BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRƯƠNG VIỆT HÙNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI - TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRƯƠNG VIỆT HÙNG
BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI - TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. VŨ ĐỨC ĐÁN THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tác
giả. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực.
Tác giả xin chân thành cảm ơn!
Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2021
Học viên
Trương Việt Hùng
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc PGS.TS. Vũ Đức
Đán đã hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tác giả hoàn thành
luận văn này. Tác giả cũng xin cảm ơn chân thành nhất đến Lãnh đạo, các
Giảng viên của Học viện Hành chính Quốc gia Hà Nội và khoa Sau đại học đã
quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tác giả học tập và tận tình
truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất
cho tác giả trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và cho đến khi thực hiện
đề tài luận văn.
Do hạn chế về thời gian và trình độ chuyên môn nên luận văn tốt
nghiệp này chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Tác giả rất mong nhận
được ý kiến phản hồi từ phía Giảng viên và bạn đọc.
Cuối cùng, Tác giả xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và
các bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ cho Tác giả rất nhiều trong suốt quá trình học
tập,và hoàn thiện đề tài luận văn thạc sĩ.
Trân trọng cảm ơn!
Học viên
Trương Việt Hùng
MỤC LỤC
Trang bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục viết tắt
Danh mục các sơ đồ, bảng biểu và biểu đồ
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài luận văn .......................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn .................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn .......................................... 6
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ...................... 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................... 7
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 7
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN
CON NGƯỜI TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN LY HÔN CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI ............................................................................................. 8
1.1. Những vấn đề chung về quyền con người và quyền con người trong
vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài ............................................................... 8
1.1.1. Quan niệm về quyền con người và quyền con người trong vụ án ly hôn
có yếu tố nước ngoài ...................................................................................... 8
1.1.2. Quan niệm về ly hôn và ly hôn có yếu tố nước ngoài ................................. 18
1.1.3. Bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài .. 28
1.2. Những yếu tố tác động và điều kiện đảm bảo quyền con người trong
xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài .................................................. 33
1.2.1. Yếu tố khách quan ...................................................................................... 33
1.2.2. Yếu tố chủ quan .......................................................................................... 35
1.2.3. Điều kiện đảm bảo quyền con người trong xét xử vụ án ly hôn có yếu tố
nước ngoài ................................................................................................... 36
Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................ 37
Chương 2 THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG
XÉT XỬ VỤ ÁN LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH ........................................................... 38
2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Bình ............................................................................................................. 38
2.1.1. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình ............................... 38
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình ..................... 40
2.1.3. Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình............................ 41
2.2. Tình hình bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có
yếu tố nước ngoài tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình ........................ 44
2.2.1. Tình trạng hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở tỉnh Quảng Bình ................... 44
2.2.2. Tình hình xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài và bảo vệ quyền con
người trong quá trình xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình ...................... 47
2.2.3. Đánh giá chung kết quả bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly
hôn có yếu tố nước ngoài tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình ......................... 73
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 84
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC
NGOÀI ........................................................................................................ 85
3.1. Quan điểm bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có
yếu tố nước ngoài ....................................................................................... 85
3.1.1. Yêu cầu bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ..................................................... 85
3.1.2. Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân do
Nhân dân vì Nhân dân .......................................................................................... 87
3.2. Giải pháp bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có
yếu tố nước ngoài ....................................................................................... 88
3.2.1. Giải pháp chung cho bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn
có yếu tố nước ngoài ............................................................................................. 88
3.2.2. Giải pháp riêng về bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có
yếu tố nước ngoài của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình .................................... 93
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 98
KẾT LUẬN ................................................................................................. 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 101
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu Nguyên nghĩa
BLDS Bộ luật Dân sự
BLTTDS Bộ luật Tố tụng Dân sự
ĐƯQT Điều ước quốc tế
HĐTTTP Hiệp định tương trợ tư pháp
LHNGĐ Luật Hôn nhân và gia đình
TAND Tòa án nhân dân
UTTP Ủy thác tư pháp
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ VÀ CÁC BẢNG
Biểu đồ 2.1. Kết quả giải quyết các loại vụ án từ năm 2016 - 2020 .............. 42
Bảng 2.1: Số liệu xét xử các loại vụ án từ năm 2016 - 2020 ......................... 41
Sơ đồ 2.1.Tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình ...................... 39
Bảng 2.2: Số liệu kết hôn có yếu tố nước ngoài ............................................ 48
Bảng 2.3: Số liệu xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài .................. 48
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Quyền con người là một trong những vấn đề thiêng liêng, cơ bản mà
bất cứ quốc gia nào cũng phải thừa nhận và được quy định trong Hiến pháp và
pháp luật của chính quốc gia đó. Ở Việt Nam, bảo vệ quyền con người luôn là
truyền thống quý báu của dân tộc ta từ bao đời nay. Truyền thống đó càng
được phát triển rực rỡ từ khi Đảng ta lãnh đạo cách mạng của dân tộc, đấu
tranh giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, thống nhất đất nước, phá bỏ xiềng
xích áp bức bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, xây dựng một xã
hội tiến bộ, công bằng và tôn trọng phẩm giá con người. Một trong những tiêu
chí rất quan trọng của Nhà nước pháp quyền là bảo đảm cao nhất quyền công
dân trong mọi hoạt động của Nhà nước trong đó có hoạt động xét xử của Tòa
án. Đặc biệt hiện nay, chế định quyền con người đã được ghi nhận và được
thể chế hóa tại Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013: “Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”.
Điều 14, Hiến pháp 2013 khẳng định “ Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến
pháp và pháp luật”. Trong đó, quyền con người trong các vụ án ly hôn nói
chung, vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng đã được ghi nhận.
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam nói chung và tại tỉnh Quảng
Bình nói riêng, cùng với việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong nhiều
lĩnh vực như chính trị, kinh tế, xã hội…giữa nước ta với các nước khác trên
thế giới ngày càng phát triển thì cũng kéo theo nó là vấn đề hôn nhân có yếu
tố nước ngoài nói chung cũng như ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng ngày
1
một gia tăng. Tình trạng kết hôn và ly hôn có yếu tố nước ngoài diễn ra khá
phức tạp, kéo theo đó là các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài ngày càng
tăng, do vậy việc nhận thức và vận dụng pháp luật để xét xử loại vụ án này
cũng như đảm bảo quyền con người trong hoạt động xét xử cũng gặp không ít
khó khăn. Tuy nhiên, với sự cố gắng của Tòa án, việc áp dụng pháp luật về
hôn nhân và gia đình cũng như pháp luật về tố tụng dân sự và đảm bảo quyền
con người trong xét xử các vụ án ly hôn nói chung và ly hôn có yếu tố nước
ngoài nói riêng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ góp phần giải quyết
kịp thời các mâu thuẫn bất hòa trong quan hệ hôn nhân, bảo vệ được các
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, đồng thời góp phần làm ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình xét xử các vụ án ly
hôn có yếu tố nước ngoài, TAND tỉnh Quảng Bình gặp rất nhiều khó khăn,
bởi nhiều lý do khác nhau, như khó khăn trong việc xác định địa chỉ của bị
đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; trong việc tống đạt giấy
tờ, điều tra, thu thập chứng cứ, nhất là ở các nước không có hiệp định tương
trợ tư pháp hoặc không áp dụng nguyên tắc có đi có lại với Việt Nam; vấn đề
xung đột pháp luật giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài liên
quan; tính khả thi trong thi hành án liên quan đến con cái, tài sản ở nước
ngoài; hoặc cần làm rõ việc kết hôn trên có phải là kết hôn giả nhằm mục đích
ra nước ngoài sinh sinh sống hay không để áp dụng đúng thủ tục giải quyết.
Những tồn tại, bất cập trên không chỉ diễn ra ở TAND tỉnh Quảng Bình mà
đây còn là những bất cập chung đối với Tòa án các tỉnh trên cả nước, vì vậy
dẫn đến tình trạng việc thụ lý, giải quyết, xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố
nước ngoài thiếu sự thống nhất, có biểu hiện tùy tiện trong thụ lý, giải quyết
và xét xử phần nào làm ảnh hưởng đến quyền của của nguyên đơn và bị đơn
trong các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.
2
Mặt khác, do bản thân hiện tại đang công tác tại TAND tỉnh Quảng
Bình, đây là nơi đang trực tiếp thụ lý và xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố
nước ngoài và bản thân tác giả cũng đang rất tâm huyết về vấn đề bảo vệ
quyền con người trong vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nên đã chọn đề tài
này để nghiên cứu. Trước khi chọn đề tài này tác giả cũng đã tham khảo đề tài
của các khóa trước đây đã nghiên cứu tại Học viện Hành chính Quốc gia cũng
như tại các cơ sở đào tạo khác và thấy không có đề tài nào trùng lặp với đề tài
mà tác giả đang nghiên cứu.
Xuất phát từ những lý do trên nên tác giả chọn đề tài “Bảo vệ quyền
con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài - từ thực tiễn
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Việc nghiên cứu những nội dung liên quan đến ly hôn có yếu tố nước
ngoài ở Việt Nam đã được một số nhà khoa học, nhà nghiên cứu, chuyên gia
pháp lý nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như: sách chuyên khảo của
TS. Nông Quốc Bình và TS. Nguyễn Hồng Bắc: “Quan hệ hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế” NXB
Tư pháp 2006; Luận văn thạc sĩ: “Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài theo
quy định của pháp luật Việt Nam và hướng hoàn thiện pháp luật” của tác giả
Phạm Trung Hòa; Luận văn thạc sĩ: “Thẩm quyền giải quyết ly hôn có yếu tố
nước ngoài ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” của tác giả Nguyễn Thanh
Hoa... Các công trình nghiên cứu này không đi chuyên sâu và toàn diện về
bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài
theo quy định pháp luật Việt Nam và ĐƯQT do Việt Nam ký kết hay gia nhập
mà mới chỉ nghiên cứu một số vấn đề pháp lý về các quy định của pháp luật
trong việc giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài; thẩm quyền giải quyết ly
hôn thep pháp luật Việt Nam.
3
Thực tế hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào phân
tích một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống dưới gốc độ lý luận và thực
tiễn về bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước
ngoài. Chỉ có một số công trình khoa học, bài viết các tác giả đã nghiên cứu
về một số khía cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến việc bảo đảm quyền
con người trong hoạt động giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngoài nhưng chỉ nghiên cứu một hoặc một nhóm quyền đặc trưng về
vấn đề bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực ly hôn có yếu tố nước ngoài,
đó là các công trình, bài viết như: “Lý luận về quyền con người trong tố tụng
dân sự”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Năm 2013) của T.S Trương Thị Hồng
Hà; “Ly hôn có yếu tố nước ngoài ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Tòa án điện
tử (ngày 16/01/2019) của Thạc sĩ Đoàn Thị Ngọc Hải; Luận văn thạc sĩ:
“Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài qua thực tiễn xét xử tại TAND thành
phố Hà Nội” của tác giả Đỗ Thị Vân Anh... Tất cả các bài viết trên đều đã
đưa ra các quan điểm nhận định về quyền con người trong tố tụng dân sự nói
chung, các quyền cơ bản của đương sự; thẩm quyền và điều kiện đảm bảo
việc thực hiện các quyền của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố
tụng cũng như trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo
quyền của đương sự và những người có liên quan trong tố tụng dân sự; thực
tiễn đảm bảo quyền con người trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay và
các vấn đề về giải quyết yêu cầu của đương sự về ly hôn có yếu tố nước
ngoài…Từ đó, các tác giả đi sâu vào phân tích làm rõ lý luận và thực tiễn
cũng như thực trạng để giải quyết vụ án.
Ở các công trình nghiên cứu trên các tác giả chỉ nghiên cứu vấn đề về
quyền con người nói chung trong tố tụng dân sự và bảo đảm quyền con người
đối với những người tham gia tố tụng nhất định. Nhưng vấn đề về chủ thể
thực hiện vai trò bảo vệ quyền con người, thực trạng và các giải pháp bảo vệ
4
quyền con người trong các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài thì lại chưa
được nghiên cứu.
Như vậy, từ tình hình nghiên cứu trên đây cho phép khẳng định việc
nghiên cứu đề tài: “Bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có
yếu tố nước ngoài - từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình” là đòi
hỏi khách quan, cấp thiết, vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn.
Vì vậy đó chính là lý do để tác giả chọn đề tài này làm đề tài luận văn thạc
sĩ luật học của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích:
Mục đích nghiên cứu của luận văn là dưới góc Luật Hiến pháp và Luật
Hành chính để làm rõ hơn cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn trong xét xử các
vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Tòa án các tỉnh, thành phố nói chung và
tại TAND tỉnh Quảng Bình nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, pháp lý bảo vệ quyền con người trong
xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.
Làm rõ các khái niệm, đặc điểm, nội dung, các quy định của pháp luật
và các yếu tố tác động và điều kiện bảo đảm quyền con người trong xét xử
các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.
Phân tích, đánh giá thực trạng bảo vệ quyền con người trong xét xử các
vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình.
Đưa ra các quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm bảo vệ quyền con
người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.
5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu các cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo vệ quyền
con người (quyền của các bên đương sự) trong các vụ án ly hôn có yếu tố
nước ngoài - từ thực tiễn xét xử tại TAND tỉnh Quảng Bình, không nghiên
cứu về vấn đề bảo vệ quyền con người trong giải quyết, xét xử các vụ án ly
hôn trong nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền con người trong
xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình.
Về thời gian: Nghiên cứu từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 9 năm 2020.
Về nội dung: Luận văn nghiên cứu nội dung bảo vệ quyền con người
trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài và những thực trạng,
vướng mắc trong quá trình xét xử các vụ án ly hôn tại TAND tỉnh Quảng
Bình. Từ đó đưa ra những quan điểm, giải pháp nhằm khắc phục những hạn
chế, vướng mắc để góp phần bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án
ly hôn có yếu tố nước ngoài.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận:
Luận văn được thực hiện dựa trên việc vận dụng các phương pháp
nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng; cơ
sở lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà
nước trong việc thực hiện bảo vệ quyền con người thông qua chức năng xét
xử của Tòa án.
6
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể là phân tích, đối
chiếu, so sánh, thống kê và tổng hợp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sau khi được đánh giá và nghiệm thu tại
Hội đồng bảo vệ luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề
bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài ở
Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Bình nói riêng.
Luận văn có thể sẽ là tài liệu tham khảo có ích đối với các nhà khoa
học, các nhà hoạch định chính sách và đặc biệt là đối với TAND tối cao,
TAND cấp cao và TAND các tỉnh, thành phố; ngoài ra luận văn còn có thể
phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy tại các Trường đại học Luật, các Học
viện như: Học viện Tư pháp; Học viện Tòa án và Đại học Kiểm sát...
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật về bảo vệ quyền con người trong
xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.
Chương 2: Thực trạng bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án ly
hôn có yếu tố nước ngoài tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo vệ quyền con người trong xét
xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1.1. Những vấn đề chung về quyền con người và quyền con người
trong vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài
1.1.1. Quan niệm về quyền con người và quyền con người trong vụ
án ly hôn có yếu tố nước ngoài
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, tính chất về quyền con người
Từ thời cổ đại, quan niệm về quyền con người đã được các nhà tư
tưởng bàn đến và không ngừng được phát triển, bổ sung cùng với quá trình
phát triển của lịch sử nhân loại. Trên cơ sở các quan niệm về quyền con
người, năm 1776, lần đầu tiên quyền con người được ghi nhận trong Tuyên
ngôn độc lập của Mỹ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền được bình
đẳng, tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó
có quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc”.
Có rất nhiều định nghĩa về quyền con người, mỗi định nghĩa tiếp cận
vấn đề quyền con người từ một góc độ khác nhau, khó có thể bao quát đầy đủ
các thuộc tính của nó. Theo nghĩa chung nhất: Quyền con người là những
quyền cơ bản, không thể tước bỏ mà một người vốn được thừa hưởng đơn
giản vì họ là con người. Hay, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn
cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhận và các nhóm chống lại những hành động
hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do
cơ bản của con người.
Theo Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc thường được trích dẫn bởi các
nhà nghiên cứu, thì: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có
8
tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự
bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của
con người”. Bên cạnh đó, quyền con người còn được định nghĩa một cách
khái quát “là những quyền bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không
được hưởng thì chúng ta sẽ không thể sống như một con người”.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
trích dẫn những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước
Mỹ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Đó chính là những biểu
hiện của quyền con người một cách rõ rệt nhất.
Trên phương diện nghiên cứu khoa học pháp lý, theo Từ điển Luật học
của Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, 1999, thì Quyền con người là những
quyền mặc nhiên khi được sinh ra cho đến trọn đời mà không ai có quyền
tước bỏ. Đó là những quyền cơ bản của con người như: quyền sống, quyền tự
do, quyền bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc. Quyền con người là thành
quả của quá trình đấu tranh của nhân loại chống các lực lượng áp bức xã hội
và chế ngự tự nhiên, không phải tự nhiên mà có hay do thượng đế ban cho
như quan niệm của một số người phương Tây.
Ở nước ta hiện nay, quyền con người được quy định trong Hiến pháp
2013 và được thể chế hóa bằng các luật, đạo luật nhằm ghi nhận và bảo vệ
quyền con người trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, theo đó quyền con
người được quan niệm là quyền tự nhiên vốn có của con người từ lúc sinh ra
(kể cả đối với người quốc tịch nước ngoài, người không quốc tịch, người có
quốc tịch Việt Nam đã bị tước hoặc hạn chế một số quyền công dân).
Từ những quan niệm trên theo Tác giả, quyền con người là những nhu
cầu, lợi ích tự nhiên vốn có của mỗi con người như quyền sống, quyền tự do,
9
quyền bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc được pháp luật ghi nhận và bảo
vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử.
Điều 14, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội được công nhận,
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.
Quyền con người mang một số đặc điểm như sau:
Một là, quyền con người được ghi nhận trong hệ thống pháp luật của
quốc gia và được bảo đảm thực hiện.
Sự xác lập các quyền nghĩa vụ này tạo thành một chế định quan trọng
của Luật Hiến pháp - chế định quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân. Ở nhiều
nước chế định này gọi là quyền và nghĩa vụ của công dân (Nhật Bản), quyền
và nghĩa vụ của con người và công dân (Nga). Nhưng với đặc trưng được ghi
nhận trong Hiến pháp, tức được điều chỉnh bằng Hiến pháp, mà Hiến pháp là
đạo Luật cơ bản nên các quyền và nghĩa vụ này ở nhiều nước thường gọi là
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong Hiến pháp Việt Nam hiện
hành sử dụng cách gọi quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Với sự ghi
nhận bằng pháp luật các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm quyền
công dân được thực hiện và có cơ chế xử lý đối với hành vi vi phạm quyền
công dân của bất cứ đối tượng nào kể cả cơ quan quyền lực Nhà nước.
Hai là, quyền con người mang tính tự nhiên, vốn có.
Quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được
áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không
có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì, chẳng hạn như về chủng tộc, dân tộc,
giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân...Tuy nhiên, cũng cần lưu ý
là bản chất của sự bình đẳng về quyền con người không có nghĩa là cào bằng
mức độ hưởng thụ các quyền, mà là bình đẳng về tư cách chủ thể của quyền
con người.
10
Ba là, quyền con người là không thể chuyển nhượng.
Thể hiện ở chỗ các quyền con người không thể bị tước đoạt hay hạn
chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức
nhà nước, trừ một số trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như khi một người phạm
một tội ác thì có thể bị tước quyền tự do hoặc quyền sống.
Bốn là, quyền con người là không thể phân chia.
Thể hiện ở chỗ các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau,
về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào.
Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào đều tác động tiêu cực
đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người. Tuy nhiên, cần chú ý là
trong thực tế, tùy những bối cảnh cụ thể và với những đối tượng cụ thể, có thể
ưu tiên thực hiện một số quyền nhất định, miễn là phải dựa trên những cơ sở
và yêu cầu thực tế của việc bảo đảm các quyền đó chứ không phải dựa trên sự
đánh giá về giá trị của các quyền đó. Ví dụ, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-
19 đang lây lan trên khắp thế giới như hiện nay hoặc với những người bị bệnh
tật, quyền được ưu tiên thực hiện là quyền được chăm sóc y tế. Hoặc ở phạm
vi rộng hơn, các Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ (CEDAW) và Công ước về quyền trẻ em (CRC) đặt ra một số quyền
ưu tiên cần được bảo đảm với phụ nữ, trẻ em. Những ưu tiên như vậy không
có nghĩa là bởi các quyền được ưu tiên thực hiện có giá trị cao hơn, mà là bởi
các quyền đó trong thực tế thường bị bỏ qua, có nguy cơ bị đe dọa hoặc bị vi
phạm nhiều hơn so với các quyền khác.
Năm là, quyền con người có tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.
Thể hiện ở chỗ việc bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một
phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một
quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm
11
các quyền khác, và ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực
tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác.
Quyền con người xét về nguồn gốc tự nhiên là quyền của tất cả các cá
nhân, không liên quan đến việc nó có được ghi nhận trong pháp luật một Nhà
nước cụ thể nào không. Tuy nhiên khi quyền con người đã được cụ thể hóa
bằng pháp luật của một quốc gia và bảo đảm thực hiện trong một Nhà nước cụ
thể thì quyền con người chính là quyền và nghĩa vụ cơ bản của mỗi một công
dân. Việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền công dân chính là đã thực
hiện nội dung cơ bản của quyền con người. Chính vì vậy quyền con người có
các tích chất cơ bản sau:
Một là, quyền con người mang tính phổ biến, thể hiện ở chỗ quyền con
người là quyền bẩm sinh, gắn với bản chất con người, là di sản chung của loài
người. Quyền con người mang tính phổ quát vì con người ở đâu trên trái đất
này cũng đều là thành viên của cộng đồng nhân loại;
Hai là, quyền con người mang tính đặc thù, thể hiện ở việc quyền con
người mang những đặc trưng, bản sắc riêng tuỳ thuộc vào trình độ phát triển
kinh tế - xã hội, truyền thống văn hóa, lịch sử ở từng khu vực, quốc gia, vùng
lãnh thổ. Sự thừa nhận tính đặc thù của quyền con người cho phép các quốc
gia có quyền đưa ra những quy định pháp luật cụ thể, không trái với các
chuẩn mực quốc tế ghi trong các ĐƯQT về nhân quyền, như quy định hạn chế
đối với một số quyền dân sự, chính trị hoặc mức độ bảo đảm các quyền kinh
tế, văn hoá, xã hội;
Ba là, quyền con người mang tính giai cấp, tuy không phải nằm trong
nội dung các quyền mà được thể hiện trong việc thực thi quyền con người.
Với tư cách là chế định pháp lý, quyền con người gắn liền với nhà nước và
pháp luật - là những hiện tượng mang tính giai cấp sâu sắc.
12
Quyền con người vừa có tính phổ biến vừa có tính đặc thù được thể
hiện ở tính nhân loại gắn với tính giai cấp và tính dân tộc. Quá trình hình
thành, phát triển quyền con người có tính phổ biến toàn nhân loại, chứ không
phải là “phát hiện” đặc thù của riêng phương Tây. “Quyền con người là thành
quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của Nhân dân lao động và các
dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của
loài người làm chủ thiên nhiên, qua đó, quyền con người trở thành giá trị
chung của nhân loại”. Con người thể hiện và khẳng định quyền của mình
thông qua các mối quan hệ xã hội cụ thể.Vì thế, quyền con người, một mặt là
giá trị phổ biến của nhân loại, bao hàm những quyền và nguyên tắc được áp
dụng phổ biến ở mọi nơi, mọi đối tượng. Mặt khác, quyền con người còn
mang tính đặc thù của mỗi giai cấp, dân tộc và quốc gia theo trình độ phát
triển kinh tế - xã hội, đặc điểm văn hoá và truyền thống dân tộc. Tuyên bố
Viên và Chương trình hành động về quyền con người năm 1993 đã khẳng
định: “Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ cập, không thể chia cắt,
phụ thuộc lẫn nhau và liên quan đến nhau. Trong khi phải luôn ghi nhớ ý
nghĩa của tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối cảnh khác nhau về lịch sử, văn
hóa và tôn giáo, thì các quốc gia, không phân biệt hệ thống chính trị, kinh tế,
văn hoá, có nghĩa vụ đề cao và bảo vệ tất cả các quyền con người và các tự do
cơ bản”. Do đó, nhất thiết không thể đối lập tính phổ biến với tính đặc thù của
quyền con người và ngược lại. Trong bối cảnh thế giới hiện đại, quan điểm
kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù còn là cơ sở phương pháp luận khoa học
để nhận thức và giải quyết đúng các vấn đề cụ thể về quyền con người trong
quan hệ quốc gia và quốc tế. Đây là phương châm cơ bản để bảo đảm “hội
nhập” mà “không hòa tan” trong lĩnh vực nhân quyền.
