CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM
TRƯỚC BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
ThS. Vũ Phương Thảo1 - ThS. Ngô Thị Mai2
Tóm tắt: Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tác động mạnh mẽ đến các ngành nghề trong xã hội, kết quả của
sự tác động đó là sự mất đi các ngành nghề cũ và thay vào đó là sự xuất hiện của các ngành nghề mới. Nó
giúp con người làm việc đạt hiệu quả cao hơn, tạo ra hàng loạt sự chuyển biến cả về kỹ thuật và công nghệ.
Nó tác động mạnh mẽ đến thị trường Việt Nam, đòi hỏi những người lao động phải có đầy đủ trình độ và kỹ
năng mới có thể đáp ứng được yêu cầu của công việc. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam hiện
nay còn rất thấp so với các nước trong khu vực và đây là thách thức đối với các cơ sở giáo dục Việt Nam để
có giải pháp để đào tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0; nguồn nhân lực; giáo dục
Abstract: The industrial revolution 4.0 has a strong impact on the professions in society, the result of that
impact is the loss of old trades and instead the emergence of new professions. It helps people work more
effectively, creating a lot of changes in both technology and technology. It has a strong impact on the
Vietnamese market, requiring employees to have sufficient qualifications and skills to meet the requirements
of the job. However, the quality of Vietnamese human resources is still very low compared to other countries
in the region and this is a challenge for Vietnamese educational institutions to have solutions to train human
resources to meet demand of the market.
Keywords: industrial revolution 4.0; human resources; education.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo điều tra của Ngân hàng Thế giới cho rằng: một quốc gia muốn chuyển sang cách mạng
công nghiệp 4.0 thì cần 4 yếu tố: thứ nhất là lực lượng lao động có kỹ năng; thứ hai là có cơ sở hạ
tầng, hệ thống thông tin hiện đại; thứ ba là có hệ thống thể chế, chính sách hoàn thiện; thứ tư là
nền kinh tế sáng tạo. Trong bốn yếu tố đó thì yếu tố thứ nhất lực lượng lao động kỹ năng được
xem là yếu tố quan trọng nhất để một quốc gia có thể dễ dàng chuyển mình sang cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0. Hiện nay, trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế, đặc biệt khi Việt Nam đang trong thời kỳ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN
4.0), vấn đề nguồn nhân lực được xem khâu đột phá, phát triển nguồn nhân lực trở thành nền
tảng phát triển bền vững tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia. Với lợi thế đang trong thời kỳ dân
1 Email: thaovpulsa@gmail.com, Khoa Quản lý NNL, Trường Đại học Lao động - Xã hội.
2 Khoa Quản lý NNL, Trường Đại học Lao động - Xã hội.
547
PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP
số vàng, nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay sẽ có những lợi thế riêng nhưng cũng có những thách
thức đáng kể trong thời kỳ CMCN 4.0. Vậy thì để làm được điều đó các sở giáo dục đào tạo cần
có phương pháp cách thức gì để đào tạo ra một thế hệ người lao động thích ứng với bối cảnh này.
2. NỘI DUNG CHI TIẾT
2.1. Khái quát về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Đối với Việt Nam, CMCN 4.0 mới được biết đến cách đây vài năm, nhưng cho đến nay không
phải ai cũng hiểu tường tận về khái niệm này. Cách mạng Công nghiệp 4.0 (hay Cách mạng Công
nghiệp lần thứ tư) xuất phát từ khái niệm “Industrie 4.0” trong một báo cáo của chính phủ Đức năm
2013. “Industrie 4.0” kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở sản xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ
kỹ thuật số giữa Công nghiệp, Kinh doanh, chức năng và quy trình bên trong.
Klaus Schwab, người sáng lập và Chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế giới mang đến cái
nhìn đơn giản hơn về Cách mạng Công nghiệp 4.0 như sau:
“Cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản
xuất. Cuộc cách mạng lần 2 diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. Cuộc cách mạng
lần 3 sử dụng điện tử công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Bây giờ, cuộc Cách mạng
Công nghiệp Thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, kết hợp các công nghệ lại với nhau,
làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học”.
