HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG VIẾT ĐẠT

CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ

CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

HÀ NỘI – 2020

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG VIẾT ĐẠT

CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ

CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Mã số: 938 01 06

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. TRƯƠNG HỒ HẢI

2. TS. LÊ ĐINH MÙI

HÀ NỘI – 2020

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được

trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả luận án

Đặng Viết Đạt

ii

MỤC LỤC

Trang

LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................................. i

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................................... iv

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU ................................................................................ vi

MỞ ĐẦU ................................................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN

QUAN ĐẾN CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG

LÝ CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC .................................................. 9

1.1. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài luận án ................ 9

1.2. Đánh giá và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án ........................ 26

1.3. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết khoa học và khung phân tích lý thuyết ............... 27

CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP

CẬN CÔNG LÝ CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC ........................ 30

2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công

lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ..................................................................... 30

2.2. Các yếu tố cấu thành, tiêu chí đánh giá và yếu tố ảnh hưởng đến cơ chế

pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục .......... 48

2.3. Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm

hại tình dục ở một số quốc gia trên thế giới và giá trị tham khảo cho Việt Nam ........ 59

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN

TIẾP CẬN CÔNG LÝ CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở

VIỆT NAM .......................................................................................................................... 80

3.1. Những ưu điểm trong cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của

nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam giai đoạn 2014-2019 ........................... 80

3.2. Những nhược điểm trong cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý

của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam giai đoạn 2014-2019 ................... 109

3.3. Nguyên nhân những ưu, nhược điểm trong cơ chế pháp lý bảo đảm quyền

tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam giai đoạn

2014-2019 .............................................................................................................. 129

iii

CHƯƠNG 4: NHỮNG YÊU CẦU MỚI, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP

HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN C NG

LÝ CỦA NẠN NH N NỮ Ị XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM.................... 136

4.1. Những yêu cầu mới và quan điểm về hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm

quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam hiện

nay .......................................................................................................................... 136

4.2. Giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của

nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam .......................................................... 140

KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 161

DANH MỤC CÁC C NG TRÌNH ĐÃ C NG Ố CỦA TÁC GIẢ CÓ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................................ 163

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 164

PHỤ LỤC .......................................................................................................................... 183

iv

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS BLHS BLHS năm 1999 BLHS năm 2015 BLTTHS CCPL CCTP CEDAW

CECODES CRC ECHR ĐBQH ĐTNCS HĐND HLHPL HTPL HVVP ICCPR

LĐTBXH KT-XH LHQ MOLISA NCS NNN NNPQ Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP

Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP

NSNN Bộ luật Dân sự Bộ luật hình sự Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Bộ luật Tố tụng hình sự Cơ chế pháp lý Cải cách tư pháp Công ước xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979 Trung tâm nghiên cứu hỗ trợ cộng đồng Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989 Công ước châu Âu về Nhân quyền Đại biểu Quốc hội Đoàn thanh niên cộng sản Hội đồng nhân dân Hội liên hiệp Phụ nữ Hệ thống pháp luật Hành vi vi phạm Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 Lao động, Thương binh và Xã hội Kinh tế - xã hội Liên hợp quốc Bộ lao động, Thương binh và Xã hội Nghiên cứu sinh Nạn nhân nữ Nhà nước pháp quyền Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành một số biểu mẫu trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của BLTTHS Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của BLHS và việc xét xử vụ án XHTD người dưới 18 tuổi Ngân sách nhà nước

v

NXB PLHS PNTEG QCN QH QTCCL Nghị quyết số 49-NQ/TW Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính

Nhà xuất bản Pháp luật hình sự Phụ nữ và trẻ em gái Quyền con người Quốc hội Quyền tiếp cận công lý

NCS TAND TANDTC TCCL TCN TNHS TTHS Thông tư số 01/2017/TT- TANDTC Thông tư số 02/2018/TT- TANDTC

liên tư

Thông tư số 06/2018/TTLT- VKSNDTC-TANDTC- BCA-BTP-BLĐTBXH

trị về Chiến lược CCTP đến năm 2020 Nghiên cứu sinh Toà án nhân dân Toà án nhân dân tối cao Tiếp cận công lý Trước công nguyên Trách nhiệm hình sự Tố tụng hình sự Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 cả Chánh án TANDTC quy định về phòng xử án Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/9/2018 cả Chánh án TANDTC quy định chi tiết việc xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Toà Gia đình và người chưa thành niên Thông tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC- TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 giữa VLSNDTC, TANDTC, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ LĐTBXH về phối hợp thực hiện một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi Uỷ ban thường vụ Uỷ ban nhân dân Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 Chương trình phát triển của Liên hợp quốc Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Xâm hại tình dục Viện kiểm sát nhân dân Viện kiểm sát nhân dân tối cao

UBTV UBND UDHR UNDP UNICEF VCCI XHTD VKSND VKSNDTC

vi

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU

Trang

SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1. 1: Khung phân tích lý thuyết CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD ở Việt Nam ............................................................................................................... 28

Sơ đồ 2. 1: Sơ đồ biểu diễn CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ...................... 43

BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2. 1: Số vụ tấn công tình dục ở Hàn Quốc bị bắt ............................................... 183

Biểu đồ 3. 1: Số lượng luật sư Việt Nam giai đoạn 201-2019.................................. 192 Biểu đồ . 2: Lựa chọn cách thức giải quyết vụ việc của người dân hi họ hay người thân của họ bị XHTD ..................................................................................... 192 Biểu đồ 3. 3: Thu nhập bình quân, số năm đi học và chỉ số phát triển con người ở Việt Nam ..................................................................................................... 192

BẢNG

Bảng 2. 1: Số vụ tấn công tình dục và hiếp dâm ở Nhật Bản .......................................... 183

Bảng 3. 1: Số vụ án liên quan đến XHTD PNT G giai đoạn (2014-2019) ................... 184

Bảng 3. 2: Số vụ án và nạn nhân theo tội danh cả nước được x t xử sơ thẩm liên

quan đến XHTD PNT G trong giai đoạn 2014-2019 ..................................................... 184

Bảng 3. 3: Hệ thống thể chế liên quan đến đảm bảo QTCCL của NNN bị XHTD

ở Việt Nam .......................................................................................................................... 184

Bảng . 4: Đánh giá của người dân và cán bộ thuộc các thiết chế tư pháp về một

số nhận định liên quan đến năng lực thực thi nhiệm vụ cán bộ tư pháp ......................... 187

Bảng . 5: Xâm hại tình dục theo quan điểm của cán bộ các thiết chế tư pháp ............. 187

Bảng 3. 6: Đánh giá của người dân và của cán bộ tư pháp về tính hiệu quả của các

thiết chế tư pháp trong bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ....................................... 188

Bảng 3. 7: Đánh giá của cán bộ tư pháp về số lượng và cơ cấu của đội ng cán bộ

tại các bộ phận xử lý vụ án XHTD tại cơ quan đơn vị nơi họ đang công tác ................. 188

Bảng . 8: Đánh giá của cán bộ tư pháp về năng lực của đội ng cán bộ làm

nhiệm vụ xử lý vụ án XHTD tại cơ quan đơn vị nơi họ đang công tác .......................... 189

Bảng . 9: Đánh giá của cán bộ tư pháp về nguồn lực vật chất phục vụ cho việc

giải quyết các vụ XHTD tại cơ quan công tác .................................................................. 189

Bảng 3. 10: Số bị cáo và số vụ án liên quan đến XHTD đã thụ l và giải quyết

trên địa bàn cả nước trong giai đoạn 2014-2019 .............................................................. 189

Bảng 3. 11: Xét xử phúc thẩm các vụ án XHTD trên địa bàn cả nước trong giai

đoạn 2014-2019 .................................................................................................................. 190

vii

Bảng 3. 12: Đánh giá của người dân và của cán bộ tư pháp về tính hiệu quả trong

hoạt động bảo vệ QTCCL của NNN bị XHTD của các thiết chế tư pháp ..................... 190

Bảng . 1 : Nhận thức của người dân về các hành vi được xác định là vi phạm

pháp luật theo BLHS .......................................................................................................... 191

Bảng . 14: Lựa chọn hành động của người dân nếu bị XHTD ..................................... 193

Bảng 3. 15: Tỷ lệ phụ nữ từ 20-24 tuổi kết hôn lần đầu trước 15 tuổi và trước 18

tuổi ....................................................................................................................................... 194

Bảng . 1 : ức độ hiểu biết của người dân về các thủ tục để bảo vệ quyền lợi

của mình thông qua con đường tư pháp hình sự .............................................................. 194

Bảng 3. 17: Đánh giá của cán bộ tư pháp (CB) và người dân (ND) về chi phí mà

NNN bị XHTD phải chi trả trong quá trình xử lý vụ án .................................................. 195

Bảng . 18: Quan điểm của người dân về tác động của yếu tố văn hóa đến XHTD ..... 195

Bảng . 19: Vai trò ảnh hưởng của các nhóm nhân tố tác động đến lựa chọn giải

quyết vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự ....................................................... 196

Bảng 4. 1: ức độ tham gia các hóa đào tạo bồi dư ng của cán bộ thuộc các

thiết chế tư pháp.................................................................................................................. 199

Bảng 4. 2: Các nhân tố tác động đến lựa chọn giải quyết vụ việc thông qua con

đường tư pháp hình sự của người dân nếu họ là nạn nhân bị XHTD ............................. 199

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án

Quyền tiếp cận công lý (QTCCL) là một trong những quyền cơ bản của con người,

đã được pháp luật quốc tế hiện đại ghi nhận, đây là hả năng của mỗi người yêu cầu nhà

nước và xã hội tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để tìm kiếm và đạt được sự khắc phục

và đền bù thoả đáng cho những bất công hay tổn thương mà họ gặp phải do chủ thể khác

tranh chấp về quyền hoặc xâm phạm bất hợp pháp về quyền và lợi ích. Hiện nay, theo

Luật nhân quyền quốc tế, bảo đảm QTCCL cho mọi người được thực hiện “thông qua

bất cứ một cơ chế nào, thay vì chỉ thông qua những thiết chế tư pháp truyền thống” [108,

tr. 25], trong đó cơ chế pháp (CCPL) bảo đảm QTCCL là cơ chế quan trọng nhất, hữu

hiệu nhất và phổ biến nhất. Chính vì thế, xây dựng và hoàn thiện CCPL bảo đảm

QTCCL là nhiệm vụ của mỗi quốc gia, là nghĩa vụ của nhà nước và xã hội, trong đó bao

gồm: hoàn thiện HTPL, các cơ quan tư pháp, các cơ quan hỗ trợ và TGPL, v.v.. nhằm

bảo đảm tốt quyền con người (QCN), đặc biệt quyền của nhóm người dễ bị tổn thương.

Phụ nữ và trẻ em gái (PNTEG) là nhóm dễ bị tổn thương được pháp luật ghi nhận

và bảo vệ, tuy nhiên trong thực tế họ vẫn đang phải đối mặt với nhiều rủi ro, trong đó có

nạn xâm hại tình dục (XHTD), vì thế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là nghĩa vụ

của nhiều chủ thể trong xã hội, đặc biệt là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Để bảo

đảm QTCCL của nạn nhân nữ (NNN) bị XHTD cần phải một CCPL hoàn chỉnh, trong

đó nâng cao năng lực tiếp cận công lý (TCCL) của NNN bị XHTD, bảo đảm tốt khả

năng tìm iếm và đạt được sự khắc phục, sự bù đắp thoả đáng cho những tổn thương mà

họ gặp phải và trừng phạt thích đáng đối với người có hành vi XHTD.

Xâm hại tình dục PNTEG đang là vấn đề báo động ở nhiều quốc gia trên thế giới

và Việt Nam, mặc dù, các quốc gia đã quy định hành vi này trong pháp luật và áp dụng

các biện pháp hác nhau để phòng ngừa, nhưng “các quy định này vẫn chưa đầy đủ và

toàn diện; nạn nhân còn e ngại, không dám khai báo về vụ việc; thiếu cơ chế trợ giúp

hiệu quả để bảo vệ QCTCCL của NNN bị XHTD” [81, tr. 23], do đó họ vẫn gặp những

trở ngại trên con đường tìm kiếm công lý cho bản thân. Việt Nam trong 75 năm qua xây

dựng và phát triển đất nước, đặc biệt gần 35 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước đã dành

nhiều sự quan tâm đến việc bảo đảm và thúc đẩy phát triển QCN, trong đó có quyền của

PNTEG. Trên phương diện quốc tế, nước ta đã tham gia nhiều Công ước quốc tế về bảo

đảm quyền PNTEG bị XHTD, như Công ước CEDAW, CRC, Tuyên bố năm 2013 về

2

xoá bỏ bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em ở ASEAN, v.v..; ở trong nước, Việt Nam đã ban

hành Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị (năm 2005) về Chiến lược cải cách tư

pháp (CCTP) đến năm 2020, trong đó xác định “các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ

dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, QCN (…). Đổi mới thủ tục hành chính

trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân TCCL” [14]; cùng

với đó, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về bảo đảm QCN nói chung và

quyền của PNTEG nói riêng, như: Luật Bình đẳng giới năm 200 ; Luật Phòng chống

bạo lực gia đình năm 2007; BLHS năm 1999, 2015; BLTTHS năm 200 , 2015; Luật Xử

lý vi phạm hành chính năm 2012; v.v.. Đặc biệt, Hiến pháp năm 201 , lần đầu tiên hiến

định quyền con người (QCN), trong đó quy định “các QCN, quyền công dân (...) được

công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật (Khoản 1, Điều 14);

Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ,

(...). Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới (Điều 26)” [128]. Trên cơ sở đó, các cơ quan

danh dự và nhân phẩm (...) (khoản 1, Điều 20); Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt.

tư pháp phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các tổ chức xã hội thực

hiện nhiều biện pháp nhằm bảo đảm quyền PNT G, trong đó đã phát hiện và đưa ra xử

lý kịp thời nhiều vụ án XHTD, người phạm pháp đã bị trừng trị thích đáng. Điều này

cho thấy, CCPL bảo đảm QTCCL của PNTEG nói chung và PNTEG bị XHTD nói

“các vụ XHTD PNT G đã xảy ra với tính chất nghiêm trọng và có xu hướng tăng lên”

riêng đã được hình thành và từng bước được hoàn thiện. Tuy nhiên, những năm gần đây,

[50], nhưng các nạn nhân này vẫn đang phải đối mặt với nhiều hó hăn và thách thức

trong TCCL, một phần là do thái độ và hành vi phân biệt đối xử, mặt khác do “không

được hỗ trợ đầy đủ ở mọi giai đoạn của quá trình xét xử, từ khâu trình báo ban đầu cho

đến phiên tòa xét xử” [41, tr. 35-36].

Điều này dẫn đến, phần lớn các vụ việc được trình báo cảnh sát đã hông dẫn

đến buộc tội nghi phạm. Bỏ cuộc có tỷ lệ cao nhất ở các hâu đầu tiên của quá

trình tư pháp hình sự, với 34% phụ nữ được phỏng vấn cho biết cảnh sát đề nghị

họ giải quyết vấn đề trong nội bộ gia đình và chỉ có 12% số vụ việc có đưa ra cáo

buộc hình sự [41, tr. 34].

Thực tế trên cho thấy CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam

vẫn chưa hoàn thiện, còn bộ lộ những hạn chế, trong đó:

Các quy định pháp luật ở Việt Nam vẫn thiếu các quy định đặc thù đảm bảo

quyền QTCCL của NNN bị XHTD, đặc biệt nạn nhân là người nghèo, người

khuyết tật, người dân tộc thiểu số, vì thế họ có ít điều kiện tiếp cận hệ thống tư

3

pháp chính thức [72, tr. 17-21]; thời gian thụ lý còn kéo dài; việc giải quyết, xử l

các vụ việc còn nhiều bất hợp l , chưa đảm bảo tính công bằng trong x t xử đặc

biệt quyền được x t xử đúng đắn công bằng và bình đẳng của người ngh o chưa

được đảm bảo; (...) chưa thật sự tạo niềm tin cho dân chúng [108, tr. 28].

Do vậy, hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam là

một trong những nội dung quan trọng trong xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt

Nam hiện này, trong đó tập trung vào: hoàn thiện HTPL bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD; hoàn thiện các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; tăng cường

nguồn lực để đáp ứng tốt yêu cầu vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD; đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng và hiệu quả giữa các yếu tố trong CCPL bảo

đảm QTCCL của NNN bị XHTD, từ đó nâng cao năng lực TCCL của NNN bị XHTD ở

Việt Nam.

Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết về mặt lý luận, thực tiễn pháp lý trên, nghiên cứu

sinh (NCS) lựa chọn vấn đề “Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn

nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành L

luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận án là phân tích và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về

CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD và đánh giá đúng thực trạng CCPL bảo

đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam trong thời gian qua, từ đó đề xuất các giải

pháp nhằm hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam hiện

nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án phải thực hiện các nội dung

sau:

- Phân tích, đánh giá các công trình nghiên cứu trong nước và thế giới liên quan

đến CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, để từ đó chỉ rõ những khoảng trống

cần được giải quyết trong luận án;

- Phân tích và chỉ ra được khái niệm, các yếu tố cấu thành của CCPL bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD; các tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến CCPL

bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.

4

- Nghiên cứu CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở một số nước trên thế

giới, qua đó rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện

CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD hiện nay;

- Đánh giá thực trạng CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam

trong thời gian qua, quá đó, luận án chỉ ra những ưu điểm, nhược điểm và nguyên nhân

ưu, nhược điểm trong thực hiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở nước

hiện nay.

- Chỉ rõ những yêu cầu mới và đề xuất quan điểm, các giải pháp nhằm hoàn thiện

CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam trong thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án

Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn CCPL bảo

đảm QTCCL của NNN bị XHTD.

3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án

- Về nội dung: nội dung nghiên cứu của luận án là CCPL bảo đảm QTCCL của

NNN (bao gồm phụ nữ và trẻ em gái) bị XHTD ở Việt Nam, trong đó luận án chủ yếu

tập trung phân tích các vụ án xâm phạm tình dục (theo quy định của BLHS) và chỉ rõ

nguyên nhận của những ưu, nhược điểm của CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD ở Việt Nam để đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế này. Vì thế, luận án hông đi

sâu vào phân tích nguyên nhận ưu, nhược điểm của từng yếu tố cấu thành CCPL bảo

đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam.

- Về không gian:

+ Đối với nghiên cứu thực tiễn CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở một

số nước trên thế giới và rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam, luận án nghiên

cứu Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc;

+ Đối với nghiên cứu thực tiễn vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD ở Việt Nam hiện nay, luận án phân tích và đánh giá cơ chế này trong phạm vi cả

nước. Để có thêm số liệu thực tiễn phong phú, toàn diện, đề tài sẽ tiến hành nghiên cứu,

khảo sát việc thực hiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở các địa phương

Việt Nam, trong đó bao gồm các địa phương sau: (1) Miền Bắc: Lạng Sơn, Lào Cai, Hà

Nội, Hải Phòng; (2) Miền Trung và Tây Nguyên: Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Đắk Nông,

Lâm Đồng; (3) Nam Bộ: Cần Thơ, Kiên Giang, Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh

(Phụ lục 6).

5

- Về thời gian: Luận án nghiên cứu CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở

Việt Nam giai đoạn từ năm 2014 (từ khi Hiến pháp năm 201 có hiệu lực ngày

01/01/2014) đến 2019; trong quá trình phân tích thực trạng, luận án so sánh CCPL bảo

đảm QTCCL của NNN bị XHTD với giai đoạn trước đó. Luận án thu thập, xử l các số

liệu thứ cấp được thống ê trong giai đoạn từ năm 2014 đến 2019 và các số liệu sơ cấp

được hảo sát điều tra trong hoảng thời gian từ năm 2019-2020; giải pháp đề xuất cho

những năm tới.

4. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận

Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ

nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về CCPL bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD, trong đó bao gồm: hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác

- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về công lý, bảo vệ công lý và QCN; các quan điểm

chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay về bảo đảm QCN nói chung và bảo đảm

QTCCL nói riêng đối với phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là NNN bị XHTD. Bên cạnh đó,

luận án còn sử dụng lý thuyết tiếp cận dựa trên QCN, lý thuyết kỳ thị xã hội và lý thuyết

rào cản tâm lý để làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về CCPL bảo đảm QTCCL của

NNN bị XHTD:

- Lý thuyết tiếp cận dựa trên quyền con người: Luận án sử dụng lý thuyết này (Phụ

lục 10) để phân tích, làm rõ yêu cầu hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD nhằm nâng cao năng lực TCCL của NNN bị XHTD, từ đó giúp họ dễ dàng,

thuận lợi trong quá trình tìm kiếm và đạt được những biện pháp khắc phục và đền bù

thoả đáng trước những thiệt hại của bản thân.

- Lý thuyết kỳ thị xã hội và lý thuyết rào cản tâm lý: Luận án sử dụng các lý thuyết

này (Phụ lục 10) để nghiên cứu và làm rõ sự tác động của sự kỳ thị, định iến của xã hội

đối với bản thân NNN bị XHTD hay người thân và gia đình của họ. Trong đó, luận án

làm rõ sự kỳ thị, định kiến này tác động tới quá trình tiếp nhận, giải quyết vụ án hay hỗ

trợ NNN bị XHTD trong quá trình tìm kiếm và đạt được sự khắc phục và đền bù thoả

đáng trước những thiệt hại của bản thân.

4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

Trên cơ sở phương pháp luận nói trên, luận án sẽ sử dụng các phương pháp nghiên

cứu cụ thể, như:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được NCS sử dụng xuyên suốt trong việc phân

tích, tổng hợp: những kết quả của các công trình nghiên cứu liên quan đến CCPL bảo

6

đảm QTCCL của NNN bị XHTD, chỉ ra những nội dung đã được giải quyết và những

khoảng trống cần được luận án tiếp tục giải quyết; các lý thuyết và quan niệm để xây

dựng cơ sở lý luận về CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; thực tiễn CCPL bảo

đảm QTCCL của NNN bị XHTD của một số nước trên thế giới và rút ra bài học kinh

nghiệm cho Việt Nam; thực trạng CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt

Nam trong thời gian qua và đề xuất giải pháp hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của

NNN bị XHTD ở Việt Nam trong thời gian tới.

- Phương pháp logic và lịch sử: được NCS sử dụng để phân tích, đánh giá thực trạng

CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam và đề xuất giải pháp hoàn

thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam trong thời gian tới phải

gắn liên với điều KT-XH ở Việt Nam và bối cảnh hội nhập quốc tế.