13
1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung quyền con người trong vụ án ly
hôn có yếu tố nước ngoài
Hiện nay, chưa có tài liệu nào nghiên cứu và đưa ra được khái niệm cụ
thể về quyền con người trong vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên
qua phân tích khái niệm quyền con người nói chung ở trên ta có thể hiểu khái
niệm một cách chung nhất về quyền con người trong vụ án ly hôn có yếu tố
nước ngoài chính là quyền của các bên đương sự trong tố tụng dân sự có yếu
tố nước ngoài mà pháp luật quy định cho họ được hưởng như: quyền yêu cầu
được ly hôn, quyền được tham gia tố tụng, quyền cung cấp chứng cứ, quyền
được nuôi con, quyền được phân chia tài sản, quyền kháng cáo bản án sơ
thẩm… mà Tòa án chính là cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện việc xét xử
vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm
cho đương sự được thực hiện các quyền đó trong suốt quá trình xét xử vụ án
đúng với quy định của pháp luật.
Quyền con người trong vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài mang những
đặc điểm, nội dung như sau:
Một là, quyền yêu cầu xét xử ly hôn, quy định tại Điều 51 LHNGĐ
năm 2014.
Hai là, quyền đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn, quyền đưa ra yêu cầu
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ly hôn, quy định tại
Điều 72, Điều 73 BLTTDS 2015.
Ba là, quyền thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đương sự, quy định
tại các Điều 243, 244 BLTTDS 2015.
Bốn là, quyền tự thỏa thuận với nhau việc giải quyết vụ án hôn nhân và
gia đình của đương sự, quy định tại Điều 5, Điều 10 BLTTDS 2015.
Năm là, quyền chấp nhận, bác bỏ yêu cầu của người khác của đương
sự, quy định tại Điều 72 BLTTDS 2015.
14
Sáu là, quyền cung cấp chứng cứ và chứng minh bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự, quy định tại khoản 5 Điều 189 BLTTDS 2015.
Bảy là, quyền của đương sự yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp
chứng cứ và yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ, quy định tại các
Điều 97 và 106 BLTTDS 2015.
Tám là, quyền được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các
đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ các tài liệu, chứng cứ
có liên quan đến bí mật cá nhân, bí mật gia đình theo yêu cầu chính đáng của
đương sự, quy định tại Điều 70 BLTTDS 2015.
Chính là, quyền yêu cầu thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Thẩm tra viên, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Thư ký Tòa án, người giám
định, người phiên dịch, quy định tại các Điều 52, 53, 54, 60, 80, 82 BLTTDS
2015.
Mười là, quyền tham gia phiên tòa, phiên họp của đương sự, quy định
tại các Điều 227, 248 và 367 BLTTDS 2015.
Mười một là, quyền tranh tụng trong tố tụng dân sự: Tòa án có trách
nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm.
Mười hai là, quyền khiếu nại của đương sự đối với các quyết định,
hành vi tố tụng trái pháp luật: Để bảo đảm việc thực hiện quyền khiếu nại của
đương sự đối với các quyết định, hành vi tố tụng trái pháp luật; các Điều 499,
500, 501, 504, 505, 506, 512, 514 BLTTDS 2015.
Mười ba là, quyền tự bảo vệ hoặc nhờ Luật sư hay người khác bảo vệ
trong xét xử các vụ án ly hôn, quy định tại Điều 9 BLTTDS 2015.
Mười bốn là, quyền ủy quyền cho luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc
người khác đại diện trong tố tụng dân sự của đương sự.
15
1.1.1.3. Quy định của pháp luật về bảo vệ quyền con người trong vụ án
ly hôn có yếu tố nước ngoài
Bảo vệ quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự
trong các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài được quy định tại Điều 121,
LHNGĐ năm 2014, cụ thể:
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quan hệ hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài được tôn trọng và bảo vệ phù hợp với các quy định
của pháp luật Việt Nam và ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên.Trong quan hệ
hôn nhân và gia đình với công dân Việt Nam, người nước ngoài tại Việt Nam
có các quyền, nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt
Nam có quy định khác. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo
hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài trong quan
hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước
sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế.
Tại khoản 4 Điều 5 của LHNGĐ năm 2014 quy định: danh dự, nhân
phẩm, uy tín, bí mật đời tư và các quyền riêng tư khác của các bên được tôn
trọng, bảo vệ trong quá trình giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình.
Về tài sản, Điều 33, LHNGĐ năm 2014 quy định:
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài
sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp
được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được
thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa
thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết
hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa
kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản
16
riêng. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng
để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng
đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài
sản chung.
Điều 81, LHNGĐ năm 2014 quy định:
Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực
hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự
nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên
quan. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của
mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì
Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi
về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện
vọng của con. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ
trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích
của con.
Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên
thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom,
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng
của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận
được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ
và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.
17
1.1.2. Quan niệm về ly hôn và ly hôn có yếu tố nước ngoài
1.1.2.1. Quan niệm về ly hôn
Theo Lê Nin: “Thực ra tự do ly hôn tuyệt không có nghĩa là làm “tan
rã” những mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ
đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc
trong xã hội văn minh”.
Trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin về tự do hôn nhân, trong
đó có tự do kết hôn và tự do ly hôn, pháp luật của nước ta bảo đảm cho vợ
chồng quyền tự do ly hôn. Ly hôn là mặt trái của quan hệ hôn nhân, đồng thời
là mặt không thể thiếu khi quan hệ hôn nhân thực chất tan vỡ. Khi quan hệ vợ
chồng mâu thuẫn đến mức vợ chồng không thể tiếp tục sống chung thì họ có
quyền yêu cầu ly hôn. Quyền ly hôn chỉ thuộc về vợ, chồng (tức là thuộc về
cá nhân đó). Quan điểm của nhà nước ta là cho phép vợ chồng được tự do ly
hôn, nhưng quyền tự do đó được đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của nhà nước
và tuân theo các quy định của pháp luật, nhằm tránh hiện tượng vợ chồng lạm
dụng gây hậu quả xấu cho gia đình và xã hội, đồng thời cũng tránh việc giải
quyết ly hôn tùy tiện. Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của vợ, chồng hoặc
công nhận thuận tình ly hôn của cả hai vợ chồng phải dựa vào thực chất quan
hệ vợ chồng và phải phù hợp với các căn cứ ly hôn mà pháp luật quy định.
Khi vợ, chồng ly hôn, các quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng về nhân thân và
tài sản, quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng đối với con cái sẽ được giải quyết
theo pháp luật. Kể từ ngày bản án cho ly hôn hoặc quyết định công nhận
thuận tình ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì quan hệ hôn nhân chấm
dứt trước pháp luật. Ly hôn là giải pháp cho những cặp vợ chồng mà cuộc
sống chung của họ đã mất hết ý nghĩa và họ không thể cùng sống chung để
xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
18
Theo pháp luật Việt Nam, cơ sở pháp lý để chấm dứt một quan hệ hôn
nhân bằng việc ly hôn là một bản án hoặc quyết định của Tòa án. Điều 39,
BLDS năm 2015 quy định: “Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn…”. Tuy nhiên,
khái niệm ly hôn chỉ được quy định rõ tại LHNGĐ. Cụ thể, theo quy định tại
khoản 14 Điều 3 LHNGĐ năm 2014 thì: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ
chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án".
Xét về mặt xã hội, ly hôn chính là giải pháp giải quyết sự khủng
khoảng trong mối quan hệ vợ chồng. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhưng
đồng thời nó cũng là mặt không thể thiếu khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ còn
là hình thức vì tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có tiếng nói
chung. Trong quan hệ hôn nhân, việc kết hôn giữa nam và nữ được xây dựng
trên cơ sở tự nguyện, hợp pháp mà tình cảm và sự đồng cảm giữa hai bên là
nguồn cội của sự tự nguyên. Khi tình cảm vợ chồng không còn, kết hợp với
nhiều yếu tố khác khiến cho quan hệ hôn nhân rạn nứt thì giải pháp hữu hiệu
nhất và cũng là thông dụng nhất mà các cặp vợ chồng hướng tới là ly hôn.
Như vậy, pháp luật không có quyền yêu cầu nam nữ phải kết hôn khi họ
không tự nguyện và cũng không có quyền từ chối khi họ có nhu cầu ly hôn.
Việc ly hôn nhằm giải phóng cho vợ, chồng khỏi cuộc sống chung đầy đau
khổ hiện tại, giúp thoát khỏi những mâu thuẫn sâu sắc mà không thể giải
quyết được.
Về mặt pháp lý, quan hệ vợ chồng được phát sinh kể từ khi vợ, chồng
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn
và chỉ chấm dứt khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án
công nhận về việc ly hôn. Trên thực tế, có nhiều cặp vợ chồng không còn tình
cảm với nhau, không sống cùng nhau, độc lập về kinh tế cũng như các hoạt
động cá nhân khác nhưng không có quyết định hoặc bản án của Tòa án công
nhận về việc ly hôn giữa hai vợ chồng thì về mặt pháp lý quan hệ giữa hai
19
người vẫn là quan hệ vợ chồng, vẫn bị ràng buộc với nhau bởi các quy định
của pháp luật liên quan đến quan hệ giữa vợ và chồng.
Trên cơ sở đó có thể hiểu một cách tổng quát nhất ly hôn là chấm dứt
quan hệ hôn nhân do Tòa án quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc
cả hai vợ chồng, hủy bỏ trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm của hôn nhân và
các ràng buộc dân sự khác. Tòa án là cơ quan duy nhất có trách nhiệm ra phán
quyết chấm dứt quan hệ hôn nhân của vợ chồng. Phán quyết ly hôn của Tòa
án được thể hiện dưới hai hình thức: bản án hoặc quyết định. Nếu hai bên vợ
chồng thuận tình ly hôn thỏa thuận với nhau giải quyết được tất cả các nội
dung quan hệ vợ chồng khi ly hôn thì Tòa án công nhận ra phán quyết dưới
hình thức Quyết định. Nếu vợ chồng có mâu thuẫn, tranh chấp thì Tòa án ra
phán quyết dưới dạng bản án ly hôn.
1.1.2.2. Quan niệm về ly hôn có yếu tố nước ngoài
Ly hôn có yếu tố nước ngoài đã được quy định trong LHNGĐ từ năm
1986. Tuy nhiên, trong LHNGĐ năm 1986 đã không quy định như thế nào là
ly hôn có yếu tố nước ngoài và cũng không quy định Tòa án nào có thẩm
quyền giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài theo thủ tục sơ thẩm, trình tự
thủ tục giải quyết tại Tòa án cấp sơ thẩm là như thế nào...
LHNGĐ trước đây đã dành nhiều điều luật để quy định về vấn đề ly
hôn có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, cho đến nay, trải qua nhiều lần sửa đổi,
bổ sung LHNGĐ cũng như các văn bản pháp luật khác vẫn chưa có quy định
rõ ràng, định nghĩa cụ thể thế nào là “Ly hôn có yếu tố nước ngoài".
Tại khoản 2 Điều 663 của BLDS năm 2015 quy định về khái niệm quan
hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường
hợp sau đây: có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân
nước ngoài; các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam
nhưng viêc xác lập, thay đổi, thực hiện hoăc chấm dứt quan hệ đó xay ra tại
20
nước ngoài; các bên tham gia đều là công dân Viêt Nam, pháp nhân Việt Nam
nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.
Quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung và quan hệ ly hôn có yếu tố
nước ngoài nói riêng thuộc phạm trù quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nên
có thể áp dụng toàn bộ quy định của BLDS về vấn đề quan hệ dân sự có yếu
tố nước ngoài để kết hợp với luật chuyên ngành để giải quyết quan hệ ly hôn
có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, việc xây dựng được khái niệm ly hôn có yếu
tố nước ngoài một cách đầy đủ, toàn diện và chuẩn mực trong đạo luật chuyên
ngành là cần thiết.
Khoản 25 Điều 3 LHNGĐ năm 2014 đã quy định rõ về quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Mặt khác, ly hôn theo quy định tại BLTTDS năm 2015 được xem là
một vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Điều 464 Bộ luật
này có quy định rõ thế nào là một vụ việc dân sự: “các bên tham gia đều là
công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó
ở nước ngoài”.
Từ những vấn đề trên theo tác giả “Ly hôn có yếu tố nước ngoài là việc
chấm dứt quan hệ vợ chồng giữa vợ và chồng mà ít nhất một trong hai bên là
người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; hoặc giữa công dân
Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ hôn
nhân theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài; hoặc tài sản liên
quan đến việc ly hôn ở nước ngoài ”.
Từ các cơ sở trên ta có thể thấy quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài
tồn tại các yếu tố sau:
- Yếu tố chủ thể:
Quan hệ ly hôn được coi là có yếu tố nước ngoài khi có ít nhất một
trong các bên chủ thể tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư
21
ở nước ngoài. Pháp luật Việt Nam quy định người nước ngoài là người không
có quốc tịch Việt Nam, bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và người
không quốc tịch.
- Yếu tố làm chấm dứt quan hệ hôn nhân:
Bao gồm căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ hôn nhân. Đó
chính là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ hôn nhân. Điều kiện để xác
định việc ly hôn có yếu tố nước ngoài hay không trong trường hợp này là sự
kiện pháp lý đó phải theo pháp luật nước ngoài hoặc xảy ra ở nước ngoài.
Đối với những quan hệ này, yếu tố chủ thể không được đặt ra. Nghĩa là,
trong trường hợp các bên chủ thể tham gia đều là công dân Việt Nam, nhưng nếu
sự kiện pháp lý là chấm dứt quan hệ hôn nhân xảy ra ở nước ngoài hoặc theo
pháp luật nước ngoài thì quan hệ đó là quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài.
- Yếu tố vị trí của tài sản liên quan đến quan hệ ly hôn:
Trong trường hợp này, không cần xét đến hai yếu tố trên, nếu tài sản
liên quan đến quan hệ ly hôn không nằm trên lãnh thổ Việt Nam mà ở nước
ngoài, thì quan hệ đó cũng được coi là quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài.
Bên cạnh đó, một quan hệ ly hôn khi không xét đến cả ba yếu tố trên
nhưng nếu quan hệ ly hôn chấm dứt bằng một bản án, quyết định ly hôn của
Tòa án hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài thì đó cũng là một
trong những dấu hiệu xác định quan hệ ly hôn đó là quan hệ ly hôn có yếu tố
nước ngoài.
Như vậy, để xác định một quan lệ ly hôn có yếu tố nước ngoài cần xét
đến một trong các yếu tố trên, nếu đáp ứng điều kiện đối với ít nhất một yếu
tố để quan hệ ly hôn đó trở thành quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài thì
không cần xét đến các yếu tố còn lại.
Có thể khẳng định ly hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt
Nam là quan hệ ly hôn giữa công dân Việt Nam với công dân nước ngoài,
22
giữa công dân Việt Nam với người không quốc tịch; giữa người nước ngoài
với nhau thường trú tại Việt Nam; giữa công dân Việt Nam với nhau mà có
căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài;
hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài; giữa công dân Việt Nam
với nhau mà một hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài.
Tóm lại, ly hôn có yếu tố nước ngoài là chấm dứt quan hệ hôn nhân có
yếu tố nước ngoài do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ
hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng.
1.1.2.3. Xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài
Xét xử nói chung là hoạt động đặc trưng, là chức năng nhiệm vụ của
Tòa án. Tòa án là cơ quan duy nhất được đảm nhiệm chức năng xét xử. Mọi
bản án do Tòa án tuyên đều phải qua xét xử. Phán quyết của Tòa án là phán
quyết của cơ quan thay mặt Nhà nước nhằm khôi phục trật tự nếu nó bị xâm
phạm, hoặc nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng của công dân, của
tập thể, của quốc gia và xã hội. Vì vậy, đây là một hoạt động quyền lực nhà
nước đặc thù, nó không đơn thuần chỉ là dàn xếp, hòa giải, mặc dù về thực
chất, dàn xếp và hòa giải cũng có mục đích như vậy và do đó, có mối liên
quan khăng khít với hoạt động xét xử.
Hoạt động xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước nhằm
xem xét, đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của
hành vi pháp luật hay quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn
giữa các bên có lợi ích khác nhau trong các tranh chấp hay mâu thuẫn đó.
Yếu tố “nhân danh quyền lực nhà nước” trong hoạt động xét xử có
nghĩa rằng, đây không phải là hoạt động của cá nhân công dân, cũng không
phải là hoạt động xã hội hay nghiệp đoàn. Và do đó, khi cần thiết, phán quyết
của cơ quan nhân danh Nhà nước được bảo đảm thi hành bởi sự cưỡng chế
hợp pháp của Nhà nước; “xem xét, đánh giá và ra phán quyết” là những yếu
23
tố đặc trưng của hoạt động xét xử và do đó, có thể gọi hoạt động tư pháp là
hoạt động xét xử. Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định: “TAND là cơ quan xét
xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.
Trong tranh chấp hay xung đột mà Tòa án xem xét và phán quyết phải có từ
hai chủ thể trở lên có vị trí độc lập đối với nhau về lợi ích, chứ không thể chỉ
là sự dàn xếp cho những người khác nhau về địa vị, nhưng không có gì tranh
chấp với nhau. Do đó, có thể gọi sự tranh chấp của các chủ thể khác nhau về
lợi ích này là sự tranh tụng (nên còn được gọi là “tố tụng” - tố tụng dân sự, tố
tụng hình sự...). Bất kỳ một hoạt động nào có hàm chứa những nội dung trên
thì đều có thể được coi là hoạt động xét xử, dù nó thuộc lĩnh vực nào: hình sự,
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính.
- Về đặc điểm xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài:
+ Tòa án chỉ thụ lý xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nếu vợ
chồng trong quan hệ đó đã đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền của Việt Nam, tuân theo pháp luật Việt Nam hoặc việc đăng ký kết hôn
của họ được công nhận trên lãnh thổ Việt Nam, hoặc việc kết hôn của họ đã
được hợp pháp hóa lãnh sự và đã được ghi chú vào sổ các thay đổi về hộ tịch
theo quy định của pháp luật.
+ Đơn khởi kiện xin ly hôn của đương sự ở nước ngoài phải được
chứng thực hợp pháp, tức là phải được hợp pháp hóa lãnh sự nếu đương sự là
người nước ngoài, hoặc phải được xác nhận của cơ quan đại diện ngoại giao
của Việt Nam ở nước ngoài nơi công dân đó đang cư trú nếu đương sự là
công dân Việt Nam đang ở nước ngoài.
+ Việc tiến hành các bước tố tụng như lấy lời khai của đương sự, tống
đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho đương sự ở nước ngoài, việc điều tra,
xác minh, thu thập chứng cứ ở nước ngoài phải được thực hiện qua con đường
ngoại giao, Tòa án UTTP theo quy định chung của Tư pháp quốc tế.
24
+ Thủ tục hòa giải trong vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài đối với
đương sự đang ở nước ngoài không được đặt ra, coi như trường hợp không
thể hòa giải nên Tòa án không phải báo gọi đương sự ở nước ngoài về tham
gia phiên hòa giải. Tuy nhiên đối với đương sự ở nước ngoài về nước trong
thời gian Tòa án hòa giải thì Tòa án vẫn tiến hành hòa giải đối với họ theo thủ
tục chung.
+ Tòa án không phải triệu tập đương sự ở nước ngoài tham gia tố tụng
tại phiên tòa, trường hợp này Tòa án chỉ thông báo cho họ biết việc Tòa án
mở phiên tòa. Tuy nhiên pháp luật không quy định Tòa án thông báo cho họ
trong thời hạn bao lâu từ khi thông báo đến khi mở phiên tòa.
+ Sau khi Tòa án xét xử thì việc Tòa án tống đạt bản án, quyết định của
Tòa án cho đương sự ở nước ngoài cũng được thực hiện qua con đường UTTP.
+ Việc xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài được thực hiện
trên nguyên tắc tôn trọng các Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kế hoặc tham
gia; người nước ngoài tại Việt Nam được hưởng các quyền và có nghĩa vụ tố
tụng như công dân Việt Nam, bên cạnh đó nhà nước ta cũng bảo hộ quyền lợi
ích hợp pháp của công dân Việt Nam, pháp luật của nước sở tại và tập quán
quốc tế trên cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong
quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài.
- Về nội dung, trình tự thủ tục xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài:
Ở Việt Nam cũng như hầu hết các quốc gia trên thế giới, Tòa án là cơ
quan duy nhất có thẩm quyền xét xử các vụ án ly hôn và ly hôn có yếu tố
nước ngoài. Khi xét xử các vụ án ly hôn Tòa án phải thực hiện đúng nhiệm
vụ, quyền hạn và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của mình. Tòa án tiến hành các hoạt động tố tụng theo trình tự,
thủ tục và những nguyên tắc cơ bản được quy định trong luật tố tụng dân sự.
25
Vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài cũng phát sinh tại Tòa án từ khi vợ
chồng hoặc cả hai vợ chồng có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Tòa án
tiến hành giải quyết qua nhiều thủ tục tố tụng khác nhau như: nhận đơn khởi
kiện, thụ lý vụ án, điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ, hòa giải, chuẩn bị
xét xử, đưa vụ án ra xét xử, ra bản án, quyết định, cụ thể như sau:
Sau khi xem xét đơn khởi kiện của người khởi kiện, Tòa án kiểm tra
đơn cùng các tài liệu kèm theo để nghiên cứu, nếu thấy đủ điều kiện thụ lý thì
Tòa án thông báo cho họ để họ tiến hành nộp án phí ly hôn. Sau khi người
khởi kiện đã nộp án phí ly hôn và nộp biên lai cho Tòa án, trong thời hạn luật
định Tòa án phải cho tiến hành thụ lý vụ án để giải quyết. Tòa án chỉ thụ lý
giải quyết các vụ việc ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và tiến
hành các hoạt động tố tụng theo trình tự, thủ tục chung.
Trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài thì việc
xác định thẩm quyền giải quyết, quyền khởi kiện, điều kiện khởi kiện, tư cách
đương sự là rất quan trọng, tiền đề cho các giai đoạn tố tụng tiếp theo.
Như vậy xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài là việc Tòa án có
thẩm quyền tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật về
giải quyết vụ án theo các giai đoạn tố tụng từ khởi kiện, thụ lý vụ án, chuẩn bị
xét xử, hoà giải và mở phiên toà xét xử vụ án để ra phán quyết theo đúng quy
định của pháp luật. Khi xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, Tòa án
phải tiến hành theo trình tự, thủ tục được quy định trong pháp luật tố tụng dân
sự, một mặt phải đảm bảo lợi ích của chủ thể tham gia quan hệ đó, một mặt
phải đảm bảo thực hiện đúng đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, bảo đảm việc mở rộng và phát triển quan hệ hợp tác quốc tế tốt
đẹp giữa nước ta với các nước khác trên thế giới.
- Về chủ thể:
26
Chủ thể của vụ án ly hôn và ly hôn có yếu tố nước ngoài là những
người tham gia tố tụng, bao gồm:
+ Nguyên đơn: là người khởi kiện, trong vụ án ly hôn nguyên đơn phải
là vợ hoặc chồng, Tòa án chỉ thụ lý vụ án ly hôn trên cơ sở sự tự nguyện yêu
cầu ly hôn của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng. Nếu thiếu sự tự nguyện
yêu cầu ly hôn thì Tòa án không giải quyết cho ly hôn vì có thể là do bị cưỡng
ép ly hôn, lừa dối ly hôn, thuận tình ly hôn giả để che dấu một nội dung khác.
+ Bị đơn: là người bị nguyên đơn khởi kiện, trong vụ án ly hôn bị đơn
có thể là vợ hoặc chồng bị nguyên đơn khởi kiện.
+ Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: là trường hợp những người
tham gia tố tụng trong vụ án ly hôn tuy không có đơn khởi kiện, không bị
kiện nhưng việc giải quyết vụ án ly hôn có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ
của họ mà Tòa án đưa họ vào tham gia tố tụng. Đối với người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan pháp luật chia thành người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
có yêu cầu độc lập và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu
cầu độc lập, họ có thể đứng về phía nguyên đơn hoặc đứng về phía bị đơn.
+ Người đại diện của đương sự: cũng giống như các vụ án dân sự khác,
trong vụ án ly hôn có thể xuất hiện tư cách của người đại diện của đương sự
có thể là đại diện theo ủy quyền hoặc đại diện theo pháp luật. Khi vợ chồng ly
hôn thì họ có thể ủy quyền cho người khác thay mặt họ giải quyết một số
quan hệ như về con cái hay quan hệ tài sản. Ly hôn là một quan hệ đặc biệt,
do vậy có 3 quan hệ trong vụ án ly hôn đó là quan hệ nhân thân, quan hệ con
cái và quan hệ tài sản. Ở quan hệ thứ nhất vợ chồng không được phép ủy
quyền cho người khác thay mặt họ để giải quyết mà họ phải tự tham gia, bởi
đó là là quyền nhân thân không thể tách rời, do vậy đối với việc ly hôn, đương
sự phải tự mình tham gia mà không được ủy quyền cho người khác.
