Bệnh của người lao động trí óc

Hội chứng rối loạn chức năng khớp thái dương

hàm là một hội chứng được dùng để mô tả một số

bệnh lý có liên quan đến hệ thống nhai bao gồm

khớp thái dương hàm, hệ thống răng, hệ cơ, dây

chằng và xương nâng đỡ. Trong những năm gần

đây, tỷ lệ mắc bệnh ngày càng gia tăng, đặc biệt

là đối với những người lao động trí óc, bị nhiều

stress. Nguyên nhân và điều trị rất phức tạp. Ngày

nay, nhờ có sự phát triển của cộng hưởng từ,

chúng ta có thể chẩn đoán căn nguyên của bệnh

dễ dàng hơn và có thể điều trị tốt hơn.

Bệnh sinh ra từ đâu?

Có nhiều nguyên nhân

khác nhau như: Các bất

thường về cấu tạo của

khớp, cột sống cổ; các

tư thế sai liên quan đến

học sinh và một số nghề

nghiệp; các bệnh nội tiết:

thiểu năng tuyến giáp, rối

loạn chuyển hóa canxi...; các sang chấn trực tiếp lên

khớp, vùng cằm, cổ; đặt nội khí quản; nhổ các răng

phía sau; lệch lạc răng - hàm; nghiến răng. Quan

điểm mới ngày nay cho rằng rối loạn chức năng khớp

thái dương hàm thường không do một nguyên nhân

duy nhất nào đó mà do nhiều nguyên nhân khác nhau

gây ra. Bệnh có thể biểu hiện chủ yếu ở cơ hoặc

khớp (trật đĩa đệm có hồi phục, trật đĩa đệm không

hồi phục) hoặc phối hợp cả hai làm triệu chứng rất

chằng chịt, khó chẩn đoán.

Biểu hiện của bệnh

Đau mặt: Có thể là đau ở cơ hoặc ở khớp, đau khi há

miệng, nhai hoặc khi hoạt động gắng sức. Đau nửa

mặt là triệu chứng thường gặp trong rối loạn chức

năng khớp thái dương hàm. Như các kiểu đau khác,

rất khó đánh giá đau mặt vì ngưỡng đau thay đổi theo

từng người. Đau có thể xuất hiện từ từ hoặc đột ngột,

đặc biệt sau chấn thương hàm dưới hoặc há miệng

cưỡng bức.

Trong trường hợp tổn thương khớp, đau có tính chất

chu kỳ, nhiều hơn vào buổi chiều, tăng trong khi nhai,

nói, ngáp và há miệng cưỡng bức, đau thường khu

trú ở một điểm tương ứng với khớp. Trường hợp đau

nửa mặt do cơ thì đau liên tục và nặng nhất vào buổi

sáng, tăng khi lo âu hoặc trầm uất, vị trí đau rất thay

đổi và lan tỏa. Đau có thể kèm theo cảm giác ù tai,

thậm chí chóng mặt.

Tiếng kêu khớp: Có thể đi kèm theo đau nửa mặt,

hoặc riêng lẻ. Có 2 loại tiếng kêu khớp đó là tiếng

clac và tiếng lạo xạo khớp. Tiếc clac là những tiếng

kêu khô lúc mở miệng và/hoặc ngậm miệng, tiếng

clac xuất hiện ở thì đầu há miệng và cuối thì ngậm

miệng là dấu hiệu gợi ý để chẩn đoán trật đĩa đệm có

hồi phục. Tuy nhiên, tiếng clac cũng có thể xuất hiện

trong trường hợp dính đĩa đệm - xương thái dương

hoặc các thay đổi của khớp thái dương hàm. Đau

thường tập trung ở trên khớp, tăng và biến mất cùng

thời điểm với tiếng clac.

Sự biến mất tiếng kêu khớp kèm với hạn chế há

miệng là dấu hiệu chuyển từ trật đĩa đệm có hồi phục

sang trật đĩa đệm không hồi phục và trong trường

hợp này đau nhiều khi há miệng cưỡng bức.

Tiếng lạo xạo khớp là những tiếng ồn giống như tiếng

chân đi trên sỏi hoặc giấy cọ xát vào nhau. Tiếng này

thường có nếu có tình trạng dính đĩa đệm - lồi cầu -

thái dương hoặc thủng đĩa đệm ít hoặc nhiều.

Rối loạn vận động xương hàm dưới: Bình thường,

chúng ta há miệng đưa hàm ra trước, sang phải và

sang trái... dễ dàng nhưng khi bị bệnh, việc há miệng

sẽ hạn chế có thể do khớp hoặc do cơ. Thăm khám

lâm sàng cẩn thận cho phép phân biệt được 2 loại

bệnh lý này. Nếu nguyên nhân là tổn thương cơ - dây

chằng, há miệng hạn chế nhưng vẫn theo đường

thẳng, đưa hàm ra trước và sang bên bình thường.

Trường hợp chỉ có tổn thương ở khớp, trật đĩa đệm

một bên, khi há miệng hàm dưới bị lệch và trở về

đúng vị trí ở cuối kỳ há miệng, nếu trật 2 bên thì há

miệng theo đường dích dắc. Há miệng bị lệch kết hợp

với há miệng hạn chế nếu trật đĩa đệm không hồi

phục mới. Khi có rối loạn chức năng khớp thì đưa

hàm ra trước và sang bên thường bị rối loạn, hàm

thường bị lệch về bên bị tổn thương. Tuy nhiên, cần

chú ý phần lớn các rối loạn chức năng cũ không có

các rối loạn cử động xương hàm dưới.

Điều trị

Trước khi điều trị rối loạn chức năng khớp thái dương

hàm cần phải phân biệt được nguồn gốc của bệnh là

do khớp hay cơ và các yếu tố bệnh căn, các yếu tố

làm bệnh trầm trọng hơn. Tùy từng trường hợp cụ thể

mà có thể điều trị bằng máng nhai, thuốc giãn cơ,

kháng sinh, chống viêm, liệu pháp tâm lý, phẫu thuật

hay phối hợp tất cả.

Rối loạn cơ: Liệu pháp tâm lý là bước đầu tiên, đôi khi

cần phải có ý kiến điều trị của bác sĩ tâm thần. Ngoài

ra cần dùng thêm các loại thuốc giãn cơ, chống lo âu

và đeo máng cắn. Máng cắn được làm bằng nhựa có

thể đeo ở hàm trên hoặc hàm dưới, có thể đeo cả

ngày và được mài chỉnh bởi các chuyên gia khớp

cắn. Một số trường hợp co cơ do tăng kích thước dọc

của mặt cần phải phẫu thuật.

Rối loạn chức năng khớp có nguồn gốc do đĩa đệm:

Trật đĩa đệm có hồi phục và không hồi phục có thể

được điều trị bằng phẫu thuật đặt lại vị trí của đĩa

đệm hoặc tùy trường hợp theo chỉ định của thầy

thuốc.

Phòng bệnh bằng cách nào?

Cần phải chủ động loại bỏ các yếu tố bệnh căn và

yếu tố làm trầm trọng bệnh như stress, các tư thế sai,

các thói quen xấu ảnh hưởng đến cột sống cổ, các cơ

vùng đầu mặt cổ... Các bệnh nhân có khớp cắn sai,

răng lệch lạc cần phải được điều trị nắn chỉnh răng để

lập lại khớp cắn đúng.