- Phương pháp phỏng vấn: NCS sử dụng phương pháp phỏng vấn (phỏng vấn bán

cấu trúc), nhằm thăm dò dư luận xã hội đánh giá thực trạng CCPL bảo đảm QTCCL của

NNN bị XHTD ở nước ta. Thông qua quá trình phòng vấn, NCS tìm hiểu thêm các quan

điểm của đối tượng được phỏng vấn (cán bộ cơ quan toà án và viện kiểm sát, cán bộ cơ

quan hành chính phụ trách các vấn đề về bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em) về thực tiễn

giải quyết các vụ án về XHTD. Thời gian tiến hành phỏng vấn là 2019-2020 (Phụ lục 9).

- Phương pháp điều tra xã hội học (điều tra bằng bảng hỏi): được NCS sử dụng để

thu thập thông tin sơ cấp liên quan đến CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở

nước ta trong thời gian hiện nay. Thời gian tiến hành điều tra là 2019 - 2020; với quy mô

phiếu là 800 phiếu đối người dân và 300 phiếu đối với cán bộ tư pháp (Phụ lục 5, 6).

- Phương pháp phân tích và xử lý dữ liệu: được NCS áp dụng để phân tích, xử lý cả

dữ liệu sơ cấp và thứ cấp liên quan đến đề tài CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD ở nước ta. Trong đó, dữ liệu thứ cấp bao gồm các văn bản pháp luật và văn kiện

của Đảng, các vụ án, các báo cáo số liệu thống kê chính thức của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền và các nghiên cứu đã công bố về các vụ án XHTD, được NCS mô tả, thống

kê, phân tích, tổng hợp phục vụ cho việc nhận x t, đánh giá các nội dung về thực trạng

CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam; dữ liệu sơ cấp được NCS thu

thập, tổng hợp được từ việc phỏng vấn và điều tra bằng bảng hỏi đối với người dân và

cán bộ tư pháp về các vấn đề liên quan đến QTCCL của NNN bị XHTD ở nước ta. Đối

với dữ liệu sơ cấp thu thập được từ điều tra bằng bảng hỏi, NCS sử dụng phần mềm

SPSS phiên bản 20.0 để xử lý (Phụ lục 2, 4, 7).

- Phương pháp luật học so sánh: được NCS áp dụng để so sánh CCPL bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD ở một số nước trên thế giới có những đặc điểm tương đồng

7

với Việt Nam, qua đó rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam trong quá trình hoàn

thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD hiện nay. Bên cạnh đó, phương pháp

này còn so sánh thực tiễn các thiết chế và thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD trong giai đoạn 2014-2019 với giai đoạn 2008-2013, đặc biệt là so sánh các quy

định pháp luật liên quan đến XHTD giữa BLHS 1999 (sửa đổi bổ sung 2009) với BLHS

2015 (sửa đổi, bổ sung 2017); BLTTHS năm 200 với BLTTHS 2015.

- Phương pháp hệ thống: được NCS áp dụng để nghiên cứu các yếu tố cấu thành

CCPL bảo đảm NNN bị XHTD ở Việt Nam trong chỉnh thể thống nhất; đồng thời

phương pháp này được NCS sử dụng để phân tích, đánh giá thực tiễn CCPL bảo đảm

NNN bị XHTD ở Việt Nam trong quá trình xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt

Nam hiện nay.

- Phương pháp phân tích văn bản luật: được NCS áp dụng vào phân tích, đánh giá

các quy phạm pháp luật liên quan đến bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, từ đó chỉ ra

những hạn chế của nội dung các quy phạm này.

5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án

So với các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, kết quả nghiên cứu

của luận án có những đóng góp mới sau:

Thứ nhất, về phương pháp, luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn

CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam dưới giác độ chuyên ngành lý

luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.

Thứ hai, về nội dung, luận án trình bày tương đối toàn diện về khái niệm, đặc điểm,

nội dung bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD và khái niệm, các yếu tố cấu thành, tiêu

chí đánh giá, các yếu tố ảnh hưởng đến CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD;

phân tích, đánh giá CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở một số quốc gia trên

thế giới và rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam; phân tích các yếu tố cấu thành

CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam, làm rõ những ưu điểm, những

nhược điểm và nguyên nhân của những ưu, nhược điểm trong thực hiện CCPL bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam trong giai đoạn 2014-2019; luận giải những

yêu cầu mới đối với hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt

Nam trong thời gian tới; đề ra quan điểm và giải pháp hoàn thiện CCPL bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam trong thời gian tới.

6. Ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn của luận án

Kết quả nghiên cứu của luận án này sẽ là công trình nghiên cứu chuyên sâu, tương

đối toàn diện về vấn đề này, vì vậy luận án có những ý nghĩa sau đây:

8

6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận

Luận án tiếp tục phát triển các kết quả nghiên cứu của các công trình liên quan đến

đề tài luận án trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở lý luận về CCPL bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD. Từ đó, luận án đánh giá, tổng kết thực tiễn CCPL bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam thời gian qua.

6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn

Kết quả của luận án là tài liệu tham khảo để Đảng và Nhà nước có thêm cơ sở

khoa học trong quá trình hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt

Nam hiện nay, từ đó góp phần nâng cao năng lực TCCL của NNN bị XHTD ở Việt

Nam hiện nay. Những kết quả nghiên cứu của luận án còn là tài liệu tham khảo hữu ích

trong công tác nghiên cứu, giảng dạy các vấn đề liên quan đến QTCCL, XHTD, CCPL.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm

04 chương, chia thành 11 tiết:

Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến CCPL bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD

Chương 2: L luận về CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD

Chương : Thực trạng CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam

Chương 4: Những yêu cầu mới, quan điểm và giải pháp hoàn thiện CCPL bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam

9

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN CƠ CHẾ

PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ CỦA NẠN NHÂN NỮ

BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về công lý, quyền tiếp cận công lý và bảo

đảm quyền tiếp cận công lý

1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu về công lý

Thứ nhất, quan niệm về công lý qua các công trình nghiên cứu.

Ngày từ thời cổ đại, các triết gia nổi tiếng thời Hy Lạp cổ đại đã đưa ra quan niệm

của mình về công lý, Socrate (469-339 TCN), Plato (428-348 TCN), Aristotle (384-322

TCN), v.v.. cho rằng công l như là hát vọng cho cuộc sống có đạo đức, tốt đẹp để đạt

tới hạnh phúc. Đến thời kỳ trung cổ, bảo vệ công lý trở thành một tiêu chuẩn để xác định

tính chính đáng, chính nghĩa của một chính quyền, vì thế St. Augustine (354-420) cho

rằng, nếu hông có công l , nhà nước chỉ là một băng cướp có tổ chức mà thôi. Đến thời

kỳ thời kỳ cận hiện đại và hiện đại với nhiều nhà tư tưởng, triết gia vĩ đại trên thế giới

như Spinoza (1 2-1677), I.Kant (1724-1804), Montesquieu (1689–1755), Voltaire

(1691-1778), J.J.Rousseau (1712-1778), Thomas Jefferson (1743-1826), J.Bentham

(1748-1832), J.Rawls (1921-2002), Michael Sandel (1953-); v.v.. đã đưa ra các quan

niệm về công lý. Nếu như J.Bentham đưa ra quan niệm về công l dựa trên tối đa hóa

phúc lợi hay tìm iếm hạnh phúc lớn nhất cho nhiều người nhất, thì I.Kant nhấn mạnh

đến tự do và phẩm giá của con người, từ đó nỗ lực ết nối công l và đạo đức với tự do.

Trong hi đó, J.Rawls (1921-2002), trong tác phẩm “A Theory of Justice”, cho rằng cái

đúng (right) phải được xếp trước cái thiện (good) trong một trật tự xác định, vì thế,

J.Rawls đã xây dựng lý thuyết “Công l như là sự công bằng” (Justice as fairness) làm

nền tảng cho tự do và bình đẳng cá nhân (free and equal persons). Vì J. Rawls cho rằng,

người ta không thể theo đuổi cái tốt chung cho đa số bằng cách đặt ra những bất lợi hay

bất công cho một số người hác. Cái đúng phải được ưu tiên hơn cái thiện và cái đúng

sẽ khuyến hích hay tăng tối đa cái thiện.

Trên phương diện pháp lý, tác giả Rudolf Stammler làm rõ khái niệm công lý

trong pháp luật, trong tác phẩm “The Theory of Justice”, tác giả này đã luận giải những

khía cạnh, giá trị cơ bản của công l và phương thức bảo đảm công lý trong pháp luật,

10

theo ông, pháp luật công bằng (Just law) là cơ sở để hiện thực hoá công lý. C ng với

cách tiếp cận này, Nathan Roscoe Pound đã hệ thống hóa và luận giải các khía cạnh cơ

bản của công lý và pháp luật.

Ở Việt Nam, những tưởng và khát vọng về công l đã xuất hiện từ xa xưa, được

hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước. Trong thời hiện đại, Hồ Chí Minh

(1890-19 9) đã thể hiện rõ tư tưởng của mình về công l , đó là chân l mà các dân tộc

trên thế giới đều thừa nhận và những quyền năng mà mọi dân tộc đều được hưởng một

cách vô điều kiện, đó là quyền được sống, hưởng độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc.

Trong những năm gần đây, một số tác giả đưa ra các quan niệm về công l , như Nguyễn

Xuân Tùng, cho rằng: “Công lý chính là sự nhận thức đúng đắn và hành động đúng vì

chân lí, vì công bằng và lẽ phải, phù hợp với lợi ích chung, với đạo lí của nhân dân,

được xã hội và pháp luật thừa nhận” [179]; nội dung căn cốt nhất của công lý là “hoàn

lại, trả lại cho mọi người cái mà họ có quyền được hưởng và là mệnh lệnh để ngăn chặn

một người chiếm đoạt thứ thuộc về người khác hoặc ngăn chặn việc chiếm đoạt những

thức gì thuộc về mình” [182, tr. 37]. Ngoài ra, tác giả Nguyễn Hoàng Anh, lại cho rằng,

công lý cần được nhìn nhận trên hai phương diện: (1) trên phương diện là một thiết chế,

công l được hiểu là một thiết chế có chức năng áp dụng pháp luật – tức là cơ quan tư

pháp; (2) trên phương diện là một giá trị, công lý là giá trị mà người ta thường gán cho

khi một phán quyết được đưa ra [4, tr. 68-69].

Nhìn chung, các công trình trên cho thấy, công lý là khái niệm đa chiều cạnh, được

tiếp cận nhiều góc độ khác nhau và ở nhiều lĩnh vực hác nhau, do đó, nội hàm của khái

niệm công lý cần phải được đặt trong một hệ quy chiếu xác định, nhưng trong các quan

niệm đó đều cho thấy công lý là một giá trị nhân văn, được biểu hiện thành các chân giá

trị như: công bằng, bình đẳng, lẽ phải, chống cái ác, bảo vệ điều thiện, v.v.. vì cuộc sống

tốt đẹp của con người.

Thứ hai, các công trình nghiên cứu về phân loại công lý.

Việc phân loại công l dựa vào nhiều cách thức hác nhau, ngay từ thờ cổ đại,

Aristotle cho rằng, công l được chia thành “công l cải tạo”- nơi mà toà án sửa chữa

một lỗi lầm do một bên phạm phải đối với bên hác và “công l phân phối”- cách thức,

nỗ lực cố gắng để công bằng với mỗi người, đúng theo những gì mà người đó xứng

đáng.

Theo tác giả Bùi Tiến Đạt, công l được chia thành công lý nội dung và công lý

thủ tục. Kế thừa quan điểm của J.Rawls, tác giả này c ng cho rằng công lý thủ tục chia

là ba loại, đó là công l thủ tục hoàn hảo; công lý thủ tục không hoàn hảo và công lý thủ

11

tục thuần tuý [35, tr. 58]. Trong hi đó, dựa trên cơ sở các nguyên tắc thực hiện công l ,

tác giả Nguyễn Xuân Tùng, trong bài viết “Đi tìm định nghĩa khái niệm “công lý” tại

Việt Nam”, cho rằng công l có thể phân loại thành công l phân phối hay công l cải

tạo, công l thủ tục hay công l nội dung [183]; trong bài viết “Quan niệm và phân loại

công lý” còn bổ sung thêm các loại về công l hác như: công l tương giao; công l tự

nhiên. Theo các quan niệm hiện đại về công lý, trong bài viết “Công lý theo kết quả,

công lý theo thủ tục và liên hệ với nền tư pháp Việt Nam” tác giả Trần Quyết Thắng lại

cho rằng, công lý phải được chia thành công lý theo ết quả và công lý theo thủ tục,

trong đó, tác giả cho rằng công lý theo ết quả trong chừng mực nào đó theo đuổi quan

điểm xét xử tư pháp “thà bắt nhầm còn hơn bỏ sót”, trong khí đó, công lý theo thủ tục lại

rất chú trọng cách thức, trình tự tìm ra sự thật, nghĩa là công lý theo thủ tục theo đuổi

quan điểm xét xử tư pháp “thà bỏ sót còn hơn bắt nhầm”.

Như thế, từ các công trình nghiên cứu trên cho thấy công lý được phân chia thành

nhiều loại khác nhau, trong đó gắn với hoạt động tố tụng, các học giả chú trọng nhiều

đến công lý thủ tục.

Thứ ba, các công trình nghiên cứu về bảo vệ công lý.

Trong bài viết “Toà án nhân dân và nhiệm vụ “bảo vệ công lý””, tác giả Nguyễn

Xuân Tùng cho rằng, toà án đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ công lý, tuy nhiên, để

toà án thể hiện tốt vai trò này cần phải bảo đảm “quyền được xét xử công bằng, công

khai bởi một toà án độc lập, khách quan; quyền được TCCL một cách có hiệu quả và

không có bất cứ cản trở pháp lý nào” [182, tr. 40]. Tác giả Nguyễn Thanh Tuấn, trong

bài viết “Bảo đảm công lý trong thể chế pháp quyền” đã hẳng định rằng “bảo đảm

công lý trong thể chế pháp quyền, là toàn bộ hoạt động iểm tra, giám sát, phán quyết,

trước hết và chủ yếu của các cơ quan nhà nước, nhằm bảo đảm vị trí, vai trò tối thượng

và tính bình đẳng của pháp luật trong thể chế pháp quyền, và bảo đảm các QCN được

ghi nhận trong pháp luật” [185]. Ngoài ra, các bài viết khác như: bài viết “Toà án thực

hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý, bảo vệ QCN, quyền công dân” của tác giả Nguyễn

Đăng Dung và Đặng Phương Hải (2015); bài viết “Vai trò bảo vệ công lý của Tòa án

trong Hiến pháp 2013” của tác giả Nguyễn Thế Anh (2016); bài viết “Nguyên tắc cơ

bản trong TTHS - nền tảng cho việc bảo vệ công lý của toà án khi thực hiện quyền tư

pháp” của tác giả Nguyễn Hải Ninh (2017); bài viết “Nhiệm vụ bảo vệ công lý và trách

nhiệm chứng minh của toà án trong hoạt động tố tụng” của tác giả Phí Thành Chung

(2018); v.v.. đều khẳng định toà án có vai trò quan trọng trong bảo vệ công lý.

12

Các công trình nghiên cứu trên đã cho thấy bảo vệ công lý là nhiệm vụ của mọi xã

hội với những phương thức khác nhau, trong xã hội hiện đại, toà án vẫn là chủ thể trung

tâm, quan trọng nhất trong bảo vệ công l vì đây là chức năng chính của toà án.

1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về quyền tiếp cận công lý và bảo đảm quyền

tiếp cận công lý

Thứ nhất, quan niệm về QTCCL qua các công trình nghiên cứu.

Trong bài viết “Access to Justice: The Newest Wave in the Worldwide Movement

to Make Rights Effective” (1978), tác giả Bryant G.Garth và Mauro Cappelletti cho rằng,

QTCCL là quyền tự nhiên của con người và khái niệm QTCCL nhằm chỉ hai mục tiêu

cơ bản của HTPL mà người dân có thể xác định quyền lợi của mình hay giải quyết các

tranh chấp theo phương thức phân giải của nhà nước, đó là: (1) hệ thống này phải thực

sự bình đẳng cho mọi người; (2) hệ thống này phải đem lại kết quả công bằng [210, tr.

182-183]. Nối tiếp quan điểm đó, trong cuốn sách “Access to Justice: A Critical

Analysis of Recoverable Conditional Fees and No-Win No-Fee Funding” (2014) tác giả

John Peysner (2014) tiếp tục dẫn lại quan điểm của Mauro Cappelletti (1978) về

QTCCL [230, tr. 13-14]. Để làm rõ hơn về QTCCL, tác giả Deborah L. Rhode, trong

cuốn sách “Access to Justice” (2004), cho rằng, nó có nghĩa hông chỉ đối với người

yếu thế trong xã hội (người ngh o, người già, trẻ em, v.v..) mà ngay cả đối với những

người bình thường khi xảy ra tranh chấp c ng cần phải có luật sư hay các dịch vụ TGPL

để hướng dẫn và đứng ra bảo vệ quyền lợi cho họ. Trong hi đó, UNDP xem QTCCL

như là quyền cơ bản của con người, vì thế trong báo cáo “Access to Justice: Practice

Note” (2004) của UNDP, đã xem TCCL là một phần quan trọng trong nhiệm vụ của

UNDP để giảm ngh o và tăng cường quản trị dân chủ [260, tr. 3] và trong sách

“Programming for Justice: Access for All A Practitioner’s - Guide to a Human Rights-

Based Approach to Access to Justice” (2005), UNDP cho rằng, QTCCL là “quyền của

người dân được tìm iếm và đạt được sự đền bù hoặc hắc phục thông qua cơ chế chính

thức và hông chính thức, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về QCN” [261, tr. 5].

Quan niệm này hiện nay được rất nhiều nhà nghiên trong nước và nước ngoài thừa nhận

và sử dụng trong các nghiên cứu cụ thể, như: cuốn sách “Access to Justice as a Human

Right” của do tác giả Francesco Francioni biên tập (2007), gồm 7 bài nghiên cứu về

QTCCL, tập trung về các vấn đề ở trung tâm của việc đảm bảo QTCCL trong pháp luật

quốc tế, gồm các chủ đề công lý về môi trường, công lý trong tình huống xung đột v

trang, TCCL cho nạn nhân bị tra tấn, nghi phạm khủng bố và so sánh việc các nước

châu Âu trong việc bảo vệ QTCCL. Trong bài viết “The Rights of Access to Justice

13

under Customary International Law” của tác giả Francesco Francioni cho rằng, QTCCL

đóng vai trò quan trọng cho những người bị tổn thương và là thành tố không thể thiếu

của hệ thống bảo vệ và thúc đẩy QCN. Tác giả này cho rằng thuật ngữ QTCCL được

hiểu là khả năng của mỗi cá nhân đệ trình yêu cầu của bản thân trước toà án và được toà

án chấp thuận giải quyết, đó hông chỉ là quyền được yêu cầu thành lập một phiên toà

đúng luật mà còn được xét xử theo đúng tiêu chuẩn của công bằng và công lý. Thuật

ngữ này thường được dùng để chỉ quyền của người yếu thế được hưởng những TGPL và

tài chính để theo đuổi vụ việc [222, tr. 64-65]. Các tác giả Marjorie Mayo, Gerald

Koessl, Matthew Scott và Imogen Slater trong quyển sách “Access to justice for

disadvantaged communities” (2014), c ng cho rằng, QTCCL được công nhận là một

quyền cơ bản, song hành với các quyền đối với giáo dục, y tế và an sinh xã hội, thông

qua việc thành lập nhà nước phúc lợi, đó là nền tảng quan trọng trong chính sách của

nhà nước phúc lợi, nhằm mục đích giải quyết các nguyên nhân của ngh o đói và các yếu

kém trong xã hội [241, tr. 22-23]. Nhấn mạnh thêm các quan điểm trên, trong bài nghiên

cứu “Access to Justice for Women in Plural Legal Systems in South East Asia”, tác giả

Evalyn G. Ursua (2014) đã cho rằng, QTCCL là một thành phần thiết yếu của hệ thống

bảo vệ và thực thi QCN, đây là khả năng người dân yêu cầu toà án giải quyết vụ việc

nào đó của bản thân, nó bao gồm cả các TGPL khi bản thân không thể tự lo liệu, vì thế

nó còn là khả năng người dân đạt được yêu cầu theo những tiêu chuẩn của công bằng và

công lý [221, tr. 5].

Ở Việt Nam, với cách tiếp cận tổng thể, tác giả Phạm Hồng Hải, trong bài viết

“QTCCL ở Việt Nam” (2009) đã hẳng định, TCCL là một trong các quyền cơ bản của

công dân, đây chính là quyền của công dân, tổ chức được biết về quá trình giải quyết các

tranh chấp kinh tế, dân sự, hành chính, lao động và các vụ án hình sự của các cơ quan có

thẩm quyền [57, tr. 11]. Sau đó, tác giả V Công Giao cùng với cộng sự của mình đã

công bố một số công trình nghiên cứu về QTCCL, như các bài viết: “TCCL và các

nguyên lý của NNPQ” (2009); “QTCCL và vai trò của toà án trong việc bảo đảm quyền

này” (2018); “TCCL theo quan điểm của LHQ” (2018); “Tăng cường TCCL qua hệ

thống TGPL: kinh nghiệm từ một số mô hình TGPL quốc tế và hàm ý chính sách cho

Việt Nam” (2018); “Các cơ chế TCCL không chính thức (ngoài toà án)” (2018); v.v..

Dựa trên quan niệm của UNDP về QTCCL, tác giả V Công Giao cho rằng có hai cách

hiểu về QTCCL: “(1) quyền được xét xử công bằng; (2) hả năng tìm iếm sự đền bù

(hoặc sự hắc phục - remedy) cho những bất công hay thiệt hại mà một cá nhân hay một

nhóm cá nhân, đặc biệt là cho những nhóm xã hội dễ bị tổn thương, phải gánh chịu” [45,

14

tr. 188]. Qua đó, tác giả V Công Giao c ng chỉ rõ sự khác biệt giữa các tiếp cận truyền

thống và quan điểm mới về QTCCL, đó là: “nếu như trong quan niệm truyền thống,

QTCCL là quyền của mọi người có thể sử dụng các dịch vụ pháp lý công và tư để được

xét xử công bằng, thì quan niệm mới, QTCCL là quyền của mọi người có thể tìm iếm

và đạt được một sự đền bù hoặc hắc phục cho những bất công, thiệt hại thông qua cơ

chế tư pháp chính thức và phi chính thức phù hợp với nguyên tắc, tiêu chuẩn quốc tế về

QCN” [109, tr. 128-133]. Quan niệm này về QTCCL được chấp nhận tương đối rộng rãi

hiện nay, vì thế, tác giả Đinh Thế Hưng, trong bài viết “Thực hiện quyền tư pháp nhằm

đảm bảo QTCCL trong NNPQ” (2018), cho rằng, nếu QTCCL là quyền được biết quá

trình giải quyết các vụ việc hoặc vụ án của cơ quan nhà nước thì đây chỉ là quyền tiếp

cận thông tin trong lĩnh vực tư pháp và chưa cho thấy mục đích của QTCCL; nếu là sự

tiếp cận các quy trình tố tụng thì QTCCL đồng nhất với quyền tham gia tố tụng của

công dân, cơ quan, tổ chức. Do đó, tác giả này quan niệm rằng, QTCCL là “ hả năng

của chủ thể yêu cầu nhà nước tạo mọi điều iện thuận lợi nhất để sử dụng pháp luật

nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của mình tại cơ quan nhà nước khi có tranh chấp hoặc

xử lý vi phạm pháp luật, thể hiện ở những mặt sau: quyền tiếp cận thông tin pháp luật;

quyền TGPL, quyền tiếp cận giáo dục đào tạo pháp luật các quyền này được thực hiện

bởi một hệ thống tư pháp công bằng và hiệu quả” [78, tr. 202].