27
Đối với vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nếu đương sự đang ở nước
ngoài mà có ủy quyền cho người khác thay mặt họ tham gia tố tụng thì Tòa án
cũng phải kiểm tra xem thủ tục ủy quyền đúng chưa, giấy ủy quyền đó đã
được hợp pháp hóa lãnh sự chưa, nội dung ủy quyền đến đâu để xác định
người được ủy quyền có thực hiện đúng nội dung được ủy quyền không, thực
hiện có vượt quá phạm vi được ủy quyền hay không. Trong thực tiễn xét xử
cho thấy có trường hợp đương sự chỉ ủy quyền cho người khác thay mặt mình
tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng người được ủy quyền lại thực hiện hành
vi vượt quá phạm vi được ủy quyền như rút đơn khởi kiện. Có trường hợp
đương sự ủy quyền chết, quá trình giải quyết vụ án Tòa án chỉ báo gọi người
đại diện theo ủy quyền của họ đến để giải quyết vụ án và vẫn xác định người
đã chết trong vụ án là đương sự, đây là những trường hợp vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng.
1.1.3. Bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án ly hôn có yếu tố
nước ngoài
1.1.3.1. Khái niệm bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án ly hôn có
yếu tố nước ngoài
Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử,
thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân. Vì vậy, bảo vệ quyền con
người trong xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài đòi hỏi phải tiếp cận
trong tổng thể quyền con người được quy định trong Hiến pháp và các văn
bản pháp luật khác gắn với toàn bộ quá trình tố tụng dân sự, từ giai đoạn khởi
kiện đến thụ lý, đến xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và ra bản án và thi hành án ly
hôn, cũng như các thủ tục khác của tố tụng dân sự như thủ tục rút gọn, cung
cấp và bảo vệ chứng cứ, thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
28
pháp luật và cả trong các tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và
thực hiện pháp luật tố tụng.
Từ những nghiên cứu cụ thể của bản thân trong quá trình xét xử các vụ
án ly hôn có yếu tố nước ngoại tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, theo
quan điểm của tác giả, bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án ly hôn có
yếu tố nước ngoài là việc Tòa án có thẩm quyền đưa ra các quyết định theo
đúng quy định của pháp luật, phát hiện được những sai sót cần phải sửa, đồng
thời bảo đảm quyền hợp pháp của đương sự không bị vi phạm, không bị mất
đi trong quá trình xét xử vụ án.
1.1.3.2. Hình thức bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án ly hôn có
yếu tố nước ngoài
Bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài
là một phần hợp thành của việc bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tố
tụng dân sự nói chung, vì vậy bảo đảm vệ quyền con người của đương sự
trong vụ án ly hôn nói chung và ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng có
cùng đặc điểm giống nhau. Quyền con người ở đây thực chất là những quyền
được thể hiện trong quá trình xét xử một vụ án ly hôn và có những đặc thù
riêng về chủ thể, phạm vi và nội dung:
Xét về ngôn ngữ học,“bảo vệ” được hiểu là chống lại mọi sự xâm
phạm để giữ cho luôn luôn được nguyên vẹn. Theo đó, nội dung của việc bảo
vệ gồm hai hoạt động: một là, chống lại các hành vi xâm phạm; hai là, giữ gìn
cho luôn được nguyên vẹn. Còn bảo đảm là, “làm cho chắc chắn thực hiện
được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết”; hoặc là “hứa chịu
trách nhiệm về điều gì”, “cam đoan giữ được, làm được đầy đủ”. Bảo đảm là
điều kiện cần phải có để thực hiện một điều gì, công việc gì. Như vậy, bảo
đảm và bảo vệ là hai vấn đề khác nhau nhưng có nội dung tiếp giáp nhau và
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Bảo vệ chỉ đặt ra khi các quyền lợi hợp pháp
29
bị xâm phạm, còn bảo đảm là tạo ra các điều kiện cần thiết để chủ thể thực
hiện được các quyền lợi hợp pháp ngay cả khi không có sự xâm phạm.
Từ những phân tích trên, có thể thấy, vấn đề bảo vệ quyền con người
trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài chỉ đặt ra khi có hành vi
xâm phạm tới quyền. Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
là năng lực pháp luật tố tụng dân sự của các chủ thể và mọi chủ thể đều được
bình đẳng về quyền. Trong tố tụng dân sự, dựa vào tính chất của từng loại
quan hệ dân sự mà nhà lập pháp xây dựng các thủ tục phù hợp để giải quyết
các quan hệ đó. Việc xây dựng các thủ tục tố tụng phù hợp giúp cho việc bảo
vệ quyền lợi hợp pháp được nhanh chóng, hiệu quả và tiết kiệm. Hiện nay,
thủ tục xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài được bắt đầu bằng hành vi
nộp đơn khởi kiện tại Tòa án. Như vậy, quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ được
thể hiện qua hình thức là khởi kiện vụ án ly hôn tại Tòa án. Điều này được cụ
thể hóa tại khoản 1 Điều 4 BLTTDS năm 2015: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân
do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết
việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác”. So với BLTTDS năm 2004
(sửa đổi, bổ sung năm 2011), BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thêm vai trò của
Tòa án trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân để
phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013.
Quyền con người, quyền công dân của đương sự thể hiện nổi bật đầu
tiên trong nguyên tắc quy định tại Điều 4 của BLTTDS năm 2015, đó là
quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. So với BLTTDS năm
2004, BL TTDS năm 2015 đã mở rộng quyền công dân tiếp cận Tòa án để
yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bằng quy định “Tòa án không được từ
chối giải quyết vụ việc dân sự vì chưa có luật để áp dụng”.
30
Quyền tiếp theo được BLTTDS năm 2015 ghi nhận rất cụ thể tại Điều 5
là quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Đương sự là chủ thể của
quyền và lợi ích hợp pháp nên đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện,
yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Vì vậy, Tòa án chỉ
có thể thụ lý để giải quyết vụ việc dân sự khi có yêu cầu của đương sự, đồng
thời Tòa án cũng chỉ được giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự.
Không chỉ dừng ở đó, BLTTDS năm 2015 còn quy định rõ trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của
mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm
của luật và không trái đạo đức xã hội.
Vì đương sự là chủ thể của quyền, lợi ích nên họ hiểu rõ nhất quyền, lợi
ích của mình, từ đó họ sẽ là chủ thể chứng minh hiệu quả nhất. Nhằm bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của họ, BLTTDS năm 2015 đã ghi nhận đương
sự vừa có quyền, vừa có nghĩa vụ chứng minh. Quyền bình đẳng giữa các
đương sự được quy định tại Điều 8 BLTTDS năm 2015 cũng là một quyền thể
hiện rất rõ nguyên tắc bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố
tụng dân sự. Đây không còn là quyền bình đẳng trước pháp luật nói chung mà
là quyền bình đẳng, quyền ngang bằng giữa các đương sự trong vụ việc dân
sự. Ngoài các quyền trên, Điều 9, Điều 10 BLTTDS năm 2015 còn nhấn
mạnh những quyền khác của đương sự như quyền tự mình tham gia tố tụng
hoặc nhờ luật sư, người khác hỗ trợ mình tham gia tố tụng; quyền thỏa thuận
với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự. Các quyền này thực sự là những
cơ sở pháp lý vững chắc để đương sự tự tin tham gia tố tụng, thể hiện rất rõ
quyền con người, quyền công dân của đương sự.
BLTTDS năm 2015 quy định trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo
đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự. Tòa án,
người tiến hành tố tụng là một chủ thể trong tố tụng dân sự nên nguyên tắc
31
tuân thủ pháp luật cũng đặt ra cho nhóm chủ thể này và đây cũng là nguyên
tắc nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân của đương sự. Có tuân
thủ pháp luật thì việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án mới khách quan,
công bằng và đúng đắn. Có tuân thủ pháp luật thì hoạt động tiến hành tố tụng
của người tiến hành tố tụng trong việc giải quyết yêu cầu của đương sự mới
minh bạch, không thể lạm dụng quyền hạn của mình. Có thể nói, trách nhiệm
phải tuân thủ pháp luật được đặt ra đầu tiên cho các chủ thể trong các vụ án ly
hôn có yếu tố nước ngoài là cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân của đương sự trong các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.
1.1.3.3. Trách nhiệm của các chủ thể tham gia xét xử vụ án trong bảo
vệ quyền con người
Chủ thể trực tiếp tham gia xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài
là những người tiến hành tố tụng, đó là Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Kiểm sát
viên và các Hội thẩm nhân dân. Khi xét xử vụ án ly hôn Tòa án phải áp dụng
pháp luật để giải quyết vụ án trong suốt quá trình tiến hành tố tụng từ khi
đương sự có đơn khởi kiện tại Tòa án, Tòa tiến hành thụ lý vụ án, điều tra, thu
thập chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, ra bản án, quyết định và phải
do người tiến hành tố tụng thực hiện theo trình tự, thủ tục được quy định
trong pháp luật tố tụng dân sự. Vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài thường nảy
sinh các quan hệ đa dạng, phức tạp. Do vậy, khi xét xử từng vụ việc cụ thể đòi
hỏi người tiến hành tố tụng phải đặc biệt linh hoạt để áp dụng pháp luật cho
phù hợp với quan hệ đó. Nếu đội ngủ Thẩm phán, Thư ký tham gia tố tụng do
nhận thức, năng lực trình độ hạn chế, sẽ dẫn đến các quyền con người cần
được bảo vệ trong quá trình xét xử khó có thể bảo đảm một cách trọn vẹn.
Trong quá trình tiến hành tố tụng, muốn bảo đảm quyền con người
trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, các chủ thể khi được
Chánh án Tòa án phân công xét xử phải thực hiện đúng các quy định của pháp
32
luật tố tụng và các văn bản pháp luật khác có liên quan; luôn nhiệt tình, trung
thực, thận trọng, công tâm, khách quan toàn diện, đảm bảo tính công khai,
dân chủ, nghiêm minh trong xét xử; biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến của các
bên đương sự.
Kể từ khi tiếp nhận đơn khởi kiện ly hôn cho đến khi xét xử vụ án,
Thẩm phán, Thư ký phải giải thích, hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho
đương sự để họ thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của
pháp luật. Tiếp xúc với đương sự phải đúng nơi quy định, bảo đảm tính khách
quan, minh bạch, rõ ràng, không gây sách nhiễu, trì hoãn hoặc chậm trễ, gây
khó khăn phiền hà cho đương sự...Không được làm sai lệch hồ sơ vụ án, kết
quả xét xử vụ án; truy ép, gợi ý cho đương sự trình bày sự việc theo ý muốn
chủ quan của mình hoặc của người khác, đồng thời không được tiết lộ bí mật
đời tư của các đương sự trừ các trường hợp pháp luật có quy định. Những quy
định này thực sự là căn cứ pháp lý hữu hiệu để bảo đảm quyền con người,
quyền công dân của đương sự trong vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.
1.2. Những yếu tố tác động và điều kiện đảm bảo quyền con người
trong xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài
1.2.1. Yếu tố khách quan
1.2.1.1. Yếu tố pháp luật
Quyền con người và pháp luật là hai yếu tố không thể tách rời mà có
tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Quyền con người chỉ tồn tại
khi nó được xã hội thừa nhận và được pháp luật công nhận, bảo vệ. Còn Pháp
luật là tiền đề, là nền tảng tạo cơ sở pháp lý để Tòa án bảo đảm quyền con
người, là phương tiện chính thức hoá các giá trị xã hội của quyền con người
làm cho quyền con người trở thành ý chí và mục tiêu hành động của xã hội.
Thông qua pháp luật, quyền con người được lên tiếng bảo vệ. Để bảo đảm
quyền con người, pháp luật đưa ra những điều cấm và những hành vi bắt buộc
33
phải làm nhằm ngăn ngừa và chống lại các hành vi vi phạm các quyền đó.
Pháp luật được coi là một điều kiện thiết yếu để bảo đảm quyền con người
trong hoạt động giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình và có vai trò là
phương tiện pháp lý để công dân được bảo đảm các quyền của mình khi tham
gia hoạt động giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình với tư cách là
đương sự. Vậy nên hệ thống pháp luật nói chung cũng như pháp luật về tố
tụng dân sự, pháp luật về hôn nhân và gia đình nói riêng khi cần thiết phải
được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện để thực sự trở thành một hành lang pháp
lý thông suốt, minh bạch, thuận lợi để bảo đảm quyền con người, quyền công
dân trong lĩnh vực giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và vụ việc hôn
nhân và gia đình nói riêng.
Với các quy định của pháp luật còn tạo ra nhiều thiết chế giám sát, đối
trọng như gia tăng vai trò của luật sư, tăng cường vai trò kiểm sát tư pháp của
Viện kiểm sát và vai trò giám sát xã hội của các cơ quan, cá nhân, tổ chức
khác đối với vấn đề bảo đảm quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn
có yếu tố nước ngoài.
1.2.1.2 . Yếu tố văn hóa pháp lý
Văn hóa pháp lý bao gồm ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật, việc
thực hiện pháp luật và những con người áp dụng pháp luật. Văn hóa là cái tự
thân trong mỗi cá nhân con người cũng như đặc điểm, cách ứng xử chung,
mang tính phổ biến, mang tính tích cực và tiến bộ của cả cộng đồng người. Ý
thức pháp luật là một thành tố quan trọng của văn hóa pháp lý. Ý thức pháp
luật nếu phân chia theo cấu trúc, trước hết bao gồm ý thức pháp luật nhóm và
ý thức pháp luật cá nhân. Theo lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, ý
thức pháp luật nhóm phản ánh quan điểm, tư tưởng, tình cảm của một nhóm
xã hội nhất định về pháp luật, ý thức pháp luật cá nhân phản ánh quan điểm,
tư tưởng, tình cảm của một cá nhân cụ thể về pháp luật. Về lý thuyết, trong
34
lĩnh vực tố tụng dân sự, nhóm xã hội này là các chủ thể sử dụng pháp luật và
áp dụng pháp luật, có hiểu biết sâu sắc về pháp luật và có địa vị trong xã hội,
chính vì vậy, nếu có hành vi trái pháp luật trong hoạt động nghề nghiệp, hoạt
động tố tụng, thì những hành vi trái pháp luật chủ yếu xuất phát từ sự cẩu thả,
tắc trách, thiếu trách nhiệm, hoặc cố ý thực hiện hành vi trái pháp luật vì động
cơ cá nhân, vì tham nhũng hoặc vì các quan hệ chính trị, xã hội mang tính tiêu
cực khác. Do vậy vấn đề bảo đảm quyền con người khi thực hiện xét xử các
vụ án dân sự nói chung và vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng sẽ
không được bảo đảm. Ngược lại, sẽ không thể bảo đảm được quyền con
người trong hoạt động xét xử các vụ án ly hôn nếu chính bản thân công dân
không ý thức được về quyền của mình, không đóng vai trò chủ động trong
quá trình thực hiện pháp luật. Sự tự ý thức của công dân giúp cho công dân
hiểu rõ về giới hạn quyền của bản thân và những nghĩa vụ mà họ cũng phải
thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình.
1.2.2. Yếu tố chủ quan
Để bảo đảm quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố
nước ngoài, ngoài các quy định của pháp luật, mỗi quốc gia còn cần xây dựng
một hệ thống các cơ quan Nhà nước và đội ngũ công chức Nhà nước tại cơ
quan tư pháp có ý thức trách nhiệm với công dân, có lương tâm và đạo đức
nghề nghiệp. Trong hoạt động đảm bảo quyền con người của công dân nói
chung và đảm bảo quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án ly hôn
có yếu tố nước ngoài nói riêng. Nếu như cơ quan lập pháp có chức năng xây
dựng và ban hành các văn bản pháp luật ghi nhận các quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quy định các biện pháp cũng như trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền
công dân; Cơ quan hành pháp lại có chức năng triển khai các hoạt động đảm
bảo quyền con người, quyền công dân thì Cơ quan tư pháp lại là cơ quan bảo
35
vệ pháp luật, bảo vệ các quy định của pháp luật về đảm bảo quyền con người,
quyền công dân. Tuy là cơ quan bảo vệ pháp luật nhưng ngay trong hoạt động
giải quyết của mình các cơ quan tư pháp gồm Tòa án, Viện kiểm sát cũng
phải có trách nhiệm đảm bảo quyền con người, quyền công dân theo đúng quy
định của pháp luật.
1.2.3. Điều kiện đảm bảo quyền con người trong xét xử vụ án ly hôn
có yếu tố nước ngoài
Để bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
đương sự trong vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, trước hết, cần đảm bảo
quyền độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi tham gia xét
xử vụ án. Thẩm phán phải được tuyển chọn, bổ nhiệm đúng chất lượng, trình
độ và quy chuẩn đạo đức. Quá trình thanh lọc các Thẩm phán không đủ tiêu
chuẩn, trình độ và đạo đức cần phải tiến hành từ phía kiến nghị của người dân
bên cạnh việc dựa vào các quy định về tiêu chuẩn của Thẩm phán theo quy
định của pháp luật.
Thứ hai, phải đảm bảo địa vị bình đẳng của các chủ thể tham gia tố tụng
trong các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, đặc biệt là cơ chế để luật sư,
người bào chữa tham gia các quá trình tố tụng theo nhu cầu của nguyên đơn,
bị đơn.
Thứ ba, cần đảm bảo về thời gian thu thập và xuất trình chứng cứ, thời
gian UTTP, thời gian tống đạt, niêm yết công khai các văn bản tố tụng nhằm
đảm bảo tối đa quyền, lợi ích hợp pháp cho công dân.
Thứ tư, việc đảm bảo tranh tụng được xem là một nguyên tắc trong tố
tụng dân sự song có sự phân biệt cụ thể và rõ ràng giữa sự khác nhau của
tranh tụng trong tố tụng hình sự với tranh tụng trong tố tụng dân sự từ thu
thập chứng cứ, UTTP, chứng minh chứng cứ lẫn phán quyết.
36
Thứ năm, pháp luật cần có các cơ chế phù hợp để đảm bảo quyền tố
tụng dân sự của các cá nhân khi quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm
phạm trong lĩnh vực hôn nhân gia đình. Bên cạnh đó, khi thực hiện thủ tục tố
tụng dân sự, cần lưu ý sao cho vấn đề được giải quyết nhanh, đúng trình tự
thủ tục trong mối liên hệ với bảo vệ quyền công dân, bảo vệ được pháp chế xã
hội chủ nghĩa.
Tiểu kết Chương 1
Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận về quyền con người trong xét xử
các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, tác giả đã nêu ra những quan niệm về
quyền con người và quyền con người trong vụ án ly hôn có yếu tố nước
ngoài, đồng thời phân tích các khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò quyền
con người trong hoạt động xét xử các vụ án dân sự nói chung và hoạt động
xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng nhằm làm rõ quyền
con người chứa đựng những nội dung gì? Có đặc điểm như thế nào và vai trò
của nó có ảnh hưởng, tác động ra sao trong hoạt động tố tụng của Tòa án khi
giải quyết vụ án.
Trên cơ sở tiếp cận cụ thể về lý luận, tác giả đã đi sâu phân tích các nội
dung cụ thể của quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố
nước ngoài đó chính là pháp luật quy định cho đương sự được thực hiện
những quyền gì và pháp luật bảo đảm cho họ ra sao để các quyền đó được bảo
vệ theo đúng quy định của pháp luật. Đồng thời chỉ ra các yếu tố tác động
trực tiếp và gián tiếp dưới góc độ xã hội và pháp luật đến việc bảo đảm quyền
con người trong hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài trong
hệ thống Tòa án nói chung và tại TAND tỉnh Quảng Bình nói riêng.
37
Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG
XÉT XỬ VỤ ÁN LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Bình
2.1.1. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
Năm 1989, sau khi tách tỉnh Bình Trị Thiên thành 3 tỉnh Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, TANDtỉnh Quảng Bình được thành lập theo
Quyết định của Bộ Tư pháp. Hiện nay TAND tỉnh Quảng Bình có 3 Tòa
chuyên trách, 3 phòng nghiệp vụ và 8 đơn vị TAND cấp huyện thuộc tỉnh,
tổng số biên chế hiện nay là 147 công chức và người lao động, trong đó có 20
Thẩm phán trung cấp (bao gồm cả cấp tỉnh và cấp huyện) và 22 Thẩm phán
sơ cấp ở TAND cấp huyện. Theo Quyết định số 1847/QĐ-TCCB ngày
15/10/2018 của TAND tối cao về tổ chức Tòa chuyên trách tại TAND tỉnh
Quảng Bình gồm có 3 Tòa chuyên trách: Tòa Hình sự (xét xử các vụ án hình
sự; các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa gia đình và người
chưa thành niên), Tòa Dân sự (giải quyết các vụ, việc dân sự; hôn nhân gia
đình; kinh doanh thương mại; phá sản; lao động), Tòa Hành chính (giải quyết
các vụ việc hành chính); theo Quyết định số 345/2016/QĐ-CA ngày
07/4/2016 của TAND tối cao quyết định về tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền
hạn của các đơn vị trong bộ máy giúp việc của TAND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương; TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, bộ máy
giúp việc của TAND cấp tỉnh gồm: Văn phòng; Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và
thi hành án; Phòng Tổ chức cán bộ, thanh tra và Thi đua khen thưởng. Bộ
máy giúp việc của TAND cấp huyện là Văn phòng.
38
Cơ cấu tổ chức bộ máy TAND hai cấp tỉnh Quảng Bình được thể hiện
theo sơ đồ sau:
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
ỦY BAN THẨM PHÁN
Tòa Dân sự
Văn phòng
Tòa Hình sự
Tòa Hành chính
Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án
Phòng Tổ chức cán bộ, thanh tra và thi đua khen thưởng
TÒA ÁN NHÂN DÂN CÁC HUYỆN, THỊ XÃ, THÀNH PHỐ
Sơ đồ 2.1.Tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
(Nguồn: Tác giả)
39
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
Về chức năng: Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “TAND là cơ quan
xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp. TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
Trên cơ sở quy định đó, Điều 2 Luật Tổ chức TAND năm 2014 đã cụ
thể hoá quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
TAND nói chung và tại chương IV (từ Điều 37 đến Điều 43) Luật Tổ chức
TAND năm 2014 quy định cụ thể đối với TAND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương.
Về nhiệm vụ, quyền hạn: theo Điều 37 Luật tổ chức TAND năm 2014
quy định TAND tỉnh Quảng Bình có nhiệm vụ, quyền hạn như sau: “1. Sơ
thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật. 2. Phúc thẩm vụ việc mà bản án,
quyết định sơ thẩm của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và
tương đương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy
định của pháp luật. 3. Kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, khi
phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố
tụng thì kiến nghị với Chánh án TAND cấp cao, Chánh án TAND tối cao xem
xét, kháng nghị. 4. Giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật”.
Các Tòa chuyên trách của TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
(Điều 40 Luật tổ chức TAND năm 2014) theo thẩm quyền địa giới hành chính
tỉnh. Như vậy, TAND tỉnh Quảng Bình có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ
việc theo thẩm quyền do Bộ luật tố tụng hình sự, BLTTDS và Luật tố tụng
hành chính quy định. Đồng thời, xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ
thẩm của TAND cấp huyện thuộc tỉnh chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng
40
cáo, kháng nghị. Căn cứ Điều 36, BLTTDS 2015 quy định về thẩm quyền của
Tòa án theo cấp những vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài (có một bên ở
nước ngoài hoặc tài sản ở nước ngoài) thì thẩm quyền giải quyết thuộc TAND
cấp Tỉnh giải quyết.
Ngoài thẩm quyền về xét xử, TAND tỉnh Quảng Bình là đơn vị trực
tiếp quản lý các đơn vị TAND cấp huyện về công tác tổ chức cán bộ, cơ sở
vật chất, công tác kiểm tra nghiệp vụ và hướng dẫn nghiệp vụ.