Những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong CMCN 4.0 sẽ là: Ttuệ nhân tạo (AI), Vạn vật kết
nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data).
Trên lĩnh vực công nghệ sinh học, Cách mạng Công nghiệp 4.0 tập trung vào nghiên cứu để
tạo ra những bước nhảy vọt trong Nông nghiệp, Thủy sản, Y dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi
trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu.
Cuối cùng lĩnh vực Vật với robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới
(graphene, skyrmions…) và công nghệ nano.
Như vậy, Cuộc cách mạng 4.0 thể tạo ra nguy phá vỡ thị trường lao động trên cả thế
giới và Việt Nam. Bởi một khi tự động hóa thay thế con người trong toàn bộ nền kinh tế, số lượng
người lao động máy móc thể thay thế được sẽ bị dư thừa các công việc an toàn với thu
nhập cao hơn thể sẽ gia tăng. Chính vậy lao động nghề, lao động trình độ thấp phải không
ngừng trau dồi để nâng cao tay nghề, làm sao để năng suất tối ưu hơn những dây chuyền sản xuất
tự động. Lao động trình độ cao, bác sĩ, kĩ sư, giáo viên… cũng phải không ngừng học hỏi, không
ngừng cầu tiến, vì sự phát triển của máy móc đang theo rất sát đằng sau chúng ta. Như vậy, trong
một thị trường việc làm vốn đã rất gay gắt bởi những cuộc cạnh tranh giữa người với người, bây
giờ người ta còn phải cạnh tranh thêm với cả robot. thể hình dung, cách mạng 4.0 sẽ tiến tới loại
bỏ những công việc phổ thông hoặc mang tính chất lặp đi lặp lại, thay thế toàn bộ bằng máy móc.
Nhưng đồng thời, nhu cầu về nguồn lao động tay nghề cao, duy sáng tạo, thực hiện những
công việc phức tạp, làm chủ máy móc lại tăng lên.
Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm thay đổi việc làm trong tất cả các ngành nghề và lĩnh vực.
Cụ thể:
548 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, giải trí: Robot thể làm những việc như: pha chế đồ
uống, bán hàng, dọn nhà…giống như con người. Hiện nay, tại Nhật Bản và Hàn Quốc sự xuất hiện
của robot là quá phổ biến, robot có thể nhận dạng được con người, ghi nhớ để chào hỏi; thậm chí
còn xử lý và trả lời được các nhu cầu của khách hàng bằng giọng nói giống như con người
Trong ngành ngân hàng: CMCN 4.0 có thể sẽ làm thay đổi hoàn toàn kênh phân phối và các
sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, sự xuất hiện của
điện thoại thông minh (smart phone) đã thay đổi cách con người giao tiếp và tương tác, kéo theo
sự thay đổi trong kênh phân phối, mạng lưới bán hàng và cách thiết kế sản phẩm dịch vụ của các
ngân hàng. Các dịch vụ ngân hàng qua Internet, Mobile, mạng xã hội, phát triển ngân hàng số
giao dịch không giấy tờ sẽ là xu thế phát triển mạnh. Trải nghiệm khách hàng sẽ là xu hướng vượt
trội, ở một số nước phát triển, kể cả các nước đang phát triển đã xuất hiện ngày càng nhiều “ngân
hàng không giấy”.
