Chuyện cổ tích về loài

người của Xuân Quỳnh và

cấu trúc huyền thoại

Thực ra, ý kiến trên của tôi về nghĩa của từ sinh ra và những cụm từ

tương tự nghĩa với nó chưa thâu tóm hết hiện tượng đa nghĩa của bản

thân từ đó trong cấu trúc của từng câu thơ. Nhưng có một điều cần xác

tín, đó là vai trò và vị trí của “trẻ con” trong cái nhìn của nhà thơ. Cái nhìn

này xuất phát từ cách cảm nhận rằng loài người phát triển từ con người

nguyên thuỷ (trẻ con) đến làm ra các giá trị văn hóa (trẻ con sinh ra tất cả),

đồng thời các giá trị văn hoá nảy sinh là từ nhu cầu của trẻ con, phục vụ

cho trẻ con, và như vậy, một cách nào đó, cũng có nghĩa là trẻ con (loài

người trên con đường phát triển của mình) sinh ra tất cả. Hiện tượng này

dẫn ta đến cấu trúc thứ hai của bài thơ: cấu trúc trên mặt trống đồng Ngọc

Lũ, cấu trúc “cây đời” trong huyền thoại, sử thi mà “trẻ con” là hình

tượng trung tâm.

Trong công trình Trống đồng quốc bảo Việt Nam, Nguyễn Duy Hinh

đã khảo sát cấu trúc của mười hai dạng trống đồng chúng ta đã phát hiện

được cho đến nay. Ngoài những khác biệt ở các hình ảnh, hoa văn cụ thể,

cấu trúc chung của mười hai dạng trống đồng hiện có là giống nhau:

trung tâm là hình ngôi sao rồi xoay quanh là những băng hoa văn hình học

phức tạp, các băng cảnh, các băng ngăn cách. Ở đây, tôi không đi sâu vào

miêu tả và lý giải các hình ảnh trên trống đồng. Việc này các nhà khảo cổ

học đã làm một cách tường tận rồi, và xin đọc thêm công trình của N.I.

Niculin mà tôi đã có dịp nhắc tới. Điều mà chúng tôi quan tâm là trống

đồng không phải là chỉ riêng Việt Nam có mà là tài sản chung của cả một

vùng rộng lớn từ miền Nam sông Dương Tử cho đến các hải đảo. Vì thế,

cấu trúc thứ hai của bài thơ Chuyện cổ tích về loài người mà chúng tôi sẽ

lý giải dưới đây mang một ý nghĩa mới, vượt khỏi phạm vi lãnh thổ của tác

giả, thể hiện tính phổ biến của huyền thoại.

Trong công trình của mình, N.I. Niculin đã gắn kết kiểu kết cấu

những vòng tròn đồng tâm của trống đồng với kiểu kết cấu tự nhiên của

lát cắt một thân cây, và từ đây, gợi lên hình ảnh “cây thế giới”, “cây đời”:

“Nhưng tất cả các giả thuyết trên còn chưa đánh giá đúng mức và nói

chung là chưa chú ý đến nguyên tắc chung về cấu trúc và sự phân bố các

hình vẽ ở mặt trên của tất cả các trống đồng mà chúng ta đã biết, không

loại trừ bất cứ cái nào. Trong khi đó thì điều này đặc biệt quan trọng, vì

rằng mặc dù hình vẽ lặp đi lặp lại liên tục và luôn luôn biến đổi, nhờ đó mà

các lễ nghi và các nhân tố thần thoại được miêu tả đã được cách điệu hoá

và biến thành một thứ hoa văn, tuy nhiên bản thân nguyên tắc cấu trúc mà

theo đó các hình vẽ được phân bố vẫn không hề biến đổi, điều đó chứng

tỏ sự quan trọng đặc biệt của nguyên tắc này. Vấn đề là ở chỗ các hình vẽ

được sắp xếp trong những vòng tròn đồng tâm xoay quanh một hình thể

có tia sáng toả ra xung quanh (các ngôi sao), có lẽ là hình tượng trưng

cho mặt trời. Cấu trúc này đặc biệt gợi nhớ đến những vòng tròn theo

năm xung quanh lõi cây trên một mặt gỗ cắt ngang. Từ đây nảy sinh một

giả thuyết hợp lý là chính trống đồng cùng với các hình vẽ vô số trên nó

(không chỉ trên bề mặt mà còn ở thân trống) là sự thể hiện trực quan của

một “cây thế giới”. Đặc biệt thậm chí hình dáng chiếc trống còn gợi nhớ

phần dưới thân cây, phần phình ra chính là gốc cây...