2.1.3. Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
Theo số liệu thống kê, trong 5 năm (từ năm 2016 đến 2020), TAND hai
cấp tỉnh Quảng Bình đã giải quyết, xét xử 12.270 vụ án các loại, cụ thể:
Bảng 2.1: Số liệu xét xử các loại vụ án từ năm 2016 - 2020
Tổng Cộng Năm Án Hình sự Án Dân sự Án Hôn nhân & gia đình Án Lao động Án Hành chính
1.189 Án Kinh doanh thương mại 70 18 14 1.972 445 236 2016
1.445 59 2 41 2.181 391 243 2017
1.411 88 0 23 2.158 314 322 2018
1.600 117 2 21 2.798 613 445 2019
1.717 79 4 46 3.161 778 537 2020
Tổng 2.541 1.783 7.362 413 26 145 12.270 cộng
(Nguồn: Hệ thống phần mềm thống kê các loại án Tòa án nhân dân)
41
Biểu đồ 2.1. Kết quả giải quyết các loại vụ án từ năm 2016 - 2020
(Nguồn: Hệ thống phần mềm thống kê các loại án Tòa án nhân dân)
Trong những năm qua việc xét xử các vụ án hình sự đảm bảo kết án
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm cũng như không
làm oan người vô tội; hình phạt Tòa án áp dụng đối với các bị cáo đảm bảo
nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, đáp
ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay.
Đặc biệt là đối với các vụ án lớn, trọng điểm, dư luận xã hội quan tâm đều
được TAND tỉnh và các TAND cấp huyện khẩn trương nghiên cứu hồ sơ để
đưa ra xét xử kịp thời, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Đối với các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương
mại, lao động TAND hai cấp tỉnh Quảng Bình đã làm tốt công tác hoà giải,
thông qua công tác hoà giải giúp cho việc giải quyết vụ án nhanh chóng, đồng
thời góp phần củng cố mối đoàn kết trong nội bộ Nhân dân.
Đối với các vụ án hành chính, việc tổ chức đối thoại giữa người khởi
kiện và người bị kiện được chú trọng nên nhiều vụ án sau khi đối thoại, các
bên đã thống nhất cách thức giải quyết và người khởi kiện đã rút đơn khởi
42
kiện. Các Thẩm phán được phân công xét xử đã xác định đúng các quan hệ
pháp luật tranh chấp, khiếu kiện hành chính, thời hiệu khởi kiện, tư cách tố
tụng của đương sự…nên đã hạn chế đến mức thấp nhất các vụ việc bị cấp
phúc thẩm, giám đốc thẩm hủy do vi phạm thủ tục tố tụng. Quyền bình
đẳng của các đương sự trong việc cụng cấp chứng cứ, tranh luận tại phiên
tòa được thực hiện nghiêm túc. Bên cạnh đó, các Tòa án cũng đã quan tâm
làm tốt công tác phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng hồ sơ vụ
án, thu thập đầy đủ chứng cứ cần thiết nhằm đảm bảo giải quyết vụ án đúng
quy định của pháp luật.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về “ Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, trên cơ sở quy
định của pháp luật và hướng dẫn của TAND tối cao, TAND tỉnh Quảng Bình
đã triển khai sâu rộng việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên Tòa
xét xử, đảm bảo cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ của họ, chú trọng việc đánh giá chứng cứ trong hồ sơ và
các chứng cứ mới. Việc đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên Tòa
không chỉ giới hạn ở các phiên Tòa xét xử hình sự mà được áp dụng đối với
các phiên Tòa xét xử các vụ án dân sự, hành chính. Để thực hiện tốt việc điều
hành tranh luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử đặc biệt là Thẩm phán chủ toạ
phiên Tòa xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch xét hỏi và tranh luận theo
hướng phát huy dân chủ, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức và công dân, đảm bảo cho các bên trình bày hết ý kiến của mình về
những vấn đề liên quan tới việc giải quyết vụ án, từ đó các phán quyết của
Tòa án căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên Tòa trên cơ sở xem xét
toàn diện, khách quan các chứng cứ của vụ án, nên chất lượng giải quyết, xét
xử ngày được nâng lên, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao.
43
2.2. Tình hình bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly
hôn có yếu tố nước ngoài tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
2.2.1. Tình trạng hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở tỉnh Quảng Bình
Trong những năm gần đây, cùng với quá trình mở cửa hội nhập quốc tế
của đất nước, nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ, đời sống
kinh tế của người dân được thay đổi nhanh chóng. Số người đi xuất khẩu lao
động ra nước ngoài ngày càng đông, trong đó có tỉnh Quảng Bình. Tỉnh
Quảng Bình mỗi năm có trên 2000 người đi xuất khẩu lao động, việc người
dân đi xuất khẩu lao động đông phần nào đã giải quyết bài toán khó khăn về
việc làm, điều kiện kinh tế của nhiều gia đình được cải thiện đáng kể; nhiều
nhà cao tầng đã mọc lên, xe máy, ô tô xuất hiện ngày một nhiều hơn, đường
xá khang trang, đổi mới…
Phần đông người Quảng Bình xuất thân từ nông thôn, cuộc sống của họ
gặp nhiều khó khăn, do đó muốn ra nước ngoài lao động để hàng tháng gửi về
cho gia đình một khoản thu nhập không nhỏ, góp phần phát triển kinh tế cho
gia đình và phát triển kinh tế tại địa phương. Do đó, họ đã tìm nhiều cách để
được đi xuất khẩu lao động, đi du lịch, đi du học, sau đó ở lại nước ngoài
bằng cách kết hôn với người nước sở tại hoặc kết hôn với người Việt Nam có
quốc tịch nước ngoài. Cá biệt, có rất nhiều trường hợp sau khi hết hạn hợp
đồng lao động với các công ty của nước ngoài thì họ không về nước mà bỏ
trốn để ở lại trái phép hoặc đi du lịch rồi bỏ trốn để ở lại trái phép.
Việc kết hôn có yếu tố nước ngoài cũng có những tác động cả tích cực,
và tiêu cực trên các mặt của đời sống xã hội. Việc kết hôn với người nước
ngoài đã góp phần giải quyết được một lượng lớn lao động của địa phương.
Nhất là đối với phụ nữ nông thôn, không tìm kiếm được việc làm tại địa
phương, góp phần làm giảm áp lực về việc làm tại địa phương...
44
Bên cạnh việc kết hôn, tình trạng ly hôn có yếu tố nước ngoài diễn ra
khá phổ biến trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ
mâu thuẫn gia đình hoặc do hoàn cảnh phải sống mỏi mòn chờ tin chồng
(hoặc vợ) trong khi chồng (hoặc vợ) của họ không hề quan tâm đến họ và con
cái trong thời gian dài hay vì nhiều lý do khác nên dẫn đến tình trạng ly hôn
xảy ra nhiều trong những năm gần đây.
Ví dụ: Chị A, sinh năm 1985 ở xã Đ, huyện T, tỉnh Quảng Bình và
chồng là anh B kết hôn với nhau, hai vợ chồng chưa có con. Năm 2015, anh B
đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc. Sau một thời gian, chị A thấy chồng
mình có một số biểu hiện khác thường, không thường xuyên gọi điện liên lạc,
cũng không gửi tiền về cho vợ và không quan tâm đến vợ như trước đây,
trong khi ở nhà thì giữa chị A và mẹ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn. Từ tháng
9/2018 đến nay, chị A không còn liên lạc được với chồng. Mặt khác trên
facebook cá nhân, chồng chị còn khoe ảnh hạnh phúc bên một người phụ nữ
khác ở Hàn Quốc. Chị A đành viết đơn xin ly hôn.
Có trường Hợp chị M ở Phường ĐS, thành phố Đồng Hới đi du học tại
Trung Quốc và kết hôn với anh T người Trung Quốc năm 2012 (đăng ký kết
hôn tại Trung Quốc), Chị M sinh được cháu V tại Trung Quốc năm 2014,
Năm 2018, chị M và anh T xảy ra mâu thuẩn trầm trọng nên chị M về nước
sinh sống cho đến nay. Do không hàn gắn được tình cảm nên chị M gửi đơn
lên Tòa án tỉnh Quảng Bình xin ly hôn.
Hoặc trường hợp chị C ở xã B, huyện M, tỉnh Quảng Bình, kết hôn với
chồng là anh V ở thành phố Đ vào năm 2005, hai vợ chồng có với nhau một
con chung là cháu C, năm 2008, anh V đi xuất khẩu lao động sang Anh (theo
diện xuất khẩu chui), thời gian đầu thì vợ chồng chị còn thỉnh thoảng liên lạc
với nhau, chị có biết được địa chỉ của chồng ở Anh. Từ năm 2010 đến thời
điểm hiện tại thì chồng chị là anh V không liên lạc với vợ, cũng từ thời điểm
45
đó thì chị và gia đình chồng thường xảy ra mâu thuẫn, Chị C chuyển vào Huế
sinh sống và chị làm thủ tục ly hôn. Còn rất nhiều trường hợp khác nữa mà
trong quá trình thụ lý các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài TAND tỉnh
Quảng Bình đã gặp phải những tình huống tương tự như vậy.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng ly hôn có yếu tố nước ngoài
ngày một tăng, như có nhiều trường hợp nhiều người kết hôn với người nước
ngoài chỉ với mục đích nhập quốc tịch để ra nước ngoài, họ coi việc kết hôn
như một bản hợp đồng, hôn nhân thật sự không tồn tại, khi mục đích kết hôn
đã đạt được thì họ buộc phải chấm dứt bản hợp đồng đó để không còn sự ràng
buộc về mặt thực tế và về mặt pháp lý. Cũng có nhiều trường hợp nguyên
nhân ly hôn là do các cô gái người Việt Nam kết hôn với người chồng ngoại
quốc không xuất phát từ tình yêu thực sự mà có người kết hôn theo trào lưu
lấy chồng ngoại quốc, hay do sự khó khăn về kinh tế, nhiều cô gái muốn được
đổi đời một cách nhanh chóng nên họ dễ dàng chấp nhận kết hôn với người
chồng ngoại quốc cho dù người chồng ấy hơn họ rất nhiều tuổi nhưng khi
bước vào cuộc sống hôn nhân đã phát sinh nhiều vấn đề như bất đồng về ngôn
ngữ, văn hóa, lối sống, chêch lệch về tuổi tác. Cuộc sống hôn nhân không như
mong muốn nên họ đã lựa chọn giải pháp ly hôn để giải phóng cho mình.
Một nguyên nhân cực kỳ quan trọng mà tác giả nhận thấy rằng đó là sự
quản lý công dân của một số cơ quan chức năng có thẩm quyền còn quá lỏng
lẻo, dẫn đến tình trạng xuất khẩu lao động chui thông qua con đường du lịch;
làm các thủ tục để du lịch ở nước ngoài sau đó chốn ở lại không trở về Việt
Nam, dẫn đến không xác định được địa chỉ nơi cư trú cũng như nơi làm việc ở
nước ngoài, nguyên đơn ở Việt Nam muốn ly hôn cũng không được vì không
cung cấp được nơi cư trú và xin xác nhận được của cơ quan có thẩm quyền
của nước ngoài nơi mà bị đơn đang cư trú nên phía Tòa án Việt Nam không
thụ lý để giải quyết.
46
Như vậy, ly hôn có yếu tố nước ngoài thực chất là giải pháp để chủ thể
trong quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài lựa chọn để yêu cầu Tòa án giải
phóng cho bản thân khỏi cuộc sống hôn nhân thực sự không tồn tại trên thực
tế, hôn nhân không có hạnh phúc. Ly hôn là một việc cần thiết cho cả vợ
chồng và cho xã hội, vì nó giải phóng cho tất cả mọi người, cho cả vợ chồng,
các con cũng như các thành viên trong gia đình thoát khỏi xung đột, mâu
thuẫn bế tắc trong cuộc sống chung. Vì vậy, ly hôn không phải hoàn toàn
mang nghĩa tiêu cực mà nó còn mang một ý nghĩa tích cực, đó là bảo vệ
quyền tự do của con người, giúp con người thoát khỏi những ràng buộc trong
quan hệ hôn nhân thật sự tan vỡ.
2.2.2. Tình hình xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài và bảo vệ
quyền con người trong quá trình xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
2.2.2.1. Tình hình xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài
Trong những năm qua hoạt động xét xử nói chung và hoạt động xét xử
các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình nói riêng
đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Mặc dù số vụ án ly hôn có yếu tố
nước ngoài không nhiều so với số vụ án ly hôn trong nước cũng như các loại
vụ án khác, tuy nhiên công tác xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài
của TAND tỉnh Quảng Bình đã luôn bảo đảm đúng quy định của pháp luật.
Nhiều vụ án ly hôn có tính chất phức tạp về thủ tục ủy thác tư pháp, phân chia
tài sản…được TAND tỉnh xét xử kịp thời, đúng quy định của pháp luật, được
dư luận Nhân dân đồng tình. Qua đó góp phần lớn vào việc bảo vệ quyền con
người nói chung và quyền của đương sự trong các vụ án nói riêng.
Theo số liệu thống kê của TAND tỉnh Quảng Bình, từ năm 2016 -
2020, TAND tỉnh đã thụ lý tổng số 449 vụ, đã xét xử 255 vụ, đạt tỷ lệ giải
quyết là 56,79%. Thể hiện qua bảng số liệu sau:
47
Bảng 2.2: Số liệu kết hôn có yếu tố nước ngoài
Năm 2016 2017 2018 2019 2020 Tổng cộng
49 57 68 42 27 243 Số lượng người kết hôn có yếu tố nước ngoài
(Nguồn: Hệ thống phần mềm thống kê các loại án Tòa án nhân dân)
Bảng 2.3: Số liệu xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài
(Từ năm 2016 đến năm 2020)
Năm 2016 2017 2018 2019 2020
Tổng số thụ lý (vụ) 80 83 86 95 105
Tổng số xét xử (vụ) 35 45 63 45 67
Tỷ lệ xét xử 43,75% 54,22% 73,26% 47,37% 63,81%
(Nguồn: Hệ thống phần mềm thống kê các loại án Tòa án nhân dân)
Qua hai bảng số liệu trên cho thấy trong khoảng thời gian 5 năm từ
năm 2016 đến năm 2020, số lượng người Quảng Bình kết hôn có yếu tố
nước ngoài có xu hướng giảm trong hai năm trở lại đây có thể một phần là
do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nên việc đi xuất khẩu lao động bị
dừng lại. Số lượng vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tăng đều qua các năm
nguyên nhân đa số là do những người này đã kết hôn từ những năm trước
2016; tỷ lệ xét xử các vụ án dao động và tăng đều trong khoảng 43% đến
63%. Số lượng vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài TAND tỉnh Quảng Bình
đã thụ lý tuy không nhiều và tỷ lệ xét xử chỉ đạt mức trung bình. Điều đó
cho thấy lượng án ly hôn có yếu tố nước ngoài còn tồn đọng còn nhiều chưa
được xét xử hết.
So với số vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài của TAND các tỉnh khác
đã xét xử trong 5 năm qua như TAND tỉnh Quảng Trị: 220 vụ; TAND tỉnh
Thừa Thiên Huế: 315 vụ; TAND tỉnh Nghệ An: 662 vụ thì số vụ án ly hôn có
yếu tố nước ngoài TAND tỉnh Quảng Bình đã xét xử ở mức trung bình.
48
Nguyên nhân là do dân số và các điều kiện kinh tế xã hội ở các địa phương
trên cao hơn nhiều so với tỉnh Quảng Bình do đó số vụ án ly hôn có yếu tố
nước ngoài cũng nhiều hơn.
Trong quá trình xét xử, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn, bị đơn, Hội đồng xét xử đã căn cứ vào từng trường hợp để xét xử
vụ án bảo đảm đúng quy định của pháp luật, cụ thể:
Trường hợp thứ nhất: Thẩm phán xem xét giải quyết đơn không yêu
cầu người khởi kiện chứng minh tính xác thực về địa chỉ của bị đơn mà họ
cung cấp, cho rằng địa chỉ mà người khởi kiện cung cấp trong đơn khởi kiện
chính là địa chỉ của bị đơn ở nước ngoài, vì vậy chỉ xem xét, kiểm tra các điều
kiện khác như: đơn khởi kiện ly hôn; bản sao có chứng thực căn cước công
dân, chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu, thẻ thường trú, bản sao trích lục kết
hôn hoặc giấy chứng nhận kết hôn... nếu các điều kiện này đáp ứng được yêu
cầu của việc thụ lý vụ án, thì Thẩm phán thụ lý vụ án. Sau đó, Thẩm phán
được phân công giải quyết vụ án thực hiện việc ủy thác tư pháp cho Đại sứ
quán, Lãnh sự quán, Văn phòng đại diện kinh tế - văn hóa Việt Nam tại nước
ngoài, hoặc cho Cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài thông qua Bộ Tư pháp
để chuyển các loại giấy tờ cho bị đơn và tiến hành một số hoạt động thu thập
chứng cứ. Các loại giấy tờ đó là: đơn khởi kiện ly hôn; thông báo thụ lý vụ án
của Tòa án; bản sao trích lục kết hôn hoặc giấy chứng nhận kết hôn; văn bản
về yêu cầu bị đơn cung cấp cho Tòa án ý kiến, lời khai, tài liệu, chứng cứ đối
với các nội dung mà nguyên đơn nêu trong đơn khởi kiện; một số trường hợp
có thể còn thêm các loại giấy tờ khác như bản tự khai của nguyên đơn; thông
báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; thông
báo về việc mở phiên tòa giải quyết vụ án. Đồng thời Tòa án cũng yêu cầu các
cơ quan trên trong trường hợp không thực hiện được việc chuyển giao giấy tờ
49
thì đăng tải thông báo các nội dung trên tại cổng thông tin điện tử của cơ quan
mình, rồi thông báo kết quả thực hiện cho Tòa án.
Nếu trong trường hợp không có phản hồi của các cơ quan được ủy
thác, hoặc có thông báo của các cơ quan này là không chuyển giao được các
loại giấy tờ trên cho bị đơn, vì không tìm được địa chỉ, bị đơn không đến
nhận, bưu chính trả lại vì không có người nhận, không có kết quả phản hồi
của người nhận, thì Tòa án sẽ tiến hành thông báo trên Hệ phát thanh đối
ngoại quốc gia Đài tiếng nói Việt Nam (VOV5) về thời gian, địa điểm mở
phiên tòa, yêu cầu bị đơn có mặt tham gia phiên tòa; yêu cầu VOV5 xác nhận
đã đăng phát thông báo với các nội dung trên, cùng biên lai thu lệ phí gửi cho
Tòa án, đồng thời niêm yết quyết định đưa vụ án ra xét xử tại nơi đăng ký hộ
khẩu của bị đơn trước khi bị đơn xuất cảnh và thông báo trên trang thông tin
điện tử của Tòa án. Sau khi thực hiện các công việc trên và hoãn phiên tòa
một lần do bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo
điểm b khoản 2 Điều 227 BLTTDS (xét xử trong trường hợp bị đơn không có
yêu cầu phản tố và đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt).
Trường hợp thứ hai: Đây là các trường hợp Cơ quan đại diện của Việt
Nam ở nước ngoài được ủy thác không xác nhận việc đã chuyển giao được
các loại giấy tờ theo yêu cầu của Tòa án theo các phương thức mà pháp luật
quy định, nhưng lại gửi cho Tòa án biên bản xác nhận bị đơn đã gửi bản trả
lời các câu hỏi của Tòa án đến cơ quan mình (tức cơ quan được ủy thác), kèm
theo bản trả lời câu hỏi được cho là của bị đơn. Bản trả lời câu hỏi gửi kèm
này không được công chứng, chứng thực theo quy định tại điểm c khoản 2
Điều 478 BLTTDS. Trường hợp này, Tòa án chấp nhận đây là văn bản của bị
đơn, mở phiên tòa xét xử vụ án vắng mặt bị đơn sau khi đã tiến hành một số
thủ tục mang tính hình thức khác.
50
Trường hợp thứ ba: Đây là các trường hợp mà việc ủy thác tư pháp
không có kết quả, nhưng sau đó Tòa án lại nhận được tài liệu từ nước ngoài
gửi về, trong đó người lập tài liệu tự nhận mình là bị đơn, nội dung tài liệu
đáp ứng các yêu cầu của Tòa án về cho ý kiến đối với các yêu của của nguyên
đơn. Tài liệu không có chứng thực của các cơ quan đại diện của Việt Nam ở
nước ngoài theo quy định tại điểm c Điều 478 BLTTDS. Sau khi nhận được
có tài liệu này, Tòa án đã tiến hành trưng cầu Cơ quan công an giám định chữ
ký trong tài liệu gửi về với chữ ký của bị đơn trong giấy kết hôn, hoặc chữ ký
trong một số văn bản khác như thư từ mà nguyên đơn cung cấp, cho rằng đó
là các văn bản do bị đơn đã viết và ký tên. Sau khi có kết quả giám định, xác
định hai chữ ký trong hai tài liệu gửi đi giám định do cùng một người ký ra,
Tòa án tiến hành một số thủ tục khác, như niêm yết quyết định đưa vụ án ra
xét xử tại nơi đăng ký hộ khẩu của bị đơn trước khi bị đơn xuất cảnh, tại Tòa
án và thông báo trên trang thông tin điện tử của Tòa án (trong trường hợp tài
liệu gửi về không có nội dung người tự nhận là bị đơn yêu cầu tòa án xét xử
vắng mặt) và tiến hành xét xử vụ án.
Trường hợp thứ tư: Đây là trường hợp sau khi Tòa án thụ lý vụ án,
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án tiến hành thực hiện việc ủy thác
tư pháp để chuyển các loại giấy tờ nói trên của Tòa án cho bị đơn và thu thập
chứng cứ, nhưng các cơ quan được ủy thác không thực hiện được việc chuyển
giao giấy tờ, vì các lý do như đã nói ở các phần trên, Thẩm phán đã tiến hành
triệu tập bố mẹ của bị đơn đến Tòa án lấy lời khai, nội dung yêu cầu họ cho
biết con họ có biết việc nguyên đơn có đơn khởi kiện ly hôn hay không, có
thỉnh thoảng có liên lạc qua điện thoại với bố mẹ, người thân ở Việt Nam hay
không. Trong trường hợp không triệu tập được bố mẹ của bị đơn đến Tòa án
để lấy lời khai, Thẩm phán có thể trực tiếp một mình hoặc nhờ cán bộ Tư
pháp xã, phường, thị trấn cùng mình đến nhà bố mẹ bị đơn để lấy lời khai với
51
các nội dung trên. Khi xác định được bố mẹ bị đơn cũng không phản đối việc
khởi kiện yêu cầu được ly hôn của nguyên đơn, có khai thỉnh thoảng con họ
có liên lạc với họ và người thân qua điện thoại, Tòa án sẽ tiến hành một số thủ
tục chủ yếu mang tính hình thức như các cách thức đã tiến hành ở phần trước,
rồi mở phiên tòa xét xử vụ án vắng mặt bị đơn với lý do bị đơn cố tình dấu địa
chỉ.
Để tiến hành xét xử được một vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài bảo
đảm bảo vệ cho quyền lợi chính đáng của nguyên đơn. Trên thực tế, TAND
tỉnh Quảng Bình gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là trong hoạt động UTTP
trong một số công việc như ghi lời khai, tống đạt giấy tờ, thu thập chứng cứ,
xác minh địa chỉ, trưng cầu giám định. Việc UTTP để ghi lời khai của những
cá nhân đang ở những nước mà Việt Nam chưa ký HĐTTTP thì hầu như
không có kết quả. Những việc Tòa án Việt Nam UTTP cho Tòa án nước ngoài
thì kết quả trả lời thường rất chậm, thậm chí nhiều trường hợp không nhận
được sự trả lời. Chính vì vậy, việc lấy lời khai, tống đạt các văn bản của Tòa
án hoặc xác định tài sản ở nước ngoài là không thực hiện được làm cho vụ án
bị kéo dài, vi phạm thời hạn xét xử, ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự.
Nhiều vụ không thể thụ lý giải quyết do công dân Việt Nam xin ly hôn chỉ
cung cấp cho Tòa án bản đăng ký kết hôn có địa chỉ của bên kia, ngoài ra thì
không có một thông tin nào khác của bị đơn. Điều này dẫn đến thực tế nhiều
cuộc hôn nhân chỉ mang tính hình thức mà vẫn bị kéo dài, ảnh hưởng đến
cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của nguyên đơn. Bên cạnh đó, thủ tục
hợp thức hóa lãnh sự đối với các việc mà Tòa án Việt Nam yêu cầu thì nhiều
Tòa án nước ngoài chưa đáp ứng kịp thời, do vậy cũng đã gây khó khăn cho
việc xét xử.
Mặt khác, việc xác định thẩm quyền của Tòa án. Theo quy định của
Luật Quốc tịch thì “người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt
52
Nam và người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn sinh sống lâu dài ở nước ngoài”.
