho đương sự

64

tự định đoạt, tự chứng minh để bảo vệ quyền lợi của mình, quá trình tranh

tụng được bắt đầu từ khi khởi kiện thụ lý vụ án cho đến khi giải quyết xong

vụ án; đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong các giai đoạn xét xử sơ

thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm

cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực

hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái

thẩm. Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và

chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật

này quy định. Trong quá trình tiến hành tố tụng giải quyết vụ án ly hôn có yếu

tố nước ngoài, TAND tỉnh Quảng Bình luôn tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc này,

bảo đảm cho đương sự được quyền giao nộp chứng cứ, tiếp cận và công khai

chứng cứ, được ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ; đặc biệt để tăng cường

đổi mới thủ tục tranh tụng tại phiên tòa cũng như bảo đảm quyền tranh tụng

tại phiên toà của đương sự trong hoạt động xét xử, TAND tỉnh Quảng Bình đã

phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tỉnh ban hành Quy chế phối hợp giữa

Tòa án và Viện kiểm sát trong công tác phối hợp trong quản lý, chỉ đạo, điều

hành, tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm theo yêu cầu cải cách tư pháp. Trên

cơ sở đó đã phối hợp và tổ chức nhiều phiên tòa rút kinh nghiệm xét xử các

vụ án ly hôn và ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh với sự tham gia

của Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký, Kiểm sát viên Viện khiểm sát tỉnh.

Quá trình tranh tụng, Hội đồng xét xử lắng nghe ý kiến tranh luận từ hai phía,

bên khởi kiện và bên bị kiện bảo đảm cho đương sự, người có quyền lợi nghĩa

vụ liên quan được trình bày quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

mình. Bảo đảm quyền bình đẳng giữa những người tiến hành tố tụng, người

tham gia tố tụng trong việc đưa ra chứng cứ, bày tỏ quan điểm ý kiến, để xác

định sự thật khách quan; bảo đảm cao nhất quyền của đương sự được quyền

yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng của đương

65

sự; bảo đảm quyền thỏa thuận với nhau về giải quyết cũng như bảo đảm

quyền tham gia phiên tòa, phiên họp của đương sự.

Thứ sáu là, bảo đảm quyền nhờ người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp, ủy quyền cho luật sư hoặc người khác đại diện trong tố tụng dân sự;

quyền được ly hôn của đương sự.

Hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư cho cá nhân và hoạt

động trợ giúp pháp lý tại tỉnh Quảng Bình trong những năm qua đã tăng cả về

số lượng và nâng cao một bước về chất lượng, góp phần tích cực bảo vệ công

lý, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, doanh nghiệp, phục vụ tích cực cho

công cuộc cải cách tư pháp, góp phần tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi

thúc đẩy các hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại trong bối cảnh hội

nhập quốc tế đồng thời bảo đảm cho công dân có thể nhờ người khác bảo vệ

quyền của mình khi tham gia các hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và

hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng. Tuy nhiên,

hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài so với các tranh chấp

dân sự, giải quyết các vụ án hình sự thì sự tham gia bảo vệ của công dân bằng

hình thức ủy quyền cho Luật sư thường ít hơn. Công dân chỉ nhờ đến Luật sư

trong trường hợp vụ án ly hôn có mức độ phức tạp thường là tranh chấp về tài

sản hoặc quyền nuôi con chung.

Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, ly hôn là quyền tự do cá nhân của

vợ, chồng. Vợ, chồng có quyền yêu cầu ly hôn khi thấy tình cảm giữa vợ

chồng không còn và việc duy trì hôn nhân là không cần thiết và không có lợi

cho gia đình. Việc ly hôn chỉ bị hạn chế trong trường hợp người chồng có yêu

cầu ly hôn khi người vợ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Mục đích của quy định này là gắn trách nhiệm của người chồng trong việc tạo

điều kiện cho người vợ thực hiện chức năng làm mẹ. Quyền yêu cầu ly hôn

của người phụ nữ không bị hạn chế ngay cả khi đang mang thai hoặc nuôi con

66

dưới 12 tháng tuổi. Do vậy, khi có căn cứ xác định mâu thuẩn vợ chồng đã

đến mức trầm trọng, tình trạng hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn

nhân không đạt được, việc hòa giải không đem lại kết quả thì Tòa án quyết

định cho ly hôn để giải phóng cho họ. Trong thời gian qua, TAND tỉnh Quảng

Bình đã luôn bảo đảm thực hiện quyền này bởi khi giải quyết các vụ án ly hôn

có yếu tố nước ngoài, vấn đề chứng minh tình trạng hôn nhân là rất quan

trọng và khi đã có căn cứ xác định tình trạng hôn nhân của họ đã đến mức

trầm trọng thì phải chấp nhận cho họ ly hôn, không xảy ra trường hợp bác đơn

thiếu căn cứ chỉ để bảo vệ quyền lợi của một bên là kéo dài sự ràng buộc

không đáng có và vi phạm quyền được ly hôn của đương sự.

Thứ bảy là, bảo đảm quyền được chăm sóc nuôi dưỡng con và quyền,

lợi ích hợp pháp, chính đáng của người vợ và con chưa thành niên, quyền

được chia tài sản chung.

Pháp luật ghi nhận việc ly hôn không làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ

của vợ, chồng đối với con của mình mà chỉ thừa nhận sự thay đổi phương

thức thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với con. Người không trực tiếp nuôi con

chưa thành niên phải cấp dưỡng nuôi con, tiếp tục thực hiện các quyền đại

diện, chăm sóc, giáo dục con phù hợp với hoàn cảnh hai vợ chồng không sống

chung. Người trực tiếp nuôi con phải tạo điều kiện cho người không trực tiếp

nuôi con thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với con. Bên cạnh đó, khi ly

hôn người vợ thường phải gánh vác trách nhiệm nuôi con, do vậy Tòa án đã

chú trọng nguyên tắc bình đẳng trong phân chia tài sản chung để đảm bảo tính

công bằng và lợi ích của vợ, chồng nhưng cũng cần xem xét đến công sức

đóng góp, sử dụng, duy trì tài sản của mỗi bên, đồng thời cũng phải xem xét

đến điều kiện về nơi ở, nơi sinh hoạt, nghề nghiệp, thu nhập của vợ, tình trạng

tài sản để đưa ra quyết định phù hợp nhằm bảo đảm quyền lợi của mẹ và con

sau ly hôn.

67

Trong thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng đều có quyền bình đẳng trong việc

tạo lập, chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung. Pháp luật không phân

biệt chức năng kinh tế do chồng hay vợ thực hiện mà đó là trách nhiệm chung

của hai vợ chồng, kể cả trường hợp người vợ không có thu nhập chỉ ở nhà

nuôi con và làm công việc nội trợ thì tài sản do chồng tạo ra cũng được coi là

tài sản chung vợ, chồng; mặt khác, nếu một hoặc cả hai bên có tài sản riêng

do được tặng cho riêng, được thừa kế riêng… nhưng đã tự nguyện đồng ý

nhập vào khối tài sản chung thì cũng được coi là tài sản chung. Tóm lại, trong

trường hợp vì lý do giới tính, sức khỏe, nghề nghiệp, mức thu nhập mà công

sức đóng góp của vợ hoặc chồng ít hơn thì cũng không làm giảm hoặc mất

quyền sở hữu của họ đối với tài sản chung; bởi lao động trong gia đình (như

nội trợ, chăm sóc con cái, vợ chồng…) vẫn được tính ngang với lao động tạo

ra của cải, vật chất. Vì vậy, khi giải quyết ly hôn, Tòa án phải đảm bảo tính

công bằng khi chia tài sản chung cho các bên, nếu việc tự thỏa thuận không

có kết quả thì Tòa án quyết định căn cứ vào tính chất tài sản và công sức đóng

góp của mỗi bên nhằm đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp về tài sản đối với họ.

Chính vì vậy, khi giải quyết ly hôn nếu các bên không thỏa thuận được việc

chia tài sản thì Tòa án quyết định dựa trên nguyên tắc khách quan, công bằng

để bảo đảm quyền lợi cho đương sự hoặc kể cả trường hợp thông qua hòa giải thì

Tòa án cũng phân tích, giải thích nhằm hướng đến cho đương sự có quan điểm

phân chia tài sản phù hợp trên cơ sở tính lợi ích và bình đẳng của các bên.

- Ví dụ đối với vụ án ly hôn có tranh chấp về quyền nuôi con:

Vụ án dân sự thụ lý số: 28/2018/TLST-HNGĐ ngày 10/12/2018 về việc

ly hôn theo đơn khởi kiện của nguyên đơn: anh Phạm Như Ngọc Th, sinh năm

1993; địa chỉ: xã Q, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Bị đơn: chị Hoàng Thị Thúy

V, sinh năm 1994, nơi đăng ký hộ khẩu: Thôn T, xã Q, thành phố Đồng Hới,

tỉnh Quảng Bình; Hiện là Thực tập sinh tại Nghiệp đoàn KOEKI, Tokyoto,

68

Nhật Bản. Theo đơn khởi kiện và bản tự khai anh Phạm Như Ngọc Th: Anh

và chị Hoàng Thị Thúy V có quá trình tìm hiểu đã có con chung khi chưa đủ

tuổi đăng ký kết hôn. Ngày 01/10/2012 anh và chị Hoàng Thị Thúy V tự

nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, thành phố Đồng Hới, tỉnh

Quảng Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc, anh đi đánh cá còn

chị V ở nhà nội trợ và nuôi con. Năm 2014, vợ chồng bàn bạc để anh xuất

khẩu lao động tại Anh, nhưng do công việc làm ăn ở Anh Quốc không thuận

lợi nên anh trở về Việt Nam và cùng bố mẹ anh làm ăn để trả nợ. Trong thời

gian anh ở Anh Quốc thì vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do

vợ chồng thiếu tin tưởng nhau về tình cảm lẫn kinh tế. Năm 2015 chị V bỏ về

nhà bố mẹ đẻ và làm thủ tục đi xuất khẩu lao động nước ngoài (thực tập sinh

tại Nhật Bản), từ đó đến nay vợ chồng không hề liên lạc gì với nhau. Hiện tại

tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng sống ly thân nhau đã lâu nên yêu cầu

Tòa án giải quyết cho ly hôn chị V.