Bên cạnh đó, một số học giả khác nghiên cứu QTCCL trong phạm vi hẹp hơn,

như: (1) trong lĩnh vực dân sự: có các bài viết trong Hội thảo khoa học QTCCL trong

pháp luật dân sự do Khoa Luật Dân sự Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh tổ chức

tháng 5/2017: bài viết “Quyền khởi kiện tại toà án là QTCCL” của tác giả Nguyễn Thị

Hoài Phương; “QTCCL của đương sự trong thi hành án dân sự” của Lê Vĩnh Châu;

“Quyền tiếp cận thông tin của đương sự dưới góc độ Luật Tiếp cận thông tin” của tác

giả Nguyễn Văn Tiến; “QTCCL qua quy định về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp

dân sự khác của Toà án nhân dân trong tố tụng dân sự” của tác giả Đặng Thanh Hoa và

Huỳnh Quang Thuận; v.v.. Các bài viết khai thác khía cạnh QTCCL của các chủ thể

pháp luật dân sự thông qua các quyền như: quyền hởi iện tại toà; quyền tiếp cận thông

tin; quyền bảo vệ về đời sống riêng tư; v.v.. Ngoài ra, trong bài viết “Công lý và TCCL

trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Bích Thảo (2018) cho rằng, QTCCL trong tố

tụng dân sự có sự phát triển từ quan niệm truyền thống (TCCL tại toà án) đến quan niệm

hiện đại (không chỉ là TCCL tại toà án mà còn áp dụng các cơ chế thay thế khác), như ở

ỹ là trào lưu ba làn sóng; ở Canada là chuyển từ phương pháp tiếp cận lấy toà án làm

trung tâm sang lấy người dân làm trung tâm; ở Châu Âu là “nâng cao chất lượng TGPL

15

dân sự, nâng cao chất lượng hệ thống tư pháp dân sự, sử dụng biện pháp hoà giải, trọng

tài và thực hiện cơ chế thi hành án hiệu quả” [150, tr. 239-245]; (2) trong lĩnh vực hình

sự: bài viết“QTCCL trong TTHS” của tác giả Đinh Thế Hưng (2011); bài viết “Công

lý và TCCL trong TTHS” của tác giả Nguyễn Ngọc Chí (2018) cho rằng, công lý và

TCCL trong TTHS nhằm hướng tới: hả năng tìm ra sự thật và tính chính xác của quyết

định của toà án; thời gian TCCL phải đảm bảo, công lý bị trị hoàn là công lý bị từ chối;

chi phí tài chính cho quy trình TCCL phải đảm bảo tính hợp lý, không mang tính chất

rào cản đối với quá trình tìm iếm công lý của các tổ chức và cá nhân [18, tr. 176-179];

(3) trong lĩnh vực hành chính: bài viết “TCCL trong tố tụng hành chính” của tác

Nguyễn Thị Minh Hà (2018) cho rằng, QTCCL trong tố tụng hành chính là: sự bình

đẳng trước pháp luật, hả năng tìm ra sự thật khách quan, tính công khai, minh bạch, ịp

thời, sự công minh của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, tính chính xác

các các quyết định, bản án của Toà án [48, tr. 223-232]; “QTCCL trong hoạt động công

vụ Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Phương và V Thị Thu Hằng (2018), trong đó,

các tác giả cho rằng trong hoạt động công vụ, QTCCL là hả năng tìm iếm và đạt được

những yêu cầu về sự bình đẳng trong hoạt động công vụ của các chủ thể trong quan hệ

công vụ [113, tr. 268-269]. Các quan niệm này cho thấy, QTCCL là hả năng của chủ

thể (cá nhân hoặc pháp nhân) và những bảo đảm của nhà nước và xã hội để họ tìm iếm

và đạt được những đền bù thoả đáng khi quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị vi phạm.

Ngoài ra, một số học giả còn nghiên cứu QTCCL ở một số đối tượng cụ thể, như

người nghèo, phụ nữ, người huyết tật, v.v.., cụ thể là: bài viết “Vai trò của hoạt động

luật sự và TGPL trong việc tăng cường tiếp cận pháp luật và TCCL cho nhóm công dân

nghèo và yếu thế” của tác giả Tạ Thị Minh Lý (2018); “QTCCL cho phụ nữ qua công

ước CEDAW” của tác giả V Ngọc Bình (2018); “Bảo đảm QTCCL của người khuyết

tật ở Việt Nam hiện nay: lý luận, pháp luật và thực tiễn” của tác giả Trần Thái Dương

(2018); v.v.. Theo các tác giả này, để những người thuộc nhóm người dễ bị tổn thương

dễ dàng trong TCCL thì hoạt động TGPL phải được coi trọng [100, tr. 333-334]; hệ

thống tư pháp phải sẵn sàng, dễ tiếp cận, chất lượng tốt, trách nhiệm giải trình và nhà

nước cung cấp những biện pháp đền bù, hắc phục hậu quả cho nạn nhân nữ [12, tr.

363]; người huyết tật có quyền được cung cấp hay hỗ trợ dịch vụ tư vấn, giải đáp về

chính sách, pháp luật và có quyền được hỗ trợ hay trợ giúp, tạo điều kiện thuận lợi trong

việc tham gia tố tụng, thủ tục hành chính, thủ tục giải quyết giải quyết hiếu nại, tố cáo

và các hoạt động khác liên quan đến thực thi pháp luật về QTCCL nhằm bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình [32, tr. 380]. Các công trình nghiên cứu trên,

16

mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau, tuy nhiên nội dung cốt lõi của QTCCL là

quyền năng của con người trong việc tìm iếm, đạt được những hắc phục và đền bù

thoả đáng trước những thiệt hại về quyền và lợi ích do chủ thể khác gây ra.

Thứ hai, quan niệm về bảo đảm QTCCL qua các công trình nghiên cứu.

QTCCL với tư cách là quyền cơ bản của con người, vì thế theo tác giả Lê Thị

Hồng Nhung trong sách “Cơ chế giám sát Hiến pháp với việc bảo đảm QCN” của tác

giả Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2009), cho rằng đảm bảo quyền chính là tạo ra các điều

kiện để những quyền này được vận hành trong thực tiễn hoặc bảo vệ nó chống lại những

hành vi xâm phạm quyền [198, tr. 179-206]. Tiếp nối cách tiếp cận này, tác giả Trần Thị

Hoè trong Luận án Tiến sĩ Triết học “Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm QCN trong

điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay” (2015), cho rằng đây là hoạt động của các chủ thể

có nghĩa vụ sử dụng các biện pháp, cách thức để thực hiện hoá các nguyên tắc, tiêu

chuẩn về quyền nhằm thực thi và bảo vệ hiệu quả trong thực tế, ngăn ngừa sự lạm dụng,

vi phạm quyền từ phía các chủ thể khác [69, tr. 39]. C ng theo hướng tiếp cận đó, tập

thể tác giả của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong “Giáo trình Cao cấp lý

luận chính trị (Khối kiến thức thứ tư), tập 14, Các chuyên đề bổ trợ” (2015) c ng cho

rằng, bảo đảm quyền chính là việc “các chủ thể có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp về

lập pháp, hành pháp, tư pháp, inh tế, thể chế, v.v.. để hiện thực hoá các nguyên tắc và

tiêu chuẩn về quyền của chủ thể trong hoạt động quản l nhà nước, trong chương trình

phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia, dân tộc” [69, tr. 384].

Theo UNDP, trong sách “Programming for Justice: Access for All A Practitioner’s-

Guide to a Human Rights-Based Approach to Access to Justice” (2005), để bảo đảm

QTCCL cho mọi người cần phải có các điều kiện sau: (1) sự bảo vệ của pháp luật; (2)

Sự hiểu biết về pháp luật; (3) Sự tư vấn và TGPL; (4) Sự phân xử (bằng thiết chế tư

pháp chính thức và phi chính thức); (5) Sự tuân thủ; (6) Sự giám sát của cơ quan dân cử

và các thiết chế xã hội [261, tr. 7]. Trong bài viết “Bảo đảm QTCCL - một yêu cầu trong

việc bảo đảm QCN của tòa án” (2017) tác giả Chu Thị Ngọc cho rằng, bảo đảm

QTCCL là một yêu cầu đối với tòa án trong việc bảo đảm QCN. Mục đích quan trọng

nhất của tố tụng tư pháp là bảo đảm cho mọi đối tượng trong xã hội có QTCCL, tiếp cận

tòa án một cách không hạn chế và được xét xử công bằng, trong thời gian hợp lý [108,

tr. 25-26]. C ng đồng tình với quan điểm này, tác giả Hoàng Thị Bích Ngọc và V Công

Giao, trong bài viết “TCCL theo quan điểm của LHQ” (2018) cho rằng, các điều iện và

biện pháp bảo đảm QTCCL bao gồm: pháp luật, toà án và năng lực, nhận thức của

người dân [109, tr. 133-139]. Trong thực tế, toà án luôn đóng vai trò quan trọng trong

17

bảo đảm QTCCL, nên trong bài viết “QTCCL và vai trò của toà án trong việc bảo đảm

quyền này” (2018), tác giả V Công Giao hẳng định rằng, toà án là trụ cột của khuôn

hổ thể chế, là một trong ba yếu tố nền tảng để bảo đảm QTCCL, bởi vì, xét cho đến

cùng, “bản chất của TCCL là tiếp cận với toà án” [43, tr. 120]. Ngoài ra còn có một số

công trình nghiên cứu khác như các bài viết: “Áp dụng mô hình “Một cửa” trong cải

cách thủ tục hành chính tại tòa án để nâng cao khả năng TCCL” của tác giả Nguyễn

Quang Hưng (2013); “Tăng cường khả năng TCCL cho người dân từ việc mở thẩm

quyền giải quyết vụ việc dân sự của tòa án trong Bộ luật tố tụng dân sự” của tác giả Lê

Thu Hà (2015); v.v.. c ng cho thấy, vai trò quan trọng của toà án trong bảo đảm

QTCCL, vì thế cải cách thủ tục tố tụng, đảm bảo các nguyên tắc trong thụ lý và xét xử

vụ án của toà án là một trong những biện pháp quan trọng để bảo đảm tốt QTCCL.

Như vậy, các công trình nghiên cứu trên cho thấy bảo đảm QTCCL là nghĩa vụ

của các chủ thể trong xã hội bằng các biện pháp hác nhau để ghi nhận, bảo vệ và hiện

thực hoá quyền này trong thực tế, trong đó, toà án có vai trò đặc biệt quan trọng bảo đảm

QTCCL của người dân trong quá trình tố tụng.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn

nhân nữ bị xâm hại tình dục

1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về hành vi xâm hại tình dục và nạn nhân nữ

bị xâm hại tình dục ở Việt Nam

Trong cuốn sách “Các tội xâm phạm tình dục trong luật hình sự Việt Nam” (2019),

với cách tiếp cận dưới phương diện tội phạm học, tác giả Nguyễn Thị Ngọc Linh (2019)

đã chỉ rõ “Các tội XPTD là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền

bất khả xâm phạm và tự do tình dục của con người, do người có năng lực TNHS thực

hiện một cách cố ý, trái PLHS và phải chịu hình phạt tương ứng” [96, tr. 18]. Ngoài ra

còn có các công trình sau: “Các tội XHTD trẻ em trong luật hình sự Việt Nam” của tác

giả Nguyễn inh Hương (2014); “Các tội hiếp dâm theo quy định của bộ luật hình sự

Việt Nam” của tác giả Cao Hữu Sáng (2015); “Các tội XHTD trẻ em – quy định của

PLHS Việt Nam và nghiên cứu so sánh với một số nước” của tác giả Hồ Thị Nhung

(2015); “Các tội phạm tình dục trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn

tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk)”, của tác giả Trịnh Văn Toàn (2015); “Các tội xâm phạm tình

dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành

phố Hà Nội)” của tác giả Nguyễn Tuấn Thiện (2015); “Tội giao cấu với trẻ em trong

luật hình sự Việt Nam” của tác giả Lê Thị Bích Hạnh (2015); “Điều tra vụ án XHTD trẻ

em” của tác giả Hà Minh Tân (2016); “Hoạt động phòng ngừa tội phạm hiếp dâm theo

18

chức năng của lực lượng Cảnh sát hình sự” của tác giả Chu Thị Tú (2016); “Tình hình

các tội xâm phạm tình dục trẻ em ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Cao Thị Thu Trang

(2017); “Quấy rối tình dục tại nơi làm việc theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Nguyễn

Thị Phượng (2017); “Điều tra vụ án hiếp dâm theo chức năng của lực lượng Cảnh sát

điều tra tội phạm về trật tự xã hội” của tác giả Nguyễn Long Thành (2017); “Hoạt động

của lực lượng Cảnh hình sự trong phòng ngừa tội phạm XHTD trẻ em ở các tỉnh, thành

phố khu vực Tây Nam Bộ” của tác giả Nguyễn Ngọc Trai (2017); “Hoạt động của lực

lượng Cảnh hình sự trong phòng ngừa tội phạm XHTD trẻ em ở các tỉnh, thành phố khu

vực Tây Nam Bộ” của tác giả Nguyễn Ngọc Trai (2017); “Tội giao cấu hoặc thực hiện

hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi từ thực tiễn tỉnh

Vĩnh Phúc” của tác giả Hà Quang inh (2018); “Lấy lời khai người bị hại trong điều

tra vụ án XHTD trẻ em của lực lượng Cảnh sát hình sự Công an các tỉnh, thành phố

miền Đông Nam bộ” của tác giả Nguyễn Thị Thuý Hằng (2019); “Lấy lời khai người bị

hại trong điều tra vụ án XHTD trẻ em của lực lượng Cảnh sát hình sự Công an các tỉnh,

thành phố miền Đông Nam bộ” của tác giả Nguyễn Thị Thuý Hằng (2019); “Công tác xã

hội nhóm đối với nữ sinh viên trong phòng ngừa quấy rối tình dục” của tác giả Lê Thị

Lâm (2020); v.v.. Các công trình này tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn về các

hành vi XHTD theo quy định của PLHS Việt Nam, như: hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em,

cư ng dâm, cư ng dâm trẻ em, dâm ô, giao cấu với trẻ em. Do đó, nội hàm của hành vi

XHTD được các công trình nghiên cứu trên căn cứ theo quy định của PLHS Việt Nam;

NNN bị XHTD được xác định là người bị hại của các hành vi trên.

Ngoài ra, các công trình nghiên cứu trên đã chỉ rõ, trong những năm gần đây, số vụ

án và số bị cáo phạm tội xâm phạm tình dục diễn biến khá phức tạp và có xu hướng gia

tăng; hầu hết số vụ năm sau đều tăng so với năm trước. Tuy nhiên, “tỷ lệ tổng số vụ và

bị cáo xâm phạm tình dục đã bị TAND đưa ra x t xử trong giai đoạn này chiểm tỷ lệ

hông cao; trong đó, các tội XHTD bị xét xử nhiều là: tội hiếp dâm trẻ em; tội giao cấu

với trẻ em; tội hiếp dâm; tội dâm ô đối với trẻ em” [96, tr. 109-113]. Từ giác độ chuyên

ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, các tác giả đã chỉ rõ các hành vi XHTD:

(1) có biến động tăng, giảm thất thường qua từng năm nhưng có xu hướng gia tăng cả

giai đoạn; (2) tỷ lệ tội hiếp dâm trẻ em và giao cấu với trẻ em luôn chiếm tỷ lệ cao nhất;

( ) người bị hại là trẻ em gái; (4) đa số đối tượng phạm tội là người quen biết với nạn

nhân. Bên cạnh đó, tác giả còn cho rằng, tỷ lệ tội phạm ẩn chiếm tương đối cao, vì nạn

nhân và gia đình nạn nhân thường có tâm lý e ngại dư luận và muốn che giấu vụ việc.

19

1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu về thực tiễn bảo đảm quyền tiếp cận công lý

của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam

Năm 201 , Hội Luật gia Việt Nam, C COD S và UNDP đã công bố báo

cáo “Chỉ số công lý - Thực trạng về Công bằng và Bình đẳng dựa trên ý kiến của người

dân năm 2012”, trong đó Chỉ số công l năm 2012 được thực hiện trên 21 tỉnh, thành

phố, dựa trên 5 trục nội dung về thực thi pháp luật và bảo đảm công lý, bao gồm: Khả

năng tiếp cận, Công bằng, Liêm chính, Tin cậy và hiệu quả, Bảo đảm các quyền cơ bản,

từ đó báo cáo đã chỉ rõ, bên cạnh những kết quả đạt được trong bảo đảm QTCCL của

người dân thì vẫn còn những hạn chế, đó là: (1) Bất bình đăng về tiếp cân thông tin và

các dịch vu pháp l đang là rào cản trong việc bảo đảm các quyền cơ bản của ngươi dân

trên thực tế; (2) Hạn chế việc hiện thực hoá một số quyền cơ bản có ảnh hưởng tiêu cực

tới niềm tin của ngươi dân vào các thiết chế công quyền; (3) Hiệu quả thấp trong đáp

ứng các yêu cầu pháp l cơ bản, hỗ trợ giải quyết tranh chấp dân sự và xử lý khiếu nại

hành chính của các cơ quan nhà nước là một trong các nguyên nhân giải thích cho ưu

tiên tự giải quyết hoặc sử dung các cơ chế không chính thức của ngươi dân; v.v..[72, tr.

15-1 ]. Đến năm 201 , các tổ chức này tiếp tục công bố báo cáo “Chỉ số công lý 2015 –

Hướng tới một nền tư pháp vì dân”, trong đó Chỉ số công l năm 2015 được thực hiện

trên 21 tỉnh, thành phố, dựa trên 4 trục nội dung, bao gồm: TCCL; Công bằng, bình

đẳng; Thi hành pháp luật; Quyền cơ bản. Trong đó, trục TCCL bao gồm: tiếp cận thông

tin pháp luật; tiếp cận dịch vụ pháp lý; khả năng chi trả cho dịch vụ pháp lý. Báo cáo

này tiếp tục chỉ rõ những hạn chế trong bảo đảm QTCCL, đó là:

(1) Các cơ quan nhà nước ở địa phương giữ vai trò quan trọng trong việc tiếp

nhận và giải quyết các yêu cầu và vướng mắc pháp lý của người dân. Thủ tục giải

quyết tranh chấp không ro ràng, thời gian thụ lý kéo dài và hiệu quả giải quyết còn

thấp là các lý do chủ yếu làm người dân có tâm lý tự giải quyết hoặc chọn các

phương pháp hông chính thức để giải quyết tranh chấp, thay vì tiếp xúc với các

thiết chế tư pháp cơ sở; (2) Hiệu quả trợ giúp của cơ quan nhà nước địa phương về

giải quyết vướng mắc pháp lý và khiếu nại của người dân còn thấp. Trợ giúp của

luật sư và TGPL được đánh giá cao hơn về hiệu quả so với trợ giúp của các cơ

quan tư pháp địa phương; ( ) Việc tiếp cận tòa án còn nhiều hạn chế mà lý do

chính là các quan ngại về chi phí, về thủ tục, và niềm tin vào sự công tâm của thẩm

phán và cán bộ tòa án; (4) Thực tế còn tồn tại bất bình đẳng giữa các nhóm xã hội.

Người ngh o, người có học vấn thấp và người không có vị trí xã hội chịu nhiều rào

20

cản xuất phát từ nguồn lực cá nhân và nguồn lực xã hội, vì vậy gặp nhiều hạn chế

về tiếp cận thông tin, tiếp cận các thiết chế tư pháp cơ sở; v.v.. [73, tr. 12-13].

Trong báo cáo nghiên cứu “TCCL trong hệ thống pháp lý đa kênh: Nghiên cứu

điển hình về bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam”(2015) nhóm tác giả Lê Thị

Thục và các cộng sự đã chỉ rõ, những NNN bị bạo lực về bạo lực tình dục gặp nhiều rào

cản trong TCCL vì những bất cập trong khuôn hổ pháp lý, thủ tục pháp lý, rào cản về

xã hội (Tập quán và quan niệm xã hội truyền thống) và rào cản về kinh tế [154, tr. 66-

69]. Tác giả Phan Thị Lan Hương, trong bài viết “Khắc phục rào cản nhằm bảo đảm

TCCL cho phụ nữ bị bạo lực tình dục ở Việt Nam” (201 ), c ng cho rằng bạo lực tình

dục mặc dù đã được pháp luật quy định nhưng việc TCCL của nạn nhân bị bạo lực tình

dục ở Việt Nam vẫn còn gặp phải những rào cản trong thực tế, như: pháp luật chưa quy

định đầy đủ và toàn diện về các hành vi bạo lực tình dục (như quấy rối tình dục); nạn

nhân bị bạo lực tình dục còn e ngại, không dám khai báo về vụ việc; thiếu cơ chế trợ

giúp hiệu quả để bảo vệ quyền của nạn nhân bị bạo lực tình dục [81, tr. 23]. Những hạn

chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, theo các tác giả có nguyên nhân từ định kiến

giới đối với việc giải thích và áp dụng các quy định PLHS của nhà làm luật, người thực

thi pháp luật và cán bộ tư pháp. Trong báo cáo “Xét xử tội hiếp dâm: hiểu cách ứng phó

của hệ thống tư pháp hình sự đối với bạo lực tình dục ở Thái Lan và Việt Nam” (2017),

tác giả Eileen Skinnider và các cộng sự cho rằng thủ tục tòa án thường lâu và kéo dài,

tập trung vào bằng chứng về thể xác hoặc bằng chứng pháp y hay độ in cậy đối với nạn

nhân hơn là độ tin cậy của sự việc hoặc việc không có sự đồng thuận của nạn nhân [41,

tr. xi]. Ngoài ra, thực tiễn HTPL ở Việt Nam còn có những hạn chế như: cần có đơn tố

cáo chính thức mới có thể tiến hành các thủ tục đưa ra tòa; định nghĩa về hiếp dâm và

cư ng dâm còn hẹp, không có tội danh tấn công tình dục phụ nữ; hỗ trợ dành cho nạn

nhân của bạo lực tình dục do người không phải là chồng/bạn tình gây ra còn hạn chế

(dịch vụ dành cho nạn nhân còn hạn chế, chủ yếu là phục vụ nạn nhân của bạo lực gia

đình); chú trọng vào bằng chứng chứng thực [41, tr. 33]; v.v.. đây là những yếu tố góp

phần gây ra tình trạng bỏ cuộc và tạo thành rào cản đối với NNN bị XHTD trong TCCL.

