
Ca Dao và Lịch Sử

Ca dao, tục ngữ là tiếng nói của dân gian Việt, trải qua nhiều thời đại, từ thời
xưa và đến cả thời nay. Ca dao, tục ngữ phản ảnh tâm tư, tình cảm của người dân
trong sinh hoạt hằng ngày, không chỉ ở nơi đồng nội mà còn ở thành thị, kinh đô.
Tuy là ngôn ngữ dân gian, nhưng ca dao, tục ngữ không phải là tiếng nói bình
thường mà là ngôn ngữ có vần điệu, ngắn gọn và vì ngắn gọn, có vần điệu nên dễ
phổ biến rộng rãi trong quần chúng.
Từ trước, người ta thường có quan niệm rằng ca dao, tục ngữ là văn chương
bình dân, phát xuất từ nông thôn, thật sự ca dao tục ngữ là tiếng nói của nhiều tầng
lớp dân chúng, và có lẽ phần lớn tác giả là những kẻ sĩ, cư ngụ ở khắp nơi, từ thành
thị đến nông thôn.
Ca dao, tục ngữ là loại văn chương truyền khẩu, biểu hiện nhiều mặt sinh hoạt
của quần chúng Việt Nam, nhất là về mặt tình cảm, nên trong ca dao rất phong phú
khúc hát trữ tình. Ngoài ra, đặc biệt ca dao, tục ngữ còn biểu lộ những nhận định
của dân chúng đối với những hành vi tốt, xấu của con người trong xã hội khi giao
tiếp với nhau, hay bình luận, phê phán giới lãnh đạo trong chính quyền hiện tại,
hoặc trong quá khứ, tức là những nhân vật lịch sử và các biến cố liên quan đến vận
mệnh dân tộc và đất nước.
Trường hợp này, ca dao, tục ngữ có thể xem là một hình thức ngôn luận của
quần chúng ở thời đại xưa, khi xã hội chưa phát triển, chưa có điều kiện phổ biến

dư luận của người dân như là báo chí hoặc các hình thức thông tin trong thời đại
mới, mặc dù từ trước đã có thư tịch nhưng chỉ là để chuyển tải văn chương, sử liệu,
mô phạm (thánh mô hiền phạm) v...v...
Bài viết này chỉ đề cập đến phần ca dao, tục ngữ có liên hệ với các vấn đề lịch
sử Việt Nam.
Nho giáo từ Trung Quốc truyền sang đất Việt, qua giới nho sĩ, từ trước thường
có quan niệm trọng nam khinh nữ (nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô). Nhưng đối
với người dân Việt thì không có quan niệm kỳ thị đó, nhất là đối với hạng anh thư
nữ kiệt.
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà quản tượng cỡi voi bành vàng
Rõ ràng câu ca dao này đã ca ngợi công đức chống ngoại xâm của Triệu Nữ
Vương (tức là Triệu Thị Trinh - mà sử Tàu miệt thị gọi là Triệu Ẩu : Bà vú Triệu).
Sau cuộc nổi dậy chống Tô Định của Hai Bà Trưng bị thất bại, Bà Triệu noi gương
anh dũng đó đã phất cờ khởi nghĩa chống quân Đông Ngô. Khi Bà đánh giặc, mặc
áo giáp vàng cỡi voi xông vào quân địch như vào chỗ không người, xưng danh
hiệu là Nhụy Kiều tướng quân.

Sau một thời gian dài bị lệ thuộc Trung Hoa, Việt Nam giành được độc lập và
Ngô Quyền thiết lập một vương triều tự chủ, sau hơn 10 thế kỷ chịu nhục của
người dân dưới ách đô hộ. Nhưng cuối đời nhà Ngô, vì thế lực suy yếu, nên đã có
12 sứ quân nổi dậy, đánh lẫn nhau, làm cho dân tình khổ sở. Các sứ quân đó, trong
hơn 20 năm, vẫn xưng hùng xưng bá, không ai chịu phục ai. Kết cuộc, họ phải
khuất phục dưới tay Vạn Thắng Vương Đnh Bộ Lĩnh, tức Đinh Tiên Hoàng sáng
lập ra vương triều nhà Đinh. Phán xét sự tranh giành quyền lực của các sứ quân và
cuộc chiến thắng của Đinh Bộ Lĩnh, dân gian đã tóm gọn trong câu ca dao :
Ở đời muôn sự của chung
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi
Thật vậy, ở đời muôn sự của chung, nhưng của chung đó không phải là ai cũng
có thể chiếm hữu dễ dàng. Phải có tài năng hay mưu lược quyền biến.
Ngôi vua cuối cùng của nhà Lý thuộc về Lý Chiêu Hoàng, tức là Chiêu Thánh
công chúa, con vua Lý Huệ Tôn, mới lên 7 tuổi. Quyền hành lúc đó ở trong tay
Trần Thủ Độ. Và Thủ Độ đã làm chủ hôn cho cháu là Trần Cảnh lấy Chiêu Hoàng,
để chuyển vương quyền qua nhà Trần. Quần chúng có lòng lưu luyến nhà Lý đã tỏ
lòng công phẫn và mỉa mai trong câu ca truyền khẩu :
Trống chùa ai đánh thì thùng

Của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng
Dưới đời vua Trần Anh Tông, vì lý do chính trị, đã gả em gái là Huyền Trân công
chúa cho vua Chiêm là Chế Mân để đổi lấy 2 châu Ô, Lý (tức Địa Lý và Bố
Chính), sau đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu. Người Việt vẫn có tinh thần kỳ
thị chủng tộc, cho người Chiêm là giống man di, lên tiếng phản đối việc làm này
của triều đình nhà Trần
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo
Quần chúng còn tiếc thương cho thân phận một vị công chúa, lá ngọc cành vàng,
phải lấy chồng man rợ ở phương xa, qua ca khúc Nam Bình , vẫn lưu truyền ở cố
đô Huế : "Nước non ngàn dặm ra đi...".
Về sau, Chế Mân chết, vua Trần sai Trần Khắc Chung sang Chiêm tìm cách đưa
Huyền Trân về nước để khỏi bị hỏa thiêu theo chồng (theo tục lệ Chiêm). Dư luận
quần chúng có vẻ khắc nghiệt khi nghi ngờ về tình cảm của Trần Khắc Chung đối
với công chúa Huyền Trân trên chặng đường thủy dài ngày đưa công chúa về nước.
Người ta xót xa thân phận Huyền Trân, một lần nữa, qua tay Trần Khắc Chung.
Tiếc thay hột gạo trắng ngần
Đem vò nước đục lại vần lửa rơm