Về con chung: Anh Phạm Như Ngọc Th trình bày vợ chồng có 01 con

chung, Phạm Thị Thanh Nh, sinh ngày 23/9/2011, đang sống với anh và ông

bà nội. Sau khi ly hôn, anh Th có nguyện vọng trực tiếp nuôi con, không yêu

cầu chị V cấp dưỡng nuôi con, anh đủ điều kiện để đảm bảo về mọi mặt cho

con, thu nhập của anh mỗi tháng 10 triệu đồng.

Về tài sản chung: Anh Th trình bày không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với chị Hoàng Thị Thúy V, sau khi thụ lý vụ án, TAND tỉnh Quảng

Bình đã tiến hành các phương thức tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của

Tòa án theo quy định của pháp luật theo địa chỉ anh Th cung cấp nhưng

không thực hiện tống đạt được. Tòa án đã yêu cầu anh Th cung cấp địa chỉ

mới của chị V. Tại biên bản lấy lời khai ngày 10/6/2019 anh Th trình bày: Từ

trước khi làm đơn ly hôn anh không liên lạc được với chị Hoàng Thị Thúy V,

ngoài địa chỉ ghi trong hợp đồng thực tập kỹ năng mà chị V sang làm việc tại

69

Nhật Bản, hiện tại anh không biết địa chỉ cụ thể của chị V tại Nhật Bản, anh

đề nghị Tòa án xem xét giải quyết. Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản đã

niêm yết văn bản tố tụng mà Tòa án đề nghị tống đạt tại trụ sở Đại sứ quán

Việt Nam. Tòa án cũng tiến hành đăng tin thông báo cho chị Hoàng Thị Thúy

V trên kênh đối ngoại VOV5 Đài Tiếng nói Việt Nam nhưng không nhận

được lời khai, tài liệu, chứng cứ gì của chị V. Tòa án xác minh tại gia đình bố

mẹ chị Hoàng Thị Thúy V ở thôn H, xã B, thành phố Đ, tại biên bản ngày

23/8/2019 và tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị H là mẹ đẻ của chị Hoàng Thị

Thúy V trình bày: anh Phạm Như Ngọc Th và chị Hoàng Thị Thúy V kết hôn

với nhau vào ngày 01/10/2012 tại Ủy ban nhân dân xã Q, gia đình hai bên đã

tổ chức lễ cưới. Sau khi kết hôn vợ chồng sống với bố mẹ anh Th tại xã Q,

đến năm 2015 thì chị V về nhà bà ở một thời gian thì làm thủ tục đi lao động

tại Nhật Bản, trong quá trình chị V ở Nhật Bản đến nay bà và chị V thường

xuyên liên lạc với nhau bằng điện thoại nhưng chị V không cho biết địa chỉ cụ

thể tại Nhật Bản. Chị V nói với gia đình biết về việc anh Th làm đơn yêu cầu

Tòa án giải quyết ly hôn, chị V nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn cũng

muốn được ly hôn. Anh Th và chị V có một con chung là Phạm Thị Thanh

Nh, sinh ngày 23/9/2011, đang sống với anh Th và ông bà nội. Chị V có

nguyện vọng muốn nuôi con nên chị V có nói chờ chị về nước đã mới giải

quyết ly hôn với anh Th. Tại phiên tòa chị V không có mặt, không có đơn đề

nghị xét xử vắng mặt.

Cháu Phạm Thị Thanh Nh có nguyện vọng được ở với bố và ông bà nội

có xác nhận của cô giáo chủ nhiệm và Trường Tiểu học Q.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình phát biểu ý kiến: Quá

trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và

người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét

xử nghị án đã thực hiện đúng quy định của BLTTDS.

70

Về con chung: Giao cháu Phạm Thị Thanh Nh, sinh ngày 23/9/2011,

cho anh Phạm Như Ngọc Th trực tiếp nuôi dưỡng, anh Thành không yêu cầu

cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét. Về tài sản chung: Không yêu cầu giải

quyết nên không xem xét.

Hội đồng xét xử nhận định: Đây là vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài

thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND tỉnh Quảng Bình. Sau khi thụ lý vụ

án, TAND tỉnh Quảng Bình đã tiến hành các phương thức tống đạt, thông báo

văn bản tố tụng của Tòa án theo quy định của pháp luật đối với bị đơn chị

Hoàng Thị Thúy V nhưng không có kết quả, Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật

bản cũng đã niêm yết văn bản tố tụng (Đơn khởi kiện xin ly hôn, Thông báo

thụ lý vụ án, Thông báo cung cấp các tài liệu...). Tòa án thực hiện việc niêm

yết tại trụ sở TAND tỉnh Quảng Bình và tại xã B, xã Q và giao văn bản tố

tụng của Tòa án cho bà H (mẹ đẻ chị V) để thông báo cho chị V có mặt tại

Tòa án theo quy định. Tại phiên tòa lần thứ hai chị V vắng mặt nên Tòa án

giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng

không rõ địa chỉ để xét xử theo thủ tục chung.

Từ các căn cứ pháp lý trên TAND tỉnh Quảng Bình đã áp dụng các quy

định của pháp luật tuyên xử cho anh Phạm Như Ngọc Th được ly hôn chị

Hoàng Thị Thúy V. Về quan hệ con chung: Xử giao cháu Phạm Thị Thanh

Nh cho anh Phạm Như Ngọc Th trực tiếp nuôi dưỡng, chị Hoàng Thị Thúy V

không phải cấp dưỡng nuôi con hàng tháng. Không ai được quyền cản trở

người không trực tiếp nuôi con thực hiện quyền thăm nom và chăm sóc con

chung. Trong trường hợp vì quyền lợi chính đáng của con chưa thành niên,

các đương sự đều có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi

dưỡng hoặc mức cấp dưỡng nuôi con chung. Án xử sơ thẩm công khai, anh

Phạm Như Ngọc Th có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên

án; Chị Hoàng Thị Thúy V có quyền kháng cáo trong thời hạn 01 tháng kể từ

71

ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp

lệ theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử, vụ án được sự đồng thuận của hai bên nguyên đơn và bị

đơn không bị kháng cáo, kháng nghị, khiếu nại.

Thứ tám là, bảo đảm quyền được cấp trích lục bản án; quyền kháng

cáo bản án; quyền khiếu nại, tố cáo đối với hoạt động xét xử.

Trong những năm qua, TAND tỉnh Quảng Bình đã tăng cường triển

khai ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý theo chủ trương

của hệ thống Tòa án. Bắt đầu từ năm 2014 đơn vị tiến hành thực hiện số hóa

các bản án bằng cách scan toàn bộ hồ sơ các loại án từ năm 1989 đến nay lưu

vào phần mềm quản lý hồ sơ vụ án, đồng thời trên Cổng thông tin điển tử Tòa

án tích hợp phần mềm đăng ký trích lục bản án, quyết định có hiệu lực pháp

luật giúp thuận tiện trong công tác lưu trữ, khai thác, tra cứu và cấp trích sao

bản án cho các cơ quan, tổ chức và công dân. Đây là một trong những bước

tiến mới, có hiệu quả thiết thực của hệ thống Tòa án trong giai đoạn hệ thống

Tòa án đang thực hiện cải cách tư pháp, tiến tới triển khai mô hình Tòa án

điện tử.

Mặt khác, sau khi kết thúc việc xét xử, trong thời hạn luật định, TAND

tỉnh Quảng Bình đã thực hiện việc cấp hoặc gửi bản án cho Viện kiểm sát

nhân dân tỉnh, cho các đương sự hoặc chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát

khi có văn bản đề nghị theo quy định để những người đó có thể thực hiện

quyền kháng cáo, kháng nghị của mình theo quy định của pháp luật.

Đó là những minh chứng cụ thể về bảo vệ quyền con người (quyền của

đương sự) trong quá trình xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại

Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.

72

2.2.3. Đánh giá chung kết quả bảo vệ quyền con người trong xét xử các

vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

2.2.3.1. Những kết quả đạt được trong bảo vệ quyền con người trong

xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình

Trong năm qua, mặc dù yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đối với TAND tỉnh

Quảng Bình là rất nặng nề cùng với ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19,

nhưng được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên, sâu sát của TAND tối cao,

của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh; sự quan tâm phối hợp, giúp đỡ của Ủy

ban nhân dân tỉnh, của các Ban ngành và chính quyền địa phương, đặc biệt là

sự cố gắng, nỗ lực của đội Thẩm phán, Thư ký TAND tỉnh Quảng Bình cùng

với việc đề ra nhiều giải pháp đột phá, hiệu quả, sát với thực tế, nên hoạt động

xét xử nói chung và xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng tại

TAND tỉnh Quảng Bình tiếp tục có những chuyển biến tích cực.