Tuy nhiên, thời gian để xác định “lâu dài” không được quy định cụ thể trong
một văn bản nào. Trường hợp người Việt Nam đi công tác, học tập hoặc du
lịch nhưng khi hết thời hạn họ ở lại nước sở tại thì có được xem là người Việt
Nam định cư nước ngoài hay không? Vấn đề này ảnh hưởng đến việc xác
định thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Không ít trường hợp công dân Việt Nam, thậm chí kể cả các pháp nhân
Việt Nam không chịu tìm hiểu kỹ điều kiện, địa chỉ cụ thể của người nước
ngoài; của pháp nhân nước ngoài; không yêu cầu người nước ngoài, pháp
nhân nước ngoài cung cấp địa chỉ tại nơi mà họ đang sinh sống, trụ sở pháp
nhân đang hoạt động… dẫn đến tình trạng quyền và lợi ích bị xâm phạm. Khi
khởi kiện đến Tòa án thì không xác định được địa chỉ hoặc không có địa chỉ
người nước ngoài, khiến Tòa án rất khó khăn trong xác định địa chỉ. Nhiều
trường hợp, bị đơn trong vụ án là người đang ở nước ngoài khi biết mình bị
khởi kiện tại Tòa án luôn tìm cách né tránh, thay đổi địa chỉ nên Tòa án không
thể triệu tập họ tham gia tố tụng và không có chế tài xử lý.
2.2.2.2. Bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố
nước ngoài
Hoạt động xét xử nhằm bảo đảm bảo vệ quyền con người trong các vụ
án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình được tuân thủ chặt
chẽ các trình tự, thủ tục chung tại giai đoạn sơ thẩm theo quy định của pháp
luật Tố tụng dân sự. Việc nhận đơn và hướng dẫn thủ tục cho đương sự được
giao cho các Thư ký ở bộ phận hành chính tư pháp trực thuộc Văn phòng đảm
nhiệm, sau đó chuyển cho Chánh Văn phòng xem xét các điều kiện khởi kiện,
căn cứ thụ lý và thẩm quyền giải quyết, nếu đủ điều kiện thụ lý thì đề xuất lên
Chánh án phân công Thẩm phán giải quyết và chuyển Thư ký để vào sổ thụ
lý. Sau đó Thẩm phán tiến hành ra thông báo về việc thụ lý, thông báo các
53
đương sự giao nộp chứng cứ, tiến hành hòa giải, xác minh thu thập chứng cứ
(trong trường hợp các đương sự không thể tự mình cung cấp chứng cứ hoặc
Viện kiểm sát có yêu cầu), tuỳ tính chất của vụ án và trong thời hạn luật định
để có thể ra một trong các quyết định: tạm đình chỉ, đình chỉ, trả lại đơn khởi
kiện, quyết định đưa vụ án ra xét xử. Đối với vụ án có tranh chấp trong quan
hệ hôn nhân và gia đình phải đưa ra xét xử theo trình tự sơ thẩm thì Thẩm
phán phải chủ động tiến hành các bước tại phiên toà, điều khiển phiên toà
tuân theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định về thủ tục hỏi tại phiên tòa, tranh
luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án.
Từ việc tuân thủ chặt chẽ trình tự giải quyết theo pháp luật tố tụng và
áp dụng chính xác, thận trọng pháp luật về nội dung, TAND tỉnh Quảng Bình
đã bảo đảm thực hiện tốt về quyền con người của các đương sự trong quá
trình xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, được thể hiện qua các nội
dung sau:
Thứ nhất là, bảo đảm quyền khởi kiện của nguyên đơn và quyền được
tham gia tố tụng.
Hoạt động xét xử vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài được bắt đầu bằng
sự kiện công dân gửi đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của mình
khi có tranh chấp trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. TAND tỉnh đã thực
hiện đổi mới thủ tục hành chính tư pháp đó là bố trí một phòng làm việc
khang trang ở ngay vị trí trung tâm tầng 1 trụ sở TAND tỉnh (Bộ phận một
cửa) và phân công ba đồng chí Thư ký viên có kinh nghiệm trong việc nắm
bắt thủ tục, thẩm quyền giải quyết để tiếp nhận đơn khởi kiện và hồ sơ các
loại vụ án trong đó có hồ sơ khởi kiện xin ly hôn có yếu tố nước ngoài và trực
tiếp hướng dẫn, giải thích cho đương sự khi đến nộp đơn khởi kiện. Việc tập
trung tiếp nhận hồ sơ tập trung tại một bộ phận như thế đã giúp cho người dân
rút ngắn được thời gian và thủ tục nộp đơn khởi kiện, đơn khiếu nại, tố cáo,
54
hạn chế tình trạng đơn bị chậm, bị quá hạn hoặc đương sự phải đi lại nhiều
lần gây phiền hà. Có nhiều trường hợp tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi
kiện mà đương sự cung cấp không trùng khớp hoặc mâu thuẩn nhau như các
thông tin về hộ khẩu, chứng minh nhân dân, giấy đăng ký kết hôn, giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất… mà công dân không thể tự mình chứng minh, thu
thập được thì các Thư ký viên đã tích cực hướng dẫn cho họ liên hệ trực tiếp
với chính quyền địa phương hoặc cơ quan có thẩm quyền về lĩnh vực hộ tịch,
để đề nghị xác nhận, cung cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện
quyền khởi kiện ra Tòa án.
Khi vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài được Tòa án thụ lý thì quyền và
nghĩa vụ tố tụng của các đương sự được xác lập. TAND tỉnh Quảng Bình đã
thực hiện việc thông báo, triệu tập các đương sự tham gia các hoạt động tố
tụng theo trình tự vụ, việc để các đương sự có thể thực hiện quyền thay đổi,
bổ sung chứng cứ; quyền được tự mình thu thập hoặc yêu cầu cung cấp chứng
cứ; quyền được tham gia hoà giải nhằm tôn trọng quyết định độc lập của các
đương sự, quyền được tham gia vào các hoạt động như: định giá tài sản, tham
gia phiên toà, phiên họp; quyền được đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn,
quyền đưa ra yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Nhằm để đảm bảo cho đương sự được thực hiện đầy đủ các quyền trên một
cách có hiệu quả, vừa bảo vệ được lợi ích của đương sự, vừa đáp ứng các điều
kiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, tuỳ thuộc vào tính chất của
từng vụ, việc khi giải quyết mà TAND tỉnh Quảng Bình thực hiện việc thông
báo, triệu tập để đương sự đều được tham gia vào các hoạt động tố tụng đó.
Việc triệu tập được Tòa án thực hiện đúng quy định thông qua đường bưu
chính, thông qua cổng thông tin đối ngoại quốc gia, thông báo trên Cổng
thông tin điện tử của Tòa án và thông qua chính quyền địa phương giao trực
tiếp cho người được triệu tập. Trong 05 năm (2016-2020) không có trường
55
hợp nào đương sự khiếu nại, tố cáo về việc vi phạm quyền được tham gia tố
tụng của họ. Viện kiểm sát các cấp cũng không có kiến nghị, kháng nghị nào
về việc vi phạm quyền được tham gia tố tụng của đương sự.
- Ví dụ đối với vụ án ly hôn do mâu thuẩn về tình cảm, không có
tranh chấp về tài sản hoặc con cái:
Vụ án dân sự thụ lý số: 34/2018/TLST-HNGĐ ngày 19/12/2018 về việc
ly hôn theo đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Lê Hoàng G, sinh năm 1980;
nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình với bị đơn anh
ALJ, sinh năm 1981, Quốc tịch Australia (Úc), địa chỉ cư trú tại Australia.
Theo đơn khởi kiện và bản tự khai của chị Lê Hoàng G: Chị G và anh ALJ kết
hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký tại UBND thành phố Đ, tỉnh
Quảng Bình ngày 14/10/2016. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống với
nhau một thời gian tại nước Úc nhưng sau đó đã thường xuyên xảy ra mâu
thuẫn về tình cảm, nguyên nhân do bất đồng quan điểm về kinh tế, ngôn ngữ,
phong tục tập quán của hai nước, tình trạng này kéo dài, vợ chồng đã cố gắng
khắc phục nhưng không thể tìm được tiếng nói chung, hiện tại mỗi người
sống một nơi. Do không còn tình cảm với anh ALJ nên chị G làm đơn yêu cầu
được ly hôn với anh ALJ. Về con chung hai vợ chông chưa có con chung nên
không yêu cầu Tòa án giải quyết; về tài sản chung, Chị Lê Hoàng G trình bày
vợ chồng không có tài sản chung, không có ai nợ vợ chồng và vợ chồng
không nợ ai nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về phía bị đơn anh ALJ: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện việc
tống đạt các văn bản tố tụng trực tiếp cho anh ALJ theo 02 địa chỉ do nguyên
đơn cung cấp. TAND tỉnh Quảng Bình nhận được bản tường trình của anh
ALJ qua đường bưu điện, sau đó bản tường trình được tiến hành dịch sang
tiếng Việt Nam có chứng thực theo quy định của pháp luật. Theo bản tường
trình của anh ALJ đã được Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại SYDNEY -
56
AUSTRALIA (Úc), anh ALJ khai đúng như lời khai của chị G. Đồng thời đề
nghị TAND tỉnh Quảng Bình giải quyết vắng mặt vì lý do khó khăn, trở ngại
sắp xếp công việc. Tại phiên tòa vắng mặt cả hai bên đương sự. Đại diện Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Trong quá trình giải quyết vụ án việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán,
Hội đồng xét xử tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Việc thu thập
chứng cứ, đương sự tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định, đảm bảo các
quy định của BLTTDS.
Sau khi xem xét các lời khai, tài liệu có tại hồ sơ vụ án; Ý kiến của đại
diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
nhận định: Bị đơn anh ALJ có quốc tịch Úc sinh sống và làm việc tại nước
Úc, vì vậy xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân
tỉnh Quảng Bình; về phương thức tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự là
người nước ngoài: “....Theo đường dịch vụ bưu chính đến địa chỉ của đương
sự đang ở nước ngoài với điều kiện pháp luật nước đó đồng ý với phương
thức tống đạt này”, do đó Tòa án tỉnh Quảng Bình đã tống đạt trực tiếp các
văn bản tố tụng cho anh ALJ theo đường bưu điện là đúng quy định pháp luật,
phù hợp với hướng dẫn về việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự ở nước
ngoài trong các vụ việc dân sự, vụ án hành chính; Về công nhận giấy tờ của
đương sự ở nước ngoài gửi cho Tòa án: Bản tưởng trình của anh ALJ gửi cho
Tòa án Quảng Bình có xác nhận của Tổng lãnh sự sứ quán Việt Nam tại nước
Úc vào ngày 23/8/2019, được dịch ra tiếng Việt có công chứng, chứng thực
hợp pháp theo quy định pháp luật Việt nam, do đó Tòa án công nhận Bản
tường trình của anh ALJ; về sự vắng mặt của chị Lê Hoàng G và anh ALJ:
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành các phương thức tống đạt, thông báo
văn bản tốt tụng của Tòa án cho các đương sự, các đương sự đã nhận được
thông báo của Tòa án trong đó có ấn định rõ giờ, ngày tháng năm mở phiên
57
họp hoà giải và phiên toà. Tuy nhiên, chị G có đơn yêu cầu giải quyết vắng
mặt vì lý do đi làm ăn xa không thể có mặt. Anh ALJ đề nghị giải quyết việc
ly hôn vắng mặt do khó khăn sắp xếp công việc để có mặt tại TAND tỉnh
Quảng Bình, vì vậy Tòa án lập biên bản không hòa giải được. Căn cứ các quy
định của pháp luật, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị Lê Hoàng G
và anh ALJ.
Từ các căn cứ pháp lý trên TAND tỉnh Quảng Bình đã áp dụng các quy
định của pháp luật tuyên xử chị Lê Hoàng G được ly hôn anh ALJ. Về quan
hệ con chung và tài sản chung Tòa án không xem xét. Chị Lê Hoàng G có
quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án; Anh
ALJ có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 01 tháng kể từ ngày bản án
được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử, vụ án trên đã có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo,
kháng nghị, khiếu nại.
Thứ hai là, bảo đảm quyền cung cấp chứng cứ và chứng minh bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự bảo đảm quyền của đương sự yêu cầu
cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ và yêu cầu Tòa án xác minh,
thu thập chứng cứ.
Đối với hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, Thẩm
phán khi được phân công giải quyết vụ án sẽ yêu cầu các đương sự giao nộp
các chứng cứ liên quan đến vụ án, bởi việc thu thập chứng cứ để chứng minh
cho yêu cầu của mình là có căn cứ thuộc nghĩa vụ chứng minh của các đương
sự, các đương sự có trách nhiệm tự viết bản tự khai và ký tên mình trước mặt
Thẩm phán, Thư ký để xác định tính tự nguyện, khách quan về những thông
tin mà đương sự cung cấp. Trường hợp nguyên đơn hoặc bị đơn đang ở nước
ngoài thì Tòa án yêu cầu gửi bản tự khai và các giấy tờ có liên quan có xác
nhận của Đại sứ quán nước sở tại. Đồng thời Tòa án đã tạo điều kiện và
58
hướng dẫn đương sự yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ để
bảo đảm quyền lợi cho mình. Trong trường hợp đương sự không thể tự mình
cung cấp đầy đủ các tài liệu, chứng cứ thì đương sự có quyền yêu cầu Tòa án
xác minh, thu thập chứng cứ bằng nhiều biện pháp, trong đó có biện pháp
UTTP ra nước ngoài. Thẩm phán phụ trách giải quyết vụ án tùy theo tính chất
của từng vụ án sẽ tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ
khác như: đối chất giữa các đương sự, người làm chứng nhằm làm sáng tỏ sự
thật khách quan vụ án.
Quá trình xác minh thu thập chứng cứ luôn tuân thủ chặt chẽ các quy
định của BLTTDS nhằm bảo đảm tính khách quan, công bằng để làm rõ bản
chất sự thật khách quan của vụ án để có được kết quả cao nhất trong việc xác
minh, thu thập chứng cứ của vụ án. Đồng thời thực hiện thu thập chứng cứ
với phương châm luôn luôn bảo đảm các quyền của công dân trong hoạt động
giải quyết các vụ án ly hôn. Quá trình giải quyết các Thẩm phán đã có nhiều
cố gắng trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ chính xác nên việc xét xử, giải
quyết các vụ án ly hôn đạt hiệu quả cao.
- Ví dụ đối với vụ án ly hôn mà một bên đương sự vắng mặt cần
phải có giám định chữ ký:
Vụ án dân sự thụ lý số: 43/2019/TLST-HNGĐ Ngày 19/6/2019 về việc
ly hôn theo đơn khởi kiện của nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Đức T, sinh ngày
10/3/1994, Quốc tịch: Việt Nam; Nơi ĐKNKTT: Số 82 đường L, phường H,
thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Bị đơn: Anh Phạm Minh H, sinh ngày
07/7/1987, Quốc tịch: Hoa Kỳ, Địa chỉ: 10421 Mapledale St, Bellflower CA
90706, Hoa Kỳ.
Theo đơn khởi kiện về việc ly hôn và quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn chị Hoàng Thị Đức T trình bày:
59
Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị Đức T và anh Phạm Minh H kết
hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng
Bình vào ngày 12/01/2016. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc
được 02 tháng thì anh Phạm Minh H quay lại Hoa Kỳ để làm ăn, thời gian đầu
vợ chồng vẫn thường xuyên liên lạc nhưng gần hai năm trở lại đây giữa vợ
chồng phát sinh mâu thuẫn nên dần dần mất liên lạc. Nguyên nhân mâu thuẫn
là do vợ chồng sống xa nhau thiếu sự tin tưởng về tình cảm lẫn kinh tế. Tình
trạng vợ chồng lạnh nhạt này diễn ra kéo dài và không còn khả năng khắc
phục. Hiện tại mỗi người ở mỗi nước khác biệt, không ai có nổ lực hàn gắn lại
hạnh phúc gia đình. Xét thấy tình cảm vợ chồng thực sự không còn, nếu kéo
dài quan hệ hôn nhân thì mục đích hôn nhân cũng không thể đạt được nên chị
T làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Minh H.
Về con chung: Chị Hoàng Thị Đức T trình bày vợ chồng không có con
chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Chị T trình bày vợ
chồng không có nên không yêu cầu giải quyết.
Về phía bị đơn anh Phạm Minh H: Thông qua dịch vụ bưu chính Tòa
án đã gửi cho anh Phạm Minh H thông báo thụ lý vụ án và công văn yêu cầu
anh H cung cấp tài liệu chứng cứ lời khai trình bày quan điểm. Ngày
06/02/2020 Tòa án nhận được Bản tự khai đề ngày 01/12/2019 của anh H gửi
từ nước ngoài về, nội dung anh đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án.
Anh H thống nhất như trình bày của chị T về quá trình tìm hiểu và kết hôn.
Do cuộc sống mỗi người một nơi, giữa vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn,
nguyên nhân là do tính cách, quan điểm sống, thiếu niềm tin và sự quan tâm
lẫn nhau. Hiện tại, anh H xác định tình cảm vợ chồng không còn, hạnh phúc
gia đình không thể hàn gắn được nên cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị
T. Về con chung: anh H trình bày vợ chồng không có con chung nên không
yêu cầu Tòa án giải quyết.
60
Về tài sản chung: vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải
quyết.
Vì điều kiện ở xa nên anh H không thể về Việt Nam để tham gia phiên
tòa theo thời gian đã được ấn định, anh xin được vắng mặt tại các phiên hòa
giải và phiên tòa, đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
Xét thấy việc trưng cầu giám định đối với chữ viết, chữ ký tại bản tự
khai do anh Phạm Minh H gửi về là cần thiết cho việc làm căn cứ giải quyết
vụ án. Ngày 17/02/2020, TAND tỉnh Quảng Bình đã ra Quyết định số
241/2020/QĐ-TCGĐ trưng cầu giám định đối với chữ viết, chữ ký của Phạm
Minh H ở mục ký tên tại Bản tự khai của anh Phạm Minh H gửi cho Tòa án.
Tại kết luận giám định số 160/PC09(GĐ) ngày 02/3/2020 của Phòng kỹ thuật
hình sự Công an tỉnh Quảng Bình đã xác định chữ viết, chữ ký tại Bản tự khai
mà TAND tỉnh Quảng Bình nhận được và chữ viết, chữ ký trên tài liệu mẫu
so sánh là do cùng một người viết (chữ viết, chữ ký tại Bản tự khai là do
chính anh Phạm Minh H viết ra).
Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Hoàng Thị Đức T giữ nguyên yêu cầu
khởi kiện xin được ly hôn với anh Phạm Minh H. Đại diện Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên tòa nhận xét: Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân, Thư ký phiên tòa tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Việc
thu thập chứng cứ đảm bảo đúng quy định, đảm bảo quyền lợi nghĩa vụ của
các đương sự.
Sau khi xem xét các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và nghe ý kiến của Đại
diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
nhận định về thủ tục tố tụng:
Nguyên đơn yêu cầu ly hôn với người có quốc tịch Hoa Kỳ; đây là vụ
kiện tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên vụ án thuộc thẩm quyền của
TAND tỉnh Quảng Bình. Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã thực hiện phương
61
thức tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của Tòa án cho đương sự ở nước
ngoài theo đường dịch vụ bưu chính đến địa chỉ của anh Phạm Minh H ở Hoa
Kỳ đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt và đã có ý
kiến đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt tại bản tự khai. Theo quy định thì việc
vắng mặt của đương sự trong trường hợp này, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ
án với sự vắng mặt của bị đơn.
Về nội dung: Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy: Quan hệ hôn
nhân giữa chị Hoàng Thị Đức T và anh Phạm Minh H là hợp pháp. Sau khi
kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được 02 tháng thì anh Phạm Minh H
quay lại Hoa Kỳ để làm ăn. Trong thời gian vợ chồng sống xa nhau, giữa vợ
chồng đã không có sự quan tâm, chia sẽ lẫn nhau thường xuyên nên đã phát
sinh mâu thuẫn, hạnh phúc gia đình lâu ngày không được vun đắp nên có
nhiều rạn nứt. Hiện tại hai bên đều xác định tình cảm vợ chồng không còn,
không ai có mong muốn hàn gắn lại hạnh phúc gia đình. Chị T có yêu cầu giải
quyết ly hôn và anh H đồng ý. Xét thấy, cuộc sống chung trên thực tế không
tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và
gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Hoàng Thị Đức T, xử
cho chị Hoàng Thị Đức T được ly hôn anh Phạm Minh H là hoàn toàn phù
hợp. Trên cơ sở các nội dung đã được làm rõ tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã
tuyên xử cho chị Hoàng Thị Đức T được ly hôn anh Phạm Minh H; về con
chung: không có, không xem xét. Về tài sản chung: các bên không yêu cầu
nên không xem xét. Về án phí: Chị Hoàng Thị Đức T phải chịu 3.540.000
đồng chi phí giám định tư pháp (chị T đã nộp đủ).
Án sơ thẩm xử công khai, chị Hoàng Thị Đức T có quyền kháng cáo
trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Phạm Minh H có quyền kháng
cáo trong hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm
yết. Sau khi xét xử, bản án không bị kháng cáo, kháng nghị hay khiếu nại.
62
Thứ ba là, bảo đảm quyền tự thỏa thuận của đương sự.
Một trong những nguyên tắc cơ bản và đặc trưng của việc xét xử các vụ
án ly hôn nói chung cũng như vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng là
tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự. Đối với thủ tục
giải quyết các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại cấp sơ thẩm, thủ tục bắt
buộc đó là Tòa án phải tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết vụ án. Đặc biệt với các vụ án ly hôn các mâu thuẫn
phát sinh chủ yếu xuất phát từ tình cảm việc hòa giải sẽ giúp cho các đương
sự có cái nhìn đúng đắn và lựa chọn hướng giải quyết hợp tình, hợp lý nhất.
Kết quả hòa giải có thể sẽ được các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích
mích một cách ổn thỏa, giải quyết các tranh chấp, bất đồng giữa các bên bằng
thương lượng với nhau; có thể giúp cho vợ chồng đoàn tụ, khôi phục, hàn gắn
tình cảm vợ chồng, hạn chế tình trạng bạo lực gia đình.
Khi thực hiện thủ tục hòa giải trong vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài,
Thẩm phán là bên thứ ba đóng vai trò trung gian, hoàn toàn độc lập với hai
bên, không có quyền áp đặt, thiên vị; giúp hai bên ngồi lại với nhau và tìm
cách đưa các bên tới những điểm mà họ có thể thỏa thuận được. Vậy nên sau
khi thu thập đầy đủ các chứng cứ cần thiết liên quan đến vụ án, nếu không
thuộc những trường hợp không được hòa giải quy định tại Điều 206 BLTTDS
và những vụ án không tiến hành hòa giải tại Điều 207 BLTTDS thì Thẩm
phán tiến hành thông báo về phiên hòa giải. Khi tiến hành hòa giải, Tòa án đã
áp dụng các quy định về nguyên tắc tiến hành hòa giải được quy định tại Điều
205, thành phần phiên hòa giải quy định tại Điều 209, nội dung hòa giải quy
định tại Điều 210 và lập biên bản hòa giải được quy định tại Điều 211 của
BLTTDS 2015. Khi tiến hành hòa giải các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài,
Tòa án luôn xác định rõ mục đích quan trọng nhất của phiên hòa giải là đạt
được sự thỏa thuận giữa các đương sự để giải quyết tranh chấp giữa họ, trong
63
đó luôn hướng tới mục đích hoà giải đoàn tụ thành để vụ án giải quyết được
nhanh gọn, không mất nhiều thời gian, công sức cũng như tình cảm mà lại đạt
được kết quả cao.
Thứ tư là, bảo đảm quyền yêu cầu thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, người giám định, người phiên dịch.
Theo quy định tại Điều 16 BLTTDS 2015 thì những người tiến hành tố
tụng hoặc tham gia tố tụng dân sự gồm có: Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên,
người phiên dịch, người giám định. Những người tiến hành tố tụng và tham
gia tố tụng dân sự giúp Tòa án làm rõ các vấn đề của vụ án ly hôn có yếu tố
nước ngoài, các vấn đề ấy được thực hiện thông qua nhiệm vụ, quyền hạn của
họ trong quá trình tố tụng. Các hoạt động của những người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng mục đích là để giúp Tòa án giải quyết vụ án, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, bảo đảm sự công bằng xã hội. Vì thế
trong quá trình tham gia, tiến hành tố tụng họ phải vô tư trong khi làm nhiệm
vụ, đảm bảo nguyên tắc vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng được quy định của pháp luật. Tuy nhiên trong trường hợp mà đương sự
có yêu cầu thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Thư ký
Tòa án, người giám định, người phiên dịch vì có căn cứ cho rằng họ không
thể vô tư, khách quan trong khi thực hiện nhiệm vụ, giải quyết các vụ, việc
hôn nhân và gia đình, nếu yêu cầu của đương sự đúng với Điều 52, 53, 54 của
BLTTDS 2015 thì Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh ra quyết định thay đổi
người tiến hành tố tụng hoặc những người tố tụng có thể từ chối tham gia hoạt
động xét xử vụ án.