Trong lĩnh vực giáo dục: hình dạy học sẽ không còn thầy đọc, sinh viên chép;
không còn bắt buộc phải có mặt trên lớp nữa mà thay vào đó là những mô hình giảng dạy mới
như đào tạo trực tuyến không cần lớp học, không cần giáo viên đứng lớp, người học sẽ được hướng
dẫn học qua mạng. Những lớp học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị ảo có tính mô phỏng, bài giảng được
số hóa chia sẻ qua những nền tảng như Facebook, YouTube, Grab, Uber... sẽ trở thành xu thế
phát triển trong hoạt động đào tạo nghề nghiệp trong thời gian tới. Khi đó, kiến thức không thể bó
hẹp độc quyền bởi một người hay trong một phạm vi tổ chức. Người học nhiều cơ hội để tiếp
cận, tích lũy, chắt lọc cái mới, cái hay, có nhiều cơ hội để trở thành một công dân toàn cầu - người
lao động tương lai có khả năng làm việc trong môi trường sáng tạo và có tính cạnh tranh…
Theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, 64% trẻ em đang học hiện nay khi ra trường sẽ
làm các loại việc làm chưa từng xuất hiện. Điều này nghĩa thị trường lao động sẽ thay đổi,
cung cầu lao động sẽ thay đổi. Vấn đề này cũng tạo ra những thách thức đối với nền giáo dục Việt
Nam làm sao có thể tạo ra lực lượng lao động có trình độ, có kỹ năng để đáp ứng được những thay
đổi mà cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại.
3. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC CỦA VIỆT NAM
Việt Nam quy dân số trên 97 triệu người, đứng thứ 14 thế giới, thứ 3 trong khu vực
Đông Nam Á. Theo Báo cáo Điều tra Lao động việc làm quý 4/2017 của Tổng cục Thống kê, lực
lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của Việt Nam ước tính khoảng 55.1 triệu người, chiếm khoảng
57% tổng dân số. Như vậy, Việt Nam có nguồn nhân lực tương đối dồi dào, và đang trong thời kỳ
dân số vàng. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi của Việt Nam trong thời kỳ CMCN 4.0.
Với số lượng nhân lực đông, dồi dào thì chất lượng nguồn nhân lực qua đào tạo của Việt Nam
cũng có thể được xem là thế mạnh trong quá trình CMCN 4.0. Việt Nam có gần 12 triệu nhân lực
đã qua đào tạo, có trình độ từ đào tạo nghề trở lên, trong đó nhân lực có trình độ từ đại học trở lên
khoảng hơn 5 triệu người, chiếm 44% trong tổng số nhân lực đã qua đào tạo. Sau đây là bảng
trình độ của lực lượng lao động Việt Nam 2017:
549
PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP
Bảng 2.1: Lực lượng lao động Việt Nam năm 2017 phân theo trình độ chuyên môn kĩ thuật
Đơn vị: người
Trình độ chuyên môn kĩ thuật 2017 Tỷ lệ (%)
Đại học trở lên 5.264.480 9,6
Cao đẳng chuyên nghiệp 1.567.030 2,9
Trung cấp chuyên nghiệp 2.110.850 3,9
Dạy nghề từ 3 tháng trở lên 2.957.680 5,3
Không có trình độ chuyên môn kĩ thuật 42.867.230 78,3
Tổng 54.767.250 100
Nguồn: Báo cáo điều tra lao động việc làm quý 4/2017
Qua bảng số liệu trên cho thấy nguồn nhân lực chưa qua đào tạo chiếm một tỷ lệ khá cao
78.3%. Đây thực sự rào cản, hạn chế lớn của nhân lực Việt Nam trong cuộc CMCN 4.0 này.
Đồng thời, những hạn chế này đã đưa đến nhiều hệ lụy khác như năng suất lao động thấp, năng lực
cạnh tranh cũng như giá trị nguồn nhân lực Việt Nam trên thị trường lao động không cao.
Lực lượng lao động của Việt Nam tuy dồi dào nhưng chủ yếu là lao động tay nghề thấp, trong
đó, số lao động làm các nghề giản đơn chiếm tỷ lệ cao nhất 77% (hơn 43 triệu lao động) lực lượng
lao động cả nước. CMCN 4.0 với những công nghệ mới được tạo ra, đòi hỏi một nguồn nhân lực
chất lượng cao, được trang bị kiến thức, kỹ năng phù hợp để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Điều này là thách thức rất lớn đối với nguồn nhân lực ở mỗi quốc gia đang phát triển, trong đó
Việt Nam.