Ngoài ra, một số công trình hác như: “Bảo đảm quyền TCCL của nạn nhân bị bạo lực

giới” của tác giả Hoàng Thư (2017); “QTCCL ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn

Thế Anh (2015), “Hoàn thiện pháp luật về QTCCL ở Việt Nam hiện nay” của tác giả

Nguyễn Thuỳ Linh (2015), “TCCL trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam” của tác giả

Hoàng ai Dung (2018); v.v.. c ng chỉ rõ, bên cạnh những kết quả đạt được, QTCCL ở

21

Việt Nam, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em, người nghèo, v.v..)

vẫn chưa được đảm bảo.

Các công trình nghiên cứu trên cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được,

PNTEG bị XHTD ở Việt Nam hiện nay vẫn gặp phải những rào cản, những hó hăn

trên con đường tìm kiếm và đạt được công lý của mình.

1.1.3. Các công trình nghiên cứu về cơ chế pháp lý

1.1.3.1. Các công trình nghiên cứu về khái niệm cơ chế pháp lý

Trên phương diện khoa học pháp lý, trong quyển sách “Giám sát và cơ chế giám

sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay” do các tác giả Đào Trí Úc và

Võ Khánh Vinh (200 ) đồng chủ biên, tác giả Võ Khánh Vinh cho rằng cơ chế là “tổng

thể các bảo đảm về vật chất, chính trị, tư tưởng, pháp lý, tổ chức, nghiệp vụ cho việc

thực hiện một quyền nào đó hoặc một việc nào đó” [190, tr. 25], theo đó, CCPL là hệ

thống các phương tiện (biện pháp) và nhân tố bảo đảm các điều kiện cần thiết để chủ thể

thực hiện chức năng hoạt động của mình [190, tr. 25]. Với cách tiếp cận này, tác giả

Nguyễn Quốc Hoàn trong Luận án tiến sĩ luật học “Cơ chế điều chỉnh pháp luật” (2001)

cho rằng cơ chế được “cấu trúc bởi một chỉnh thể bao gồm nhiều bộ phận khác nhau

hợp thành, có mối liên hệ mật thiết với nhau và phương thức vận hành hay hoạt động

của chính thể đó, tức là sự tương tác giữa các bộ phận tổng cấu trúc của chỉnh thể, theo

những nguyên tắc và quá trình xác định nhằm đạt được một kết quả nhất định [67, tr.

24]. C ng theo hướng đó, trong quyển sách “Cơ chế bảo vệ hiến pháp trong NNPQ

XHCN Việt Nam” (2012), tác giả Tào Thị Quyên cho rằng cơ chế là “tổng thể các yếu tố

có quan hệ mật thiết, tương tác lẫn nhau, hình thành một hệ thống và sự vận hành của hệ

thống đó” [141, tr. 47]; trong quyển sách “Các CCPL kiểm soát quyền lực nhà nước trên

thế giới và ở Việt Nam” của các tác giả Đặng Minh Tuấn và các cộng sự đồng chủ biên

(2019), tác giả V Công Giao c ng cho rằng cơ chế là “cơ cấu tổ chức bộ máy và quy

trình, thủ tục pháp l ” [42, tr. 117] được thiết lập ra để giải quyết một công việc trong

thực tiễn. Với cách tiếp cận trực diện nội hàm khái niệm cơ chế, một số tác giả khác cho

rằng cơ chế là cách thức tiến hành một hoạt động hoặc sự vận hành của một hệ thống,

như: tác giả Trịnh Thị Xuyến và các cộng sự, trong cuốn sách “Cơ chế tham gia của

người dân trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” (2014), cho rằng cơ

chế là “một cách thức để tiến hành một hoạt động nhằm đạt các mục đích nhất định.

Cách thức đó bao gồm các quy định, thủ tục theo một trật tự nhất định với những luật lệ,

quy định cụ thể” [204, tr. 47-48] hoặc tác giả Phan Nhật Thanh, trong bài viết “Hoàn

thiện CCPL bảo đảm QCN ở Việt Nam” (2014) c ng chỉ rõ cơ chế là “cách thức hoạt

22

động của một hệ thống mà theo đó quá trình được thực hiện” [146, tr. 2]. Như thế, khái

niệm cơ chế chủ yếu được tiếp cận theo cấu trúc hình thành của nó.

Từ các quan niệm về cơ chế, tác giả Trương Thị Hồng Hà (2009), trong quyển

sách “Hoàn thiện CCPL bảo đảm chức năng giám sát của QH” cho rằng, CCPL là

“tổng thể các hình thức, công cụ, phương tiện pháp lý có mối liên hệ chặt chẽ với nhau,

vận hành trong một chỉnh thể đồng bộ, thống nhất để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của

chủ thể theo pháp luật quy định” [51, tr. 117]. Cùng hướng tiếp cận này, tác giả Nguyễn

Mạnh Bình trong quyển sách “Hoàn thiện CCPL giám sát xã hội đối với việc thực thi

quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay” (2012), chi rõ CCPL là “Tổng thể các bộ

phận thể chế, thiết chế, hình thức; phương pháp, trình tự; thủ tục, hậu quả pháp lý gắn

kết, hợp thành trong một hệ thống, do pháp luật quy định, nếu thiếu một trong các bộ

phận, thì hệ thống đó hông thể vận hành được” [11, tr. 31]. Bên cạnh đó, một số tác giả

khác chú trọng CCPL ở HTPL, như: tác giả Nguyễn Tuấn Khanh trong quyển sách

“CCPL bảo đảm thực hiện quyền khiếu nại hành chính của công dân” (2014), cho rằng

“CCPL là hệ thống các công cụ pháp l ” [83, tr. 31] hoặc tác giả Nguyễn Thị Tố Uyên

trong Luận án Tiến sĩ Luật học “CCPL về sự tham gia của các tổ chức xã hội trong bảo

vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay” (2017) cho rằng CCPL là “hệ thống các yếu tố

pháp lý, quy phạm pháp luật và các phương tiện pháp lý khác hợp thành, có quan hệ tác

động qua lại mật thiết với nhau theo một trật tự xác định nhằm điều chỉnh, tác động đến

một đối tượng hay quan hệ xã hội để đạt được hiệu quả pháp lý nhất định” [194, tr. 40].

Kế thừa quan niệm này tác giả Nguyễn Tiến Thành trong Luận án Tiến sĩ Luật học

“Hoàn thiện CCPL thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay” (201 ) còn chỉ rõ,

“các yếu tố này gắn kết với nhau, hợp thành hệ thống, do pháp luật quy định, nếu thiếu

một trong các bộ phận đó thì hệ thống không thể vận hành một cách bình thường” [148,

tr. 42]; tác giả Phan Thanh Hà trong Luận án Tiến sĩ luật học “CCPL về bảo hộ công

dân ở Việt Nam” (201 ), c ng chỉ rõ, CCPL là “một hệ thống tổng thể bao gồm các thể

chế, thiết chế, nguyên tắc vận hành gắn kết với nhau, hợp thành hệ thống, do pháp luật

quy định, tạo thành bảo đảm pháp l đối với quá trình thực hiện” [55, tr. 40]; tác giả

Nguyễn inh Đoan trong quyển sách chuyên khảo “CCPL kiểm soát quyền lực nhà

nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay” (201 ) chỉ ra rằng CCPL là một

chỉnh thể gồm các thể chế pháp lý và các thiết chế của nhà nước có liên quan, gắn kết

chặt chẽ với nhau [37, tr. 42-43], tuy nhiên thực tế cho thấy, ngoài thiết chế nhà nước,

các thiết chế trong chỉnh thể CCPL còn nhiều thiết chế khác trong xã hội như: của Đảng

cầm quyền, của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, v.v.. vì thế, trong quyển sách

chuyên khảo “CCPL kiểm soát quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng NNPQ

23

XHCN Việt Nam” (2018), tác giả Nguyễn inh Đoan đã bổ sung thêm: “các thiết chế

của nhà nước và xã hội” [38, tr. 55] vào trong khái niệm CCPL ở quyển sách trước đó.

C ng theo cách tiếp cận này, tác giả Trịnh Đức Thảo trong Báo cáo khoa học Đề tài

khoa học cấp Bộ “Giải pháp đột phá xác định cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát

giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư

pháp ở nước ta hiện nay” (2017) làm rõ hơn, CCPL là “một chỉnh thể gồm các thể chế

pháp lý, các thiết chế liên quan, có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất; được vận hành theo

nội dung và các phương thức do pháp luật quy định” [149, tr. 30]; cùng với cách tiếp cận

đó, trong các bài viết “CCPL về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính ở

Việt Nam hiện nay – thực trạng và giải pháp” (201 ) và “CCPL kiểm soát việc thực hiện

quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa phương: Thực trạng và giải pháp” (2019),

tác giả Hoàng Minh Hội cho rằng, CCPL là “quá trình vận động của các phương diện

pháp l , chúng tác động lên các quan hệ xã hội nhằm đạt được hiệu quả của điều chỉnh

pháp luật” [74, tr. 11]; tác giả Nguyễn Thị Hoài An, trong Luận án “CCPL kiểm soát

quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam” (2019), c ng

cho rằng CCPL là “các quy định của Hiến pháp, pháp luật và các thiết chế liên quan

(…), gắn bó chặt chẽ với nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất và vận hành trong

một điều kiện phù hợp” [1, tr. 47]; v.v.. Như thế, các quan niệm này chú trọng đến các

yếu tố cấu thành của CCPL mà chưa đề cập đến các nguồn lực bảo đảm cho các yếu tố

này vận hành.

Vì vậy, c ng với hướng tiếp cận đó nhưng toàn diện hơn, một số tác giả khác cho

rằng CCPL phải là một chỉnh thể gồm nhiều yếu tố, như thể chế, thiết chế và các bảo

đảm để các yếu tố vận hành, như: tác giả Nguyễn Quang Anh trong Luận án Tiến sĩ luật

học “Hoàn thiện CCPL nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam” (2015) cho

rằng CCPL là “tổng thể của nhiều yếu tố có quan hệ tác động qua lại mật thiết với nhau,

bao gồm các yếu tố thể chế, thiết chế và các bảo đảm để thực hiện một chức năng hoặc

một nhiệm vụ nào đó trong quản lý xã hội” [5, tr. 30]; tác giả Dương Hoán, trong Luận

án “CCPL bảo đảm pháp chế trong hoạt động hành chính nhà nước” (2019), đồng tình

với quan niệm về CCPL của tác giả Trần Ngọc Đường được đưa ra trong Báo cáo hoa

học Đề tài khoa học cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện cơ chế

kiểm soát quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư

pháp ở nước ta” (2015), CCPL là “tổng thể của nhiều yếu tố có quan hệ tác động mật

thiết với nhau, gồm thể chế, thiết chế, các bảo đảm để thực hiện một chức năng nào đó

trong quản trị nhà nước và xã hội do Hiến pháp và pháp luật quy định” [40, tr. 6];

24

Như thế các công trình trên tiếp cận khái niệm CCPL theo các cách khác nhau và

trong từng lĩnh vực cụ thể, CCPL được các tác giả chú trọng vào các nội dung khác

nhau và đã gợi mở được các thuộc tính cơ bản của CCPL.

1.1.3.2. Các công trình nghiên cứu về các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý

Trong các công trình nghiên cứu trên cho thấy, cơ chế thường được cấu thành bởi

nhiều yếu tố khác nhau, việc đưa ra bao nhiêu yếu tố trong cấu trúc CCPL tuỳ theo cách

tiếp cận của nhà nghiên cứu. Trong quyển sách “Giám sát và cơ chế giám sát việc thực

hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay”, tác giả Võ Khánh Vinh cho rằng cơ cấu

của cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước bao gồm: các quy phạm xã hội;

hoạt động hợp pháp của các chủ thể; tính công hai; dư luận xã hội; các bảo đảm chung

và chuyên ngành pháp lý, tổ chức, văn hoá, pháp luật, thủ tục, trách nhiệm. C ng theo

cách tiếp cận đó, tác giả Tào Thị Quyên trong quyền sách “Cơ chế bảo vệ hiến pháp

trong NNPQ XHCN Việt Nam” (2012) cho rằng, cơ chế bao gồm ba yếu tố, đó là thể

chế, thiết chế và phương thức vận hành [141, tr. 47]; còn tác giả V Công Giao trong

quyển sách “Các CCPL kiểm soát quyền lực nhà nước trên thế giới và ở Việt Nam”

c ng cho rằng cơ chế được cấu thành bởi hai yếu tố quan trọng đó là: “(i) Các yếu tố/chủ

thể cấu thành/tham gia hệ thống/quy trình, và (ii) Các quy tắc vận hành của hệ

thống/quy trình đó” [42, tr. 116]. Trong hi đó, tác giả Trương Thị Hồng Hà trong

quyển sách “Hoàn thiện CCPL bảo đảm chức năng giám sát của QH” (2009) cho rằng,

CCPL bao gồm: những quy định pháp luật; hình thức pháp l ; phương pháp và thủ tục

pháp lý; hậu quả pháp lý [51, tr. 117], đây chủ yếu là thể chế pháp lý. Bổ sung thêm

cách tiếp cận này, tác giả Nguyễn Mạnh Bình trong quyển sách “Hoàn thiện CCPL giám

sát xã hội đối với việc thực thi quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay” (2012) cho

rằng, CCPL bao gồm: hệ thống thiết chế; các thể chế pháp lý; hình thức và phương pháp

pháp lý; trình tự và thủ tục pháp lý; hậu quả pháp lý [11, tr. 35]. Tiếp tục bổ sung và phát

triển cách tiếp cận này, trong các quyển sách chuyên khảo “CCPL kiểm soát quyền lực

nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay” (201 ) và “CCPL kiểm soát

quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam” (2018) tác giả

Nguyễn inh Đoan cho rằng, CCPL bao gồm thể chế pháp lý, thiết chế của nhà nước và

sự tương tác giữa các yếu tố trong cơ chế (sự vận hành của cơ chế) [37, tr. 50-51], trong

đó tác giả chia nhỏ thiết chế thành chủ thể, đối tượng; nội dung, mục đích; phương thức;

quy trình, sự vận hành của các yếu tố trong cơ chế pháp lý; xử lý kết quả [38, tr. 62-74].

C ng theo cách tiếp cận này, tác giả Trịnh Đức Thảo trong Báo cáo khoa học Đề tài

khoa học cấp Bộ “Giải pháp đột phá xác định cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát

giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư

25

pháp ở nước ta hiện nay” (2017) làm rõ hơn, CCPL gồm “các thể chế pháp lý, các thiết

chế liên quan, có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất; được vận hành theo nội dung và các

phương thức do pháp luật quy định” [149, tr. 30]. Ngoài ra, tác giả Phan Thanh Hà trong

Luận án Tiến sĩ luật học “CCPL về bảo hộ công dân ở Việt Nam” (201 ), c ng cho rằng

CCPL bao gồm “các thể chế, thiết chế, nguyên tắc vận hành gắn kết với nhau, hợp thành

hệ thống, do pháp luật quy định” [54, tr. 40]; tác giả Nguyễn Thị Tố Uyên trong Luận án

Tiến sĩ Luật học “CCPL về sự tham gia của các tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường

ở Việt Nam hiện nay” (2017) cho rằng CCPL bao gồm: “hệ thống các yếu tố pháp lý,

quy phạm pháp luật và các phương tiện pháp lý khác hợp thành, có quan hệ tác động

qua lại mật thiết với nhau theo một trật tự xác định” [194, tr. 40]; trong Luận án Tiến sĩ

luật học “CCPL kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở

Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hoài An (2019) c ng cho rằng, CCPL bao gồm: “các

quy định Hiến pháp, pháp luật; các thiết chế liên quan và mối quan hệ giữa các yếu tố

trong cơ chế” [1, tr. 47]. Để có sự phân định tương đối giữa cơ chế nói chung và CCPL

nói riêng, trong Luận án Tiến sĩ Luật học “CCPL giám sát thực hiện các quy định của

Hiến pháp về bảo đảm QCN ở Việt Nam” (2018), tác giả Chu Thị Thuý Hằng cho rằng

cơ chế bao gồm hai yếu tố, đó là: “(1) yếu tố tổ chức (cơ cấu), bao gồm các thành viên

(chủ thể) tham gia, các hình thức hình thành (cơ cấu) và tổ chức hệ thống nội tại; (2) yếu

tố hoạt động (vận hành), bao gồm mối quan hệ tác động qua lại giữa các thành viên (sự

phân công, hợp tác giữa các thành viên) trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ

của tổ chức và nguyên tắc vận hành của cơ chế, nội dung hoạt động của nó” [60, tr. 39].

Với quan niệm như vậy, tác giả Chu Thị Thuý Hằng cho rằng, CCPL được cấu thành

bởi bốn yếu tố cơ bản: “các quy định pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của chủ thể;

hình thức và phương pháp chủ thể tiến hành hoạt động của mình; trình tự, thủ tục pháp

lý và hậu quả pháp lý của chủ thể. Bốn yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau

trong quá trình vận hành cơ chế” [60, tr. 42].

Tuy nhiên trong thực tế, ngoài thể chế, thiết chế, cơ chế còn có các nguồn lực bảo

đảm để nó vận hành trong thực tế. Vì thế, tác giả Trần Ngọc Đường trong Báo cáo khoa

học Đề tài khoa học cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện cơ chế

kiểm soát quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư

pháp ở nước ta” (2015) cho rằng, CCPL gồm “thể chế, thiết chế, các bảo đảm để thực

hiện” [40, tr. 6]; c ng theo hướng này, tác giả Nguyễn Quang Anh trong Luận án Tiến sĩ

luật học “Hoàn thiện CCPL nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam” (2015)

cho rằng, CCPL bao gồm “các yếu tố thể chế, thiết chế và các bảo đảm” [5, tr. 30]; tác

giả Dương Hoán, trong Luận án “CCPL bảo đảm pháp chế trong hoạt động hành chính

26

nhà nước” (2019), c ng cho rằng CCPL gồm “thể chế, thiết chế, các bảo đảm” [68, tr.

47-48]; tác giả Hoàng Minh Hội trong bài viết “CCPL kiểm soát việc thực hiện quyền

lực nhà nước đối với chính quyền địa phương: Thực trạng và giải pháp” (2019) c ng

khẳng định CCPL bao gồm thể chế pháp lý, các thiết chế và các điều kiện bảo đảm thực

hiện, các yếu tố này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau [75, tr. 21]; v.v..

Như thế, các công trình nghiên cứu trên có cách xây dựng và đưa ra các yếu tố cấu

thành CCPL tuỳ theo nội dung của CCPL thực hiện, tuy nhiên, dù đưa ra bao nhiêu yếu

tố nhưng, CCPL được các công trình nghiên cứu trên “cố định” ở ba yếu tố cơ bản, đó

là: thể chế pháp lý, thiết chế và các nguồn lực để vận hành CCPL.

1.2. ĐÁNH GIÁ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

TRONG LUẬN ÁN

1.2.1. Đánh giá các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

1.2.1.1. Đánh giá về phương pháp, cách tiếp cận của các công trình nghiên cứu

Các nghiên cứu về công lý, QTCCL, bảo đảm QTCCL, CCPL trong thời gian gần

đây được nhiều học giả tiếp cận trên phương diện khoa học pháp lý; cùng với đó, thực

tiễn bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được nhiều học giả nghiên cứu, trong đó đã

có một số công trình nghiên cứu bằng phương pháp định lượng, tuy nhiên, nhiều công

trình nghiên cứu trong nước chủ yếu sử dụng phương pháp định tính. Điều đó cho thấy,

nghiên cứu vấn đề CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam bằng

phương pháp định tính kết hợp với định lượng vẫn còn bỏ ngỏ cần phải được nghiên

cứu. Hơn nữa, các công trình trên nghiên cứu về vấn đề bảo đảm quyền cho NNN bị

XHTD dưới phương diện luật chuyên ngành, trong hi đó, việc nghiên cứu vấn đề này

trên phương diện lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật hiện nay vẫn còn bỏ ngỏ, vì

thế đây là hoảng trống cần được tiếp tục nghiên cứu.

1.2.1.2. Đánh giá kết quả của các công trình nghiên cứu

Thứ nhất, về lý luận: các công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước ở trên đã

đạt được các kết quả sau: (1) hái quát các quan điểm về công lý từ thời cổ đại đến nay,

qua đó cho thấy khái niệm công lý thể hiện những n t riêng trong đời sống xã hội, tuy

nhiên, nội hàm của công lý vẫn xoay quanh các tiêu chí cơ bản đó là lẽ phải, công bằng,

hách quan và điều thiện; (2) hái quát tương đối toàn diện về nội hàm của QTCCL, nền

tảng QTCCL và nội dung của bảo đảm QTCCL; (3) khái quát về hành vi XHTD và

NNN bị XHTD; (4) khái quát về CCPL và các yếu tố cấu thành CCPL. Những kết quả

này được NCS sử dụng trong việc xây dựng cơ sở lý luận về CCPL bảo đảm QTCCL

của NNN bị XHTD.

27

Thứ hai, về thực tiễn: các công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước đã hái

quát thực trạng bảo đảm QTCCL ở Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt các học giả

trong nước đã hẳng định, QTCCL ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định,

đặc biệt là thành tựu về hoàn thiện HTPL và hệ thống tư pháp theo Hiến pháp năm

2013. Tuy vậy, các công trình c ng chỉ rõ, QTCCL ở Việt Nam vẫn còn những hạn chế,

gây ra những hó hăn cho cho người dân, đặc biệt những người dễ bị tổn thương (phụ

nữ, trẻ em, v.v..) trong việc TCCL. Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu trên đã hái

quát tình hình XHTD ở Việt Nam trong thời gian vừa qua, từ đó chỉ ra những hó hăn

đối với NNN bị XHTD trên con đường tìm kiếm và đạt được công lý.