Thứ năm là, bảo đảm quyền được tranh tụng trong tố tụng dân sự.
Theo quy định tại Điều 24 BLTTDS thì bảo đảm tranh tụng trong xét xử là
một trong những nguyên tắc của tố tụng dân sự nhằm đảm bảo cho đương sự
64
tự định đoạt, tự chứng minh để bảo vệ quyền lợi của mình, quá trình tranh
tụng được bắt đầu từ khi khởi kiện thụ lý vụ án cho đến khi giải quyết xong
vụ án; đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong các giai đoạn xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm
cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực
hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm. Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và
chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật
này quy định. Trong quá trình tiến hành tố tụng giải quyết vụ án ly hôn có yếu
tố nước ngoài, TAND tỉnh Quảng Bình luôn tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc này,
bảo đảm cho đương sự được quyền giao nộp chứng cứ, tiếp cận và công khai
chứng cứ, được ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ; đặc biệt để tăng cường
đổi mới thủ tục tranh tụng tại phiên tòa cũng như bảo đảm quyền tranh tụng
tại phiên toà của đương sự trong hoạt động xét xử, TAND tỉnh Quảng Bình đã
phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tỉnh ban hành Quy chế phối hợp giữa
Tòa án và Viện kiểm sát trong công tác phối hợp trong quản lý, chỉ đạo, điều
hành, tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm theo yêu cầu cải cách tư pháp. Trên
cơ sở đó đã phối hợp và tổ chức nhiều phiên tòa rút kinh nghiệm xét xử các
vụ án ly hôn và ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh với sự tham gia
của Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký, Kiểm sát viên Viện khiểm sát tỉnh.
Quá trình tranh tụng, Hội đồng xét xử lắng nghe ý kiến tranh luận từ hai phía,
bên khởi kiện và bên bị kiện bảo đảm cho đương sự, người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan được trình bày quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Bảo đảm quyền bình đẳng giữa những người tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng trong việc đưa ra chứng cứ, bày tỏ quan điểm ý kiến, để xác
định sự thật khách quan; bảo đảm cao nhất quyền của đương sự được quyền
yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng của đương
65
sự; bảo đảm quyền thỏa thuận với nhau về giải quyết cũng như bảo đảm
quyền tham gia phiên tòa, phiên họp của đương sự.
Thứ sáu là, bảo đảm quyền nhờ người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, ủy quyền cho luật sư hoặc người khác đại diện trong tố tụng dân sự;
quyền được ly hôn của đương sự.
Hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư cho cá nhân và hoạt
động trợ giúp pháp lý tại tỉnh Quảng Bình trong những năm qua đã tăng cả về
số lượng và nâng cao một bước về chất lượng, góp phần tích cực bảo vệ công
lý, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, doanh nghiệp, phục vụ tích cực cho
công cuộc cải cách tư pháp, góp phần tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi
thúc đẩy các hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại trong bối cảnh hội
nhập quốc tế đồng thời bảo đảm cho công dân có thể nhờ người khác bảo vệ
quyền của mình khi tham gia các hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và
hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng. Tuy nhiên,
hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài so với các tranh chấp
dân sự, giải quyết các vụ án hình sự thì sự tham gia bảo vệ của công dân bằng
hình thức ủy quyền cho Luật sư thường ít hơn. Công dân chỉ nhờ đến Luật sư
trong trường hợp vụ án ly hôn có mức độ phức tạp thường là tranh chấp về tài
sản hoặc quyền nuôi con chung.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, ly hôn là quyền tự do cá nhân của
vợ, chồng. Vợ, chồng có quyền yêu cầu ly hôn khi thấy tình cảm giữa vợ
chồng không còn và việc duy trì hôn nhân là không cần thiết và không có lợi
cho gia đình. Việc ly hôn chỉ bị hạn chế trong trường hợp người chồng có yêu
cầu ly hôn khi người vợ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Mục đích của quy định này là gắn trách nhiệm của người chồng trong việc tạo
điều kiện cho người vợ thực hiện chức năng làm mẹ. Quyền yêu cầu ly hôn
của người phụ nữ không bị hạn chế ngay cả khi đang mang thai hoặc nuôi con
66
dưới 12 tháng tuổi. Do vậy, khi có căn cứ xác định mâu thuẩn vợ chồng đã
đến mức trầm trọng, tình trạng hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn
nhân không đạt được, việc hòa giải không đem lại kết quả thì Tòa án quyết
định cho ly hôn để giải phóng cho họ. Trong thời gian qua, TAND tỉnh Quảng
Bình đã luôn bảo đảm thực hiện quyền này bởi khi giải quyết các vụ án ly hôn
có yếu tố nước ngoài, vấn đề chứng minh tình trạng hôn nhân là rất quan
trọng và khi đã có căn cứ xác định tình trạng hôn nhân của họ đã đến mức
trầm trọng thì phải chấp nhận cho họ ly hôn, không xảy ra trường hợp bác đơn
thiếu căn cứ chỉ để bảo vệ quyền lợi của một bên là kéo dài sự ràng buộc
không đáng có và vi phạm quyền được ly hôn của đương sự.
Thứ bảy là, bảo đảm quyền được chăm sóc nuôi dưỡng con và quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng của người vợ và con chưa thành niên, quyền
được chia tài sản chung.
Pháp luật ghi nhận việc ly hôn không làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ
của vợ, chồng đối với con của mình mà chỉ thừa nhận sự thay đổi phương
thức thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với con. Người không trực tiếp nuôi con
chưa thành niên phải cấp dưỡng nuôi con, tiếp tục thực hiện các quyền đại
diện, chăm sóc, giáo dục con phù hợp với hoàn cảnh hai vợ chồng không sống
chung. Người trực tiếp nuôi con phải tạo điều kiện cho người không trực tiếp
nuôi con thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với con. Bên cạnh đó, khi ly
hôn người vợ thường phải gánh vác trách nhiệm nuôi con, do vậy Tòa án đã
chú trọng nguyên tắc bình đẳng trong phân chia tài sản chung để đảm bảo tính
công bằng và lợi ích của vợ, chồng nhưng cũng cần xem xét đến công sức
đóng góp, sử dụng, duy trì tài sản của mỗi bên, đồng thời cũng phải xem xét
đến điều kiện về nơi ở, nơi sinh hoạt, nghề nghiệp, thu nhập của vợ, tình trạng
tài sản để đưa ra quyết định phù hợp nhằm bảo đảm quyền lợi của mẹ và con
sau ly hôn.
67
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng đều có quyền bình đẳng trong việc
tạo lập, chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung. Pháp luật không phân
biệt chức năng kinh tế do chồng hay vợ thực hiện mà đó là trách nhiệm chung
của hai vợ chồng, kể cả trường hợp người vợ không có thu nhập chỉ ở nhà
nuôi con và làm công việc nội trợ thì tài sản do chồng tạo ra cũng được coi là
tài sản chung vợ, chồng; mặt khác, nếu một hoặc cả hai bên có tài sản riêng
do được tặng cho riêng, được thừa kế riêng… nhưng đã tự nguyện đồng ý
nhập vào khối tài sản chung thì cũng được coi là tài sản chung. Tóm lại, trong
trường hợp vì lý do giới tính, sức khỏe, nghề nghiệp, mức thu nhập mà công
sức đóng góp của vợ hoặc chồng ít hơn thì cũng không làm giảm hoặc mất
quyền sở hữu của họ đối với tài sản chung; bởi lao động trong gia đình (như
nội trợ, chăm sóc con cái, vợ chồng…) vẫn được tính ngang với lao động tạo
ra của cải, vật chất. Vì vậy, khi giải quyết ly hôn, Tòa án phải đảm bảo tính
công bằng khi chia tài sản chung cho các bên, nếu việc tự thỏa thuận không
có kết quả thì Tòa án quyết định căn cứ vào tính chất tài sản và công sức đóng
góp của mỗi bên nhằm đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp về tài sản đối với họ.
Chính vì vậy, khi giải quyết ly hôn nếu các bên không thỏa thuận được việc
chia tài sản thì Tòa án quyết định dựa trên nguyên tắc khách quan, công bằng
để bảo đảm quyền lợi cho đương sự hoặc kể cả trường hợp thông qua hòa giải thì
Tòa án cũng phân tích, giải thích nhằm hướng đến cho đương sự có quan điểm
phân chia tài sản phù hợp trên cơ sở tính lợi ích và bình đẳng của các bên.
- Ví dụ đối với vụ án ly hôn có tranh chấp về quyền nuôi con:
Vụ án dân sự thụ lý số: 28/2018/TLST-HNGĐ ngày 10/12/2018 về việc
ly hôn theo đơn khởi kiện của nguyên đơn: anh Phạm Như Ngọc Th, sinh năm
1993; địa chỉ: xã Q, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Bị đơn: chị Hoàng Thị Thúy
V, sinh năm 1994, nơi đăng ký hộ khẩu: Thôn T, xã Q, thành phố Đồng Hới,
tỉnh Quảng Bình; Hiện là Thực tập sinh tại Nghiệp đoàn KOEKI, Tokyoto,
68
Nhật Bản. Theo đơn khởi kiện và bản tự khai anh Phạm Như Ngọc Th: Anh
và chị Hoàng Thị Thúy V có quá trình tìm hiểu đã có con chung khi chưa đủ
tuổi đăng ký kết hôn. Ngày 01/10/2012 anh và chị Hoàng Thị Thúy V tự
nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, thành phố Đồng Hới, tỉnh
Quảng Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc, anh đi đánh cá còn
chị V ở nhà nội trợ và nuôi con. Năm 2014, vợ chồng bàn bạc để anh xuất
khẩu lao động tại Anh, nhưng do công việc làm ăn ở Anh Quốc không thuận
lợi nên anh trở về Việt Nam và cùng bố mẹ anh làm ăn để trả nợ. Trong thời
gian anh ở Anh Quốc thì vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do
vợ chồng thiếu tin tưởng nhau về tình cảm lẫn kinh tế. Năm 2015 chị V bỏ về
nhà bố mẹ đẻ và làm thủ tục đi xuất khẩu lao động nước ngoài (thực tập sinh
tại Nhật Bản), từ đó đến nay vợ chồng không hề liên lạc gì với nhau. Hiện tại
tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng sống ly thân nhau đã lâu nên yêu cầu
Tòa án giải quyết cho ly hôn chị V.
Về con chung: Anh Phạm Như Ngọc Th trình bày vợ chồng có 01 con
chung, Phạm Thị Thanh Nh, sinh ngày 23/9/2011, đang sống với anh và ông
bà nội. Sau khi ly hôn, anh Th có nguyện vọng trực tiếp nuôi con, không yêu
cầu chị V cấp dưỡng nuôi con, anh đủ điều kiện để đảm bảo về mọi mặt cho
con, thu nhập của anh mỗi tháng 10 triệu đồng.
Về tài sản chung: Anh Th trình bày không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với chị Hoàng Thị Thúy V, sau khi thụ lý vụ án, TAND tỉnh Quảng
Bình đã tiến hành các phương thức tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của
Tòa án theo quy định của pháp luật theo địa chỉ anh Th cung cấp nhưng
không thực hiện tống đạt được. Tòa án đã yêu cầu anh Th cung cấp địa chỉ
mới của chị V. Tại biên bản lấy lời khai ngày 10/6/2019 anh Th trình bày: Từ
trước khi làm đơn ly hôn anh không liên lạc được với chị Hoàng Thị Thúy V,
ngoài địa chỉ ghi trong hợp đồng thực tập kỹ năng mà chị V sang làm việc tại
69
Nhật Bản, hiện tại anh không biết địa chỉ cụ thể của chị V tại Nhật Bản, anh
đề nghị Tòa án xem xét giải quyết. Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản đã
niêm yết văn bản tố tụng mà Tòa án đề nghị tống đạt tại trụ sở Đại sứ quán
Việt Nam. Tòa án cũng tiến hành đăng tin thông báo cho chị Hoàng Thị Thúy
V trên kênh đối ngoại VOV5 Đài Tiếng nói Việt Nam nhưng không nhận
được lời khai, tài liệu, chứng cứ gì của chị V. Tòa án xác minh tại gia đình bố
mẹ chị Hoàng Thị Thúy V ở thôn H, xã B, thành phố Đ, tại biên bản ngày
23/8/2019 và tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị H là mẹ đẻ của chị Hoàng Thị
Thúy V trình bày: anh Phạm Như Ngọc Th và chị Hoàng Thị Thúy V kết hôn
với nhau vào ngày 01/10/2012 tại Ủy ban nhân dân xã Q, gia đình hai bên đã
tổ chức lễ cưới. Sau khi kết hôn vợ chồng sống với bố mẹ anh Th tại xã Q,
đến năm 2015 thì chị V về nhà bà ở một thời gian thì làm thủ tục đi lao động
tại Nhật Bản, trong quá trình chị V ở Nhật Bản đến nay bà và chị V thường
xuyên liên lạc với nhau bằng điện thoại nhưng chị V không cho biết địa chỉ cụ
thể tại Nhật Bản. Chị V nói với gia đình biết về việc anh Th làm đơn yêu cầu
Tòa án giải quyết ly hôn, chị V nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn cũng
muốn được ly hôn. Anh Th và chị V có một con chung là Phạm Thị Thanh
Nh, sinh ngày 23/9/2011, đang sống với anh Th và ông bà nội. Chị V có
nguyện vọng muốn nuôi con nên chị V có nói chờ chị về nước đã mới giải
quyết ly hôn với anh Th. Tại phiên tòa chị V không có mặt, không có đơn đề
nghị xét xử vắng mặt.
Cháu Phạm Thị Thanh Nh có nguyện vọng được ở với bố và ông bà nội
có xác nhận của cô giáo chủ nhiệm và Trường Tiểu học Q.
Đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình phát biểu ý kiến: Quá
trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và
người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét
xử nghị án đã thực hiện đúng quy định của BLTTDS.
70
Về con chung: Giao cháu Phạm Thị Thanh Nh, sinh ngày 23/9/2011,
cho anh Phạm Như Ngọc Th trực tiếp nuôi dưỡng, anh Thành không yêu cầu
cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét. Về tài sản chung: Không yêu cầu giải
quyết nên không xem xét.
Hội đồng xét xử nhận định: Đây là vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài
thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND tỉnh Quảng Bình. Sau khi thụ lý vụ
án, TAND tỉnh Quảng Bình đã tiến hành các phương thức tống đạt, thông báo
văn bản tố tụng của Tòa án theo quy định của pháp luật đối với bị đơn chị
Hoàng Thị Thúy V nhưng không có kết quả, Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật
bản cũng đã niêm yết văn bản tố tụng (Đơn khởi kiện xin ly hôn, Thông báo
thụ lý vụ án, Thông báo cung cấp các tài liệu...). Tòa án thực hiện việc niêm
yết tại trụ sở TAND tỉnh Quảng Bình và tại xã B, xã Q và giao văn bản tố
tụng của Tòa án cho bà H (mẹ đẻ chị V) để thông báo cho chị V có mặt tại
Tòa án theo quy định. Tại phiên tòa lần thứ hai chị V vắng mặt nên Tòa án
giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng
không rõ địa chỉ để xét xử theo thủ tục chung.
Từ các căn cứ pháp lý trên TAND tỉnh Quảng Bình đã áp dụng các quy
định của pháp luật tuyên xử cho anh Phạm Như Ngọc Th được ly hôn chị
Hoàng Thị Thúy V. Về quan hệ con chung: Xử giao cháu Phạm Thị Thanh
Nh cho anh Phạm Như Ngọc Th trực tiếp nuôi dưỡng, chị Hoàng Thị Thúy V
không phải cấp dưỡng nuôi con hàng tháng. Không ai được quyền cản trở
người không trực tiếp nuôi con thực hiện quyền thăm nom và chăm sóc con
chung. Trong trường hợp vì quyền lợi chính đáng của con chưa thành niên,
các đương sự đều có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi
dưỡng hoặc mức cấp dưỡng nuôi con chung. Án xử sơ thẩm công khai, anh
Phạm Như Ngọc Th có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên
án; Chị Hoàng Thị Thúy V có quyền kháng cáo trong thời hạn 01 tháng kể từ
71
ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp
lệ theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử, vụ án được sự đồng thuận của hai bên nguyên đơn và bị
đơn không bị kháng cáo, kháng nghị, khiếu nại.
Thứ tám là, bảo đảm quyền được cấp trích lục bản án; quyền kháng
cáo bản án; quyền khiếu nại, tố cáo đối với hoạt động xét xử.
Trong những năm qua, TAND tỉnh Quảng Bình đã tăng cường triển
khai ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý theo chủ trương
của hệ thống Tòa án. Bắt đầu từ năm 2014 đơn vị tiến hành thực hiện số hóa
các bản án bằng cách scan toàn bộ hồ sơ các loại án từ năm 1989 đến nay lưu
vào phần mềm quản lý hồ sơ vụ án, đồng thời trên Cổng thông tin điển tử Tòa
án tích hợp phần mềm đăng ký trích lục bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật giúp thuận tiện trong công tác lưu trữ, khai thác, tra cứu và cấp trích sao
bản án cho các cơ quan, tổ chức và công dân. Đây là một trong những bước
tiến mới, có hiệu quả thiết thực của hệ thống Tòa án trong giai đoạn hệ thống
Tòa án đang thực hiện cải cách tư pháp, tiến tới triển khai mô hình Tòa án
điện tử.
Mặt khác, sau khi kết thúc việc xét xử, trong thời hạn luật định, TAND
tỉnh Quảng Bình đã thực hiện việc cấp hoặc gửi bản án cho Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh, cho các đương sự hoặc chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát
khi có văn bản đề nghị theo quy định để những người đó có thể thực hiện
quyền kháng cáo, kháng nghị của mình theo quy định của pháp luật.
Đó là những minh chứng cụ thể về bảo vệ quyền con người (quyền của
đương sự) trong quá trình xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.
72
2.2.3. Đánh giá chung kết quả bảo vệ quyền con người trong xét xử các
vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
2.2.3.1. Những kết quả đạt được trong bảo vệ quyền con người trong
xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình
Trong năm qua, mặc dù yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đối với TAND tỉnh
Quảng Bình là rất nặng nề cùng với ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19,
nhưng được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên, sâu sát của TAND tối cao,
của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh; sự quan tâm phối hợp, giúp đỡ của Ủy
ban nhân dân tỉnh, của các Ban ngành và chính quyền địa phương, đặc biệt là
sự cố gắng, nỗ lực của đội Thẩm phán, Thư ký TAND tỉnh Quảng Bình cùng
với việc đề ra nhiều giải pháp đột phá, hiệu quả, sát với thực tế, nên hoạt động
xét xử nói chung và xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng tại
TAND tỉnh Quảng Bình tiếp tục có những chuyển biến tích cực.
Công tác xét xử có những tiến bộ cả về tiến độ cũng như chất lượng và
luôn bảo đảm đúng quy định của pháp luật tố tụng. TAND tỉnh Quảng Bình
đã áp dụng đúng các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của Nhà nước, tập thể và công dân, bảo đảm về đường lối cũng
như thời hạn xét xử cũng như bảo đảm quyền và lợi ích cho đương sự. Ngoài
việc tuân thủ chặt chẽ pháp luật tố tụng, đảm bảo cho đương sự được thực
hiện đầy đủ quyền lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật, TAND tỉnh
đã áp dụng pháp luật về nội dung một cách khách quan, công bằng, có căn cứ
nên đã đảm bảo cho đương sự được thực hiện các quyền con người trong hôn
nhân gia đình gắn liền nhân thân như: quyền ly hôn, quyền được nuôi con,
được chia tài sản chung…
Các Thẩm phán xét xử cũng đã làm tốt việc hướng dẫn các đương sự
thực hiện đúng nghĩa vụ về cung cấp chứng cứ, tài liệu của vụ việc; chủ động
xác minh, thu thập chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng, thực hiện UTTP
73
theo quy định của pháp luật; tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan
nhằm giải quyết tốt các vụ án; hạn chế tối đa việc tạm đình chỉ nhiều lần đối
với một vụ án, tạm đình chỉ giải quyết vụ án không có căn cứ. Một số vụ án ly
hôn có tính chất phức tạp, các Thẩm phán tập trung giải quyết nhanh chóng,
góp phần vừa tháo gỡ vướng mắc trong việc để án tồn đọng, kéo dài vừa bảo
vệ được quyền được ly hôn của nguyên đơn, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân.
2.2.3.2. Những hạn chế, tồn tại trong bảo vệ quyền con người trong xét
xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình
Trong những năm qua mặc dù TAND tỉnh Quảng Bình đã đạt được
nhiều kết quả đáng ghi nhận về bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét
xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, tuy nhiên trong quá trình xét xử
TAND tỉnh Quảng Bình vẫn còn gặp phải một số hạn chế tồn tại ảnh hưởng
đến việc bảo vệ quyền của đương sự đó là:
- Về quyền khởi kiện lại vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài trong trường
hợp TAND tỉnh bác đơn khởi kiện: Theo quy định tại điểm b, khoản 3, Điều
192 BLTTDS 2015 quy định về việc đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện lại
trong trường hợp: “Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức
cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản,
thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản,
đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho
mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy
định của pháp luật được quyền khởi kiện lại”. Tuy nhiên LHNGĐ năm 2014
chưa có quy định về thời gian khởi kiện lại trong trường hợp Tòa án bác đơn
yêu cầu ly hôn, do đó phần nào đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nguyên
đơn khi muốn nộp lại đơn khởi kiện ly hôn.
74
- Về căn cứ cho ly hôn: Căn cứ ly hôn là cơ sở pháp lý và chỉ khi có
các điều kiện đó thì Tòa án mới có thể giải quyết cho ly hôn. Ngoài những
căn cứ được quy định tại Điều 56 LHNGĐ năm 2014, trên thực tế có nhiều
trường hợp vợ hoặc chồng xin ly hôn với chồng hoặc vợ đang chấp hành án
phạt tù giam với thời hạn dài, đây cũng là cơ sở để Tòa xem xét. Tuy nhiên
LHNGĐ năm 2014 chưa quy định căn cứ cho ly hôn trong trường hợp này,
điều này đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người đề nghị giải
quyết cho ly hôn.
- Về quyền và nghĩa vụ với con khi ly hôn: Khoản 2, Điều 81 của
LHNGĐ năm 2014 quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con sau khi ly hôn. Cụ thể:
“Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền
của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được
thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền
lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện
vọng của con”. Quy định này nhằm lấy ý kiến của con để Tòa án có cơ sở
quyết định việc nuôi dưỡng giao cho người mẹ hay người cha theo nguyện
vọng của con. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện thủ tục này gặp nhiều
khó khăn khi trẻ em 07 tuổi chưa hoàn thiện về nhân cách, tâm lý, trẻ chưa
nhận thức được việc ở với cha hay với mẹ thì đảm bảo điều kiện, quyền lợi,
do đó không xác định được nguyện vọng của mình. Đây là quy định hợp tình,
hợp lý nhưng cần có sự thay đổi trong quy định của Luật về độ tuổi.
- Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Điều 115 LHNGĐ năm 2014 “Khi ly hôn nếu
bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì
bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình”. Quy định này rất
khó áp dụng trong thực tiễn vì chưa phù hợp với mối quan hệ của những
người đã ly hôn.
75
Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trường hợp do có điều kiện kinh tế nên
người trực tiếp nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng và Tòa án công nhận.
Nhưng quyền nhận cấp dưỡng là quyền của người con khi cha mẹ ly hôn nên
người trực tiếp nuôi dưỡng không có quyền từ chối cấp dưỡng. Việc từ chối
cấp dưỡng sẽ dẫn tới quyền, lợi ích chính đáng của người con không được
đảm bảo. Tuy nhiên LHNGĐ năm 2014 không quy định vấn đề này.
- Về vấn đề địa chỉ của bị đơn: Có nhiều trường hợp nguyên đơn nộp
đơn xin ly hôn đến Tòa án, Bị đơn là người Việt Nam được xác định đã xuất
cảnh ra nước ngoài nhưng không có địa chỉ cụ thể, Tòa án đã yêu cầu thân
nhân của Bị đơn cung cấp địa chỉ nhưng không được vì nhiều lý do khách
quan như: gia đình cố tình không hợp tác, do Bị đơn xuất cảnh hợp pháp sau
đó bỏ trốn sang nước khác hoặc dấu địa chỉ để ở lại làm ăn... Những trường
hợp này theo Hướng dẫn tại Điều 6, Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày
05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao thì được coi là cố tình dấu
địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ chung mà không đình chỉ vụ án.
Tuy nhiên việc giải quyết theo thủ tục chung ở Phần thứ 8 của BLTTDS thì
thời hạn chuẩn bị xét xử từ 9 tháng đến 12 tháng; hay Phần thứ 2 của
BLTTDS với thời hạn xét xử từ 4 đến 6 tháng. Do đó làm ảnh hưởng đến
quyền của nguyên đơn trong quá trình giải quyết các vụ án ly hôn có yếu tố
nước ngoài.