Công tác xét xử có những tiến bộ cả về tiến độ cũng như chất lượng và

luôn bảo đảm đúng quy định của pháp luật tố tụng. TAND tỉnh Quảng Bình

đã áp dụng đúng các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích

chính đáng của Nhà nước, tập thể và công dân, bảo đảm về đường lối cũng

như thời hạn xét xử cũng như bảo đảm quyền và lợi ích cho đương sự. Ngoài

việc tuân thủ chặt chẽ pháp luật tố tụng, đảm bảo cho đương sự được thực

hiện đầy đủ quyền lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật, TAND tỉnh

đã áp dụng pháp luật về nội dung một cách khách quan, công bằng, có căn cứ

nên đã đảm bảo cho đương sự được thực hiện các quyền con người trong hôn

nhân gia đình gắn liền nhân thân như: quyền ly hôn, quyền được nuôi con,

được chia tài sản chung…

Các Thẩm phán xét xử cũng đã làm tốt việc hướng dẫn các đương sự

thực hiện đúng nghĩa vụ về cung cấp chứng cứ, tài liệu của vụ việc; chủ động

xác minh, thu thập chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng, thực hiện UTTP

73

theo quy định của pháp luật; tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan

nhằm giải quyết tốt các vụ án; hạn chế tối đa việc tạm đình chỉ nhiều lần đối

với một vụ án, tạm đình chỉ giải quyết vụ án không có căn cứ. Một số vụ án ly

hôn có tính chất phức tạp, các Thẩm phán tập trung giải quyết nhanh chóng,

góp phần vừa tháo gỡ vướng mắc trong việc để án tồn đọng, kéo dài vừa bảo

vệ được quyền được ly hôn của nguyên đơn, bảo vệ quyền con người, quyền

công dân.

2.2.3.2. Những hạn chế, tồn tại trong bảo vệ quyền con người trong xét

xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình

Trong những năm qua mặc dù TAND tỉnh Quảng Bình đã đạt được

nhiều kết quả đáng ghi nhận về bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét

xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, tuy nhiên trong quá trình xét xử

TAND tỉnh Quảng Bình vẫn còn gặp phải một số hạn chế tồn tại ảnh hưởng

đến việc bảo vệ quyền của đương sự đó là:

- Về quyền khởi kiện lại vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài trong trường

hợp TAND tỉnh bác đơn khởi kiện: Theo quy định tại điểm b, khoản 3, Điều

192 BLTTDS 2015 quy định về việc đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện lại

trong trường hợp: “Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức

cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản,

thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản,

đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho

mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy

định của pháp luật được quyền khởi kiện lại”. Tuy nhiên LHNGĐ năm 2014

chưa có quy định về thời gian khởi kiện lại trong trường hợp Tòa án bác đơn

yêu cầu ly hôn, do đó phần nào đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nguyên

đơn khi muốn nộp lại đơn khởi kiện ly hôn.

74

- Về căn cứ cho ly hôn: Căn cứ ly hôn là cơ sở pháp lý và chỉ khi có

các điều kiện đó thì Tòa án mới có thể giải quyết cho ly hôn. Ngoài những

căn cứ được quy định tại Điều 56 LHNGĐ năm 2014, trên thực tế có nhiều

trường hợp vợ hoặc chồng xin ly hôn với chồng hoặc vợ đang chấp hành án

phạt tù giam với thời hạn dài, đây cũng là cơ sở để Tòa xem xét. Tuy nhiên

LHNGĐ năm 2014 chưa quy định căn cứ cho ly hôn trong trường hợp này,

điều này đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người đề nghị giải

quyết cho ly hôn.

- Về quyền và nghĩa vụ với con khi ly hôn: Khoản 2, Điều 81 của

LHNGĐ năm 2014 quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo

dục con sau khi ly hôn. Cụ thể:

“Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền

của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được

thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền

lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện

vọng của con”. Quy định này nhằm lấy ý kiến của con để Tòa án có cơ sở

quyết định việc nuôi dưỡng giao cho người mẹ hay người cha theo nguyện

vọng của con. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện thủ tục này gặp nhiều

khó khăn khi trẻ em 07 tuổi chưa hoàn thiện về nhân cách, tâm lý, trẻ chưa

nhận thức được việc ở với cha hay với mẹ thì đảm bảo điều kiện, quyền lợi,

do đó không xác định được nguyện vọng của mình. Đây là quy định hợp tình,

hợp lý nhưng cần có sự thay đổi trong quy định của Luật về độ tuổi.

- Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Điều 115 LHNGĐ năm 2014 “Khi ly hôn nếu

bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì

bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình”. Quy định này rất

khó áp dụng trong thực tiễn vì chưa phù hợp với mối quan hệ của những

người đã ly hôn.

75

Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường hợp do có điều kiện kinh tế nên

người trực tiếp nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng và Tòa án công nhận.

Nhưng quyền nhận cấp dưỡng là quyền của người con khi cha mẹ ly hôn nên

người trực tiếp nuôi dưỡng không có quyền từ chối cấp dưỡng. Việc từ chối

cấp dưỡng sẽ dẫn tới quyền, lợi ích chính đáng của người con không được

đảm bảo. Tuy nhiên LHNGĐ năm 2014 không quy định vấn đề này.

- Về vấn đề địa chỉ của bị đơn: Có nhiều trường hợp nguyên đơn nộp

đơn xin ly hôn đến Tòa án, Bị đơn là người Việt Nam được xác định đã xuất

cảnh ra nước ngoài nhưng không có địa chỉ cụ thể, Tòa án đã yêu cầu thân

nhân của Bị đơn cung cấp địa chỉ nhưng không được vì nhiều lý do khách

quan như: gia đình cố tình không hợp tác, do Bị đơn xuất cảnh hợp pháp sau

đó bỏ trốn sang nước khác hoặc dấu địa chỉ để ở lại làm ăn... Những trường

hợp này theo Hướng dẫn tại Điều 6, Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày

05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao thì được coi là cố tình dấu

địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ chung mà không đình chỉ vụ án.

Tuy nhiên việc giải quyết theo thủ tục chung ở Phần thứ 8 của BLTTDS thì

thời hạn chuẩn bị xét xử từ 9 tháng đến 12 tháng; hay Phần thứ 2 của

BLTTDS với thời hạn xét xử từ 4 đến 6 tháng. Do đó làm ảnh hưởng đến

quyền của nguyên đơn trong quá trình giải quyết các vụ án ly hôn có yếu tố

nước ngoài.

Có trường hợp nguyên đơn là người trong nước có đơn gửi đến TAND

tỉnh yêu cầu được ly hôn với bị đơn đang sinh sống tại nước ngoài vì đã lâu

không còn liên lạc, không quan tâm và không còn tình cảm với nhau. Trong

đơn xin ly hôn, nguyên đơn đã cung cấp địa chỉ của bị đơn tại nước ngoài.

Tòa án đã yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tại nước ngoài theo đường ngoại

giao gửi văn bản đến địa chỉ của đương sự đang cư trú nhưng bị đơn không

hợp tác. Xác minh tại địa chỉ người thân trong nước của bị đơn thì họ cho

76

rằng bị đơn vẫn sống và làm việc ở nước ngoài và vẫn liên lạc thường xuyên

với người thân thích trong nước. Tòa án cũng đã nhờ người thân của bị đơn

liên hệ và yêu cầu về nước để giải quyết việc nguyên đơn yêu cầu ly hôn họ

nhưng bị đơn không về nước cũng không có thông tin phản hồi về việc

nguyên đơn có yêu cầu ly hôn. Đây là tình huống này gây khó khăn cho Tòa

án khi thụ lý giải quyết vụ án. Tòa án không thể tuyên bố tuyên bố mất tích vì

theo người thân thích của bị đơn cung cấp là họ vẫn liên lạc được với bị đơn,

đã thông báo với bị đơn theo yêu cầu của Tòa án. Tuy nhiên, nếu Tòa đình chỉ

việc giải quyết vụ án thì nguyên đơn là công dân trong nước bị bỏ lửng không

ly hôn được và như vậy là không đảm bảo quyền lợi của đương sự, vi phạm

LHNGĐ về quyền được kết hôn và ly hôn của đương sự. Do đó, Tòa án

không thể đình chỉ việc giải quyết vụ án.

- Về việc xét xử vắng mặt bị đơn: Tại điểm c khoản 6 Điều 477

BLTTDS quy định: “Trường hợp nguyên đơn là công dân Việt Nam yêu cầu

ly hôn với người nước ngoài đang cư trú ở nước ngoài mà không thể thực

hiện việc cung cấp đúng họ, tên, địa chỉ hoặc địa chỉ mới của người nước

ngoài theo yêu cầu của Tòa án mặc dù nguyên đơn, thân nhân của họ hoặc cơ

quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc của nước ngoài đã tiến hành xác

minh tin tức, địa chỉ của người nước ngoài đó nhưng không có kết quả thì

nguyên đơn yêu cầu Tòa án thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án

(nếu có), Cổng thông tin điện tử của cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; trường hợp cần thiết, theo yêu cầu của

nguyên đơn, Tòa án có thể thông báo qua kênh dành cho người nước ngoài

của Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của trung ương ba lần trong 03 ngày

liên tiếp. Trong trường hợp này, Tòa án không phải tống đạt lại văn bản tố

tụng cho đương sự ở nước ngoài. Hết thời hạn 01 tháng, kể từ ngày đăng

thông báo, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đương sự”.