Như vậy, cả phương diện lý luận và thực tiễn cho thấy vấn đề “CCPL bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam” chưa được công trình nào đã công bố tính đến

thời điểm hiện nay nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ, vì vậy đây là vấn đề

nghiên cứu không trùng lặp với bất cứ công trình nào đã được công bố.

1.2.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án

1.2.2.1. Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu về mặt lý luận

Luận án cần phải tiếp tục nghiên cứu và làm rõ, các nội dung sau: (1) khái niệm,

đặc điểm QTCCL của NNN bị XHTD; (2) khái niệm, nội dung, vai trò bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD; (3) khái niệm, các yếu tố cấu thành, các yếu tố ảnh hưởng

đến CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.

1.2.2.2. Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu về mặt thực tiễn

Luận án cần phải tiếp tục nghiên cứu và làm rõ, các nội dung sau: (1) thực tiễn

CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam hiện nay; (2) kết quả vận hành

CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam hiện nay, để qua đó chỉ rõ

những ưu điểm và nhược điểm của cơ chế này; (3) các giải pháp nhằm hoàn thiện CCPL

bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam trong thời gian tới.

1.3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, GIẢ THUYẾT KHOA HỌC VÀ KHUNG

PHÂN TÍCH LÝ THUYẾT

1.3.1. Câu hỏi nghiên cứu

Toàn bộ luận án tập trung trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu chính như sau:

Câu hỏi 1: CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là gì? cơ chế này được cấu

thành bởi những yếu tố nào? Đâu là những yếu tố ảnh hưởng đến sự vận hành cơ chế

này trong thực tế? CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được đo lường bằng tiêu

chí nào?

Câu hỏi 2: CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam có những ưu

điểm, nhược điểm gì? đâu là nguyên nhân của những ưu, nhược điểm đó?

28

Câu hỏi 3: Việt Nam cần làm gì để hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN

bị XHTD ở Việt Nam trong thời gian tới?

1.3.2. Giả thuyết khoa học

Cơ chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam hiện nay đã

được hình thành và đang được vận hành, trong đó: thể chế pháp lý ở Việt Nam đang

được hoàn thiện; tổ chức và hoạt động của các thiết chế tư pháp và các thiết chế giám

sát, hỗ trợ và TGPL tiếp tục được xây dựng, hoàn thiện và phát triển; các nguồn lực tiếp

tục được bổ sung để bảo đảm cho CCPL bảo đảm QTCCL của NNN được vận hành.

Tuy nhiên, cơ chế này vẫn còn bộc lộ những nhược điểm cần phải tiếp tục hoàn thiện, đó

là: hiệu lực, hiệu quả chưa cao; năng lực TCCL của NNN bị XHTD chưa có sự cải thiện

rõ rệt; NNN bị XHTD vẫn còn gặp phải những rào cản về văn hoá, xã hội trong quá trình

tìm kiếm và đạt được sự đền bù thoả đáng. Vì thế, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện CCPL

bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.

1.3.3. Khung phân tích lý thuyết

CCPL đảm bảo QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam bao gồm: (1) Thể chế

pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; (2) Thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN

bị XHTD; (3) Các nguồn lực để vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.

ĐIỀU KIỆN KT-XH VIỆT NAM

CCPL BẢO ĐẢM QTCCL CỦA NNN BỊ XHTD Ở VIỆT NAM

Thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD

Thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD

Nguồn lực để vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD

Tôn trọng QTCCL của NNN bị XHTD

Hiện thực hoá QTCCL của NNN bị XHTD

Bảo vệ QTCCL của NNN bị XHTD

HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ CỦA CCPL BẢO ĐẢM QTCCL CỦA NNN BỊ XHTD Ở VIỆT NAM

BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Sơ đồ 1. 1: Khung phân tích lý thuyết CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD ở Việt Nam

29

Toàn bộ cơ chế này được đặt trong bối cảnh KT-XH Việt Nam và hội nhập quốc tế

nhằm bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam: tôn trọng QTCCL của NNN bị

XHTD; bảo vệ QTCCL của NNN bị XHTD; hiện thực hoá QTCCL của NNN bị

XHTD. Tất cả các thành tố này đều nhằm hướng đến đem lại hiệu lực, hiệu quả trong

vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam.

Kết luận chương 1

Các công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước tiếp cận ở nhiều phương diện

hác nhau, trong đó chủ yếu tiếp cận trên phương diện khoa học pháp lý, đã thống nhất

được các nội dung quan trọng sau: (1) công lý là một giá trị nhân văn, được biểu hiện

thành các chân giá trị như: công bằng, bình đẳng, lẽ phải, chống cái ác, bảo vệ điều

thiện, v.v.. vì cuộc sống tốt đẹp của con người; (2) QTCCL là quyền năng của con người

trong việc tìm iếm, đạt được những đền bù thoả đáng trước những thiệt hại về quyền và

lợi ích do chủ thể khác gây ra; (3) CCPL được gợi mở bởi các thành tố cơ bản đó là thể

chế pháp lý, thiết chế và các nguồn lực để vận hành CCPL. Các công trình nghiên cứu

c ng chỉ rõ, bên cạnh những kết quả đạt được, PNTEG bị XHTD ở Việt Nam hiện nay

vẫn gặp phải những rào cản, những khó hăn trên con đường tìm kiếm và đạt được công

lý. Kết quả nghiên cứu của các công trình này được NCS tiếp tục bổ sung và phát triển

trong luận án. Vấn đề “CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam” chưa

được các học giả nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ, vì thế đây là vấn để nghiên

cứu hoàn toàn không trùng lặp với bất cứ một trong trình nghiên cứu nào đã được công

bố. Để giải quyết vấn đề nghiên cứu này, NCS đặt ra các câu hỏi nghiên cứu: (1) CCPL

bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là gì? cơ chế này được cấu thành bởi những yếu

tố nào? CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được đo lường bởi tiêu chí nào?

Đâu là những yếu tố ảnh hưởng đến vận hành cơ chế này trong thực tế? (2) CCPL bảo

đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam có những ưu điểm, hạn chế gì? (3) Việt

Nam cần làm gì để hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam

trong thời gian tới? Các câu hỏi nghiên cứu này được NCS giải quyết trong các chương

tiếp theo của luận án.

30

CHƯƠNG 2

LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ

CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC

2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN

TIẾP CẬN CÔNG LÝ CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC

2.1.1. Một số khái niệm liên quan

2.1.1.1. Công lý

Từ buổi bình minh của văn minh nhân loại, công l (Justice) đã xuất hiện như một

khát vọng cháy bỏng của con người về tự do, công bằng, bình đẳng, chính nghĩa, lẽ phải,

lòng nhân ái. Đây là một trong những giá trị cơ bản, xuyên suốt, định hướng cho toàn bộ

quá trình hoàn thiện nhà nước, HTPL và cải cách tư pháp. Trong Từ điển Tiếng Việt, từ

“công lý” (公 理) được chiết tự gồm có: công (公) có nghĩa là thuộc về nhà nước, chung

cho mọi người, lý (理) có nghĩa là điều được coi là lẽ phải, theo đó “công lý” được hiểu

là “lẽ phù hợp với đạo lí và lợi ích chung của xã hội” [117, tr. 336]; còn theo Viện Khoa

học pháp l , công l được hiểu là “sự công bằng hay chính nghĩa, sự đúng đắn, lẽ phải.

Thuật ngữ “công l ” thường được dùng trong đời sống pháp l và đặc biệt là trong hoạt

động tư pháp” [200, tr. 178].

Trong xã hội hiện nay, công l chính là “đại lượng công bằng” để dàn xếp những

mâu thuẫn, xung đột xã hội trên cơ sở nguyên tắc “trao cho mọi người những gì họ xứng

đáng, trao cho mỗi người cái họ đáng hưởng”, hay đó là nghĩa vụ “hoàn lại, trả lại cho

mọi người cái mà họ có quyền được hưởng” [183, tr. 5 ], vì thế “công l phải dựa trên

QCN” [122, tr. 42], là “các chuẩn mực đạo đức xã hội mà pháp luật có nhiệm vụ duy trì

và bảo vệ” [24, tr. 85], biểu hiện của công l chính là “sự công bằng, hách quan, vô tư

và tình người” [24, tr. 85]. Cho nên, tác giả John Rawls (1921-2002) đã đưa ra luận

điểm “Công lý như là sự công bằng” (Justice as fairness) và ông cho rằng “Công lý là

đức hạnh đầu tiên cho các định chế xã hội, cũng như chân lý là của các hệ thống tư

tưởng” [231, tr. 3], vì công lý là tiêu chí cơ bản của xã hội, trong đó, nội dung và quy

trình bảo vệ công lý tuỳ thuộc vào phương thức mà các quyền cơ bản và trách nhiệm

công dân được phân định song song với cơ hội tiếp cận kinh tế và quyền lực được chia

sẻ công bằng và hợp l . Trên phương diện khoa học pháp l , công l được quan niệm là

lẽ phải, sự công bằng, khách quan và nghiêm minh theo pháp luật, “nó gắn liền với cơ

quan tư pháp và chức năng đưa ra phán quyết của toà án” [4, tr. 68-69], vì “xã hội cần

pháp luật trị vì thay vì bạo lực; rằng nếu có những xử sự xấu thì sự trừng phạt (bằng

pháp luật) phải được thay thế cho sự trả thù đơn thuần” [4, tr. 69], do đó, công lý và

31

pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, theo Blaise Pascal (1623-1 2) “công l

không dựa vào quyền lực thì bất lực, quyền lực hông đi đôi với công lý thì tàn bạo

(…). Vì thế chúng ta phải gắn kết giữa công lý và sức mạnh” [214, tr. 106], và ở những

khía cạnh nhất định “pháp luật nên phục vụ cho công lý và vì công lý” [227, tr. 3], bởi vì

“luật pháp và định chế dù có hiệu năng hay hoàn chỉnh đến đâu cũng cần phải được cải

tổ hay dẹp bỏ nếu chúng là bất công” [231, tr. 3]. Pháp luật không dựa trên các chuẩn

mực của công lý, trái với bản tính của con người thì sẽ trở thành một thứ mệnh lệnh tàn

bạo, hà khắc, do đó, pháp luật “thường được xếp ngang hàng với công l ” và công lý trở

thành một trong những tiêu chí đặc biệt quan trọng trong hoàn thiện pháp luật và thực

hiện pháp luật, nhưng pháp luật và công l hông phải lúc nào c ng là một vì pháp luật

“đôi hi đi chệch hướng công l ” [245, tr. 58-59], bởi vì x t cho cùng, pháp luật mang

chí chủ quan của giai cấp cầm quyền (cho dù chí đó được phổ quát trong xã hội và

được đông đảo người dân thừa nhận), cho nên “sẽ là sai lầm nếu xếp cả hai, luật pháp và

công l , vào cùng một loại” [245, tr. 58-59]. Cơ sở của công lý phải được đặt trên nền

tảng của QCN, vì thế John Rawls khẳng định: “Mỗi người đều có quyền bất khả xâm

phạm trên nền tảng công lý và không thể bị phủ quyết cho dù vì quyền lợi của cả xã hội.

(…). Trong những đức hạnh hàng đầu của sinh hoạt con người, chân lý và công lý là

hai điều không thể bị nhân nhượng” [231, tr. 3-4]. Mặc dù, nội hàm của khái niệm công

l được tiếp cận theo nghĩa rộng, hẹp hác nhau, nhưng trung tâm của khái niệm công lý

phải được định vị bởi những “hằng số”, đó là: lẽ phải, công bằng, bình đẳng, tự do,

chính trực, nghiêm minh, không thiện vị, chính nghĩa, lòng nhân ái.

Do vậy, trên phương diện khoa học pháp lý, công lý là giá trị pháp lý được xây

dựng trên nền tảng của lẽ phải, công bằng, khách quan, chống cái ác, bảo vệ điều thiện,

sự hợp pháp, nghiêm minh theo pháp luật, vì sự phát triển tốt đẹp của con người và tiến

bộ xã hội.

Bảo đảm công lý chính là bảo vệ QCN vì “bất kể họ sống ở đâu hay mức độ chúng

ta quen biết họ như thế nào vì đơn giản, họ là con người, có lý trí và phải được tôn trọng” [183, tr. 56]. Nhà nước có trách nhiệm chính trong việc tổ chức, thực hiện pháp luật, tạo điều kiện cho các chủ thể pháp luật, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương sử dụng biện pháp pháp l để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, c ng như được bù đắp thoả đáng những tổn thất do hành vi phạm pháp luật của chủ thể khác gây ra và xử lý nghiêm minh những hành vi xâm phạm bất hợp pháp đến QCN.

2.1.1.2. Xâm hại tình dục và nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục Tình dục là hoạt động có ý thức của con người, gắn liền với sự tồn tại, phát triển nhân loại, theo Abraham Maslow (1908 -1970), đây là một trong những nhu cầu cơ bản, cấp thiết, không thể thiếu của một con người [208, tr. 35-38], thể hiện khả năng sinh tồn,

32

tiến hoá của con người. Theo Bryan Strong và các cộng sự (2005), tình dục còn là một

mặt của nhân cách, biểu hiện tất cả những cảm xúc và hành vi giới tính của một người [211, tr. 326], đây vừa là hành vi tự nhiên, bản năng của con người, vừa là hành vi xã

hội, vì thế các hành vi tình dục của con người bị điều chỉnh bởi yếu tố văn hoá, đạo đức

và pháp luật. Ở Việt Nam, theo Từ điển Tiếng Việt, tình dục là “nhu cầu tự nhiên của

con người” [117, tr. 524], mang tính bản năng của con người thông qua việc quan hệ tính giao (gồm hành vi giao cấu và hành vi tình dục nhưng hông phải là giao cấu) giữa

con người với nhau (có thể dị tính về giới hoặc đồng tính về giới). Nó gắn liền với sự

tồn tại của nhân loại, vừa thể hiện bản năng tự nhiên (sinh học) của con người, vừa

mang tính xã hội (được điều chỉnh bởi các quy phạm xã hội), đem lại hạnh phúc cho con

người và giúp con người duy trì nòi giống và tiến hóa xã hội. Do đó, tình dục trở thành quyền cơ bản của con người, gọi là quyền tình dục.

Trên phương diện khoa học pháp lý, quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục là

một trong những quyền dân sự của con người, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong

thực tế, quyền này không phải lúc nào c ng được bảo đảm, mỗi cá nhân có thể bị bạo

lực hoặc buộc phải thực hành hành vi tình dục trái với ý muốn, c ng như đi ngược lại

với chuẩn mực văn hoá, đạo đức và pháp luật, đây chính là những hành vi xâm hại đến

danh dự, nhân phẩm và sức khoẻ của con người. Theo Từ điển Tiếng Việt, xâm hại là

“hành vi tác động đến quyền lợi của chủ thể khác khiến cho chủ thể đó bị tổn hại” [117,

tr. 1758], nên hành vi xâm hại chính là hành vi lệch chuẩn, nghĩa là “sự vi phạm các

chuẩn mực và mong đợi của cộng đồng xã hội” [29, tr. 12]. Trên phương diện khoa học

pháp lý, xâm hại phải là những hành vi trái pháp luật, tác động đến quyền và lợi ích hợp

pháp của chủ thể khác khiến cho chủ thể đó bị thiệt hại (vật chất, thể chất, tinh thần) và

vi phạm trật tự pháp luật, đây là hành vi bị pháp luật cấm.

Với cách tiếp cận đó, XHTD phải là những hành vi tình dục trái pháp luật của

người này đối với người khác. Theo bác sĩ Peter Cameron và đồng nghiệp, biểu hiện của

XHTD có thể là hành vi tình dục mà “không có sự đồng thuận của người đó, hoặc ép

buộc tinh thần hoặc dùng sức mạnh ép một người tham gia vào hành vi tình dục trái

ngược với nguyện vọng” [207], hoặc “nạn nhân có thể hông đưa ra sự đồng thuận, vì sợ

hãi mà đồng thuận hoặc hông đủ tuổi pháp lý hoặc khả năng nhận thức để đồng thuận”

[207] tham gia vào hành vi tình dục. Những hành vi này sẽ gây ra những tổn hại về thể

chất, tinh thần cho nạn nhân trước mắt hoặc lâu dài. Ngoài ra, nó còn gây ra những tổn

hại cho xã hội vì trong trường hợp thực hiện hành vi tình dục với người hông đủ tuổi

pháp lý hoặc khả năng nhận thức để đồng thuận (như người chưa thành niên, người mất

khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình) và nạn nhân hoàn toàn

33

đồng thuận, nhưng hành vi này đã gây ra những tổn hại lâu dài đối với sự phát triển của

người này, qua đó gây ra sự thiệt hại cho sự ổn định và phát triển xã hội.

Vì thế, trên phương diện pháp l , XHTD được hiểu là những hành vi tình dục trái

pháp luật của người này đối với người khác, vi phạm đến quyền bất khả xâm phạm và tự

do tình dục của con người.

Ở Việt Nam, theo Khoản 1, Điều 2 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày

01/10/2019 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định

tại các điều 141,142,143,144,145, 146, 147 của BLHS và việc xét xử vụ án XHTD

người dưới 18 tuổi, quy định:

XHTD người dưới 16 tuổi là việc dùng v lực, đe dọa dùng v lực, ép buộc,

lôi kéo, dụ dỗ người dưới 16 tuổi tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục,

bao gồm hiếp dâm, cư ng dâm, giao cấu, dâm ô với người dưới 16 tuổi và sử dụng

người dưới 16 tuổi vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức (ví dụ:

hoạt động XHTD được thực hiện do đồng thuận với người dưới 13 tuổi); do cư ng

bức, do hứa hẹn các lợi ích vật chất (tiền, tài sản) hay các lợi ích phi vật chất (ví

dụ: cho điểm cao, đánh giá tốt, tạo cơ hội tiến bộ...) [71].

Những quy định này về hành vi XHTD mới chỉ bao gồm các hành vi tình dục trái

với quy định của PLHS, đây thực chất là các hành vi xâm phạm tình dục, nhưng trên

“những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm và tự do

thực tế, XHTD có nội hàm rộng hơn xâm phạm tình dục vì xâm phạm tình dục là

tình dục của con người, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố

ý, trái PLHS và phải chịu hình phạt tương xứng” [96, tr. 18], nghĩa là xâm phạm tình dục

là những hành vi được quy định trong PLHS. Ngoài ra, so với hành vi lạm dụng tình

dục, XHTD có nội hàm rộng hơn, vì lạm dụng tình dục chỉ là một quá trình trong đó một

người lợi dụng vị thế của mình nhằm dụ dỗ hay cư ng p người khác tham gia vào hoạt

động tình dục. Vì thế, XHTD là hành vi tình dục lệch chuẩn, trái pháp luật, bao gồm cả

hành vi xâm phạm tình dục và các hành vi XHTD khác, chưa được quy định trong

PLHS, nhưng được quy định trong các luật chuyên ngành khác, gồm các hành vi sau:

(1) Hiếp dâm: là hành vi giao cấu hoặc “quan hệ tình dục khác trái ý muốn”, “có sử

dụng v lực, đe doạ sử dụng v lực hay lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn

nhân hoặc thủ đoạn hác đối với nạn nhân (khoản 1, Điều 141 BLSH năm 2015)” [138];

trong đó bao gồm cả hành vi hiếp dâm người lớn và hiếp dâm trẻ em. Về bản chất, hành

vi này tương đồng với hành vi tấn công tình dục ở một số quốc gia trên thế giới.

(2) Cưỡng dâm: là hành vi buộc nạn nhân phải miễn cư ng giao cấu hoặc “quan

hệ tình dục khác” trái ý muốn do bị lệ thuộc (về vật chất hoặc tinh thần) (khoản 1, Điều

34

14 BLSH năm 2015)” [138]; trong đó bao gồm cả hành vi cư ng dâm người lớn và

cư ng dâm trẻ em. Về bản chất, hành vi này tương đồng với hành vi ép buộc người khác

tham gia hoạt động tình dục ở một quốc gia trên thế giới.

(3) Dâm ô: là “hành vi tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo

vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm hay bộ phận hác trên cơ thể của người dưới

16 tuổi có tính chất tình dục nhưng hông nhằm quan hệ tình dục (khoản Điều 3 Nghị

quyết số 06/2019/NQ-HĐTP)” [71].

(4) Giao cấu và thực hiện các hoạt động tình dục khác đối với trẻ em: là “hành vi

xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất cứ mức độ xâm

nhập nào (Khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP)” [71]. Ở Trung Quốc,

Điều 236 BLHS Trung Quốc hiện hành quy định “Giao cấu với trẻ em gái chưa đủ 14

tuổi coi như phạm tội hiếp dâm” [47, tr. 157], trong hi đó, ở Việt Nam, BLSH năm

2015 quy định giao cấu với người dưới 13 tuổi mặc dù người đó tự nguyện thì hành vi

giao cấu này đã đủ để cấu thành hành vi hiếp dâm trẻ em: “Giao cấu hoặc thực hiện

hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi” (điểm b Khoản 1 Điều 142)

[138]. Ngoài ra, theo Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP quy định “Giao cấu với người

dưới 10 tuổi được xác định là đã thực hiện không phụ thuộc vào việc đã xâm nhập hay

chưa ( hoản 1, Điều )” [71], quy định này được hiểu là hành vi dâm ô và giao cấu đối

với người dưới 10 tuổi được xác định là hành vi hiếp dâm trẻ em.

(5) Sử dụng trẻ em vào mục đích khiêu dâm: là “hành vi dùng cử chỉ, hành động,

lời nói, chữ viết, ký hiệu, hình ảnh, âm thanh nhằm kích thích tình dục trẻ em; phô bày

bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, khoả thân, thoát y hoặc thực hiện các động tác mô

phỏng hoặt động tình dục (khoản 4, 5, Điều 3 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP)”

[71], trừ trường hợp người được cơ quan có thẩm quyền giao thực hiện hành vi “mô tả

bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của con người để phục vụ công tác giáo dục, khám

chữa bệnh, chăm sóc y tế” ( hoản 2, Điều 5 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP) [71].

(6) Quấy rối tình dục: là những hành vi tình dục trái pháp luật, không thuộc những

hành vi XHTD trên (không phải là hành vi hiếp dâm, cư ng dâm, dâm ô, giao cấu và

thực hiện các hoạt động tình dục hác đối với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích

khiêu dâm), thông qua cử chỉ, lời nói hoặc phi lời nói có liên quan đến tình dục nhằm

gây tổn thương danh dự và nhân phẩm con người.

Trong vụ án XHTD, người bị thiệt hại về thể chất và tinh thần bởi người khác vi

phạm đến quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục gây ra gọi là nạn nhân bị XHTD.