Có trường hợp nguyên đơn là người trong nước có đơn gửi đến TAND
tỉnh yêu cầu được ly hôn với bị đơn đang sinh sống tại nước ngoài vì đã lâu
không còn liên lạc, không quan tâm và không còn tình cảm với nhau. Trong
đơn xin ly hôn, nguyên đơn đã cung cấp địa chỉ của bị đơn tại nước ngoài.
Tòa án đã yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tại nước ngoài theo đường ngoại
giao gửi văn bản đến địa chỉ của đương sự đang cư trú nhưng bị đơn không
hợp tác. Xác minh tại địa chỉ người thân trong nước của bị đơn thì họ cho
76
rằng bị đơn vẫn sống và làm việc ở nước ngoài và vẫn liên lạc thường xuyên
với người thân thích trong nước. Tòa án cũng đã nhờ người thân của bị đơn
liên hệ và yêu cầu về nước để giải quyết việc nguyên đơn yêu cầu ly hôn họ
nhưng bị đơn không về nước cũng không có thông tin phản hồi về việc
nguyên đơn có yêu cầu ly hôn. Đây là tình huống này gây khó khăn cho Tòa
án khi thụ lý giải quyết vụ án. Tòa án không thể tuyên bố tuyên bố mất tích vì
theo người thân thích của bị đơn cung cấp là họ vẫn liên lạc được với bị đơn,
đã thông báo với bị đơn theo yêu cầu của Tòa án. Tuy nhiên, nếu Tòa đình chỉ
việc giải quyết vụ án thì nguyên đơn là công dân trong nước bị bỏ lửng không
ly hôn được và như vậy là không đảm bảo quyền lợi của đương sự, vi phạm
LHNGĐ về quyền được kết hôn và ly hôn của đương sự. Do đó, Tòa án
không thể đình chỉ việc giải quyết vụ án.
- Về việc xét xử vắng mặt bị đơn: Tại điểm c khoản 6 Điều 477
BLTTDS quy định: “Trường hợp nguyên đơn là công dân Việt Nam yêu cầu
ly hôn với người nước ngoài đang cư trú ở nước ngoài mà không thể thực
hiện việc cung cấp đúng họ, tên, địa chỉ hoặc địa chỉ mới của người nước
ngoài theo yêu cầu của Tòa án mặc dù nguyên đơn, thân nhân của họ hoặc cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc của nước ngoài đã tiến hành xác
minh tin tức, địa chỉ của người nước ngoài đó nhưng không có kết quả thì
nguyên đơn yêu cầu Tòa án thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án
(nếu có), Cổng thông tin điện tử của cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; trường hợp cần thiết, theo yêu cầu của
nguyên đơn, Tòa án có thể thông báo qua kênh dành cho người nước ngoài
của Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của trung ương ba lần trong 03 ngày
liên tiếp. Trong trường hợp này, Tòa án không phải tống đạt lại văn bản tố
tụng cho đương sự ở nước ngoài. Hết thời hạn 01 tháng, kể từ ngày đăng
thông báo, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đương sự”.
77
Xét tình hình thực tiễn, đương sự trong nước bị bỏ lửng nhiều năm, hai
bên không còn quan tâm đến nhau, mục đích của hôn nhân không đạt được…
bị đơn cố tình giấu địa chỉ, theo Luật HNGĐ và căn cứ điểm b,c khoản 5 hoặc
điểm b khoản 6 Điều 477 BLTTDS 2015 thì Tòa án có thể xử vắng mặt
đương sự. Tuy nhiên căn cứ để xử vắng mặt và căn cứ để đình chỉ vụ án là
tương đối giống nhau. Do đó, trên thực tiễn đây là vấn đề gây lúng túng,
vướng mắc đối với các Thẩm phán trong quá trình giải quyết.
- Về vấn đề thực hiện UTTP: Hiện nay trong thực hiện việc UTTP về
khung pháp lý đã được quy định trong BLTTDS, BLDS, Luật tương trợ tư
pháp và các HĐTTTP và nhiều văn bản hưởng dẫn thi hành, đặc biệt là từ khi
Thông tư liên tịch số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC có hiệu lực thì
nhiều vấn đề trong UTTP trước đây vướng mắc nay đã được tháo gỡ. Tuy
nhiên trong giải quyết các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài của TAND tỉnh
Quảng Bình trong thời gian qua cho thấy quá trình giải quyết Tòa án vẫn gặp
phải những khó khăn như Thẩm phán không cập nhật kịp thời danh sách các
quốc gia, vùng lãnh thổ mà Việt Nam có ký HĐTTTP; sự phối hợp giữa Tòa
án với các cơ quan liên quan như Bộ tư pháp, Bộ ngoại giao trong thực hiện
UTTP chưa được đồng bộ nên hồ sơ ủy thác còn chậm dẫn đến giải quyết vụ
án bị kéo dài, gây ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của đương sự, ảnh hưởng
đến công tác xét xử của Tòa án. Một số trường hợp đương sự ở nước ngoài
không có thân nhân trong nước, nhưng pháp luật lại quy định việc UTTP bắt
buộc phải thông qua con đường ngoại giao, Tòa án không được trực tiếp gửi
quyết định thu thập chứng cứ cho đương sự nên đây cũng là hạn chế dẫn đến
tình trạng các vụ án bị tồn đọng kéo dài.
Trường hợp vụ việc dân sự không thể thực hiện được việc ủy thác do
Việt Nam và nước ngoài chưa có ĐƯQT hoặc không áp dụng được nguyên
tắc có đi có lại, thì Tòa án đã thụ lý vụ việc tiến hành thủ tục niêm yết công
78
khai hồ sơ UTTP tại trụ sở Tòa án, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc
nơi cư trú cuối cùng của đương sự được ủy thác (nếu có) trong thời hạn sáu
tháng và đăng báo hàng ngày của trung ương trong ba số liên tiếp. Nếu hết
thời hạn này mà không có tin tức của đương sự ở nước ngoài thì Tòa án tiếp
tục giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục chung.
Việc quy định như vậy là không hợp lý bởi một lần ủy thác như trên
phải mất thời gian tối thiểu là sáu tháng, nhưng không phải để giải quyết một
vụ án Tòa án chỉ ủy thác một lần là xong mà Tòa án phải thực hiện nhiều lần
ủy thác như trước khi đưa vụ án ra xét xử đối với đương sự ở nước ngoài Tòa
án ủy thác hai lần về việc tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, lấy lời khai của
đương sự, xác minh, thu thập chứng cứ không có kết quả thì Tòa án mới đưa
vụ án ra xét xử được, sau khi xét xử Tòa án lại phải thực hiện ủy thác tống đạt
kết quả phiên tòa như bản án, quyết định đình chỉ, hay thông báo kháng cáo.
Vậy tính tổng thời gian để kết thúc một vụ án cho dù chỉ là một vụ án đơn
giản có khi cũng mất vài năm. Thực tế giải quyết các vụ án ly hôn có yếu tố
nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình cũng như ở một số địa phương khác
trong nước trong thời gian qua cho thấy việc UTTP thu thập chứng cứ ở nước
ngoài thường đạt kết quả rất hạn chế, thậm chí nhiều trường hợp không có kết
quả hoặc có kết quả nhưng thường rất chậm, có khi một năm thậm chí vài
năm sau khi ủy thác Tòa án mới nhận được kết quả.
- Về công tác kiểm tra án: Mặc dù hàng năm TAND tỉnh Quảng Bình
đều thực hiện công tác kiểm tra nghiệp vụ thường xuyên đối với hoạt động xét
xử nói chung và đối với hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước
ngoài nói riêng. Tuy nhiên, từ trước đến nay TAND tối cao chưa có cuộc
thanh tra, kiểm tra chuyên đề nào về vấn đề bảo đảm quyền con người trong
hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng
Bình. Mà vấn đề trên được giao cho Phòng kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án
79
thực hiện kiểm tra hàng ngày khi bản án được ban hành nên vấn đề bảo đảm
quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước
ngoài chưa được quan tâm đúng mức và chưa phát hiện và rút kinh nghiệm
đối với những sai phạm điển hình trong quá trình xét xử các vụ án ly hôn có
yếu tố nước ngoài.
2.2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong bảo vệ quyền
con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh
Quảng Bình
Nguyên nhân khách quan:
Một là, do hệ thống pháp luật về tố tụng dân sự và pháp luật về hôn
nhân và gia đình chưa hoàn thiện, chậm sửa đổi bổ sung để đáp ứng kịp thời
yêu cầu nhiệm vụ trong gia đoạn cải cách tư pháp. Những văn bản pháp luật
mới được ban hành đã khắc phục được những thiếu sót của văn bản pháp luật
cũ, đáp ứng tốt những yêu cầu áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp
khi ly hôn. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có sự chồng chéo, chưa quy định đầy
đủ và chi tiết đối với trường hợp xét xử ly hôn có yếu tố nước ngoài, mặc dù
có nhiều văn bản hướng dẫn nhưng còn thiếu thống nhất. Mặt khác, các văn
bản hướng dẫn dưới luật như các Thông tư, Công văn hướng dẫn của TAND
tối cao lại thường xuyên có sự sửa đổi, bổ sung, thay thế. Một số vướng mắc
trong việc áp dụng các quy định của pháp luật, đặc biệt là các văn bản quy
phạm pháp luật mới liên quan tới hoạt động của hệ thống TAND chưa được
hướng dẫn áp dụng pháp luật kịp thời, đầy đủ làm ảnh hưởng nhất định tới
chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống Tòa án cũng như ảnh hưởng đến
quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước
ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình.
Hai là, do số lượng án tranh chấp dân sự, án hôn nhân và gia đình trong
những năm trở lại đây tăng mạnh trong khi biên chế Thẩm phán, Thư ký Tòa
80
án không tăng mà còn phải giảm theo Nghị quyết về tin giản biên chế của
Đảng. Điều này tạo áp lực lớn về tiến độ công việc đối với các Thẩm phán khi
phải vừa giải quyết án ly hôn trong nước vừa giải quyết án ly hôn có yếu tố
nước ngoài, nhất là vào thời điểm chuẩn bị kết thúc số liệu năm công tác. Do
yêu cầu phải giải quyết nhanh, giải quyết sớm để đạt chỉ tiêu đề ra từ đầu năm
đã khiến Thẩm phán phán quyết các vụ án ly hôn khi chưa đủ chứng cứ hoặc
chứng cứ pháp lý chưa chắc chắn, thiếu tính thuyết phục phần nào làm hạn
chế quyền của đương sự trong quá trình tham gia tố tụng.
Ba là, do trình độ nhận thức của đương sự không đồng đều và hiểu biết
pháp luật của người dân còn hạn chế. Thực tế cho thấy khi Tòa án thụ lý để
giải quyết các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, nhiều đương sự và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của
mình theo luật định, không phối hợp, gây khó khăn, đối phó, cản trở cho việc
giải quyết vụ án như: Không cung cấp tài liệu, chứng cứ, vắng mặt không có
lý do hoặc cố tình dấu địa chỉ…. Chính từ việc không am hiểu các quy định
pháp luật về Tố tụng dân sự, pháp luật về hôn nhân và gia đình dẫn đến công
dân không thể tự mình bảo vệ quyền của mình cũng như yêu cầu Tòa án và
các cơ quan khác bảo vệ quyền con người, quyền công dân của mình khi tham
gia vào hoạt động xét xử của Tòa án.
Bốn là, hiện nay chất lượng đội ngũ luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp của đương sự chưa thật sự lấy pháp luật làm thước đo, làm chuẩn mực
để thực hiện nhiệm vụ của mình mà thường có tư tưởng thiên vị người mình
đứng ra bảo vệ, cố tình đưa ra những lập luận trái luật, thiếu khách quan. Ví
dụ: Trong vụ án lý hôn có yếu tố nước ngoài có tranh chấp về quyền nuôi con,
bị đơn mời luật sư bảo vệ quyền lợi để được quyền nuôi con, trong khi điều
kiện về chổ ở và thu nhập và các điều kiện khác của bị đơn ở nước ngoài
không đảm bảo để giao quyền nuôi con. Thế nhưng Luật sư vẫn khăng khăng
81
bảo vệ thân chủ đề nghị Tòa quyết định giao con cho bị đơn mặc dù không có
căn cứ chứng minh quan điểm đề nghị của mình, hậu quả là nếu thực sự
đương sự thiếu hiểu biết pháp luật sẽ có tư tưởng mất niềm tin vào pháp luật,
đây cũng là nguyên nhân làm hạn chế quyền tranh tụng của đương sự trong
quá trình giải quyết vụ án vì tư tưởng phụ thuộc, giao cả cho Luật sư.
Năm là, hạn chế về chế độ chính sách đối với đội ngũ Thẩm phán, Thư
ký: do tính chất đặc thù công việc nên Thẩm phán, Thư ký chịu rất nhiều áp
lực từ nhiều phía dư luận, đương sự, người dân, cơ quan tổ chức…bởi lẽ phán
quyết của Tòa án tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
tuy nhiên, chế độ chính sách về thu nhập đối với Thẩm phán, Thư ký còn rất
thấp chưa thực sự tương xứng với tính chất công việc. Điều kiện, phương tiện
làm việc, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác xét xử còn hạn chế,
chưa đáp ứng được yêu cầu công tác trong giai đoạn hiện nay. Công tác chỉ
đạo thực hiện việc bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án
ly hôn có yếu tố nước ngoài chưa được quan tâm đúng mức.
Nguyên nhân chủ quan:
Do cơ cấu bộ máy chưa hợp lý: theo quy định của Luật tổ chức TAND
năm 2014 thì TAND cấp tỉnh có Tòa Gia đình và người chưa thành niên, tuy
nhiên hiện nay TAND tối cao chưa có quyết định thành lập Tòa Gia đình và
người chưa thành niên tại TAND tỉnh Quảng Bình nên các Thẩm phán của
các Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Hành chính phải cùng lúc giải quyết chung
các loại vụ án do đó đã tạo nên sự căng thẳng, áp lực và nỗi lo lắng rất lớn,
không khai thác được tính chuyên sâu từng lĩnh vực cụ thể. Đây cũng là một
trong những nguyên nhân cơ bản làm ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết án
đồng nghĩa với việc hạn chế vấn đề bảo vệ quyền con người trong xét xử các
vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình.
82
Một số Thẩm phán và Hội đồng xét xử xem xét, đánh giá chứng cứ
chưa đầy đủ, toàn diện; công tác phối hợp của một số đơn vị liên quan còn
chưa đồng bộ. Nhiều vụ án ly hôn có tính chất phức tạp cả về nội dung lẫn
hình thức tố tụng, trong khi quy định của pháp luật chưa đầy đủ, rõ ràng, chưa
có văn bản hướng dẫn áp dụng, còn nhiều quan điểm khác nhau về hướng giải
quyết. Một số vụ án có tính chất phức tạp, người tham gia tố tụng đông và lại
cư trú nhiều địa phương khác nhau ở trong và ngoài nước, dẫn đến việc thu
thập chứng cứ, xác minh để giải quyết vụ án mất rất nhiều thời gian.
Có trường hợp đương sự cung cấp địa chỉ của đương sự ở nước ngoài
không chính xác hay trường hợp bên nước ngoài thay đổi địa chỉ dẫn đến việc
uỷ thác gặp khó khăn hoặc cố tình né tránh, không hợp tác, không thực hiện
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ; không cung cấp địa chỉ mới của người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan; không có mặt khi đo đạc, định giá đất để phân chia tài sản.
Công tác giải quyết, xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài rất
phức tạp về thủ tục tố tụng, nhưng ít được quan tâm hướng dẫn, giải đáp, rút
kinh nghiệm trong toàn hệ thống Tòa án. Việc thanh tra, kiểm tra của TAND
tối cao diễn ra hàng năm nhưng kiểm tra rất nhiều loại án khác nhau và với
thời gian ngắn là rất khó để phát hiện những thiếu sót, sai phạm trong quá
trình giải quyết, xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.
Việc ký kết các HĐTTTP, ĐƯQT đa phương hay song phương của
nước ta cũng đã được chú trọng nhưng vẫn còn ở mức hạn chế. Một số cơ
quan, tổ chức có nhiệm vụ phối hợp với Tòa án trong việc cung cấp tài liệu,
giám định chứng cứ, UTTP cho đương sự vẫn còn nặng tư tưởng và nề nếp
hành chính cũ, còn hành dân, quan liêu, thờ ơ, chưa đổi mới cải cách thủ tục
hành chính nên đã gây không ít phiền hà cho nhân dân, buộc họ phải lo lắng,
đi lại nhiều lần và họ đặt sự nghi ngờ vào ý thức trách nhiệm công vụ của bộ
máy nhà nước. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền pháp luật về hôn nhân gia
83
đình đặc biệt là hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài chưa được chú trọng
nên trình độ am hiểu pháp luật của đương sự còn rất hạn chế.
Tiểu kết chương 2
Trên cơ sở việc nghiên cứu thực trạng bảo vệ quyền con người trong
xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình. Tác
giả đã khái quát về tổ chức và hoạt động của TAND tỉnh Quảng Bình; tình
trạng kết hôn có yếu tố nước ngoài; kết quả xét xử các loại án nói chung, án ly
hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng; tình hình bảo vệ quyền con người và kết
quả việc bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước
ngoài tại TAND tỉnh. Đồng thời, phân tích, đánh giá những kết quả đạt được,
những ưu điểm, hạn chế về bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly
hôn có yếu tố nước ngoài ở các khía cạnh như công tác chỉ đạo, công tác triển
khai thực hiện và công tác kiểm tra thực hiện.
Tác giả đã phân tích các số liệu thống kê và những bản án cụ thể từ
thực tiễn xét xử để dẫn chứng những kết quả mà TAND tỉnh Quảng Bình đã
thực hiện được về bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có
yếu tố nước ngoài, từ đó đưa ra những đánh giá về nguyên nhân tích cực và
hạn chế trong công tác xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài. Đồng
thời, tác giả cũng đưa ra những nguyên nhân hạn chế của TAND tỉnh Quảng
Bình về bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước
ngoài, từ đó phân tích các nguyên nhân tích cực và những hạn chế trên từ đó
làm cơ sở để đưa ra giải pháp bảo đảm bảo vệ quyền con người trong xét xử
các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại các Tòa án nói chung và TAND tỉnh
Quảng Bình nói riêng.
84
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO VỆ
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN LY HÔN
CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
3.1. Quan điểm bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly
hôn có yếu tố nước ngoài
Bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước
ngoài hiện nay phải đáp ứng những yêu cầu sau:
3.1.1. Yêu cầu bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
Sự lãnh đạo của Đảng đối với các mặt công tác Tòa án nói chung và
bảo đảm quyền con người đối với hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố
nước ngoài nói riêng là toàn diện và tuyệt đối. Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác bảo đảm bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ
án ly hôn có yếu tố nước ngoài không có nghĩa là tổ chức đảng và đảng viên
can thiệp vào các hoạt động xét xử của Tòa án hoặc áp đặt ý chí chủ quan của
Đảng để quyết định thay đường lối giải quyết các vụ án nói chung hay các vụ
án ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng mà sự lãnh đạo của Đảng được thực
hiện bằng việc đề ra yêu cầu phải xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật, khách
quan, công bằng, bằng việc đề ra phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động
của TAND bằng việc đưa ra các giải pháp phù hợp để tăng cường công tác
giáo dục chính trị tư tưởng nhằm chấn chỉnh đội ngũ cán bộ, công chức tạo
bảo đảm cao nhất quyền con người trong hoạt động xét xử.
Quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND trong
thời kỳ đổi mới được thể hiện trong các văn kiện từ Đại hội VII đến Đại hội
X, và các văn kiện khác như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 và Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương khoá VII; Nghị quyết
85
08/NQ-TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/06/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020;
Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 07/7/2007 của Bộ Chính trị về sự lãnh đạo của
Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các
vụ án và công tác bảo vệ Đảng; Chỉ thị số 26-CT/TW ngày 09/11/2018 của
Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ
pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc; Công văn số 179-
CV/TW ngày 08/01/2014 của Thường trực Ban Bí thư về đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng, Chánh án TAND các cấp tham gia cấp ủy, đây là một
chủ trương lớn và đúng đắn thể hiện sự quan tâm của Đảng đối với hệ thống
Tòa án nhưng đồng thời cũng là sự ghi nhận về những đóng góp và vai trò của
Tòa án trong bộ máy nhà nước thời gian qua.
Các văn kiện trên, đã thể hiện đường lối lãnh đạo của Đảng đối với
TAND, trong đó có việc xây dựng TAND trong thời kỳ đổi mới. Theo đó,
Đảng và Nhà nước luôn quan tâm chỉ đạo xây dựng tổ chức bộ máy, nguyên
tắc hoạt động và kiện toàn đội ngũ cán bộ TAND các cấp nhằm bảo đảm các
tiêu chuẩn về năng lực, trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị vững vàng;
phát hiện và xử lý kịp thời đối với những cán bộ, đảng viên có sai phạm.
Lãnh đạo thực hiện chức năng xét xử theo quy định của pháp luật, Đảng luôn
xác định trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền thì cải cách hệ thống
Tòa án là trọng tâm và cốt lõi của cải cách tư pháp.
Trong 75 năm qua, kể từ khi thành lập Tòa án đến nay (ngày 13/9/1945)
dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống TAND đã không ngừng lớn mạnh về
mọi mặt và hoàn thành tương đối tốt nhiệm vụ được giao. Kể từ sau Đại hội
VI, sự lãnh đạo của Đảng đối với TAND có sự đổi mới, đã ban hành và chỉ
đạo thực hiện nhiều chỉ thị, nghị quyết về công tác Tòa án, góp phần thúc đẩy
86
về tổ chức vào hoạt động của TAND các cấp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp trong giai đoạn hiện nay.
3.1.2. Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân do Nhân dân vì Nhân dân
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Xây
dựng nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư
pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng
tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Tiếp tục
hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật. Tổ chức Tòa án theo thẩm
quyền xét xử; bảo đảm nguyên tắc độc lập, nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, của đương sự. Tiếp tục xã hội
hóa một số hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp có đủ điều kiện. Chú trọng
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ
quan tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng của Chiến lược cải cách tư
pháp; xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho từng cơ
quan, chức danh tư pháp. Trọng tâm là hoàn thiện pháp luật về tổ chức và
hoạt động của TAND, bảo đảm Tòa án xét xử độc lập, đúng pháp luật, kịp
thời và nghiêm minh; phân định thẩm quyền xét xử của Tòa án sơ thẩm và
Tòa án phúc thẩm phù hợp với nguyên tắc hai cấp xét xử. Hoàn thiện cơ chế
quản lý TAND địa phương theo hướng bảo đảm tính độc lập giữa các cấp
Tòa án trong hoạt động xét xử. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm
quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân. Hoàn thiện chế độ bảo
hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; chế độ
trách nhiệm của cơ quan nhà nước, nhất là Tòa án trong việc bảo vệ các
quyền đó; xử lý nghiêm minh mọi hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp
87
pháp của công dân...
Trước yêu cầu và quan điểm, định hướng của Đảng về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân
như vậy thì việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong xét xử các
loại vụ án nói chung và trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài
nói riêng là yêu cầu bức thiết. Muốn thực hiện yêu cầu trên đòi hỏi xây dựng
đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có tính chuyên nghiệp cao, có
bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng, có đạo đức nghề nghiệp và kinh nghiệm xã
hội. Việc bảo đảm bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có
yếu tố nước ngoài phải dựa trên các quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà
nước pháp quyền và cải cách tư pháp mà trong đó trọng tâm là đổi mới tổ
chức và hoạt động của TAND.