77

Xét tình hình thực tiễn, đương sự trong nước bị bỏ lửng nhiều năm, hai

bên không còn quan tâm đến nhau, mục đích của hôn nhân không đạt được…

bị đơn cố tình giấu địa chỉ, theo Luật HNGĐ và căn cứ điểm b,c khoản 5 hoặc

điểm b khoản 6 Điều 477 BLTTDS 2015 thì Tòa án có thể xử vắng mặt

đương sự. Tuy nhiên căn cứ để xử vắng mặt và căn cứ để đình chỉ vụ án là

tương đối giống nhau. Do đó, trên thực tiễn đây là vấn đề gây lúng túng,

vướng mắc đối với các Thẩm phán trong quá trình giải quyết.

- Về vấn đề thực hiện UTTP: Hiện nay trong thực hiện việc UTTP về

khung pháp lý đã được quy định trong BLTTDS, BLDS, Luật tương trợ tư

pháp và các HĐTTTP và nhiều văn bản hưởng dẫn thi hành, đặc biệt là từ khi

Thông tư liên tịch số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC có hiệu lực thì

nhiều vấn đề trong UTTP trước đây vướng mắc nay đã được tháo gỡ. Tuy

nhiên trong giải quyết các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài của TAND tỉnh

Quảng Bình trong thời gian qua cho thấy quá trình giải quyết Tòa án vẫn gặp

phải những khó khăn như Thẩm phán không cập nhật kịp thời danh sách các

quốc gia, vùng lãnh thổ mà Việt Nam có ký HĐTTTP; sự phối hợp giữa Tòa

án với các cơ quan liên quan như Bộ tư pháp, Bộ ngoại giao trong thực hiện

UTTP chưa được đồng bộ nên hồ sơ ủy thác còn chậm dẫn đến giải quyết vụ

án bị kéo dài, gây ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của đương sự, ảnh hưởng

đến công tác xét xử của Tòa án. Một số trường hợp đương sự ở nước ngoài

không có thân nhân trong nước, nhưng pháp luật lại quy định việc UTTP bắt

buộc phải thông qua con đường ngoại giao, Tòa án không được trực tiếp gửi

quyết định thu thập chứng cứ cho đương sự nên đây cũng là hạn chế dẫn đến

tình trạng các vụ án bị tồn đọng kéo dài.

Trường hợp vụ việc dân sự không thể thực hiện được việc ủy thác do

Việt Nam và nước ngoài chưa có ĐƯQT hoặc không áp dụng được nguyên

tắc có đi có lại, thì Tòa án đã thụ lý vụ việc tiến hành thủ tục niêm yết công

78

khai hồ sơ UTTP tại trụ sở Tòa án, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc

nơi cư trú cuối cùng của đương sự được ủy thác (nếu có) trong thời hạn sáu

tháng và đăng báo hàng ngày của trung ương trong ba số liên tiếp. Nếu hết

thời hạn này mà không có tin tức của đương sự ở nước ngoài thì Tòa án tiếp

tục giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục chung.

Việc quy định như vậy là không hợp lý bởi một lần ủy thác như trên

phải mất thời gian tối thiểu là sáu tháng, nhưng không phải để giải quyết một

vụ án Tòa án chỉ ủy thác một lần là xong mà Tòa án phải thực hiện nhiều lần

ủy thác như trước khi đưa vụ án ra xét xử đối với đương sự ở nước ngoài Tòa

án ủy thác hai lần về việc tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, lấy lời khai của

đương sự, xác minh, thu thập chứng cứ không có kết quả thì Tòa án mới đưa

vụ án ra xét xử được, sau khi xét xử Tòa án lại phải thực hiện ủy thác tống đạt

kết quả phiên tòa như bản án, quyết định đình chỉ, hay thông báo kháng cáo.

Vậy tính tổng thời gian để kết thúc một vụ án cho dù chỉ là một vụ án đơn

giản có khi cũng mất vài năm. Thực tế giải quyết các vụ án ly hôn có yếu tố

nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình cũng như ở một số địa phương khác

trong nước trong thời gian qua cho thấy việc UTTP thu thập chứng cứ ở nước

ngoài thường đạt kết quả rất hạn chế, thậm chí nhiều trường hợp không có kết

quả hoặc có kết quả nhưng thường rất chậm, có khi một năm thậm chí vài

năm sau khi ủy thác Tòa án mới nhận được kết quả.

- Về công tác kiểm tra án: Mặc dù hàng năm TAND tỉnh Quảng Bình

đều thực hiện công tác kiểm tra nghiệp vụ thường xuyên đối với hoạt động xét

xử nói chung và đối với hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước

ngoài nói riêng. Tuy nhiên, từ trước đến nay TAND tối cao chưa có cuộc

thanh tra, kiểm tra chuyên đề nào về vấn đề bảo đảm quyền con người trong

hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng

Bình. Mà vấn đề trên được giao cho Phòng kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án

79

thực hiện kiểm tra hàng ngày khi bản án được ban hành nên vấn đề bảo đảm

quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước

ngoài chưa được quan tâm đúng mức và chưa phát hiện và rút kinh nghiệm

đối với những sai phạm điển hình trong quá trình xét xử các vụ án ly hôn có

yếu tố nước ngoài.

2.2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong bảo vệ quyền

con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh

Quảng Bình

Nguyên nhân khách quan:

Một là, do hệ thống pháp luật về tố tụng dân sự và pháp luật về hôn

nhân và gia đình chưa hoàn thiện, chậm sửa đổi bổ sung để đáp ứng kịp thời

yêu cầu nhiệm vụ trong gia đoạn cải cách tư pháp. Những văn bản pháp luật

mới được ban hành đã khắc phục được những thiếu sót của văn bản pháp luật

cũ, đáp ứng tốt những yêu cầu áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp

khi ly hôn. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có sự chồng chéo, chưa quy định đầy

đủ và chi tiết đối với trường hợp xét xử ly hôn có yếu tố nước ngoài, mặc dù

có nhiều văn bản hướng dẫn nhưng còn thiếu thống nhất. Mặt khác, các văn

bản hướng dẫn dưới luật như các Thông tư, Công văn hướng dẫn của TAND

tối cao lại thường xuyên có sự sửa đổi, bổ sung, thay thế. Một số vướng mắc

trong việc áp dụng các quy định của pháp luật, đặc biệt là các văn bản quy

phạm pháp luật mới liên quan tới hoạt động của hệ thống TAND chưa được

hướng dẫn áp dụng pháp luật kịp thời, đầy đủ làm ảnh hưởng nhất định tới

chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống Tòa án cũng như ảnh hưởng đến

quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước

ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình.

Hai là, do số lượng án tranh chấp dân sự, án hôn nhân và gia đình trong

những năm trở lại đây tăng mạnh trong khi biên chế Thẩm phán, Thư ký Tòa

80

án không tăng mà còn phải giảm theo Nghị quyết về tin giản biên chế của

Đảng. Điều này tạo áp lực lớn về tiến độ công việc đối với các Thẩm phán khi

phải vừa giải quyết án ly hôn trong nước vừa giải quyết án ly hôn có yếu tố

nước ngoài, nhất là vào thời điểm chuẩn bị kết thúc số liệu năm công tác. Do

yêu cầu phải giải quyết nhanh, giải quyết sớm để đạt chỉ tiêu đề ra từ đầu năm

đã khiến Thẩm phán phán quyết các vụ án ly hôn khi chưa đủ chứng cứ hoặc

chứng cứ pháp lý chưa chắc chắn, thiếu tính thuyết phục phần nào làm hạn

chế quyền của đương sự trong quá trình tham gia tố tụng.

Ba là, do trình độ nhận thức của đương sự không đồng đều và hiểu biết

pháp luật của người dân còn hạn chế. Thực tế cho thấy khi Tòa án thụ lý để

giải quyết các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, nhiều đương sự và người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của

mình theo luật định, không phối hợp, gây khó khăn, đối phó, cản trở cho việc

giải quyết vụ án như: Không cung cấp tài liệu, chứng cứ, vắng mặt không có

lý do hoặc cố tình dấu địa chỉ…. Chính từ việc không am hiểu các quy định

pháp luật về Tố tụng dân sự, pháp luật về hôn nhân và gia đình dẫn đến công

dân không thể tự mình bảo vệ quyền của mình cũng như yêu cầu Tòa án và

các cơ quan khác bảo vệ quyền con người, quyền công dân của mình khi tham

gia vào hoạt động xét xử của Tòa án.

Bốn là, hiện nay chất lượng đội ngũ luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp

pháp của đương sự chưa thật sự lấy pháp luật làm thước đo, làm chuẩn mực

để thực hiện nhiệm vụ của mình mà thường có tư tưởng thiên vị người mình

đứng ra bảo vệ, cố tình đưa ra những lập luận trái luật, thiếu khách quan. Ví

dụ: Trong vụ án lý hôn có yếu tố nước ngoài có tranh chấp về quyền nuôi con,

bị đơn mời luật sư bảo vệ quyền lợi để được quyền nuôi con, trong khi điều

kiện về chổ ở và thu nhập và các điều kiện khác của bị đơn ở nước ngoài

không đảm bảo để giao quyền nuôi con. Thế nhưng Luật sư vẫn khăng khăng

81

bảo vệ thân chủ đề nghị Tòa quyết định giao con cho bị đơn mặc dù không có

căn cứ chứng minh quan điểm đề nghị của mình, hậu quả là nếu thực sự

đương sự thiếu hiểu biết pháp luật sẽ có tư tưởng mất niềm tin vào pháp luật,

đây cũng là nguyên nhân làm hạn chế quyền tranh tụng của đương sự trong

quá trình giải quyết vụ án vì tư tưởng phụ thuộc, giao cả cho Luật sư.

