BỆNH BƯỚU GIÁP LAN TOẢ NHIỄM ĐỘC

(BỆNH BASEDOW)

(Kỳ 4)

VII. Chẩn đoán:

1. Chẩn đoán xác định: dựa vào các Hội chứng sau.

+ Hội chứng thay đổi hình thái Tuyến giáp:

- Bướu giáp to lan toả.

- Sờ thấy rung mưu và nghe có tiếng thổi liên tục tại

Bướu giáp.

+ Hội chứng rối loạn điều chỉnh thần kinh và trục Dưới đồi-

Tuyến yên-Tuyến giáp:

- Mắt lồi.

- Run tay.

- Thay đổi tính tình.

- Nghiệm pháp hãm Werner âm tính.

+ Hội chứng nhiễm độc Thyroxin:

- Mạch nhanh.

- Ăn nhiều nhưng gầy sút nhanh.

- Chuyển hoá cơ sở tăng cao.

- Lượng T3 và T4 trong máu tăng cao.

Có thể sơ bộ đánh giá mức độ nhiễm độc giáp như sau:

- Nhẹ: Mạch dưới 100 lần/phút,Chuyển hoá cơ sở dưới

30%.

- Vừa: Mạch trong khoảng 100 - 120 lần/phút, Chuyển

hoá cơ sở trong khoảng 30-60%.

- Nặng: Mạch trên 120 lần/phút, Chuyển hoá cơ sở trên

60%.

2. Chẩn đoán phân biệt:

Một số trường hợp cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý sau:

+ Suy nhược thần kinh: cũng có các triệu chứng mạch nhanh,run

tay,dễ kích thích,gầy sút...nhưng chú ý sẽ thấy:

- Mạch nhanh không ổn định,lúc nghỉ và yên tĩnh thì mạch bình

thường.

- Ăn uống ít,ăn không thấy ngon miệng.

- Các xét nghiệm đánh giá chức năng Tuyến giáp đều bình

thường.

+ Bệnh U độc Tuyến giáp (bệnh Blummer): cũng có triệu chứng

Bướu giáp và Hội chứng nhiễm độc giáp nhưng có những điểm khác như:

- Bướu giáp thể nhân (thường là nhân đơn độc).

- Triệu chứng rối loạn tim mạch tiến triển nhanh và nặng.

- Không có triệu chứng lồi mắt.

- Xạ hình đồ Tuyến giáp thấy Bướu giáp là một nhân nóng trên

nền nhu mô xung quanh giảm hấp thu Iot.

VIII. Điều trị ngoại khoa:

Hiện nay có 3 phương pháp chính để điều trị bệnh Basedow là: Nội

khoa,Iot phóng xạ và Ngoại khoa.

+ Điều trị Nội khoa:

- Dùng các thuốc làm giảm tổng hợp và bài tiết Hocmon

giáp(thuốc kháng giáp tổng hợp,các thuốc Iot,các muối Lithium...)kết hợp với các

thuốc Coctcoit,Trấn tĩnh,Phong bế giao cảm...

- Chỉ định dùng cho hầu hết các bệnh nhân Basedow tuy nhiên

có những hạn chế là: Tỉ lệ khỏi bệnh chỉ đạt 45-50%; Thời gian điều trị kéo dài

1,5-2 năm; Không dùng được cho các bệnh nhân bị dị ứng thuốc hoặc đang có thai

hay cho con bú...

+ Điều trị bằng Iot phóng xạ:

- Cho bệnh nhân uống Iot phóng xạ,chất này sau đó sẽ tập trung

tại Tuyến giáp và phóng ra các tia phóng xạ (chủ yếu là các tia Beta) gây phá hủy

tổ chức tuyến giáp,dẫn tới giảm khả năng hoạt động chức năng tuyến giáp.

- Tỉ lệ khỏi bệnh lúc đầu có thể đạt 80-90% nhưng có một số

hạn chế như để lại nhiều biến chứng về lâu dài khó kiểm soát được (nhược giáp

tăng dần,ung thư hoá,sinh quái thai...) do đó hiện nay thường chỉ dùng cho các

bệnh nhân trên 40 tuổi,điều trị Nội khoa không khỏi và không đủ điều kiện để điều

trị Ngoại khoa.

+ Điều trị Ngoại khoa:

Nội dung chủ yếu của điều trị Ngoại khoa là mổ cắt gần hoàn

toàn Tuyến giáp.Ưu điểm là tỉ lệ khỏi bệnh cao (90-98%),thời gian điều trị ngắn

hơn điều trị Nội khoa rất nhiều,nhưng có một số nhược điểm như: có một tỉ lệ nhất

định các biến chứng phẫu thuật và sẹo vết mổ.Tuy nhiên các biến chứng này có

thể được giảm đến mức tối thiểu nhờ việc hoàn thiện kỹ thuật mổ cũng như các

khâu khác của quá trình điều trị Ngoại khoa.

1. Những chỉ định mổ chính:

+ Basedow đã được điều trị Nội khoa ít nhất 3-6 tháng nhưng kết quả

không ổn định hoặc không khỏi.

+ Basedow có bướu gíap to gây chèn ép hoặc có bướu giáp nằm lạc

chỗ vào trong lồng ngực.

+ Basedow mà bệnh nhân không dùng được thuốc kháng giáp tổng

hợp do bị các tác dụng phụ của thuốc hoặc đang có thai.

2. Điều trị chuẩn bị mổ:

Mọi bệnh nhân Basedow có chỉ định mổ đều phải được điều trị chuẩn

bị mổ để đạt được tình trạng bình giáp trước mổ.

+ Trong điều trị chuẩn bị mổ,ngoài các thuốc dùng gần tương tự như

trong điều trị Nội khoa,cần chú ý cho thêm các thuốc nâng đỡ toàn trạng và chuẩn

bị tốt về tâm lý cho bệnh nhân.

+ Tiêu chuẩn để đánh giá bình giáp:

- Đã cắt thuốc kháng giáp tổng hợp ít nhất 7 ngày.

- Mạch dưới 90 lần/phút.

- Chuyển hoá cơ sở dưới 20%.

- Bệnh nhân lên cân,ngủ tốt,tinh thần ổn định,yên tâm,muốn

được mổ.

- Các xét nghiệm khác đều ở giới hạn bình thường (thời gian

làm các xét nghiệm này không quá 20 ngày trước mổ).