3.2. Giải pháp bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly
hôn có yếu tố nước ngoài
3.2.1. Giải pháp chung cho bảo vệ quyền con người trong xét xử các
vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài
3.2.1.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ quyền
con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài
Đối với các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, Tòa án có xét xử hợp
tình, hợp lý nhằm bảo vệ quyền con người, quyền của các bên đương sự hay
không phần lớn dựa theo những quy định chặt chẽ của luật, vì vậy hoàn thiện
pháp luật đặc biệt là là LHNGĐ là điều vô cùng cần thiết. Do đó để tăng
cường bảo vệ quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có
yếu tố nước ngoài, các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu để có những đề
xuất thay đổi về mặt pháp luật, nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc
trong việc thụ lý, xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, tạo điều kiện
88
cho việc ly hôn có yếu tố nước ngoài được dễ dàng hơn nhưng vẫn bảo đảm
quyền và lợi ích chính đang của các bên đương sự, cụ thể như sau:
Một là: Cần bổ sung quy định về thời gian khởi kiện lại trong trường
hợp Tòa án bác đơn yêu cầu ly hôn để phù hợp với BLTTDS 2015;
Hai là: Cần bổ sung quy định căn cứ ly hôn khi chồng hoặc vợ phạm
tội và đang chấp hành án phạt tù, cụ thể như sau: “Trong trường hợp vợ hoặc
chồng của người đang chấp hành án phạt tù yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải
quyết cho ly hôn”;
Ba là: Cần thay đổi trong quy định về độ tuổi lấy ý kiến trẻ em về việc
sống với cha hay với mẹ, cụ thể: “Nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên thì phải xem
xét nguyện vọng của con”;
Bốn là: Cần bãi bỏ quy định tại Điều 115 LHNGĐ năm 2014 “Khi ly
hôn nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính
đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình”. Đồng thời
cần bổ sung quy định về từ chối cấp dưỡng;
Năm là: Đối với những vụ án ly hôn giữa nguyên đơn là người Việt
Nam ở trong nước với bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng nguyên
đơn chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng ở Việt Nam của bị đơn mà
không cung cấp được địa chỉ của bị đơn ở nước ngoài, hiện tại Luật chưa quy
định cách giải quyết, do đó cần có hướng dẫn cụ thể cách giải quyết theo
hướng: Nếu thông qua thân nhân của bị đơn mà có căn cứ để xác định họ vẫn
có liên hệ với thân nhân ở trong nước nhưng thân nhân của họ không cung
cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Tòa án cũng như không thực hiện yêu cầu
của Tòa án thông báo cho bị đơn biết để gửi lời khai về cho Tòa án thì coi đây
là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp
những tài liệu cần thiết. Nếu lần thứ hai Tòa án yêu cầu cung cấp địa chỉ, tin
tức mà thân nhân của bị đơn vẫn không chịu cung cấp thì Tòa án đưa vụ án ra
89
xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung, đồng thời quy định thời gian giải
quyết dưới 02 tháng (Hiện nay quy định thời gian xét xử trong trường hợp này
là từ 4 đến 6 tháng) nhằm bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn được ly hôn sớm
hơn thời gian mà pháp luật hiện nay đang quy định;
Sáu là: Tăng cường ký kết các hiệp định song phương và đa phương về
tương trợ tư pháp đối các quốc gia mà chúng ta chưa ký kết HĐTTTP nhằm
tạo hành lang pháp lý cho hoạt động ngoại giao nói chung cũng như hoạt
động UTTP trong giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng. Đồng thời
cơ quan có thẩm quyền kịp thời cập nhật các thông tin về danh sách các quốc
gia và vùng lãnh thổ mà Việt Nam đã ký kết HĐTTTP. Cần rút ngắn thời hạn
ủy thác để tránh tình trạng án tồn đọng, kéo dài, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng cho đương sự trong tố tụng dân sự, đặc biệt là đối với đương sự
trong vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.
Ngoài ra, cần tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật khác có liên
quan đến hoạt động giải quyết các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài như về
mức thu chi tiền định giá tài sản, tiền chi phí ủy thác tư pháp, tiền đăng thông
báo các văn bản tố tụng trên Cổng thông tin điện tử Tòa án, Đài tiếng nói Việt
Nam VOV... tránh tình trạng để Tòa án tạm thu tiền tạm ứng chi phí định giá
tài sản, tiền UTTP như hiện nay rồi sau khi chi phí hết bao nhiêu theo quy
định thì số tiền còn lại mới trả lại cho đương sự. Ngoài ra, trong quá trình xét
xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài, Tòa án cần đa dạng hóa việc áp
dụng pháp luật, đặc biệt vận dụng các phong tục, tập quán truyền thống tốt
đẹp trong đời sống xã hội về hôn nhân và gia đình. Bổ sung các quy định của
pháp luật để công nhận hình thức án lệ áp dụng cho các quan hệ mới phát sinh
khi chưa có qui định pháp luật điều chỉnh hoặc đã có qui định pháp luật
nhưng việc điều chỉnh không còn phù hợp với thực tế.
90
Cần tăng cường tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm xét xử các vụ án
ly hôn có yếu tố nước ngoài, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm
của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm
tính công khai, dân chủ, nghiêm minh. Đồng thời, nâng cao chất lượng tranh
tụng tại các phiên tòa ghi nhận nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm và phán
quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa vào quy
định của Hiến pháp. Coi đây là một trong những điều kiện nhằm bảo đảm
quyền con người khi tham gia hoạt động xét xử nói chung và hoạt động xét xử
các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng.
3.2.1.2. Giải pháp về con người
Yếu tố quyết định để bảo vệ quyền con người trong hoạt động xét xử
các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài đó là con người. Bởi yếu tố con người
lúc nào cũng đóng vai trò quyết định. Đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên,
Thư ký Tòa án là những chủ thể trực tham gia hoạt động xét xử các vụ án nói
chung và các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng. Các chủ thể tham
gia hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài muốn thực hiện
tốt vai trò của mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao thì họ phải được
làm việc trong một cơ cấu tổ chức được sắp xếp một cách khoa học và hợp lý.
Do đó để nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa
án nhằm tăng cường bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ
án ly hôn có yếu tố nước ngoài, TAND tối cao cần phải thực hiện tốt những
nội dung sau:
Về đào tạo, bồi dưỡng: TAND tối cao cần quan tâm tổ chức các lớp tập
huấn, hội thảo, tổng kết, rút kinh nghiệm chuyên sâu về công tác giải quyết,
xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài trong đó có vấn đề bảo vệ quyền
con người nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm
phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, đặc biệt là nâng cao kiến thức về quyền
91
con người vì thực tế trong nhiều năm qua đây là loại án tuy rất phức tạp về
thủ tục tố tụng, nhưng ít được quan tâm hướng dẫn, giải đáp, rút kinh nghiệm
kịp thời trong toàn hệ thống Tòa án.
Cùng với việc đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cần chú trọng đào tạo
kiến thức xã hội, khả năng sử dụng kỹ thuật tiên tiến và kỹ năng thực hiện
công tác dân vận cho đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án. Kết
hợp đào tạo trong nước với đào tạo ở nước ngoài để tăng cường đội ngũ cán
bộ phục vụ yêu cầu hội nhập quốc tế.
Về biên chế: TAND tối cao cần xây dựng phương án bổ sung biên chế
hàng năm cho TAND cấp tỉnh nhất là biên chế Thấm phán, Thư ký nhằm
khắc phục việc để chậm trễ khi nghiên cứu hồ vụ án do thời gian bổ nhiệm và
bổ nhiệm lại Thấm phán kéo dài. Xây dựng kế hoạch điều động, luân chuyển
Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án giữa các đơn vị; tiếp tục rà soát,
phân loại, đánh giá chất lượng cán bộ lãnh đạo và cán bộ có chức danh tư
pháp để sắp xếp, bố trí hợp lý, đúng năng lực, trình độ nhằm bảo đảm cho
việc hoàn thành nhiệm vụ trong công cuộc cải cách tư pháp.
TAND tối cao cần tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra mang tính
chuyên đề đối với các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài để kịp thời chấn
chỉnh những sai phạm trong công tác thụ lý, xét xử, phát hiện những bất cập,
tồn tại của pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn và bị đơn.
3.2.1.3. Giải pháp về cơ sở vật chất, chế độ chính sách
Về cơ sở vật chất: TAND tối cao cần tiếp tục đầu tư xây dựng, cải tạo
trụ sở và trang cấp các trang thiết bị làm việc cho các Tòa án đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Các cơ quan có thẩm quyền đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách, trong đó
tập trung đổi mới về định mức chi, chế độ chi, định mức trang cấp phương
92
tiện làm việc và quy mô xây dựng trụ sở nhằm cải thiện điều kiện làm việc
cho các Tòa án. Xây dựng chế độ chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp
với lao động đặc thù của Tòa án, có chính sách ưu tiên, khuyến khích cán bộ,
công chức đến làm việc ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo và những nơi có điều
kiện kinh tế xã hội khó khăn. TAND tối cao đầu tư nâng cấp hệ thống mạng
và hệ thống máy tính cho TAND các cấp để phục vụ tốt hơn công tác xét xử.
Sớm triển khai áp dụng phần mềm phân án ngẫu nhiên, phần mềm ghi âm
chuyển đổi lời nói thành văn bản tại phiên tòa để nâng cao hiệu quả công tác
xét xử.
Về chế độ chính sách: TAND tối cao cần quan tâm hỗ trợ kinh phí và
tạo điều kiện mọi mặt để TAND tỉnh Quảng Bình có kinh phí tiến hành xây
dựng và lắp đặt các trang thiết bị của phòng xét xử án hôn nhân và gia đình;
phòng hòa giải nhằm triển khai có hiệu quả Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án
để góp phần giải quyết các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài được nhanh
chóng, khỏi phải đưa ra xét xử.
3.2.2. Giải pháp riêng về bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án
ly hôn có yếu tố nước ngoài của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
3.2.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo công tác xét xử bảo đảm quyền con
người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài
Lãnh đạo TAND tỉnh Quảng Bình cần tiếp tục chỉ đạo Tòa dân sự, đặc
biệt là các Thẩm phán trực tiếp xét xử các vụ án ly hôn có nước ngoài tiếp tục
thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, XIII của Đảng; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII); Nghị quyết
Trung ương 6, Nghị quyết Trung ương 7, Nghị quyết Trung ương 8 khóa XII;
các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Chỉ thị của Chánh án TAND tối cao về
công tác cải cách tư pháp, gắn việc thực hiện các nhiệm vụ công tác của hệ
thống Tòa án với việc thực hiện các yêu cầu của cải cách tư pháp. Tiếp tục
93
triển khai nghiêm túc Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị
về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh kết hợp với cuộc vận động “nâng cao phẩm chất chính trị, phẩm chất
đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức hệ thống Tòa án
nhân dân”, gắn với phong trào thi đua “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô
tư” với phương châm là “Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”.
Lãnh đạo TAND tỉnh phải chỉ đạo các Thẩm phán tiếp tục tập trung
thực hiện tốt các giải pháp đột phá để nâng cao chất lượng công tác xét xử.
Cải tiến phương thức chỉ đạo, điều hành theo hướng phân công, phân cấp hợp
lý, đảm bảo rành mạch giữa quản lý, điều hành hoạt động nội bộ của các Tòa
án với hoạt động tố tụng; phát huy tính sáng tạo và đề cao trách nhiệm của
người đứng đầu đối với từng đơn vị Tòa án. Phân công bố trí công việc hợp lý
nhằm khai thác có hiệu quả năng lực sở trường của từng Thẩm phán; Tăng
cường cải cách thủ tục hành chính tư pháp, ứng dụng công nghệ thôn tin trong
công tác xét xử. Chỉ đạo Thẩm phán, Thư ký trong hoạt động xét xử nói
chung và hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng
phải bảo đảm cao nhất quyền con người của đương sự được bảo vệ cũng như
tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền của mình được tốt nhất.
3.2.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phối hợp với các cơ quan,
tổ chức trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài
Thực tế trong những năm qua, công tác phối hợp, tuyên truyền của
TAND tỉnh Quảng Bình với các cơ quan, tổ chức về bảo vệ quyền con người
trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài chưa được chú trọng, nên
phần nào hưởng đến công tác xét xử, do đó để bảo đảm cho việc giải quyết
các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài được khách quan, đúng pháp luật, bảo
đảm cao nhất quyền con người trong hoạt động xét xử, cần phải có giải pháp
cụ thể để nâng cao hơn nữa công tác tuyên truyền, phối hợp với một số cơ
94
quan, tổ chức có liên quan đến hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố
nước ngoài. Cụ thể như sau:
TAND tỉnh với Viện kiểm sát nhân dân tỉnh cần ban hành Quy chế phối
hợp trong hoạt động giải quyết, xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài,
nhất là những vụ án có Viện kiểm sát tham gia tố tụng từ thủ tục giao, nhận
hồ sơ vụ án; thời hạn Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ, xác minh thu thập, bổ
sung chứng cứ, triệu tập người tham gia phiên tòa; kế hoạch xét xử...Tạo điều
kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát tiếp cận hồ sơ nhằm kiểm sát chặt chẽ các
trình tự tố tụng cũng như kiểm sát các hoạt động xác minh thu thập chứng cứ,
hoạt động tranh tụng…
TAND tỉnh Quảng Bình cùng chính quyền địa phương cần nghiên cứu
sớm ban hành Quy chế quy định về trách nhiệm của chính quyền địa phương
trong công tác phối hợp xác minh, thu thập chứng cứ, tống đạt các văn bản tố
tụng của Tòa án ... nhất là đối với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, cán
bộ địa chính, cán bộ tư pháp trong việc đăng ký kết hôn, khai sinh; cán bộ tài
chính; cán bộ địa chính trong việc tham gia thẩm định tại chỗ (đo đạc, vẽ sơ
đồ đối với tài sản chung vợ chồng là quyền sử dụng đất đang tranh chấp),
định giá tài sản chung đang tranh chấp. Đề xuất cơ chế đặc thù cho những đối
tượng đi xuất khẩu lao động đang ở lại nước ngoài nhưng có đơn yêu cầu ly
hôn để giúp Tòa án tỉnh giải quyết vụ án được giải quyết nhanh chóng, kịp
thời và đúng pháp luật, nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai
đoạn hiện nay.
Ủy ban nhân dân các cấp cần tăng cường vai trò chỉ đạo trong công tác
tuyên truyền phổ biến pháp luật, nhằm nâng cao nhận thức cho người dân, đặc
biệt là phụ nữ và trẻ em, nhất là phụ nữ và trẻ em ở vùng nông thôn, miền núi,
vùng sâu, vùng xa để họ có kiến thức và khả năng bảo vệ mình trước pháp
luật, đồng thời giúp họ hiểu được cuộc sống ở nước ngoài không phải là thiên
95
đường như nhiều người nghĩ và kết hôn với người nước ngoài là sẽ đổi đời, sẽ
thoát khỏi cảnh nghèo khó. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác tuyên
truyền để mỗi gia đình phải có những biện pháp giáo dục đúng đắn, bởi giáo
dục gia đình, nếp sống và gia phong của mỗi nhà là rất quan trọng không chỉ
với việc hình thành nhân cách mà còn trang bị cho con sự hiểu biết, bản lĩnh
sống, khả năng thích ứng trước những biến động rủi ro của cuộc đời.
Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các đoàn thể, các tổ chức chính trị
xã hội nhất là Hội phụ nữ các cấp cần tư vấn cho các cô gái Việt Nam muốn
kết hôn với người nước ngoài, cung cấp cho họ thực trạng đời sống hôn nhân
với người nước ngoài để họ có suy nghĩ chin chắn trước khi có quyết định.
Đồng thời trang bị cho họ những hiểu biết nhất định về Luật pháp, phong tục,
tập quán của vùng miền của nước mà họ sẽ đến sau khi kết hôn.
Chủ động mở rộng các hoạt động hợp tác quốc tế. Phối hợp với các cơ
quan có liên quan làm tốt công tác tương trợ tư pháp, điều tra, giải quyết các
vụ việc có yếu tố nước ngoài. Nghiên cứu, đề xuất phương án đào tạo cán bộ
phục vụ hội nhập quốc tế. Chủ động, tích cực tham gia vào các hội nghị, diễn
đàn tư pháp quốc tế; thực hiện tốt các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên.
3.2.2.3. Tiếp tục đổi mới thủ tục hành chính tư pháp tại TAND tỉnh
Quảng Bình
Trong những năm qua TAND tỉnh Quảng Bình đã triển khai thực hiện
nghiêm túc chỉ thị 03/2016/CT-CA ngày 04/4/2016 của Chánh án TAND tối
cao về việc tăng cường thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa
án. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền con người trong giải quyết, xét xử các vụ án
ly hôn có yếu tố nước ngoài được tốt hơn, TAND tỉnh cần tăng cường ứng
dụng công nghệ thông tin trong công tác tiếp nhận, xử lý đơn khởi kiện, thụ lý
vụ án, đăng tải các biểu mẫu, hướng dẫn các thủ tục về ly hôn có yếu tố nước
96
ngoài, công khai các thông báo thụ lý vụ án, thông báo tống đạt, quyết định,
bản án có liên quan đến vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài trên Trang thông
tin điện tử TAND tỉnh Quảng Bình để người dân dễ tiếp cận. Chú ý bố trí các
Thẩm phán, Thư ký có năng lực, trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm, có
phẩm chất đạo đức tốt và tinh thần trách nhiệm ở bộ phận tiếp nhận và giải
quyết các thủ tục ly hôn có yếu tố nước ngoài.
3.2.2.4. Tăng cường công tác tổng kết, rút kinh nghiệm công tác xét xử
đối với các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài
Việc tổng kết, rút kinh nghiệm công tác xét xử, đặc biệt là việc tổng
kết kinh nghiệm về bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ
án ly hôn có yếu tố nước ngoài có một ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận
lẫn thực tiễn trong việc tăng cường bảo đảm quyền con người trong hoạt động
xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình. Do vậy, muốn bảo đảm bảo vệ quyền
con người trong hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài của
TAND tỉnh Quảng Bình cũng như toàn hệ thống Tòa án thì hàng năm TAND
tối cao cần phải thường xuyên tổ chức công tác tổng kết, rút kinh nghiệm
trong hoạt động giải quyết, xét xử các vụ ly hôn có yếu tố nước ngoài theo
định kỳ. Với mục đích đánh giá những thành tựu đạt được và nêu ra những
thiếu sót, những tồn tại về nhận thức pháp luật về bảo đảm quyền con người
trong hoạt động xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài. Lựa chọn
những vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài có tính mẫu mực để ban hành án lệ
để áp dụng cho toàn hệ thống Tòa án và chỉ ra những bản án, quyết định đã
ban hành chưa chính xác, chưa thỏa đáng, chưa bảo đảm quyền con người
trong hoạt động xét xử để rút kinh nghiệm.
Công tác tổng kết, rút kinh nghiệm xét xử giúp cho hệ thống Tòa án là
cơ sở để tìm ra những nguyên nhân nào chưa bảo đảm quyền con người trong
hoạt động xét xử các vụ án ly hôn nói chung và ly hôn có yếu tố nước ngoài
97
nói riêng. Từ đó cơ sở đề nghị xem xét, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, giải thích,
hướng dẫn những quy định điều chỉnh quy định của pháp luật về bảo vệ
quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài phù hợp
với tình hình thực tế hiện nay.
Tiểu kết chương 3
Quyền con người luôn là đối tượng đặc biệt được quan tâm và ưu tiên
bảo hộ hàng đầu của các quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt Nam, trong đó
quyền ly hôn là một trong các quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình
được pháp luật bảo vệ theo quy định tại Điều 39 BLDS 2015, Điều 51
LHNGĐ năm 2014. Ly hôn đã ảnh hưởng đến cuộc sống của các gia đình, đặc
biệt là đối với phụ nữ và trẻ em, sự cần thiết hoàn thiện các quy định pháp
luật tạo ra khung pháp lý để bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly
hôn có yếu tố nước ngoài là một đòi hỏi cấp thiết về lý luận cũng như thực tiễn.
Trên cơ sở lý luận và thực trạng bảo vệ quyền con người trong xét xử
các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại chương 1 và chương 2, tác giả đưa
ra quan điểm và những giải pháp để nâng cao hơn nữa chất lượng của các quy
pháp luật nhằm đảm bảo cho bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án
ly hôn có yếu tố nước ngoài ngày càng được tốt hơn. Bên cạnh đó đã đề xuất
các cơ quan chức năng cần nâng cao hơn nữa năng lực hoạt động trong việc
bảo vệ quyền con người theo LHNGĐ năm 2014, BLTTDS 2015, đồng thời
cần xây dựng và hoàn thiện pháp luật, tăng cường công tác tuyên truyền, thực
hiện các giải pháp một cách đồng bộ và có hiệu quả, góp phần cùng với Tòa
án thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao.
98
KẾT LUẬN
Bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước
ngoài là yêu cầu bức thiết, khách quan đối với mục tiêu xây dựng Nhà nước
pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và Chiến lược cải cách tư pháp của
Đảng trong giai đoạn hiện nay. Luận văn đã làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn
về bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước
ngoài tại TAND tỉnh. Kết quả đạt được như sau:
Đã tổng hợp và đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con
người, về hoạt động xét xử nhằm bảo vệ quyền con người trong các vụ án ly
hôn có yếu tố nước ngoài. Đã phân tích, đánh giá cụ thể những kết quả đạt
được và đưa ra những tồn tại, hạn chế, tìm ra nguyên nhân của ưu điểm cũng
như nguyên nhân của tồn tại, hạn chế về vấn đề bảo vệ quyền con người trong
xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại TAND tỉnh Quảng Bình. Đưa
ra một số nhóm giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường bảo vệ quyền con
người trong xét xử các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài tại các Tòa án nói
chung và TAND tỉnh Quảng Bình nói riêng.
Trong khuôn khổ phạm vi nghiên cứu luận văn dưới góc độ luận văn
Thạc sĩ Luật học chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính nên luận
văn không nghiên cứu chuyên sâu vấn đề dưới góc độ Luật tố tụng Dân sự,
không nghiên cứu toàn diện được lịch sử hình thành các quy định pháp luật về
bảo vệ quyền con người trong giải quyết, xét xử các vụ việc hôn nhân và gia
đình cũng như các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài; không nghiên cứu
chuyên sâu về pháp luật quốc tế và những xung đột, vướng mắc trong việc
phân chia tài sản, con cái sau ly hôn của các đương sự đang ở nước ngoài.
Bảo vệ quyền con người trong xét xử các vụ án ly hôn nói chung và
trong các vụ án lý hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng là một trong những mục
99
tiêu luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Với việc nghiên cứu đề tài trên,
hi vọng sẽ góp một phần vào việc nghiên cứu, tìm hiểu chuyên sâu về quyền
con người trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài tại các Tòa án nhân dân. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu luận văn
không tránh khỏi được những thiếu sót, hạn chế. Kính mong nhận được sự
đóng góp từ quý thầy cô để luận văn được hoàn thiện hơn.
100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Thị Vân Anh (2014), Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài qua
thực tiễn xét xử tại TAND thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
2. Nông Quốc Bình và Nguyễn Hồng Bắc (2006), Quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế,
NXB Tư Pháp, Hà Nội.
3. C.Mác - Ph.Ăngghen (1998), Về quyền con người, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
4. Chính phủ (2014), Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12
năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
Luật hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TƯ ngày 02
tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, Hà Nội.
6. Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), Ly hôn có yếu tố nước ngoài ở nước ta hiện
nay, Tạp chí Tòa án điện tử.
7. Trương Thị Hồng Hà (2013), Lý luận về quyền con người trong tố tụng
dân sự, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.
8. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992)
9. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013)
10. Nguyễn Thanh Hoa (2012), “Thẩm quyền giải quyết ly hôn có yếu tố
nước ngoài ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
11. Phạm Trung Hòa (2017), “Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài theo
quy định của pháp luật Việt Nam và hướng hoàn thiện pháp luật”, Luận văn
thạc sĩ Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
12. Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội (2009) Giáo trình Lý luận và pháp luật về
Quyền con người, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội.
13. Quốc hội 13 (2014), Luật Hôn nhân và gia đình, Luật số
52/2014/QH13 ngày 19/6/2014.
14. Quốc Hội 13 (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân; Luật số
62/2014/QH13 ngày 24/11/2014.
15. Quốc hội 13 (2015), BLTTDS 2015, Luật số 92/2015/QH13 ngày
25/11/2015.
16. TAND tỉnh Quảng Bình (2015), Báo cáo tổng kết công tác của TAND
hai cấp tỉnh Quảng Bình năm 2015.
17. TAND tỉnh Quảng Bình (2016), Báo cáo tổng kết công tác của TAND
hai cấp tỉnh Quảng Bình năm 2016.
18. TAND tỉnh Quảng Bình (2017), Báo cáo tổng kết công tác của TAND
hai cấp tỉnh Quảng Bình năm 2017.
19. TAND tỉnh Quảng Bình (2018), Báo cáo tổng kết công tác của TAND
hai cấp tỉnh Quảng Bình năm 2018.
20. TAND tỉnh Quảng Bình (2019), Báo cáo tổng kết công tác của TAND
hai cấp tỉnh Quảng Bình năm 2019.
21. TAND tỉnh Quảng Bình (2020), Báo cáo tổng kết công tác của TAND
hai cấp tỉnh Quảng Bình năm 2020.
22. TAND tối cao (2017), Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 5/5/2017
của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản
1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS số 92/2013/QH13 về trả lại đơn khởi kiện,
quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án, Hà Nội.
23. TAND tối cao (2018), Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018
về giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng
không rõ địa chỉ, Hà Nội.