Năm là, hạn chế về chế độ chính sách đối với đội ngũ Thẩm phán, Thư

ký: do tính chất đặc thù công việc nên Thẩm phán, Thư ký chịu rất nhiều áp

lực từ nhiều phía dư luận, đương sự, người dân, cơ quan tổ chức…bởi lẽ phán

quyết của Tòa án tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,

tuy nhiên, chế độ chính sách về thu nhập đối với Thẩm phán, Thư ký còn rất

thấp chưa thực sự tương xứng với tính chất công việc. Điều kiện, phương tiện

làm việc, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác xét xử còn hạn chế,

chưa đáp ứng được yêu cầu công tác trong giai đoạn hiện nay. Công tác chỉ

đạo thực hiện việc bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án

ly hôn có yếu tố nước ngoài chưa được quan tâm đúng mức.

Nguyên nhân chủ quan:

Do cơ cấu bộ máy chưa hợp lý: theo quy định của Luật tổ chức TAND

năm 2014 thì TAND cấp tỉnh có Tòa Gia đình và người chưa thành niên, tuy

nhiên hiện nay TAND tối cao chưa có quyết định thành lập Tòa Gia đình và

người chưa thành niên tại TAND tỉnh Quảng Bình nên các Thẩm phán của

các Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Hành chính phải cùng lúc giải quyết chung

các loại vụ án do đó đã tạo nên sự căng thẳng, áp lực và nỗi lo lắng rất lớn,

không khai thác được tính chuyên sâu từng lĩnh vực cụ thể. Đây cũng là một

trong những nguyên nhân cơ bản làm ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết án

đồng nghĩa với việc hạn chế vấn đề bảo vệ quyền con người trong xét xử các

vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình.

82

Một số Thẩm phán và Hội đồng xét xử xem xét, đánh giá chứng cứ

chưa đầy đủ, toàn diện; công tác phối hợp của một số đơn vị liên quan còn

chưa đồng bộ. Nhiều vụ án ly hôn có tính chất phức tạp cả về nội dung lẫn

hình thức tố tụng, trong khi quy định của pháp luật chưa đầy đủ, rõ ràng, chưa

có văn bản hướng dẫn áp dụng, còn nhiều quan điểm khác nhau về hướng giải

quyết. Một số vụ án có tính chất phức tạp, người tham gia tố tụng đông và lại

cư trú nhiều địa phương khác nhau ở trong và ngoài nước, dẫn đến việc thu

thập chứng cứ, xác minh để giải quyết vụ án mất rất nhiều thời gian.

Có trường hợp đương sự cung cấp địa chỉ của đương sự ở nước ngoài

không chính xác hay trường hợp bên nước ngoài thay đổi địa chỉ dẫn đến việc

uỷ thác gặp khó khăn hoặc cố tình né tránh, không hợp tác, không thực hiện

nghĩa vụ cung cấp chứng cứ; không cung cấp địa chỉ mới của người có quyền lợi

nghĩa vụ liên quan; không có mặt khi đo đạc, định giá đất để phân chia tài sản.

Công tác giải quyết, xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài rất

phức tạp về thủ tục tố tụng, nhưng ít được quan tâm hướng dẫn, giải đáp, rút

kinh nghiệm trong toàn hệ thống Tòa án. Việc thanh tra, kiểm tra của TAND

tối cao diễn ra hàng năm nhưng kiểm tra rất nhiều loại án khác nhau và với

thời gian ngắn là rất khó để phát hiện những thiếu sót, sai phạm trong quá

trình giải quyết, xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.

Việc ký kết các HĐTTTP, ĐƯQT đa phương hay song phương của

nước ta cũng đã được chú trọng nhưng vẫn còn ở mức hạn chế. Một số cơ

quan, tổ chức có nhiệm vụ phối hợp với Tòa án trong việc cung cấp tài liệu,

giám định chứng cứ, UTTP cho đương sự vẫn còn nặng tư tưởng và nề nếp

hành chính cũ, còn hành dân, quan liêu, thờ ơ, chưa đổi mới cải cách thủ tục

hành chính nên đã gây không ít phiền hà cho nhân dân, buộc họ phải lo lắng,

đi lại nhiều lần và họ đặt sự nghi ngờ vào ý thức trách nhiệm công vụ của bộ

máy nhà nước. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền pháp luật về hôn nhân gia

83

đình đặc biệt là hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài chưa được chú trọng

nên trình độ am hiểu pháp luật của đương sự còn rất hạn chế.

Tiểu kết chương 2

Trên cơ sở việc nghiên cứu thực trạng bảo vệ quyền con người trong

xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình. Tác

giả đã khái quát về tổ chức và hoạt động của TAND tỉnh Quảng Bình; tình

trạng kết hôn có yếu tố nước ngoài; kết quả xét xử các loại án nói chung, án ly

hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng; tình hình bảo vệ quyền con người và kết

quả việc bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước

ngoài tại TAND tỉnh. Đồng thời, phân tích, đánh giá những kết quả đạt được,

những ưu điểm, hạn chế về bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly

hôn có yếu tố nước ngoài ở các khía cạnh như công tác chỉ đạo, công tác triển

khai thực hiện và công tác kiểm tra thực hiện.

Tác giả đã phân tích các số liệu thống kê và những bản án cụ thể từ

thực tiễn xét xử để dẫn chứng những kết quả mà TAND tỉnh Quảng Bình đã

thực hiện được về bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có

yếu tố nước ngoài, từ đó đưa ra những đánh giá về nguyên nhân tích cực và

hạn chế trong công tác xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài. Đồng

thời, tác giả cũng đưa ra những nguyên nhân hạn chế của TAND tỉnh Quảng

Bình về bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước

ngoài, từ đó phân tích các nguyên nhân tích cực và những hạn chế trên từ đó

làm cơ sở để đưa ra giải pháp bảo đảm bảo vệ quyền con người trong xét xử

các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại các Tòa án nói chung và TAND tỉnh

Quảng Bình nói riêng.

84

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO VỆ

QUYỀN CON NGƯỜI TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN LY HÔN

CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

3.1. Quan điểm bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly

hôn có yếu tố nước ngoài

Bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước

ngoài hiện nay phải đáp ứng những yêu cầu sau:

3.1.1. Yêu cầu bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng

Sự lãnh đạo của Đảng đối với các mặt công tác Tòa án nói chung và

bảo đảm quyền con người đối với hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố

nước ngoài nói riêng là toàn diện và tuyệt đối. Tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác bảo đảm bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ

án ly hôn có yếu tố nước ngoài không có nghĩa là tổ chức đảng và đảng viên

can thiệp vào các hoạt động xét xử của Tòa án hoặc áp đặt ý chí chủ quan của

Đảng để quyết định thay đường lối giải quyết các vụ án nói chung hay các vụ

án ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng mà sự lãnh đạo của Đảng được thực

hiện bằng việc đề ra yêu cầu phải xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật, khách

quan, công bằng, bằng việc đề ra phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động

của TAND bằng việc đưa ra các giải pháp phù hợp để tăng cường công tác

giáo dục chính trị tư tưởng nhằm chấn chỉnh đội ngũ cán bộ, công chức tạo

bảo đảm cao nhất quyền con người trong hoạt động xét xử.

Quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND trong

thời kỳ đổi mới được thể hiện trong các văn kiện từ Đại hội VII đến Đại hội

X, và các văn kiện khác như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 và Nghị quyết

Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương khoá VII; Nghị quyết

85

08/NQ-TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng

tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày

02/06/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020;

Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 07/7/2007 của Bộ Chính trị về sự lãnh đạo của

Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các

vụ án và công tác bảo vệ Đảng; Chỉ thị số 26-CT/TW ngày 09/11/2018 của

Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ

pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc; Công văn số 179-

CV/TW ngày 08/01/2014 của Thường trực Ban Bí thư về đổi mới phương

thức lãnh đạo của Đảng, Chánh án TAND các cấp tham gia cấp ủy, đây là một

chủ trương lớn và đúng đắn thể hiện sự quan tâm của Đảng đối với hệ thống

Tòa án nhưng đồng thời cũng là sự ghi nhận về những đóng góp và vai trò của

Tòa án trong bộ máy nhà nước thời gian qua.

Các văn kiện trên, đã thể hiện đường lối lãnh đạo của Đảng đối với

TAND, trong đó có việc xây dựng TAND trong thời kỳ đổi mới. Theo đó,

Đảng và Nhà nước luôn quan tâm chỉ đạo xây dựng tổ chức bộ máy, nguyên

tắc hoạt động và kiện toàn đội ngũ cán bộ TAND các cấp nhằm bảo đảm các

tiêu chuẩn về năng lực, trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị vững vàng;

phát hiện và xử lý kịp thời đối với những cán bộ, đảng viên có sai phạm.

Lãnh đạo thực hiện chức năng xét xử theo quy định của pháp luật, Đảng luôn

xác định trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền thì cải cách hệ thống

Tòa án là trọng tâm và cốt lõi của cải cách tư pháp.

Trong 75 năm qua, kể từ khi thành lập Tòa án đến nay (ngày 13/9/1945)

dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống TAND đã không ngừng lớn mạnh về

mọi mặt và hoàn thành tương đối tốt nhiệm vụ được giao. Kể từ sau Đại hội

VI, sự lãnh đạo của Đảng đối với TAND có sự đổi mới, đã ban hành và chỉ

đạo thực hiện nhiều chỉ thị, nghị quyết về công tác Tòa án, góp phần thúc đẩy

86

về tổ chức vào hoạt động của TAND các cấp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư

pháp trong giai đoạn hiện nay.