Theo Từ điển tiếng Việt, nạn nhân là “Người bị nạn hoặc người phải chịu hậu quả của

một tại họa xã hội hay một chế độ bất công” [116, tr. 5]; trong Đại từ điển tiếng Việt,

35

nạn nhân được định nghĩa là: “1. Người bị tai nạn; 2. Người, tổ chức gánh chịu hậu quả

từ bên ngoài đưa đến” [205, tr. 11 5]. Trên phương diện khoa học pháp lý, nạn nhân

được hiểu là những cá nhân, tổ chức bị HVVP pháp luật của chủ thể khác gây ra những

thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp hác. Đối với

các vụ án phạm tội trong PLHS, nạn nhân là “các cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức, cộng

đồng bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác do

hậu quả trực tiếp của hành vi phạm tội” [17, tr. 26]. Theo khoản 1, Điều 62, BLTTHS

hiện hành của Việt Nam, nạn nhân của tội phạm chính là bị hại, đó là “cá nhân trực tiếp

bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản,

uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra” [134]. Nạn nhân bị XHTD chịu thiệt hại

về sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của bản thân trước mắt hoặc lâu dài, đặc biệt nạn nhân

là PNTEG thì sự thiệt hại càng nghiêm trọng hơn. Thông thường, PNTEG bị XHTD

không chỉ bị tổn thương về sức khỏe, tinh thần mà còn chịu ảnh hưởng, tác động tiêu

cực, thậm chí rất nghiêm trọng tới đời sống bình thường của họ, gia đình họ. Đời sống

thể chất c ng như tinh thần của các NNN bị XHTD đều có nhiều trở ngại, bất ổn, đặc

biệt thời gian đầu, sau khi bị XHTD (đặc biệt là bị hiếp dâm, cư ng dâm), nhiều nạn

nhân đã hông muốn hoặc không thể sống tại địa phương, họ gặp rất nhiều hó hăn

trong cuộc sống riêng, đời sống của NNN và gia đình họ bị ảnh hưởng, xáo trộn, đặc

biệt là đời sống tâm lý, tình cảm của họ, trong đó, “những hậu quả tâm lý mà nạn nhân

của tội hiếp dâm phải gánh chịu vô cùng nặng nề trong khi nạn nhân của đa số các tội

phạm khác không phải hoặc ít hi rơi vào tình trạng tương tự” [103, tr. 36].

Như thế, NNN bị XHTD là phụ nữ và trẻ em gái bị người khác vi phạm đến quyền

bất khả xâm phạm và tự do tình dục, gây ra những thiệt hại về sức khỏe, nhân phẩm,

danh dự của bản thân trước mắt hoặc lâu dài.

PNTEG chỉ tất cả những người có giới tính nữ, trong đó phụ nữ chỉ những người

thành niên có giới tính nữ. Ở Việt Nam, khoản 1 Điều 20 BLDS năm 2015 quy định

“Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên” [133]; trẻ em gái được xác định

những người có giới tính nữ dưới 18 tuổi hoặc dưới 16 tuổi, tuỳ theo quy định pháp luật

của mỗi quốc gia. Điều 1 CRC quy định: “trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18

tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành

niên sớm hơn” [97], theo đó, nhiều quốc gia trên thế giới quy định trẻ em là người dưới

18 tuổi, như ở Nhật Bản, Luật Phúc lợi trẻ em năm 1947 (sửa đổi năm 200 , 2004,

2007) c ng quy định: “trẻ em là người dưới 18 tuổi” [229], trong hi đó ở Việt Nam,

Điều 1 Luật Trẻ em năm 201 quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”[135] và khoản

36

1 Điều 21 BLDS năm 2015 quy định “Người chưa thành niên là người chưa đủ mười

tám tuổi” [133], nên người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là người chưa thành niên.

2.1.1.3. Quyền tiếp cận công lý và quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị

xâm hại tình dục

Quyền tiếp cận công lý (Right of Access to Justice) hay gọi tắt là tiếp cận công lý

(Access to Justice) là khái niệm bắt nguồn từ HTPL Anh – Mỹ (Anglo-American law)

[218, tr. 47]. Ngay từ năm 1215, Đại hiến chương agna Carta của Anh đã cam ết:

“không ai bị bán cho người khác; quyền hay công lý của bất kỳ ai cũng đều không bị

chối bỏ” [256, tr. 12], điều này thể hiện tinh thần “công lý bị trì hoãn là công lý bị từ

chối” [264, tr. 8 ]. Ngày nay, “QTCCL là một trong những quyền cơ bản của con

người” [260, tr. ], được nhiều tổ chức quốc tế để cập trong các chương trình, dự án của

mình, đặc biệt là UNDP.

Theo quan điểm truyền thống, QTCCL được xem x t trên phương diện là quyền

được xét xử công bằng (right to a fair trial), quan điểm này không chỉ được sử dụng rộng

rãi tại nhiều quốc gia mà nó đã được pháp điển hoá trong luật quốc tế. Trong đó, UDHR

quy định “Ai c ng có quyền yêu cầu tòa án quốc gia có thẩm quyền can thiệp chống lại

những hành động vi phạm những quyền căn bản được hiến pháp và luật pháp thừa nhận

(Điều 8)” [263] và “ ọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công minh và công

khai bởi một tòa án độc lập và hách quan, để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ,

c ng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ (Điều 10)” [263], quy định này tiếp tục

được cụ thể hoá tại Điều 14 (1) của ICCPR: “Mọi người đều bình đẳng trước các toà án

và cơ quan tài phán. ọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi

một toà án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để

quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự, hoặc để xác định quyền và

nghĩa vụ của người đó trong các vụ kiện dân sự” [226, tr. 176]. Theo cách tiếp cận này,

QTCCL được nhìn nhận trên bốn nội dung: (i) Mục tiêu là được xét xử công bằng thông

qua việc sử dụng hệ thống tư pháp; (ii) Đối tượng hướng tới là tất cả mọi người; (iii)

Phạm vi tác động chủ yếu là các thiết chế tư pháp, nhằm bảo đảm được quyền xét xử

công bằng; (iv) Tập trung phát triển năng lực, thể chế, đặc biệt là về quản l và cơ sở hạ

tầng của toà án, kỹ năng xây dựng pháp luật và nghiệp vụ tư pháp. Tuy nhiên, hướng

tiếp cận này khá hẹp vì QTCCL đâu chỉ thực hiện trong lĩnh vực tố tụng mà còn được

thực hiện trong nhiều lĩnh vực khác, vì thế Điều 2 (3) của ICCPR: “a) Bảo đảm rằng bất

cứ người nào bị xâm phạm các quyền và tự do như được công nhận trong Công ước này

đều nhận được các biện pháp khắc phục hiệu quả, cho dù sự xâm phạm này là do hành

vi của những người thừa hành công vụ gây ra” [226, tr. 174]; “b) Bảo đảm rằng bất kỳ

37

người nào có yêu cầu về các biện pháp khắc phục sẽ được các cơ quan tư pháp, hành

pháp hoặc lập pháp có thẩm quyền hoặc bất kỳ cơ quan nào hác có thẩm quyền do

HTPL của quốc gia quy định, xác định quyền lợi cho họ và sẽ mở rộng khả năng áp

dụng các biện pháp khắc phục mang tính tư pháp” [226, tr. 174]; “c) Đảm bảo rằng các

cơ quan có thẩm quyền sẽ thi hành các biện pháp khắc phục đã được đề ra” [226, tr.

174].

Trong thực tế, các vụ án hành chính, hình sự chủ yếu sử dụng biện pháp xét xử,

trong hi đó các vụ án dân sự, các bên có quyền lợi liên quan được phép lựa chọn nhiều

biện pháp hác nhau, như trọng tài, hoà giải, nên để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

cho các bên liên quan, các biện pháp tư pháp chính thức (chủ yếu là xét xử) và các biện

pháp phi chính thức (hoà giải, trọng tài) được sử dụng nhằm bổ sung cho nhau, qua đó

bảo đảm tốt nhất cho mọi người có quyền chọn lựa và đạt được sự đền bù thoả đáng

những quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm. Chính vì thế, hiện nay, UNDP đã xem

QTCCL là một phần quan trọng trong nhiệm vụ của UNDP để giảm nghèo và tăng

cường quản trị dân chủ [260, tr. 3], cho nên UNDP đã đưa ra cách tiếp cận mới về

QTCCL, đó là “Quyền của người dân tìm kiếm và đạt được sự đền b hoặc khắc phục

thông qua thể chế/thiết chế tư pháp chính thức và không chính thức, ph hợp với các

tiêu chuẩn quốc tế về QCN” [261, tr. 5], từ đó “thúc đẩy sự phát triển của con người c ng

như các thiết chế của một xã hội dân chủ” [43, tr. 108]. Đây chính là hả năng, nhu cầu

và lợi ích của mỗi người sử dụng hệ thống tư pháp (Justice systems) chính thức hoặc phi

chính thức để “tìm kiếm sự đền bù hoặc sự khắc phục (Remedy) cho những bất công hay

thiệt hại mà một cá nhân hay một nhóm cá nhân, đặc biệt là cho những nhóm xã hội dễ

bị tổn thương phải gánh chịu” [43, tr. 107-108], trong đó những bất công/thiệt hại này có

thể do cá nhân hay pháp nhân gây ra, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội chứ

không giới hạn ở trong tố tụng hành chính, hình sự. Hệ thống tư pháp bao gồm “hệ thống

tổ chức các cơ quan tư pháp và hệ thống thủ tục tư pháp” [188, tr. 19], đây là hệ thống

các cơ quan có thẩm quyền xét xử đối với các tranh chấp hay các HVVP pháp luật. Theo

UNDP, hệ thống này được thiết lập bởi các thể chế/thiết chế chính thức và phi chính

thức [261, tr. 5-7]: (1) các thể chế, bao gồm: thể chế chính thức (Formal law) là các quy

định pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục luật

định và thể chế phi chính thức (Informal law) là các luật tục được nhà nước thừa nhận,

phù hợp với quy chuẩn đạo đức, văn hoá và sự tiến bộ của nhân loại; (2) các thiết chế,

bao gồm: thiết chế tư pháp chính thức (Formal Institutions of Justice) bao gồm toà án,

cơ quan công tố, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các thiết chế tư pháp phi chính

thức (Informal Institutions of Justice) bao gồm hệ thống hoà giải và trọng tài hoặc đánh

38

giá trung lập [43, tr. 114]; (3) các thiết chế giám sát và hỗ trợ, tư vấn pháp l trong đó

gồm: “Hệ thống giám sát (Oversee system) là các cơ quan dân cử và các tổ chức chính

trị - xã hội, các tổ chức xã hội; hệ thống hỗ trợ và tư vấn pháp lý (Legal Aid and counsel

system) là các cơ quan trợ giúp, tư vấn pháp l do nhà nước và các tổ chức xã hội thành

lập” [261, tr. 5-7].

Vì vậy, QTCCL được hiểu là khả năng của mỗi người tìm kiếm và đạt được sự đền

bù, khắc phục thoả đáng và hợp pháp cho những bất công và thiệt hại mà họ phải gánh

chịu, cũng như truy cứu trách nhiệm thích đáng đối với chủ thể gây ra những tổn hại đó

thông qua hệ thống tư pháp, hệ thống giám sát và hỗ trợ, tư vấn pháp lý.

Trong vụ án xâm hại bất hợp pháp đến quyền và lợi ích của con người, QTCCL

chính là khả năng của nạn nhân yêu cầu cơ quan chức năng giải quyết vụ án kịp thời,

đúng đắn, công bằng, khách quan, nghiêm minh theo pháp luật, bảo vệ kịp thời, đầy đủ

quyền và lợi ích của nạn nhân, trừng trị thích đáng chủ thể có hành vi xâm hại quyền.

Đối với vụ án XHTD, NNN bị XHTD thường “gặp nhiều rào cản trong TCCL vì

những bất cập trong khuôn hổ pháp lý, thủ tục pháp lý, rào cản về xã hội (Tập quán và

quan niệm xã hội truyền thống) và rào cản về kinh tế” [154, tr. 69], những rào cản này

góp phần gây ra tình trạng bỏ cuộc đối với NNN bị XHTD trong TCCL. Vì thế, để tìm

kiếm và đạt được sự đền bù và khắc phục thoả đáng những thiệt hại cho bản thân và xã

hội, NNN bị XHTD không chỉ có quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực tư pháp và

quyền tham gia tố tụng, mà họ còn quyền tiếp cận thông tin pháp lý, quyền được TGPL,

quyền được tiếp cận các cơ quan tư pháp, đặc biệt là toà án, quyền được bảo đảm tố tụng

trong xét xử (quyền được bào chữa, cung cấp chứng cứ, nhân chứng, quyền kháng cao,

được tiến hành theo thủ tục đặc biệt và thân thiện, v.v..).

Từ những phân tích trên, QTCCL của NNN bị XHTD được hiểu là khả năng của

PNTEG bị XHTD tìm kiếm và đạt được sự đền bù, khắc phục thoả đáng, hợp pháp cho

những bất công, thiệt hại của bản thân và xã hội, cũng như buộc người XHTD phải chịu

trách nhiệm pháp lý tương xứng với tính chất, mức độ của HVVP gây ra thông qua hệ

thống tư pháp chính thức, hệ thống giám sát và hệ thống hỗ trợ, tư vấn pháp lý.

QTCCL của NNN bị XHTD được phát sinh khi PNTEG bị người khác vi phạm

đến quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục của con người; quyền này đã được pháp

luật quốc gia và quốc tế ghi nhận và bảo vệ.

2.1.1.4. Bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục

Bảo đảm QCN nói chung, quyền của PNTEG nói riêng là nghĩa vụ của các chủ thể

trong xã hội. Theo Từ điển Tiếng Việt, bảo đảm được hiểu là “làm cho chắc chắn thực

hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết để thực hiện được” [117, tr.

39

8], theo nghĩa đó, tác giả Nguyễn Đăng Dung cho rằng, bảo đảm quyền của chủ thể

này là nghĩa vụ của các chủ thể hác, đặc biệt là nhà nước, bao gồm: “(i) Nghĩa vụ tôn

trọng quyền (các chủ thể phải kiềm chế không can thiệp bất hợp pháp vào việc thụ

hưởng các quyền đã được ghi trong pháp luật); (ii) Nghĩa vụ bảo vệ quyền (các chủ thể

phải ngăn chặn sự vi phạm quyền); (iii) Nghĩa vụ hiện thực hoá quyền (các chủ thể có

biện pháp hỗ trợ, triển khai việc thực hiện quyền trong thực tế))” [27, tr. 7]. Như vậy,

trong bảo đảm quyền đã bao hàm cả bảo vệ quyền, do đó, bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD là nghĩa vụ của các chủ thể trong xã hội, bao gồm các cá nhân, nhà nước, các tổ

chức chính trị, tổ chức xã hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình để tôn trọng, bảo

vệ, hiện thực hoá QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế một cách hiệu quả.

Để thực hiện được các nghĩa vụ này, các chủ thể bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD phải thực hiện các hoạt động cụ thể của mình nhằm hiện thực hoá khả năng tìm

kiếm và đạt được sự đền bù, khắc phục thoả đáng, hợp pháp những bất công, thiệt hại

của NNN và buộc người XHTD phải chịu trách nhiệm pháp l thích đáng thông qua hệ

thống tư pháp chính thức, hệ thống giám sát và hệ thống hỗ trợ, TGPL. Trong đó, nhà

nước đóng vai trò trung tâm, quan trọng nhất trong việc bảm đảm QTCCL của NNN bị

XHTD vì chỉ có nhà nước có đủ thẩm quyền, với đầy đủ công cụ, phương tiện và nguồn

lực để ghi nhận trong pháp luật, ngăn chặn sự vi phạm, hỗ trợ, thực hiện các biện pháp

để hiện thực hoá QTCCL của NNN bị XHTD trên thực tế một cách hiệu quả, trong đó,

nhà nước ban hành hệ thống luật để ghi nhận đầy đủ QTCCL của NNN bị XHTD (hoạt

động lập pháp); nhà nước triển khai, thực thi pháp luật để hiện thực hoá QTCCL của

NNN bị XHTD vào trong thực tiễn (hoạt động hành pháp) và nhà nước bảo vệ QTCCL

của NNN bị XHTD bằng hoạt động tố tụng (hoạt động tư pháp). Ngoài ra, nhà nước còn

phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, cá nhân, tổ chức khác trong xã hội để thực hiện tốt

nghĩa vụ của mình trong bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.

Như vậy, bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là các hoạt động do nhà nước và

xã hội thực hiện để QTCCL của PNTEG bị XHTD được thực hiện tốt trong thực tế.

Để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, nhà nước và xã hội phải thực hiện

những nội dung sau, đó là:

Thứ nhất, tôn trọng QTCCL của NNN bị XHTD.

Tôn trọng QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế là việc các cơ quan nhà nước

và xã hội không can thiệp bất hợp pháp vào việc thụ hưởng QTCCL của NNN bị XHTD

đã được ghi trong pháp luật, đó là quyền được Toà án xét xử công bằng, kịp thời và

đúng pháp luật; quyền được thông tin về pháp luật; quyền được giáo dục pháp luật;

quyền được hỗ trợ và TGPL; v.v.. Trong đó, cá nhân, cơ quan nhà nước và xã hội phải:

40

tôn trọng quyền lợi của NNN bị XHTD và người có quyền lợi liên quan; tuân thủ các

chế tài đối với hành vi XHTD; tôn trọng quyền của NNN bị XHTD được trợ giúp cần

thiết để tiếp cận các cơ quan chức năng ịp thời giải quyết, theo đuổi vụ án đến cùng và

những bù đắp đối với thiệt hại mà họ và xã hội phải gánh chịu từ hành vi XHTD.

Thứ hai, bảo vệ QTCCL của NNN bị XHTD.

Bảo vệ QTCCL của NNN bị XHXTD trong thực tế là các biện pháp do nhà nước

và xã hội thực hiện nhằm phòng ngừa, ngăn chặn các HVVP QTCCL của NNN bị

XHTD, trong đó xây dựng quy trình, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành

án vụ án XHTD rõ ràng, chặt chẽ; thực hiện các biện pháp kiểm tra, giám sát quá trình

thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án

vụ án XHTD; xử lý nghiêm minh những HVVP đến việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử

và thi hành án vụ án XHTD.

Các vi phạm QTCCL của NNN bị XHXTD đó là các hành vi của cá nhân, tổ chức

can thiệp việc thụ hưởng QTCCL của NNN bị XHTD, bao gồm cản trở việc thụ hưởng

các quyền được Toà án xét xử công bằng, kịp thời và đúng pháp luật; quyền được thông

tin về pháp luật; quyền được giáo dục pháp luật; quyền được tư vấn và TGPL; v.v.. Đặc

biệt, các cá nhân, tổ chức có hành vi cản trở, trì hoãn hoặc thực hiện sai các quy định

pháp luật về quy trình, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án vụ án

XHTD, từ đó gây ra những hó hăn, cản trở việc tìm kiếm và đạt được sự bù đắp và

khắc phục thoả đáng những thiệt hại của NNN bị XHTD. Nhà nước và xã hội thực hiện

các hoạt động can thiệp của nhà nước và xã hội để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi

hành án đối với người có các HVVP đến QTCCL của NNN bị XHTD, trong đó xây

dựng và vận hành hệ thống các thiết chế (các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền) thực hiện

chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định pháp luật để bảo vệ quyền của NNN bị

XHTD, đặc biệt là hệ thống tư pháp chính thức, như toà án, cơ quan công tố, cơ quan

điều tra, cơ quan thi hành án, v.v.., trong đó, “quan trọng nhất là toà án phải bảo đảm

yêu cầu: công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kịp thời, không bị trì hoãn; độc

lập, hách quan, vô tư và áp dụng pháp luật chính xác” [43, tr. 121].

Thứ ba, hiện thực hoá QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế.

Nhà nước và xã hội phải thực hiện các biện pháp để NNN bị XHTD thực hiện

được QTCCL của bản thân họ, đặc biệt nhà nước và xã hội thực hiện các biện pháp để

PNTEG bị XHTD nâng cao năng lực TCCL. Để PNTEG bị XHTD có khả năngTCCL,

các chủ thể này phải tuyên truyền, phố biến, giáo dục pháp luật, qua đó bản thân nạn

nhân hiểu rõ quyền lợi của bản thân, hiểu rõ những hành vi tình dục trái pháp luật và

hiểu rõ nghĩa vụ của các chủ thể khác phải bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình; đồng

41

thời hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chức năng trong việc thụ lý, xử lý vụ

án, c ng như trình tự, thủ tục giải quyết vụ án lên quan đến XHTD. Ngoài ra, các cơ

quan này thực hiện các biện pháp hỗ trợ (hỗ trợ pháp lý; hỗ trợ nguồn lực tài chính và

các biện pháp hỗ trợ hác) để trấn an tinh thần cho nạn nhân, đồng thời giúp cho nạn

nhân theo đuổi vụ việc đến cùng nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bản thân và được

bù đắp thoả đáng những thiệt hại của PNTEG bị XHTD.

2.1.2. Khái niệm cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân

nữ bị xâm hại tình dục

“Cơ chế” là hái niệm được nhiều học giả tiếp cận từ nhiều giác độ khác nhau,

trong lĩnh vực kinh tế (cơ chế thị trường), trong lĩnh vực hành chính (cơ chế quản lý),

trong lĩnh vực pháp luật (cơ chế pháp lý), v.v.. Từ điển Larousse, cho rằng, cơ chế

(mécanisme) được hiểu theo hai nghĩa: “(1) sự phối hợp các bộ phận, các cơ quan nhằm

đảm bảo sự hoạt động, vận hành và chính bản thân sự vận hành đó; (2) phương thức

hoạt động, vận hành của một cái gì đó được so sánh như một bộ máy, đó là tập hợp

những hiện tượng liên tiếp tạo thành một chuỗi tuần tự” [219, tr. 626]; trong Từ điển

Cambridge (Cambridge Dictionary), c ng cho rằng cơ chế (mechanism) là “cách thức

mà hệ thống có thể vận hành, hoạt động được, nhưng nó còn được hiểu là một bộ phận

hoặc là một tập hợp các bộ phận cùng hoạt động với nhau của một cỗ máy” [212]. Theo

cách tiếp cận này, nếu nhìn nhận ở trạng thái động, cơ chế là cách thức vận hành của

một hệ thống), nếu nhìn nhận ở trạng thái tĩnh, cơ chế là các bộ phận cấu thành của hệ

thống. Ở Việt Nam, theo Từ điển Tiếng Việt, cơ chế được chiết tự từ từ Hán – Việt (機

製), có nghĩa là “cách thức tổ chức nội bộ và quy luật vận hành, biến hoá của một hiện

tượng” [117, tr. 4 ]; theo hướng tiếp cận này, tác giả Lương Xuân Quỳ (1994) cho

rằng khái niệm cơ chế “dùng để chỉ sự tương tác giữa các yếu tố kết thành một hệ thống,

mà nhờ đó hệ thống đó có thể hoạt động được” [140, tr. 6], đây là “sự vận hành của một

hệ thống bao gồm toàn bộ các bộ phận tác động qua lại lẫn nhau trong suốt quá trình

hoạt động của chúng” [51, tr. 107], nó biểu hiện của những mối quan hệ biện chứng bên

trong của một hệ thống. Vì thế tác giả Tào Thị Quyên (2012) chỉ rõ, cơ chế là “tổng thể

các yếu tố có mối quan hệ mật thiết, tương tác lẫn nhau, hình thành một hệ thống và sự

vận hành của hệ thống đó” [141, tr. 47]. Trong lĩnh vực nhân quyền, tác giả V Công

Giao và cộng sự (2015) cho rằng “cơ chế nhân quyền thường được dùng để chỉ hệ thống

các cơ quan (chuyên trách) và các quy tắc, thủ tục có liên quan được thiết lập với mục

tiêu thúc đẩy và bảo vệ QCN” [46, tr. 15]. Điều đó cho thấy, dù tiếp cận theo khía cạnh

nào thì cơ chế là một chỉnh thể, gồm các cơ quan (thiết chế), các quy tắc, thủ tục (thể

chế) và các nguồn lực để vận hành chỉnh thể đó, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, được

42

sắp xếp và vận hành theo những nguyên tắc thống nhất, khách quan và khoa học để thực

hiện mục đích xác định.