Kiểu kết cấu đồng tâm với lõi cây ở giữa (đương nhiên mang nhiều ý

nghĩa) này đã được bảo lưu một cách bền vững trên những chiếc trống ra

đời muộn hơn. “Còn những đường hoa văn ẩn giấu một ý nghĩa quan trọng nào đó còn được lưu giữ rất lâu qua nhiều thế kỷ trong đời sống”(4).

Và trên cơ sở quan niệm của Viện sĩ V.N. Toporov về “vai trò tổ chức

đặc biệt đối với các hệ thống thần thoại cụ thể, quy định cấu trúc bên

trong và toàn thể những thông số cơ bản của các hệ thống thần thoại

này”(5) của hình tượng cây thế giới, N.I. Niculin gắn kết cấu trúc trang trí

của trống đồng với kết cấu, nội dung “các tác phẩm văn học trung đại và

văn học dân gian của người Việt và đặc biệt là trong thơ ca dân gian truyền miệng của dân tộc Mường: hệ thống sử thi Đẻ đất đẻ nước…”(6).

Có một điểm khác biệt đáng chú ý, làm nổi rõ quan niệm của Xuân

Quỳnh là sự thay đổi của hình ảnh trung tâm cấu trúc. Thay vì “hình ngôi

sao 14 cánh (số lượng này có thể thay đổi tuỳ dạng trống đồng – ĐNC)

chiếm trung tâm mặt trống với một đường chỉ đậm tương đối lớn viền sát đầu các cánh sao”(7) mà theo N.I. Niculin “có lẽ là tượng trưng cho hình

mặt trời” thì trong bài thơ Chuyện cổ tích về loài người của Xuân Quỳnh

hình ảnh trung tâm của cấu trúc lại là hình tượng “trẻ con”, và ở đây mặt

trời bị đẩy xuống hàng các vòng tròn đồng tâm:

Mắt trẻ con sáng lắm

Nhưng chưa thấy gì đâu!

Mặt trời mới nhô cao

Cho trẻ con nhìn rõ

Trẻ con dựng thiên nhiên dậy, trẻ con dựng xã hội và văn hoá lên;

các vòng tròn đồng tâm châu tuần quanh hình tượng trẻ con ở trung tâm

cấu trúc đã làm nên cây thế giới, cây đời. Trẻ con (loài người nguyên

thuỷ) xuất hiện trong thời kỳ hỗn mang:

Trời sinh ra trước nhất

Chỉ toàn là trẻ con

Trên trái đất trụi trần

Không dáng cây ngọn cỏ

Mặt trời cũng chưa có

Chỉ toàn là bóng đêm

Không khí chỉ màu đen

Chưa có màu sắc khác

(Xin đọc một đoạn trong sử thi - huyền thoại Đẻ đất đẻ nước của dân

tộc Mường:

Ngày xưa sinh đời trước

Dưới đất chưa có đất

Trên trời chưa có trời

Trên trời chưa có ngôi sao đo đỏ

Dưới đất chưa có ngọn cỏ xanh xanh)

Trẻ con gọi mặt trời xuất hiện, cỏ cây hoa lá xuất hiện, chim muông

sông biển… xuất hiện. Và lời ru, điệu hát, truyện cổ tích, tri thức, ngôn

ngữ, chữ viết… ra đời cùng với tình yêu của mẹ, niềm thương của bà, sự

dạy dỗ của cha, chuyện trao truyền kiến thức của thầy… Nghĩa là toàn bộ

đời sống tự nhiên và xã hội được trẻ con dựng dậy hay là đươc dựng dậy

xoay quanh hình tượng trung tâm là trẻ con.