3.1.2. Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

Nhân dân do Nhân dân vì Nhân dân

Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Xây

dựng nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư

pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng

tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Tiếp tục

hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật. Tổ chức Tòa án theo thẩm

quyền xét xử; bảo đảm nguyên tắc độc lập, nguyên tắc tranh tụng trong xét

xử, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, của đương sự. Tiếp tục xã hội

hóa một số hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp có đủ điều kiện. Chú trọng

công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.

Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ

quan tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng của Chiến lược cải cách tư

pháp; xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho từng cơ

quan, chức danh tư pháp. Trọng tâm là hoàn thiện pháp luật về tổ chức và

hoạt động của TAND, bảo đảm Tòa án xét xử độc lập, đúng pháp luật, kịp

thời và nghiêm minh; phân định thẩm quyền xét xử của Tòa án sơ thẩm và

Tòa án phúc thẩm phù hợp với nguyên tắc hai cấp xét xử. Hoàn thiện cơ chế

quản lý TAND địa phương theo hướng bảo đảm tính độc lập giữa các cấp

Tòa án trong hoạt động xét xử. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm

quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân. Hoàn thiện chế độ bảo

hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; chế độ

trách nhiệm của cơ quan nhà nước, nhất là Tòa án trong việc bảo vệ các

quyền đó; xử lý nghiêm minh mọi hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp

87

pháp của công dân...

Trước yêu cầu và quan điểm, định hướng của Đảng về xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân

như vậy thì việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong xét xử các

loại vụ án nói chung và trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài

nói riêng là yêu cầu bức thiết. Muốn thực hiện yêu cầu trên đòi hỏi xây dựng

đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có tính chuyên nghiệp cao, có

bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng, có đạo đức nghề nghiệp và kinh nghiệm xã

hội. Việc bảo đảm bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có

yếu tố nước ngoài phải dựa trên các quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà

nước pháp quyền và cải cách tư pháp mà trong đó trọng tâm là đổi mới tổ

chức và hoạt động của TAND.

3.2. Giải pháp bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly

hôn có yếu tố nước ngoài

3.2.1. Giải pháp chung cho bảo vệ quyền con người trong xét xử các

vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài

3.2.1.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ quyền

con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài

Đối với các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, Tòa án có xét xử hợp

tình, hợp lý nhằm bảo vệ quyền con người, quyền của các bên đương sự hay

không phần lớn dựa theo những quy định chặt chẽ của luật, vì vậy hoàn thiện

pháp luật đặc biệt là là LHNGĐ là điều vô cùng cần thiết. Do đó để tăng

cường bảo vệ quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có

yếu tố nước ngoài, các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu để có những đề

xuất thay đổi về mặt pháp luật, nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc

trong việc thụ lý, xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, tạo điều kiện

88

cho việc ly hôn có yếu tố nước ngoài được dễ dàng hơn nhưng vẫn bảo đảm

quyền và lợi ích chính đang của các bên đương sự, cụ thể như sau:

Một là: Cần bổ sung quy định về thời gian khởi kiện lại trong trường

hợp Tòa án bác đơn yêu cầu ly hôn để phù hợp với BLTTDS 2015;

Hai là: Cần bổ sung quy định căn cứ ly hôn khi chồng hoặc vợ phạm

tội và đang chấp hành án phạt tù, cụ thể như sau: “Trong trường hợp vợ hoặc

chồng của người đang chấp hành án phạt tù yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải

quyết cho ly hôn”;

Ba là: Cần thay đổi trong quy định về độ tuổi lấy ý kiến trẻ em về việc

sống với cha hay với mẹ, cụ thể: “Nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên thì phải xem

xét nguyện vọng của con”;

Bốn là: Cần bãi bỏ quy định tại Điều 115 LHNGĐ năm 2014 “Khi ly

hôn nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính

đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình”. Đồng thời

cần bổ sung quy định về từ chối cấp dưỡng;

Năm là: Đối với những vụ án ly hôn giữa nguyên đơn là người Việt

Nam ở trong nước với bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng nguyên

đơn chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng ở Việt Nam của bị đơn mà

không cung cấp được địa chỉ của bị đơn ở nước ngoài, hiện tại Luật chưa quy

định cách giải quyết, do đó cần có hướng dẫn cụ thể cách giải quyết theo

hướng: Nếu thông qua thân nhân của bị đơn mà có căn cứ để xác định họ vẫn

có liên hệ với thân nhân ở trong nước nhưng thân nhân của họ không cung

cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Tòa án cũng như không thực hiện yêu cầu

của Tòa án thông báo cho bị đơn biết để gửi lời khai về cho Tòa án thì coi đây

là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp

những tài liệu cần thiết. Nếu lần thứ hai Tòa án yêu cầu cung cấp địa chỉ, tin

tức mà thân nhân của bị đơn vẫn không chịu cung cấp thì Tòa án đưa vụ án ra

89

xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung, đồng thời quy định thời gian giải

quyết dưới 02 tháng (Hiện nay quy định thời gian xét xử trong trường hợp này

là từ 4 đến 6 tháng) nhằm bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn được ly hôn sớm

hơn thời gian mà pháp luật hiện nay đang quy định;

Sáu là: Tăng cường ký kết các hiệp định song phương và đa phương về

tương trợ tư pháp đối các quốc gia mà chúng ta chưa ký kết HĐTTTP nhằm

tạo hành lang pháp lý cho hoạt động ngoại giao nói chung cũng như hoạt

động UTTP trong giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng. Đồng thời

cơ quan có thẩm quyền kịp thời cập nhật các thông tin về danh sách các quốc

gia và vùng lãnh thổ mà Việt Nam đã ký kết HĐTTTP. Cần rút ngắn thời hạn

ủy thác để tránh tình trạng án tồn đọng, kéo dài, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích

chính đáng cho đương sự trong tố tụng dân sự, đặc biệt là đối với đương sự

trong vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.

Ngoài ra, cần tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật khác có liên

quan đến hoạt động giải quyết các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài như về

mức thu chi tiền định giá tài sản, tiền chi phí ủy thác tư pháp, tiền đăng thông

báo các văn bản tố tụng trên Cổng thông tin điện tử Tòa án, Đài tiếng nói Việt

Nam VOV... tránh tình trạng để Tòa án tạm thu tiền tạm ứng chi phí định giá

tài sản, tiền UTTP như hiện nay rồi sau khi chi phí hết bao nhiêu theo quy

định thì số tiền còn lại mới trả lại cho đương sự. Ngoài ra, trong quá trình xét

xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, Tòa án cần đa dạng hóa việc áp

dụng pháp luật, đặc biệt vận dụng các phong tục, tập quán truyền thống tốt

đẹp trong đời sống xã hội về hôn nhân và gia đình. Bổ sung các quy định của

pháp luật để công nhận hình thức án lệ áp dụng cho các quan hệ mới phát sinh

khi chưa có qui định pháp luật điều chỉnh hoặc đã có qui định pháp luật

nhưng việc điều chỉnh không còn phù hợp với thực tế.

90

Cần tăng cường tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm xét xử các vụ án

ly hôn có yếu tố nước ngoài, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm

của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm

tính công khai, dân chủ, nghiêm minh. Đồng thời, nâng cao chất lượng tranh

tụng tại các phiên tòa ghi nhận nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm và phán

quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa vào quy

định của Hiến pháp. Coi đây là một trong những điều kiện nhằm bảo đảm

quyền con người khi tham gia hoạt động xét xử nói chung và hoạt động xét xử

các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng.

3.2.1.2. Giải pháp về con người

Yếu tố quyết định để bảo vệ quyền con người trong hoạt động xét xử

các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài đó là con người. Bởi yếu tố con người

lúc nào cũng đóng vai trò quyết định. Đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên,

Thư ký Tòa án là những chủ thể trực tham gia hoạt động xét xử các vụ án nói

chung và các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng. Các chủ thể tham

gia hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài muốn thực hiện

tốt vai trò của mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao thì họ phải được

làm việc trong một cơ cấu tổ chức được sắp xếp một cách khoa học và hợp lý.

Do đó để nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa

án nhằm tăng cường bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ

án ly hôn có yếu tố nước ngoài, TAND tối cao cần phải thực hiện tốt những

nội dung sau:

Về đào tạo, bồi dưỡng: TAND tối cao cần quan tâm tổ chức các lớp tập

huấn, hội thảo, tổng kết, rút kinh nghiệm chuyên sâu về công tác giải quyết,

xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài trong đó có vấn đề bảo vệ quyền

con người nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm

phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, đặc biệt là nâng cao kiến thức về quyền

91

con người vì thực tế trong nhiều năm qua đây là loại án tuy rất phức tạp về

thủ tục tố tụng, nhưng ít được quan tâm hướng dẫn, giải đáp, rút kinh nghiệm

kịp thời trong toàn hệ thống Tòa án.

Cùng với việc đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cần chú trọng đào tạo

kiến thức xã hội, khả năng sử dụng kỹ thuật tiên tiến và kỹ năng thực hiện

công tác dân vận cho đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án. Kết

hợp đào tạo trong nước với đào tạo ở nước ngoài để tăng cường đội ngũ cán

bộ phục vụ yêu cầu hội nhập quốc tế.