Từ các quan niệm đó cho thấy, cơ chế không là khái niệm tự thân mà luôn gắn liền

với một chỉnh thể các yếu tố bộ phận bên trong có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo

nên sự hoạt động của sự vật, hiện tượng và được biểu hiện ra bên ngoài bằng những

hình thức nhất định, nghĩa là “sự tương tác giữa các bộ phận trong cấu trúc của chỉnh thể

theo những nguyên tắc và quá trình xác định nhằm đạt được một kết quả nhất định” [67,

tr. 24]; cơ chế phải gắn với phương tiện nhất định của nó và nếu “phương tiện đó là pháp

luật thì gọi đó là CCPL” [68, tr. 47]. Theo đó, tác giả Trương Thị Hồng Hà (2009) cho

rằng, CCPL là biểu hiện của “tổng hợp các hình thức, công cụ, phương tiện pháp lý có

mối liên hệ chặt chẽ với nhau, vận hành trong một chỉnh thể đồng bộ, thông nhất” [51,

tr. 117], nó bao gồm các “thể chế (các quy định pháp luật), thiết chế (các cơ quan, tổ

chức), nguyên tắc vận hành, gắn kết với nhau, hợp thành hệ thống, do pháp luật quy

định, tạo thành bảo đảm pháp l đối với quá trình thực hiện” [54, tr. 42]. Theo hướng

tiếp cận này, tác giả Hoàng Minh Hội (2016), nhấn mạnh, CCPL là “quá trình vận động

của các phương diện pháp l , chúng tác động lên các quan hệ xã hội nhằm đạt được hiệu

quả của điều chỉnh pháp luật” [74, tr. 11]; sau đó, tác giả Trịnh Đức Thảo (2017) chỉ rõ,

CCPL được cấu thành bởi “một chỉnh thể gồm các thể chế pháp lý, các thiết chế liên

quan, có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất; được vận hành theo nội dung và các phương

thức do pháp luật quy định” [149, tr. 30]. Như thế, nếu nhìn nhận ở trạng thái tĩnh,

CCPL là chỉnh thể pháp lý bao gồm thể chế pháp lý, thiết chế và các nguồn lực, chúng

có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau trên cơ sở các quy định pháp luật; còn nếu

nhìn nhận ở trạng thái động, CCPL là biểu hiện của sự vận hành một chỉnh thể pháp lý

theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của chỉnh thể

đó do pháp luật quy định.

Các hoạt động bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được vận hành bởi chỉnh thể

pháp l , do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện, phối hợp với các chủ thể

khác trong xã hội và bản thân NNN bị XHTD theo trình tự, thủ tục chặt chẽ của pháp

luật nhằm đưa ra các biện pháp khắc phục, đền bù thoả đáng với những thiệt hại của

NNN bị XHTD và xã hội, đồng thời xử l thích đáng người có hành vi XHTD. Sự vận

hành của chỉnh thể này trong thực tiễn chính là biểu hiện ra bên ngoài của CCPL bảo

đảm QTCCL của NNN bị XHTD, nó thể hiện mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành bên

trong của CCPL, đó là: thể chế pháp lý, thiết chế (thiết chế tư pháp chính thức, thiết chế

giám sát và hỗ trợ, TGPL) và các nguồn lực để CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD vận hành trong thực tế.

43

Do đó, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là chỉnh thể pháp lý thống

nhất của thể chế pháp lý, thiết chế và các nguồn lực, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau,

được sắp xếp và vận hành trong thực tiễn theo quy định pháp luật nhằm tôn trọng, bảo

vệ và hiện thực hoá QTCCL của phụ nữ và trẻ em gái bị XHTD.

Để vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, các thiết chế này phối

hợp nhau và với NNN bị XHTD trên cơ sở thể chế pháp lý và các nguồn lực nhằm thực

hiện các nội dung bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD (Sơ đồ 2.1), cụ thể như sau:

NNN bị XHTD

Thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD

Phối hợp

Giám sát

Thiết chế tư pháp chính thức bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD Thiết chế giám sát và hỗ trợ, TGPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD

Sơ đồ 2. 1: Sơ đồ biểu diễn CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD

Nguồn: NCS tự xây dựng (2020)

2.1.3. Đặc điểm cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân

nữ bị xâm hại tình dục

Từ khái niệm trên, cho thấy CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD có những

đặc điểm sau:

Thứ nhất, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là một chỉnh thể pháp lý

thống nhất, được hình thành, tồn tại và vận hành theo quy định pháp luật.

CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được cấu thành bởi thể chế pháp lý,

các thiết chế và các nguồn lực để CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD vận hành

trong thực tế. Trong đó, thể chế pháp lý bao gồm: Hiến pháp, luật, bộ luật và các văn

bản hướng dẫn quy định quyền bất khả XHTD của con người trong đó bao gồm cả

44

PNTEG; quy định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các

tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền bất khả XHTD của PNT G; quy định trình tự, thủ tục

và sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong quá trình thụ lý và giải quyết các vụ án

XHTD PNTEG; quy định những hành vi và biện pháp xử l đối với những HVVP

QTCCL của NNN bị XHTD.

Thiết chế bao gồm: thiết chế tư pháp, thiết chế giám sát và hỗ trợ, tư vấn pháp lý

cho các NNN bị XHTD. Trên phương diện khoa học pháp lý, hành vi XHTD là HVVP

đến quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục của con người, gây ra những hậu quả

nặng nề cho bản thân nạn nhân và xã hội. Chính vì thế, xử lý các vụ án XHTD phải

được thực hiện theo thủ tục TTHS, do đó nạn nhân bị XHTD sử dụng hệ thống tư pháp

chính thức (toà án, cơ quan công tố, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và hệ thống

thủ tục tố tụng do luật định) thay vì sử dụng cả hệ thống tư pháp chính thức và phi chính

thức như các trường hợp vi pháp dân sự, thương mại. Trong thực tế, nếu áp dụng các

biện pháp thay thế (như hoà giải, trọng tài hay đánh gia trung lập) đối với các vụ án

XHTD sẽ dẫn đến những thoả hiệp hay sự đền bù không thoả đáng cho nạn nhân bị

XHTD, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Hơn nữa, việc thực hành các biện pháp thay thế

này hó có điều kiện để đưa ra những bằng chứng, chứng cứ đầy đủ, xác đáng đối với

hành vi XHTD và không thể đánh giá hết những tổn thất cho nạn nhân và xã hội, vì thế

không thể truy cứu trách nhiệm pháp lý một cách thoả đáng đối người có hành vi

XHTD. Do đó, sử dụng hệ thống tư pháp chính thức là biện pháp tối ưu nhất để bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD. Bên cạnh đó, hệ thống giám sát bao gồm các cơ quan dân

cử, các tổ chức chính trị - xã hội và xã hội theo dõi, xem x t, đánh giá hoạt động của hệ

thống tư pháp chính thức trong việc thực hiện các chính sách và pháp luật về bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế. Qua đó, tổng kết, đánh giá thực tiễn thực

hiện các chính sách và pháp luật này nhằm chỉ ra những tồn tại, bất cấp để từ đó iến

nghị đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoàn thiện; bên cạnh đó, ịp thời phát

hiện ra những sai phạm trong thực hiện các chính sách và pháp luật về bảo đảm QTCCL

của NNN bị XHTD, kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời xử lý sai phạm.

Ngoài ra, hệ thống cơ quan hỗ trợ và tư vấn pháp l giúp đ NNN bị XHTD hiểu rõ

quyền lợi, nghĩa vụ, thủ tục pháp l để tiến hành xử lý vụ án XHTD, c ng như trách

nhiệm pháp l mà người XHTD phải chịu. Thêm vào đó, hệ thống cơ quan hỗ trợ và tư

vấn pháp lý còn thực hiện các trợ giúp và tư vấn hác để NNN bị XHTD theo đuổi vụ

án XHTD và được khắc phục, bù đắp thoả đáng những tổn thất mà họ gặp phải do bị

XHTD gây ra.

45

Thứ hai, kết quả vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD nhằm

nâng cao khả năng của NNN bị XHTD tìm kiếm sự đền bù và khắc phục thoả đáng

những thiệt hại của bản thân và trừng trị thích đáng đối với người có hành vi xâm hại

đến quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục của con người.

QTCCL của NNN bị XHTD là quyền đặc biệt của PNTEG, tính đặc biệt của

QTCCL của NNN bị XHTD thể hiện ở chỗ, quyền này vừa mang những tính chất chung

và tính chất riêng của quyền phụ nữ và quyền trẻ em gái.

Tính chất chung đó là quyền này mang đầy đủ tính chất của QCN, bao gồm:

tính phổ biến (được áp dụng cho mọi NNN bị XHTD, không có sự phân biệt, đối

xử), tính không thể chuyển nhượng (quyền này thuộc sở hữu vỗn có của mỗi NNN

bị XHTD, không thể chuyên giao cho người khác), tính không thể phân chia

(quyền này là một chỉnh thể thống nhất, được cấu thành bởi các quyền cụ thể), tính

liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (các quyền cụ thể trong chỉnh thể QTCCL có mỗi

liên hệ chặt chẽ, phụ thuộc lẫn nhau, quyền này vừa là tiền đề, điều kiện của quyền

ia và ngược lại, quyền kia bổ sung và cụ thể hoá quyền này) [26, tr. 41-43].

Bên cạnh đó, QTCCL của NNN bị XHTD có tính chất riêng, đó là quyền của

nhóm người dễ bị tổn thương. Đây là quyền của PNTEG bị XHTD, bản thân quyền của

PNTEG thuộc nhóm quyền dễ bị tổn thương được luật nhân quyền quốc tế thừa nhận,

đặc biệt trong công ước C DAW và CRC; thêm vào đó, quyền này lại là quyền của

nhóm người dễ bị tổn thương bị người khác xâm hại quyền. Nghĩa là, quyền này được

“ ích hoạt” hi PNTEG bị XHTD, nó thể hiện sự chủ động, trực tiếp sử dụng các biện

pháp pháp lý và xã hội để tìm kiếm và đạt được sự khắc phục và đền bù thoả đáng trước

những tổn thất của bản thân do hành vi XHTD của người khác gây ra và trừng phạt thích

đáng đối với người XHTD. Sự đền bù, khắc phục thoả đáng đối với những tổn thất của

NNN bị XHTD là những sự bù đắp về vật chất và tinh thần tương ứng với những thiệt

hại mà bản thân phải gánh chịu. Trách nhiệm bù đắp này thuộc về các cơ quan nhà nước

có thẩm quyền và người XHTD, trong đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người

XHTD phải bồi thường thoả đáng về vật chất đối với NNN bị XHTD và chịu trách

nhiệm pháp l đối với hành vi của mình. Các biện pháp tìm kiếm và đạt được sự đền bù,

khắc phục thoả đáng những thiệt hại của nạn nhân phải được thực hiện theo quy định

pháp luật.

Thứ ba, vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD nhằm hiện thực

hoá các quyền cụ thể của NNN bị XHTD.

Để tìm kiếm sự đền bù, khắc phục thoả đáng cho những thiệt hại mà PNTEG phải

gánh chịu, c ng như để buộc người XHTD phải chịu trách nhiệm pháp l thích đáng,

46

bản thân PNTEG phải được thông tin về pháp luật; được giáo dục pháp luật; được tư

vấn và TGPL; được toà án xét xử công bằng, kịp thời và đúng pháp luật. Theo đó,

PNTEG bị XHTD có quyền được thông tin đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của bản thân

và trách nhiệm của nhà nước trong bảo vệ quyền của mình. Trong đó, họ có quyền biết

rõ quyền lợi của mình bị vi phạm; biết rõ quy trình, thủ tục bảo vệ hoặc được trợ giúp để

tiếp cận các cơ quan chức năng ịp thời giải quyết và theo đuổi vụ án đến cùng và được

“đòi” lại công l , nghĩa là đòi lại lẽ phải, quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân một

cách hợp pháp, khách quan, công bằng thể hiện được sự nghiêm minh của pháp luật và

được bù đắp thoả đáng những thiệt hại mà họ gặp phải.

Như thế, QTCCL của NNN bị XHTD bao gồm nhiều quyền cụ thể, trong đó chủ

yếu những quyền cụ thể sau: quyền được Toà án xét xử công bằng, kịp thời và đúng

pháp luật; quyền được thông tin về pháp luật; quyền được giáo dục pháp luật; quyền

được tư vấn và TGPL; v.v..

Thứ tư, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD phải thực hiện quy trình tố

tụng đặc biệt trong xử lý các vụ án XHTD.

Trên phương diện lý luận và thực tiễn cho thấy, QTCCL, trước hết, đó là quyền

được toà án xét xử và xét xử kịp thời, bình đẳng trước pháp luật và Toà án, mặc dù trong

tiến trình bảo đảm QTCCL cho công dân, có nhiều chủ thể cùng tham gia, nhưng toà án

đóng vai trò quan trọng nhất, bởi vì x t đến cùng, bản chất của TCCL là tiếp cận với toà

án, nghĩa là tiếp cận với tiến trình và thủ tục phán xử của cơ quan tài phán. Đảm bảo

QTCCL vừa là mục tiêu của hoạt động tư pháp, vừa là điều kiện bảo đảm tăng cường

trách nhiệm tư pháp và mức độ liêm chính của nó. Trong đó, công hai, minh bạch trong

hoạt động tư pháp là yêu cầu quan trọng hàng đầu để bảo đảm người dân có thể tiếp cận

toà án, chính là tiến trình cuối cùng TCCL; hơn nữa, việc giải quyết các vụ án một cách

kịp thời, không chậm trễ vừa là kết quả, vừa là tiền đề của bảo đảm QTCCL. Sự chậm

trễ, trì hoãn vô cớ thường dẫn đến những tiêu cực trong việc giải quyết các vụ án, đồng

thời gây thiệt hại to lớn cho quyền lợi của các bên. Do đó, việc giải quyết vụ án một

cách kịp thời, không chậm trễ còn góp phần làm tăng niềm tin của công chúng vào công

lý, bảo vệ nguyên tắc pháp quyền và các giá trị đạo đức trong xã hội. Ngoài ra, “ hách

quan, vô tư và áp dụng pháp luật chính xác trong hoạt động xét xử của toà án là những

yếu tố có liên hệ mật thiết với nhau và là những yếu tố then chốt quyết định hiệu quả

hoạt động xét xử c ng nhưng ết của QTCCL” [43, tr. 1212-122].

Những hệ luỵ từ hành vi XHTD đến NNN rất nghiêm trọng cả về thể chất và tinh

thần trong thời gian dài, chính vì thế, QTCCL của NNN bị XHTD chỉ có thể thực hiện

được bởi một hệ thống tư pháp liêm chính và hiệu quả. Để thực hiện được yêu cầu này,

47

quy trình xử lý các vụ án này cần phải được thực hiện theo trình tự đặc biệt, khác với

quy trình xử lý các vụ vi phạm pháp luật thông thường hác, đặc biệt trong đó phải chú

trọng đến các yếu tố sau: phải được tiến hành ngay, hông được trì hoãn vì vất cứ lý do

gì; giữ bí mật thông tin cho nạn nhân; xét xử kín; áp dụng những biện pháp đặc biệt đối

với người có hành vi XHTD; NNN được đền bù thoả đáng cả về vật chất lẫn tinh thần;

được áp dụng các biện pháp TGPL đặc biệt và những biện pháp chăm sóc y tế, tâm lý

đặc biệt nhằm khắc phục những sang chấn tâm lý.

2.1.4. Vai trò cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ

bị xâm hại tình dục

CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD có vai trò quan trọng trong việc thúc

đẩy và bảo vệ QCN nói chung và quyền của PNTEG nói riêng, cụ thể là:

Thứ nhất, đối với nhà nước trong thực hiện các cam kết quốc tế về bảo đảm QCN.

Bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là một nội dung cốt lõi của pháp luật nhân

quyền quốc tế, qua đó đây là “nhân tố bảo đảm phát triển bền vững ở mỗi quốc gia, mỗi

khu vực và toàn thế giới” [147, tr. 37]. CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD

nhằm tạo ra các điều kiện, yếu tố cần và đủ nhằm hiện thực hóa các hả năng tìm iếm

và đạt được sự bù đắp và khắc phục thoả đáng những thiệt hại của PNTEG bị XHTD

phải được ghi nhận trong hệ thống pháp luật của quốc gia; đây còn là trách nhiệm pháp

lý của nhà nước trong việc giữ gìn, thúc đẩy, tạo điều kiện để PNTEG bị XHTD thực

hiện các quyền của mình một cách tốt nhất. Đó là nghĩa vụ của các quốc gia thành viên

trong việc thực hiện pháp luật quốc tế về QCN, đặc biệt là công ước CEDAW và CRC,

theo đó bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD trở thành động lực để nhà nước hoàn

thiện thể chế pháp lý và thiết chế (nhà nước và xã hội) để ghi nhận, bảo vệ và hiện thực

hoá quyền của phụ nữ và trẻ em trong thực tế.

Thứ hai, đối với bản thân PNTEG nói chung và PNTEG bị XHTD.

Bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD không chỉ thuần túy là mong ước của

PNTEG bị XHTD mà còn là một tiêu chuẩn quan trọng trong đánh giá đối với sự phát

triển của một quốc gia, sự tiến bộ và hoàn thiện của nhà nước và pháp luật trong thúc

đẩy và bảo đảm QCN, đặc biệt là quyền của PNTEG trong thực tiễn. XHTD là hành vi

nguyên hiểm cho xã hội, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền bất khả xâm phạm và tự do

tình dục của con người; hậu quả của hành vi này khiến cho nạn nhân bị tổn thương rất

nghiêm trọng cả về thể chất và tình thần trong thời gian dài, đặc biệt đối với PNTEG. Vì

thế, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD nhằm, một mặt ngăn chặn các hành vi

XHTD, mặt khác phải đưa ra các biện pháp chế tài đủ sức răn đe nhằm phòng ngừa

48

những hành vi tương tự xảy ra trong tương lại, cũng như, đưa ra các biện pháp nhằm

khắc phục kịp thời, hiệu quả, thoả đáng cho PNTEG bị XHTD.

Thứ ba, đối với bảo đảm trật tự, an toàn và phát triển xã hội lành mạnh.

Trên thực tế, bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được thực hiện dựa trên các yêu

cầu và nhận thức đầy đủ về quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục, nhằm tạo điều

kiện thực hiện, thúc đẩy thực thi quyền của PNTEG, trong đó, CCPL bảo đảm QTCCL

của NNN bị XHTD sử dụng tổng thể nhiều biện pháp, do cả cơ quan nhà nước và xã hội

thực hiên theo quy định pháp luật để đáp ứng kịp thời nhu cầu sử dụng các biện pháp

pháp lý và xã hội của NNN bị XHTD tìm kiếm được những biện pháp và sự đền bù thoả

đáng những thiệt hại mà họ gặp phải; khắc phục được những rào cản đối với NNN bị

XHTD trên con đường theo đuổi vụ án đến cùng; kịp thời xử lý các vụ XHTD, trừng trị

thích đáng đối với người có hành vi XHTD, từ đó góp phần tích cực vào đấu tranh,

phòng chống tội phạm XHTD; góp phần nâng cao năng lực TCCL của NNN bị XHTD,

từ đó nâng cao chất lượng bảo đảm QTCCL của nhóm người yếu thế nói chung và NNN

bị XHTD nói riêng. Từ những hoạt động đó, mọi người dân trong xã hội nâng cao ý

thức chấp hành pháp luật, nâng cao năng lực TCCL, qua đó góp phần tích cực vào

phòng, chống các HVVP pháp luật, đặc biệt là các hành vi XHTD nhằm xây dựng môi

trường xã hội an toàn, lành mạnh và thân thiện.

2.2. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ VÀ YẾU TỐ ẢNH

HƯỞNG ĐẾN CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ CỦA

NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC

2.2.1. Các yếu tố cấu thành và mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ chế

pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục

Sự vận hành của chỉnh thể pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được

pháp luật quy định chặt chẽ về nguyên tắc, phương pháp, sự phối hợp, các biện pháp chế

tài, v.v.. để các chủ thể tham gia vào chỉnh thể này thực hiện đúng, đủ quyền hạn, trách

nhiệm của mình trong bảo đảm QTCCL của PNTEG bị XHTD, trong đó chỉnh thể pháp

l này được cấu thành bởi nhiều yếu tố pháp lý khác nhau, có mối quan hệ chặt chẽ với

nhau nhằm, được sắp xếp và vận hành theo quy định pháp luật, gồm: thể chế pháp lý,

thiết chế của nhà nước và xã hội, các nguồn lực nhằm bảo đảm QTCCL của NNN hiệu

lực, hiệu quả trong thực tế (mục 2.1.1.4). Theo đó, cấu trúc của CCPL bảo đảm QTCCL

của NNN bị XHTD gồm các yếu tố sau: (i) Thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN

bị XHTD; (ii) Thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; (iii) Các nguồn lực để

vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD. Các yếu tố này phải có mối quan

49

hệ chặt chẽ với nhau để CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được vận hành tốt

trong thực tế.

2.2.1.1. Các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của

nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục

Thứ nhất, thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.