Theo báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2017 do Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố cho thấy, 69% số doanh nghiệp vốn đầu trực tiếp nước
ngoài (FDI) tại Việt Nam đang vấp phải khó khăn trong việc tuyển dụng được các cán bộ kỹ thuật
có tay nghề để phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh. Báo cáo cũng nêu, chất lượng nguồn nhân
lực Việt Nam chưa có nhiều đột phá. Doanh nghiệp FDI đánh giá chất lượng đào tạo và hiệu quả
của lao động Việt Nam năm 2017 chỉ đạt 3,8 điểm. Do đó, doanh nghiệp phải chi nhiều tiền hơn
cho hoạt động đào tạo khi tuyển dụng nhân sự mới và mức độ chi tăng qua các năm.. Năm 2013,
chi phí trung bình cho hoạt động này chiếm 3,6% chi phí kinh doanh, năm 2014 tăng lên 5,9%,
năm 2017 là 5,7%. Trong kỷ nguyên số như hiện nay, các công việc mang tính sáng tạo và đặt ra
yêu cầu ngày càng cao, các nhà tuyển dụng sẽ cần nguồn nhân lực chất lượng cao và có khả năng
thích ứng tốt với các thay đổi về cách thức sản xuất cũng như công nghệ mới. Vì vậy, chính bản
thân mỗi người lao động phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng của mình để
ứng phó với nhiều biến động về thị trường cũng như yêu cầu việc làm trong tương lai, nếu không
sẽ trở nên lạc hậu và bị đào thải.
Theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), so với các nước trong khu vực ASEAN,
Việt Nam đứng thứ 4 trong xếp hạng về “Động lực sản xuất” sau Singapore, Malaysia, Thái Lan .
Số liệu được trình bày trong bảng dưới đây:
550 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Bảng 2.2. Bảng xếp hạng các yếu tố “ Động lực sản xuất” của Việt Nam và các nước ASEAN
Động lực sản xuất Singapore Malaysia Thailand Philippines Việt Nam Indonesia Cambodia
Công nghệ và sáng tạo 6 23 41 59 90 61 83
Nguồn nhân lực 2 21 53 66 70 55 86
Thương mại và đầu tư 1 7 20 69 13 61 79
Thể chế 1 30 51 76 53 69 100
Nguồn lực bền vững 56 60 49 69 87 94 90
Môi trường 14 17 28 45 39 15 73
Nguồn: WEF Readiness for Future of Production Report 2018
Qua bảng số liệu cho thấy, thứ hạng các yếu tố về Động lực sản xuất của Việt Nam vị trí khá
thấp so với các nước trong khu vực. Trong đó, thứ hạng về công nghệ và sáng tạo của Việt Nam
đứng thứ 90/100, xếp vị trí cuối cùng trong nhóm các nước ASEAN; yếu tố Nguồn nhân lực
nguồn nhân lực bền vững cũng chỉ trên Cambodia. Do đó, để thể sẵn sàng cho cuộc CMCN 4.0,
đòi hỏi Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực hơn nữa trong việc cải thiện nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, tập trung phát triển và nâng cấp công nghệ.
Nguồn: WEF Readiness for Future of Production Report 2018
Qua hình 2.1. cho thấy trong khu vực Việt Nam thuộc thứ hạng thứ 5 về lao động có chuyên
môn cao, và chỉ cao hơn Indonesia và Campuchia. Việt Nam xếp thứ 81/100 trong khi Singapore
là quốc gia xếp đầu tiên.
Khi xếp hạng về chất lượng đào tạo nghề Việt Nam so với các nước ASEAN cho kết quả
như sau:
Nguồn: WEF Readiness for Future of Production Report 2018