Về biên chế: TAND tối cao cần xây dựng phương án bổ sung biên chế

hàng năm cho TAND cấp tỉnh nhất là biên chế Thấm phán, Thư ký nhằm

khắc phục việc để chậm trễ khi nghiên cứu hồ vụ án do thời gian bổ nhiệm và

bổ nhiệm lại Thấm phán kéo dài. Xây dựng kế hoạch điều động, luân chuyển

Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án giữa các đơn vị; tiếp tục rà soát,

phân loại, đánh giá chất lượng cán bộ lãnh đạo và cán bộ có chức danh tư

pháp để sắp xếp, bố trí hợp lý, đúng năng lực, trình độ nhằm bảo đảm cho

việc hoàn thành nhiệm vụ trong công cuộc cải cách tư pháp.

TAND tối cao cần tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra mang tính

chuyên đề đối với các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài để kịp thời chấn

chỉnh những sai phạm trong công tác thụ lý, xét xử, phát hiện những bất cập,

tồn tại của pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của

nguyên đơn và bị đơn.

3.2.1.3. Giải pháp về cơ sở vật chất, chế độ chính sách

Về cơ sở vật chất: TAND tối cao cần tiếp tục đầu tư xây dựng, cải tạo

trụ sở và trang cấp các trang thiết bị làm việc cho các Tòa án đáp ứng yêu cầu

cải cách tư pháp, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước. Các cơ quan có thẩm quyền đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách, trong đó

tập trung đổi mới về định mức chi, chế độ chi, định mức trang cấp phương

92

tiện làm việc và quy mô xây dựng trụ sở nhằm cải thiện điều kiện làm việc

cho các Tòa án. Xây dựng chế độ chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp

với lao động đặc thù của Tòa án, có chính sách ưu tiên, khuyến khích cán bộ,

công chức đến làm việc ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo và những nơi có điều

kiện kinh tế xã hội khó khăn. TAND tối cao đầu tư nâng cấp hệ thống mạng

và hệ thống máy tính cho TAND các cấp để phục vụ tốt hơn công tác xét xử.

Sớm triển khai áp dụng phần mềm phân án ngẫu nhiên, phần mềm ghi âm

chuyển đổi lời nói thành văn bản tại phiên tòa để nâng cao hiệu quả công tác

xét xử.

Về chế độ chính sách: TAND tối cao cần quan tâm hỗ trợ kinh phí và

tạo điều kiện mọi mặt để TAND tỉnh Quảng Bình có kinh phí tiến hành xây

dựng và lắp đặt các trang thiết bị của phòng xét xử án hôn nhân và gia đình;

phòng hòa giải nhằm triển khai có hiệu quả Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án

để góp phần giải quyết các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài được nhanh

chóng, khỏi phải đưa ra xét xử.

3.2.2. Giải pháp riêng về bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án

ly hôn có yếu tố nước ngoài của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình

3.2.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo công tác xét xử bảo đảm quyền con

người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài

Lãnh đạo TAND tỉnh Quảng Bình cần tiếp tục chỉ đạo Tòa dân sự, đặc

biệt là các Thẩm phán trực tiếp xét xử các vụ án ly hôn có nước ngoài tiếp tục

thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

XII, XIII của Đảng; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII); Nghị quyết

Trung ương 6, Nghị quyết Trung ương 7, Nghị quyết Trung ương 8 khóa XII;

các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Chỉ thị của Chánh án TAND tối cao về

công tác cải cách tư pháp, gắn việc thực hiện các nhiệm vụ công tác của hệ

thống Tòa án với việc thực hiện các yêu cầu của cải cách tư pháp. Tiếp tục

93

triển khai nghiêm túc Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị

về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí

Minh kết hợp với cuộc vận động “nâng cao phẩm chất chính trị, phẩm chất

đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức hệ thống Tòa án

nhân dân”, gắn với phong trào thi đua “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô

tư” với phương châm là “Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”.

Lãnh đạo TAND tỉnh phải chỉ đạo các Thẩm phán tiếp tục tập trung

thực hiện tốt các giải pháp đột phá để nâng cao chất lượng công tác xét xử.

Cải tiến phương thức chỉ đạo, điều hành theo hướng phân công, phân cấp hợp

lý, đảm bảo rành mạch giữa quản lý, điều hành hoạt động nội bộ của các Tòa

án với hoạt động tố tụng; phát huy tính sáng tạo và đề cao trách nhiệm của

người đứng đầu đối với từng đơn vị Tòa án. Phân công bố trí công việc hợp lý

nhằm khai thác có hiệu quả năng lực sở trường của từng Thẩm phán; Tăng

cường cải cách thủ tục hành chính tư pháp, ứng dụng công nghệ thôn tin trong

công tác xét xử. Chỉ đạo Thẩm phán, Thư ký trong hoạt động xét xử nói

chung và hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng

phải bảo đảm cao nhất quyền con người của đương sự được bảo vệ cũng như

tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền của mình được tốt nhất.

3.2.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phối hợp với các cơ quan,

tổ chức trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài

Thực tế trong những năm qua, công tác phối hợp, tuyên truyền của

TAND tỉnh Quảng Bình với các cơ quan, tổ chức về bảo vệ quyền con người

trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài chưa được chú trọng, nên

phần nào hưởng đến công tác xét xử, do đó để bảo đảm cho việc giải quyết

các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài được khách quan, đúng pháp luật, bảo

đảm cao nhất quyền con người trong hoạt động xét xử, cần phải có giải pháp

cụ thể để nâng cao hơn nữa công tác tuyên truyền, phối hợp với một số cơ

94

quan, tổ chức có liên quan đến hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố

nước ngoài. Cụ thể như sau:

TAND tỉnh với Viện kiểm sát nhân dân tỉnh cần ban hành Quy chế phối

hợp trong hoạt động giải quyết, xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài,

nhất là những vụ án có Viện kiểm sát tham gia tố tụng từ thủ tục giao, nhận

hồ sơ vụ án; thời hạn Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ, xác minh thu thập, bổ

sung chứng cứ, triệu tập người tham gia phiên tòa; kế hoạch xét xử...Tạo điều

kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát tiếp cận hồ sơ nhằm kiểm sát chặt chẽ các

trình tự tố tụng cũng như kiểm sát các hoạt động xác minh thu thập chứng cứ,

hoạt động tranh tụng…

TAND tỉnh Quảng Bình cùng chính quyền địa phương cần nghiên cứu

sớm ban hành Quy chế quy định về trách nhiệm của chính quyền địa phương

trong công tác phối hợp xác minh, thu thập chứng cứ, tống đạt các văn bản tố

tụng của Tòa án ... nhất là đối với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, cán

bộ địa chính, cán bộ tư pháp trong việc đăng ký kết hôn, khai sinh; cán bộ tài

chính; cán bộ địa chính trong việc tham gia thẩm định tại chỗ (đo đạc, vẽ sơ

đồ đối với tài sản chung vợ chồng là quyền sử dụng đất đang tranh chấp),

định giá tài sản chung đang tranh chấp. Đề xuất cơ chế đặc thù cho những đối

tượng đi xuất khẩu lao động đang ở lại nước ngoài nhưng có đơn yêu cầu ly

hôn để giúp Tòa án tỉnh giải quyết vụ án được giải quyết nhanh chóng, kịp

thời và đúng pháp luật, nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai

đoạn hiện nay.

Ủy ban nhân dân các cấp cần tăng cường vai trò chỉ đạo trong công tác

tuyên truyền phổ biến pháp luật, nhằm nâng cao nhận thức cho người dân, đặc

biệt là phụ nữ và trẻ em, nhất là phụ nữ và trẻ em ở vùng nông thôn, miền núi,

vùng sâu, vùng xa để họ có kiến thức và khả năng bảo vệ mình trước pháp

luật, đồng thời giúp họ hiểu được cuộc sống ở nước ngoài không phải là thiên

95

đường như nhiều người nghĩ và kết hôn với người nước ngoài là sẽ đổi đời, sẽ

thoát khỏi cảnh nghèo khó. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác tuyên

truyền để mỗi gia đình phải có những biện pháp giáo dục đúng đắn, bởi giáo

dục gia đình, nếp sống và gia phong của mỗi nhà là rất quan trọng không chỉ

với việc hình thành nhân cách mà còn trang bị cho con sự hiểu biết, bản lĩnh

sống, khả năng thích ứng trước những biến động rủi ro của cuộc đời.

Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các đoàn thể, các tổ chức chính trị

xã hội nhất là Hội phụ nữ các cấp cần tư vấn cho các cô gái Việt Nam muốn

kết hôn với người nước ngoài, cung cấp cho họ thực trạng đời sống hôn nhân

với người nước ngoài để họ có suy nghĩ chin chắn trước khi có quyết định.

Đồng thời trang bị cho họ những hiểu biết nhất định về Luật pháp, phong tục,

tập quán của vùng miền của nước mà họ sẽ đến sau khi kết hôn.

Chủ động mở rộng các hoạt động hợp tác quốc tế. Phối hợp với các cơ

quan có liên quan làm tốt công tác tương trợ tư pháp, điều tra, giải quyết các

vụ việc có yếu tố nước ngoài. Nghiên cứu, đề xuất phương án đào tạo cán bộ

phục vụ hội nhập quốc tế. Chủ động, tích cực tham gia vào các hội nghị, diễn

đàn tư pháp quốc tế; thực hiện tốt các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành

viên.