Điểm khác biệt cơ bản ấy không thay đổi cấu trúc của cây đời mà

chuyển cấu trúc cây đời từ huyền thoại sang truyện cổ tích được viết

bằng thơ. Xin đọc theo kiểu so sánh ấn tượng của màu xanh trong hai

dòng (thơ) sau đây trong Đẻ đất đẻ nước:

Dưới đất chưa có ngọn cỏ xanh xanh

... Mọc lên một cây xanh xanh

và trong Chuyện cổ tích về loài người của Xuân Quỳnh:

Màu xanh bắt đầu cỏ

Màu xanh bắt đầu cây

Vẫn vận dụng phương thức song hành (parallelism) nhưng khuynh

hướng giải thích, yêu cầu thể loại và ý thức sáng tạo đã đậm hơn

trong Chuyện cổ tích về loài người. Vị trí của “mặt trời” trong cấu trúc

trang trí trống đồng, vị trí của “cây” trong hình ảnh cây thế giới, cây đời

đã được hình tượng “trẻ con” đảm nhiệm trong Chuyện cổ tích về loài

người của Xuân Quỳnh. Hiện tượng đa dạng về từ, hiện tượng dịch đảo vị

trí các kết cấu cụm từ, hiện tượng tổ chức hệ thống cấu trúc âm thanh của

toàn bài thơ… đã khiến phương thức song hành (của thơ cổ đại)

trong Chuyện cổ tích về loài người của Xuân Quỳnh mang đậm màu hiện

đại. Chúng ta thử đọc một đoạn kể chuyện về cây chu, tức kiểu cây thế

giới, trong Đẻ đất đẻ nước:

Cây chu chái, quả chu đồng

Bông lau lá thiếc

Gió thổi vi vút

Cao tận trên lòng trời

Vui ran hơn sấm động

Thấy muông thú ăn no

Về chầu chu đầy một phía

Con hổ ăn no, uống no

Về chầu chu đầy một góc

Con vượn, vọc ăn no

Về chầu chu đầy ngọn cây giang

Lợn lòi, con hoẵng ăn no

Về chầu chu đầu lối

Đàn cá ăn no, uống no

Về chầu chu đầy suối đầy sông

Trống chim đỉnh mái chi bồng

Về chầu chu đầy đồi bái

Và thử so sánh với kết cấu châu tuần quanh hình tượng “trẻ con”

được Xuân Quỳnh vận dụng một cách biến hoá:

Trời sinh ra trước nhất

Chỉ toàn là trẻ con…

Mắt trẻ con sáng lắm

Nhưng chưa thấy gì đâu!

Mặt trời mới nhô cao

Cho trẻ con nhìn rõ

Màu xanh bắt đầu cỏ…

Chim bấy giờ sinh ra

Cho trẻ nghe tiếng hót…

Muốn trẻ con được tắm

Sông bắt đầu làm sông...

... Nhưng còn cần cho trẻ

Tình yêu và lời ru

Cho nên mẹ sinh ra…

Biết trẻ con khao khát

Chuyện ngày xưa, ngày sau

Không hiểu là từ đâu

Mà bà về ở đó…

Muốn cho trẻ hiểu biết

Thế là bố sinh ra…

Đến đây có lẽ bài thơ Chuyện cổ tích về loài người của Xuân Quỳnh

đã hiện ra dưới một ánh sáng mới – ánh sáng của huyền thoại. Chính cấu

trúc huyền thoại đã làm nên điểm đặc sắc của bài thơ khi bài thơ như là

kết quả của cả một quá trình người nghệ sĩ sống cùng những trải nghiệm

văn hoá của nhân loài và dân tộc trong lịch sử lâu xa của nó. Và con

đường đi ấy của huyền thoại thấm vào trong tâm thức của cộng đồng như

một dòng chảy bất tận mà đôi khi ta chợt nhận ra nơi một công trình sáng

tạo khiến tất cả hoá lạ lẫm nhưng thật gần gũi và rực rỡ. Đối với

tôi, Chuyện cổ tích về loài người của Xuân Quỳnh là một đóng góp của

dòng chảy ấy./.