3.2.2.3. Tiếp tục đổi mới thủ tục hành chính tư pháp tại TAND tỉnh

Quảng Bình

Trong những năm qua TAND tỉnh Quảng Bình đã triển khai thực hiện

nghiêm túc chỉ thị 03/2016/CT-CA ngày 04/4/2016 của Chánh án TAND tối

cao về việc tăng cường thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa

án. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền con người trong giải quyết, xét xử các vụ án

ly hôn có yếu tố nước ngoài được tốt hơn, TAND tỉnh cần tăng cường ứng

dụng công nghệ thông tin trong công tác tiếp nhận, xử lý đơn khởi kiện, thụ lý

vụ án, đăng tải các biểu mẫu, hướng dẫn các thủ tục về ly hôn có yếu tố nước

96

ngoài, công khai các thông báo thụ lý vụ án, thông báo tống đạt, quyết định,

bản án có liên quan đến vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài trên Trang thông

tin điện tử TAND tỉnh Quảng Bình để người dân dễ tiếp cận. Chú ý bố trí các

Thẩm phán, Thư ký có năng lực, trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm, có

phẩm chất đạo đức tốt và tinh thần trách nhiệm ở bộ phận tiếp nhận và giải

quyết các thủ tục ly hôn có yếu tố nước ngoài.

3.2.2.4. Tăng cường công tác tổng kết, rút kinh nghiệm công tác xét xử

đối với các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài

Việc tổng kết, rút kinh nghiệm công tác xét xử, đặc biệt là việc tổng

kết kinh nghiệm về bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ

án ly hôn có yếu tố nước ngoài có một ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận

lẫn thực tiễn trong việc tăng cường bảo đảm quyền con người trong hoạt động

xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình. Do vậy, muốn bảo đảm bảo vệ quyền

con người trong hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài của

TAND tỉnh Quảng Bình cũng như toàn hệ thống Tòa án thì hàng năm TAND

tối cao cần phải thường xuyên tổ chức công tác tổng kết, rút kinh nghiệm

trong hoạt động giải quyết, xét xử các vụ ly hôn có yếu tố nước ngoài theo

định kỳ. Với mục đích đánh giá những thành tựu đạt được và nêu ra những

thiếu sót, những tồn tại về nhận thức pháp luật về bảo đảm quyền con người

trong hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài. Lựa chọn

những vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài có tính mẫu mực để ban hành án lệ

để áp dụng cho toàn hệ thống Tòa án và chỉ ra những bản án, quyết định đã

ban hành chưa chính xác, chưa thỏa đáng, chưa bảo đảm quyền con người

trong hoạt động xét xử để rút kinh nghiệm.

Công tác tổng kết, rút kinh nghiệm xét xử giúp cho hệ thống Tòa án là

cơ sở để tìm ra những nguyên nhân nào chưa bảo đảm quyền con người trong

hoạt động xét xử các vụ án ly hôn nói chung và ly hôn có yếu tố nước ngoài

97

nói riêng. Từ đó cơ sở đề nghị xem xét, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, giải thích,

hướng dẫn những quy định điều chỉnh quy định của pháp luật về bảo vệ

quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài phù hợp

với tình hình thực tế hiện nay.

Tiểu kết chương 3

Quyền con người luôn là đối tượng đặc biệt được quan tâm và ưu tiên

bảo hộ hàng đầu của các quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt Nam, trong đó

quyền ly hôn là một trong các quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình

được pháp luật bảo vệ theo quy định tại Điều 39 BLDS 2015, Điều 51

LHNGĐ năm 2014. Ly hôn đã ảnh hưởng đến cuộc sống của các gia đình, đặc

biệt là đối với phụ nữ và trẻ em, sự cần thiết hoàn thiện các quy định pháp

luật tạo ra khung pháp lý để bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly

hôn có yếu tố nước ngoài là một đòi hỏi cấp thiết về lý luận cũng như thực tiễn.

Trên cơ sở lý luận và thực trạng bảo vệ quyền con người trong xét xử

các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại chương 1 và chương 2, tác giả đưa

ra quan điểm và những giải pháp để nâng cao hơn nữa chất lượng của các quy

pháp luật nhằm đảm bảo cho bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án

ly hôn có yếu tố nước ngoài ngày càng được tốt hơn. Bên cạnh đó đã đề xuất

các cơ quan chức năng cần nâng cao hơn nữa năng lực hoạt động trong việc

bảo vệ quyền con người theo LHNGĐ năm 2014, BLTTDS 2015, đồng thời

cần xây dựng và hoàn thiện pháp luật, tăng cường công tác tuyên truyền, thực

hiện các giải pháp một cách đồng bộ và có hiệu quả, góp phần cùng với Tòa

án thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao.

98

KẾT LUẬN

Bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước

ngoài là yêu cầu bức thiết, khách quan đối với mục tiêu xây dựng Nhà nước

pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và Chiến lược cải cách tư pháp của

Đảng trong giai đoạn hiện nay. Luận văn đã làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn

về bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước

ngoài tại TAND tỉnh. Kết quả đạt được như sau:

Đã tổng hợp và đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con

người, về hoạt động xét xử nhằm bảo vệ quyền con người trong các vụ án ly

hôn có yếu tố nước ngoài. Đã phân tích, đánh giá cụ thể những kết quả đạt

được và đưa ra những tồn tại, hạn chế, tìm ra nguyên nhân của ưu điểm cũng

như nguyên nhân của tồn tại, hạn chế về vấn đề bảo vệ quyền con người trong

xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình. Đưa

ra một số nhóm giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường bảo vệ quyền con

người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại các Tòa án nói

chung và TAND tỉnh Quảng Bình nói riêng.

Trong khuôn khổ phạm vi nghiên cứu luận văn dưới góc độ luận văn

Thạc sĩ Luật học chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính nên luận

văn không nghiên cứu chuyên sâu vấn đề dưới góc độ Luật tố tụng Dân sự,

không nghiên cứu toàn diện được lịch sử hình thành các quy định pháp luật về

bảo vệ quyền con người trong giải quyết, xét xử các vụ việc hôn nhân và gia

đình cũng như các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài; không nghiên cứu

chuyên sâu về pháp luật quốc tế và những xung đột, vướng mắc trong việc

phân chia tài sản, con cái sau ly hôn của các đương sự đang ở nước ngoài.

Bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn nói chung và

trong các vụ án lý hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng là một trong những mục

99

tiêu luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Với việc nghiên cứu đề tài trên,

hi vọng sẽ góp một phần vào việc nghiên cứu, tìm hiểu chuyên sâu về quyền

con người trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình có yếu tố nước

ngoài tại các Tòa án nhân dân. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu luận văn

không tránh khỏi được những thiếu sót, hạn chế. Kính mong nhận được sự

đóng góp từ quý thầy cô để luận văn được hoàn thiện hơn.

100

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đỗ Thị Vân Anh (2014), Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài qua

thực tiễn xét xử tại TAND thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ Luật, Đại học

Quốc gia Hà Nội.

2. Nông Quốc Bình và Nguyễn Hồng Bắc (2006), Quan hệ hôn nhân và

gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế,

NXB Tư Pháp, Hà Nội.

3. C.Mác - Ph.Ăngghen (1998), Về quyền con người, NXB Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

4. Chính phủ (2014), Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12

năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành

Luật hôn nhân và gia đình, Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TƯ ngày 02

tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020, Hà Nội.

6. Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), Ly hôn có yếu tố nước ngoài ở nước ta hiện

nay, Tạp chí Tòa án điện tử.

7. Trương Thị Hồng Hà (2013), Lý luận về quyền con người trong tố tụng

dân sự, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.

8. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992)

9. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013)

10. Nguyễn Thanh Hoa (2012), “Thẩm quyền giải quyết ly hôn có yếu tố

nước ngoài ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ Luật,

Đại học Quốc gia Hà Nội.

11. Phạm Trung Hòa (2017), “Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài theo

quy định của pháp luật Việt Nam và hướng hoàn thiện pháp luật”, Luận văn

thạc sĩ Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

12. Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội (2009) Giáo trình Lý luận và pháp luật về

Quyền con người, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội.

13. Quốc hội 13 (2014), Luật Hôn nhân và gia đình, Luật số

52/2014/QH13 ngày 19/6/2014.

14. Quốc Hội 13 (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân; Luật số

62/2014/QH13 ngày 24/11/2014.

15. Quốc hội 13 (2015), BLTTDS 2015, Luật số 92/2015/QH13 ngày

25/11/2015.

16. TAND tỉnh Quảng Bình (2015), Báo cáo tổng kết công tác của TAND

hai cấp tỉnh Quảng Bình năm 2015.

17. TAND tỉnh Quảng Bình (2016), Báo cáo tổng kết công tác của TAND

hai cấp tỉnh Quảng Bình năm 2016.

18. TAND tỉnh Quảng Bình (2017), Báo cáo tổng kết công tác của TAND

hai cấp tỉnh Quảng Bình năm 2017.

19. TAND tỉnh Quảng Bình (2018), Báo cáo tổng kết công tác của TAND

hai cấp tỉnh Quảng Bình năm 2018.

20. TAND tỉnh Quảng Bình (2019), Báo cáo tổng kết công tác của TAND

hai cấp tỉnh Quảng Bình năm 2019.

21. TAND tỉnh Quảng Bình (2020), Báo cáo tổng kết công tác của TAND

hai cấp tỉnh Quảng Bình năm 2020.

22. TAND tối cao (2017), Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 5/5/2017

của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản

1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS số 92/2013/QH13 về trả lại đơn khởi kiện,

quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án, Hà Nội.

23. TAND tối cao (2018), Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018

về giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng

không rõ địa chỉ, Hà Nội.