Ở Việt Nam hiện nay, thể chế được hiểu là “những quy định, luật lệ của một chế

độ xã hội buộc mọi người phải tuân theo” [200, tr. 70 ], theo đó, thể chế pháp lý là hệ

thống các văn bản pháp luật. Trên cơ sở đó, thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN

bị XHTD là hệ thống các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban

hành theo trình tự, thủ tục luật định nhằm xác lập cơ sở pháp lý quan trọng để xác lập

QTCCL của PNTEG bị XHTD mà các chủ thể khác trong xã hội phải có nghĩa vụ tôn

trọng, bảo vệ và hiện thực hoá trong thực tế; đồng thời quy định rõ chức năng, nhiệm vụ

và quyền hạn, c ng như trình tự, thủ tục cần thiết để xử lý vụ án XHTD PNTEG, c ng

như những trường hợp vi phạm QTCCL của PNTEG bị XHTD. Trong đó, thể chế pháp

lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD quy định:

Một là, quyền bất khả XHTD của con người trong đó bao gồm cả PNTEG. Quy

định những hành vi tình dục nào là hành vi tình dục trái pháp luật; những hình thức và

biện pháp chế tài đối với cá nhân thực hiện những hành vi XHTD đối với PNTEG; đồng

thời quy định các biện pháp khắc phục kịp thời những tổn thất mà nạn nhân gặp phải;

những biện pháp hỗ trợ trong suốt quá trình tham gia và theo đuổi vụ án và hỗ trợ để nạn

nhân trở lại cuộc sống bình thường. Ngoài ra, thể chế pháp lý còn quy định các biện

pháp để phòng ngừa, ngặn chặn những HVVP QTCCL của NNN bị XHTD.

Hai là, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các tổ

chức xã hội trong bảo vệ quyền bất khả XHTD của PNTEG, như ở Việt Nam là: QH,

Chính phủ, TAND, VKSND, HĐND và UBND các cấp. Ngoài ra, còn quy định sự

tham gia của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hôi, tổ chức xã hội tham gia vào

bảo vệ quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục của PNTEG, như: Hội Liên hiệp phụ

nữ, Đoàn thanh niên, Hội Luật gia, Liên đoàn Luật gia, Hội bảo vệ quyền trẻ em, v.v..

Ba là, trình tự, thủ tục và sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong quá trình

thụ lý và giải quyết các vụ án XHTD PNTEG. Trong đó quy định rõ trình tự, thủ tục và

sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng (công an, toà án, viện kiểm sát và các cơ quan

TGPL) trong việc tiếp nhận tin tố giác, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vụ

XHTD PNTEG.

Bốn là, những hành vi và biện pháp xử l đối với những HVVP QTCCL của NNN

bị XHTD. Trong đó quy định rõ những hành vi và các biện pháp xử l đối với hành vi

50

cản trở việc thụ hưởng các quyền được Toà án xét xử công bằng, kịp thời và đúng pháp

luật; quyền được thông tin về pháp luật; quyền được giáo dục pháp luật; quyền được tư

vấn và TGPL; v.v.. của NNN bị XHTD, đặc biệt là các hành vi cản trở, trì hoãn hoặc

thực hiện sai các quy định pháp luật về quy trình, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử

và thi hành án vụ án XHTD.

Thứ hai, thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD. Đây là các cơ quan, tổ

chức thực hiện những chức năng, nhiệm vụ cụ thể, do đó thiết chế bảo đảm QTCCL của

NNN bị XHTD là các cơ quan chuyên trách thực hiện các nhiệm vụ bảo đảm QTCCL

của NNN bị XHTD. Theo UNDP, bảo đảm QTCCL là trách nhiệm chính của hệ thống

thiết chế tư pháp, gồm thiết chế tư pháp (chính thức, phi chính thức), các thiết chế giám

sát, hỗ trợ và tư vấn pháp lý. Từ phân tích đặc điểm của QTCCL của NNN bị XHTD

(mục 2.1.3), các thiết chế nhà nước và xã hội bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là

các cơ quan, tổ chức nhà nước và xã hội có trách nhiệm thực hiện các nội dung đảm bảo

QTCCL của NNN bị XHTD, tập hợp các cơ quan, tổ chức này chia ra thành: các thiết

chế tư pháp chính thức, các thiết chế giám sát và các thiết chế hỗ trợ và tư vấn pháp lý.

Một là, các thiết chế tư pháp chính thức.

Bảo vệ QTCCL là nghĩa vụ của mọi chủ thể trong xã hội, trong đó trươc hết là cơ

quan tư pháp, vì “bản chất của tư pháp là công l ” [187, tr. 43], do vậy “các cơ quan tư

pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, QCN” [14], thông

qua đó c ng góp phần vào nâng cao ý thức pháp luật, củng cố niềm tin của NNN bị

XHTD vào cơ quan chức năng, đặc biệt là cơ quan tư pháp. Các cơ quan tư pháp (trung

tâm là toà án) thụ lý và xét xử các hành vi XHTD để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

cho PNTEG bị XHTD; phán quyết nghiêm minh của toà án về các hành vi XHTD sẽ

góp phần vào ngăn chặn những hành vi XHTD xảy ra trong tương lại. Hoạt động xét xử

là “hoạt động trực tiếp bảo vệ công lý; toà án không chỉ phán xét tính hợp pháp mà còn

cả tính đúng đắn của hành vi, vì vậy, ngoài căn cứ vào pháp luật, khi xét xử, Toà án còn

căn cứ vào công l ” [24, tr. 85]. Vì thế, các cơ quan tư pháp chính thức có nghĩa vụ

chính trong việc giữ gìn, thúc đẩy, tạo điều kiện để nạn nhân nữ bị XHTD thực hiện

QTCCL của mình một cách tốt nhất.

Hệ thống thiết chế tư pháp chính thức bao gồm: (i) tòa án, thực hiện chức năng x t

xử, thông qua đó, toà án đưa ra phán quyết về hành vi XHTD, truy cứu trách nhiệm

pháp l đối với người có hành vi XHTD và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho NNN bị

XHTD; (ii) cơ quan công tố, ở Việt Nam là VKSND, thực hiện việc buộc tội của Nhà

nước đối với người có hành vi XHTD và kiểm sát hoạt động tư pháp ngay từ khi giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm XHTD, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi

51

tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án XHTD; (iii) cơ quan điều tra thực hiện các chức năng,

nhiệm vụ cần thiết theo luật định để khởi tố và truy tố tội phạm XHTD, như: tiếp nhận,

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm XHTD và kiến nghị khởi tố; tiếp nhận hồ sơ vụ án

XHTD do cơ quan chức năng chuyển giao; tiến hành điều tra và áp dụng mọi biện pháp

do luật định để thu thập chứng cứ vụ án XHTD; lập hồ sơ, đề nghị truy tố người có hành

vi XHTD; v.v..

Hai là, các thiết chế giám sát, hỗ trợ và tư vấn pháp lý.

Các cơ quan này thực hiện nhiệm vụ hiện thực hoá QTCCL của NNN bị XHTD

trong thực tế; đồng thời phối hợp với các cơ quan tư pháp chính thức và bản thân nạn

nhân hay gia đình hoặc người đại diện nạn nhân để thực hiện tốt nhiệm vụ tiếp nhận, thụ

lý tin báo tố giác; thu thập chứng cứ; khởi tố, điều tra, truy tố, thi hành án. Việc thực

hiện các hoạt động này kịp thời, chính xác nhằm truy bắt kịp thời người có hành vi

XHTD, buộc kẻ vi phạm thực hiện trách nhiệm pháp l đối với HVVP của mình, đồng

thời khắc phục những tổn hại mà NNN gánh chịu từ HVVP đó.

Để ban hành thể chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, các cơ quan nhà nước

có thẩm quyền ban hành các văn bản luật và văn bản hướng dẫn luật nhằm quy định cụ

thể QTCCL của NNN bị XHTD. Ở Việt Nam, QH thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn “Làm

Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật” (Khoản 1, Điều 69 Hiến pháp

201 ), theo đó QH thực hiện nhiệm vụ ban hành, sửa đổi các quy định luật về bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD. Ngoài ra, trên cơ sở của Hiến pháp, Luật, các cơ quan

hác như Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, TAND tối cao, VKSND tối cao ban

hành các văn bản hướng để triển khai thực hiện các quy định luật về bảo đảm QTCCL

của NNN bị XHTD trong thực tế.

Việc hiện thực hoá QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế do nhiều cơ quan, tổ

chức nhà nước và xã hội thực hiện. Trong đó, cơ quan hành chính tổ chức triển khai các

quy định pháp luật về QTCCL của PNTEG bị XHTD vào thực tiễn, thông qua việc ban

hành các văn bản hướng dẫn; tổ chức bộ máy; ban hành và thực thi các chính sách về

bảo vệ QTCCL của PNTEG bị XHTD (tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp

luật về QTCCL của PNTEG bị XHTD). Trong đó, các cơ quan hành chính thực hiện các

biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật nâng cao năng lực TCCPL cho NNN bị XHTD.

Đây là những hiểu biết các quy định pháp luật về quyền lơi hợp pháp của bản thân,

những hành vi tình dục trái pháp luật và các biện pháp pháp l được thực hiện để đền bù

thoả đáng những thiệt hại phải gánh chịu do hành vi XHTD gây ra. Ngoài ra, năng lực

TCCL của nạn nhân nữ bị XHTD còn bị chi phối bởi khả năng tài chính để theo đuổi vụ

52

án đến cùng (trong đó bao gồm các chi phí đi lại, chi phí chăm sóc sức khoẻ, chi phí

thuê luật sư, chi phí sử dụng các dịch vụ TGPL, v.v..).

Bên cạnh đó, các cơ quan dân cử, các cơ quan hành chính chuyên trách và các tổ

chức chính trị, xã hội thực hiện kiểm tra, giám sát đối với các cá nhân, tổ chức thực hiện

các chính sách, pháp luật về bảo vệ QTCCL của PNTEG bị XHTD. Trong thực tế, việc

kiểm tra, giám sát việc thực hiện QTCCL của NNN bị XHTD do nhiều cơ quan hác

nhau trong xã hội thực hiện, bao gồm cả cơ quan nhà nước và cơ quan phi nhà nước

thực hiện, như: (i) cơ quan nhà nước, bao gồm: cơ quan dân cử (ở Việt Nam, Trung

Quốc có QH và HĐND các cấp thực hiên chức năng giám sát). Việc thực hiện các chức

năng này tuỳ thuộc vào quy định pháp luật của mỗi quốc gia, ở Việt Nam, cơ quan dân

cử có QH và HĐND các cấp, trong đó QH thực hiện giám sát tối cao đối với hoạt động

của Nhà nước; HĐND các cấp “giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa

phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân” (Khoản 2, Điều 113 Hiến

pháp 201 ). Theo đó, QH và HĐND các cấp thực hiên chức năng giám sát việc thực

hiện pháp luật về bảo đảm QTCCL cho PNTEG bị XHTD; cơ quan hành chính chuyên

trách thực hiện chức năng iểm tra, giám sát (ở Việt Nam có thanh tra nhà nước, thanh

tra ngành); cơ quan chuyên trách iểm sát hoạt động tố tụng (ở Việt Nam, Trung Quốc

có VKSND); (ii) cơ quan phi nhà nước, gồm: các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức

xã hội, các cơ quan thông tấn báo chí.

Thông quan hoạt động kiểm tra, giám sát việc bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD trong thực tế, các cơ quan chức năng ịp thời phát hiện những hành vi của các cá

nhân, cơ quan có trách nhiệm thụ lý, giải quyết vụ án cản trở hoặc thực hiện hông đầy

đủ, hông đúng quy định pháp luật về bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD trong thực

tế, từ đó có biện pháp ngăn chặn kịp thời, khắc phục, giải quyết để bảo đảm QTCCL của

NNN bị XHTD được thực hiện tốt trong thực tế; đồng thời thông qua đó, các cơ quan

này phát hiện ra những hạn chế, bất cập trong chính sách, pháp luật về bảo đảm QTCCL

của NNN bị XHTD kiến nghị với cơ quan chức năng có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung

hoặc bãi bỏ.

Thứ ba, các nguồn lực để vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.

Để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, nhà nước và xã hội phải đáp ứng đủ

nhân lực, vật lực phục vụ cho việc thực hiện được những hoạt động bảo đảm QTCCL

của NNN bị XHTD trong thực tiễn, cụ thể là: Một là, nguồn nhân lực. Để bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD, đội ng cán bộ, công chức, viên chức nhà nước làm việc

trong các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD phải có đủ năng lực, phẩm chất

và cơ cấu, số lượng phù hợp sẽ đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của

53

mình (ở các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và các cơ quan hỗ trợ khác) trong việc

bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; ngoài ra phải cung cấp đầy đủ cơ sở vật chất, kỹ

thuật và nguồn lực tài chính để các chủ thể này thực hiện chức năng, nhiệm vụ để bảo

đảm QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế. Hai là, các nguồn lực khác. Nhà nước

và xã hội phải trợ giúp các nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính và các trợ giúp hác) đáp

ứng yêu cầu nâng cao năng lực tiếp cận công lý cho PNTEG bị XHTD, thông qua đó,

giúp họ theo đuổi vụ án đến cùng và trừng trị thích đáng đối với người đã có hành vi

XHTD. Trên thực tế, năng lực TCCL của NNN bị XHTD phụ thuộc vào trình độ dân trí

(bao gồm cả trình độ hiểu biết pháp luật) và nguồn lực tài chính của PNTEG bị XHTD,

vì thế để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, nhà nước và xã hội phải thực hiện các

biện pháp nhằm nâng cao trình độ dân trí (đặc biệt trình độ hiểu biết pháp luật), nâng

cao đời sống cho người dân, đặc biệt bảo đảm nguồn lực tài chính cho PNTEG bị

XHTD và các trợ giúp hác để họ theo đuổi vụ án đến cùng.

2.2.1.2. Mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý bảo đảm quyền

tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục

Các yếu tố cấu thành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD có mối quan hệ

giữa chặt chẽ với nhau. Trong đó, thể chế pháp lý và thiết chế bảo đảm QTCCL của

NNN bị XHTD có mối quan hệ hữu cơ mật thiết với nhau. Theo từ điển Cambridge,

thiết chế và thể chế đều được sử dụng một thuật ngữ (Institution), có nguồn gốc từ tiếng

La – tinh (Institutio), vừa có nghĩa là các quy tắc, luật lệ, vừa có nghĩa là cơ quan, tổ

chức [212], điều đó có nghĩa là hi nói đến thể chế là nói đến thiết chế và ngược lại. Vì

thực tế, thể chế - các quy tắc, luật lệ đều gắn liền với cơ quan, tổ chức ban hành và quy

định chức năng, nhiệm của cơ quan, tổ chức đó; ngược lại, mỗi cơ quan, tổ chức được

thành lập ra đều phải có quy tắc, quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể. Ở Việt Nam, hai

khái niệm này có sự phân biệt tương đối, tuy nhiên, giữa chúng có mối quan hệ rất chặt

chẽ với nhau, vì thế, thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được ban

hành ra nhằm phục vụ cho các thiết chế thực hiện chức năng, nhiệm vụ bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD và ngược lại các thiết chế này phải hoạt động theo đúng thể

chế pháp l đã được ban hành.

Các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD phối hợp, phối hợp chặt chẽ

với nhau để thực hiện các hoạt động bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, như: cơ

quan điều tra hoặc cơ quan được giao trách nhiệm điều tra tiếp nhận tin tố giác người đã

có hành vi XHTD, sau đó các thiết chế tư pháp chính thức khác sẽ tiến hành các trình tự

thủ tục theo luật định để tiếp nhận tin báo tố giác tội phạm XHTD; lấy lời khai của NNN

bị XHTD; thu thập chứng cứ (mẫu tinh dịch, hình ảnh, âm thanh, dấu vết trên cơ thể,

54

v.v..); lập hồ sơ và khởi tố vụ án, khởi tố bị can; xét xử; thi hành án. Trong quá trình

này, các cơ quan nhà nước và các cơ quan phi nhà nước có các biên pháp hỗ trợ, tư vấn

(TGPL; hỗ trợ tài chính; trợ giúp y tế) để trấn an tinh thần cho nạn nhân, đồng thời giúp

cho nạn nhân theo đuổi vụ án đến cùng nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bản thân và

được bù đắp thoả đáng những thiệt hại của PNTEG gái bị XHTD.

Ngoài ra, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan nhà nước có

thẩm quyền phải phối hợp với các tổ chức phi nhà nước, như: hội phụ nữ, hội luật gia,

hội bảo trợ trẻ em, v.v.. thực hiện việc tư vấn, TGPL; hỗ trợ về nguồn lực; y tế; v.v.. cho

PNTEG bị XHTD. Xây dựng và vận hành hệ thống hỗ trợ, tư vấn (pháp lý, y tế, xã hội)

cần thiết để NNN bị XHTD có khả năng đòi hỏi và theo đuổi vụ án đến cùng, trong đó

bao gồm các biện pháp để nâng cao ý thức pháp luật của PNTEG (đó là nhận thức, thái

độ, tình cảm của PNTEG đối với pháp luật) và “tính sẵn sàng, hiệu quả của hệ thống trợ

giúp, tư vấn pháp lý cho họ” [43, tr. 116]. Hệ thống này sẽ được cải thiện nếu KT-XH

ngày một phát triển, ngược lại thì những hỗ trợ sẽ hông được bảo đảm, điều này tác

động lớn đến CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế; tính hiệu quả

của hệ thống tư vấn, trợ giúp, trong đó bao gồm tư vấn, TGPL; hỗ trợ tài chính; trợ giúp

y tế.

2.2.2. Tiêu chí đánh giá cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của

nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục

Việc đánh giá CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được nhìn nhận trên

hai trạng thái: (i) trạng thái tĩnh, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được nhìn

nhận ở các yếu tố cấu thành của CCPL; (ii) trạng thái động, CCPL bảo đảm QTCCL của

NNN bị XHTD được nhìn nhận ở kết quả vận hành của cơ chế. Nên việc đánh giá

CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được xem xét ở các tiêu chí sau:

2.2.2.1. Tiêu chí đánh giá cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của

nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở trạng thái tĩnh

Trong trạng thái tĩnh, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được phân tích,

đánh giá thông việc đánh giá các yếu tố cấu thành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD, đó là đánh giá: thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; thiết chế

bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; nguồn lực để vận hành CCPL bảo đảm QTCCL

của NNN bị XHTD.

Thứ nhất, tiêu chí đánh giá thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.

Hiện nay, nhiều nhà khoá học Việt Nam khá thống nhất các tiêu chí đánh giá thể

chế pháp lý, đó là “tính toàn diện và đồng bộ, tính thống nhất, tính phù hợp, tính khả thi

và có trình độ kỹ thuật pháp lý cao” [36, tr. 63; 145, tr. 159]. Tuy nhiên, trong thực tế

55

việc lựa chọn tiêu chí nào để đánh giá thể chế pháp lý phải căn cứ vào đặc điểm nội

dung điều chỉnh của thể chế pháp l đó và mục đích muốn hoàn thiện thể chế pháp lý

đó. Với nội dung điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến bảo đảm QTCCL của

NNN bị XHTD, thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD cần xem xét nội

dung các quy phạm điều chỉnh đến vấn đề này, do vậy thể chế pháp lý này cần được

đánh giá trên các tiêu chí: mức độ toàn diện, đồng bộ, thống nhất và phù hợp với thực

tiễn, thông lệ quốc tế, cụ thể là:

Một là, mức độ toàn diện, đồng bộ và thống nhất của thể chế pháp lý bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD. Thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD do

nhà nước ban hành phải có khả năng bao phủ hết các HVVP đến quyền bất khả xâm

phạm và tự do tình dục của con người; các chế tài đưa ra đủ sức răn đe đối với người có

hành vi XHTD; các biện pháp đền bù và khắc phục cho NNN bị XHTD phải thoả đáng

tương xứng với những thiệt hại về thể chế và tinh thần của họ; các biện pháp xử l đủ

sức răn đe đối với những hành vi cản trở, trì hoãn hoặc thực hiện sai quy định pháp luật

về bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD. Ngoài ra, thể chế pháp lý về thủ tục khởi tố,

điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án phải quy định rõ ràng, chặt chẽ, dễ thực hiện; đặc

biệt thủ tục tố tụng phải thân thiện, giảm thiểu tối đa những sang chấn tâm l đối với

NNN bị XHTD, đặc biệt đối với nạn nhân là trẻ em gái, như: điều tra viên phải mặc

thường phục; phòng xử án được trang trí đảm bảo tính thân thiện; xét xử kín; thực hiện

thủ tục đặc biệt; v.v..

Hai là, mức độ phù hợp của thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD

với thực tiễn và thông lệ quốc tế. Thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD

phải phù hợp với điều kiện KT-XH và thông lệ quốc tế, đặc biệt là các công ước quốc tế

mà quốc gia đó đã gia nhập như: Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị

năm 19 (ICCPR), Công ước loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm

1979 (C DAW), Công ước LHQ về Quyền trẻ em năm 1989 (CRC), Công ước số 190

của ILO về Chấm dứt Bạo lực và Quấy rối tại nơi làm việc năm 2019, v.v..

Thứ hai, tiêu chí đánh giá thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.

Theo Khuyến nghị chung số 33 của Uỷ ban về xoá bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ

của LHQ về QTCCL của phụ nữ, mức độ hoàn thiện của thiết chế bảo đảm QTCCL của

NNN bị XHTD được đo lường bởi 06 yếu tố sau: khả năng thực thi công lý

(Justiciability); khả năng sẵn có (Availability); khả năng tiếp cận (Accessibility); đảm

bảo chất lượng tốt (Good quality); cung cấp các biện pháp khắc phục (Provision of

remedies); khả năng chịu trách nhiệm (Accountability) [216, tr. 5], cụ thể là:

56

(1) Khả năng thực thi công lý yêu cầu các thiết chế tư pháp hông có bất cứ cản

trở nào để phụ nữ thực hiện QTCCL theo đúng pháp luật.

(2) Khả năng sẵn có yêu cầu thành lập hệ thống toà án, các cơ quan tư pháp hác

và các cơ quan hỗ trợ, cơ quan giám sát phù hợp, thuận lợi để bảo đảm QTCCL của phụ

nữ (ở đô thị, nông thôn và vùng sâu, vùng xa), đặc biệt đối với trường hợp phụ nữ bị

xâm hại, cần phải có những hỗ tài chính, y tế, pháp lý.

(3) Khả năng tiếp cận yêu cầu các thiết chế đảm bảo và tạo điều kiện thuận lợi cho

phụ nữ được dễ dàng tiếp cận (xoá bỏ rào cản về kinh tế, về ngôn ngữ, đảm bảo quyền

truy cập công nghệ thông tin và truyền thông, các dịch vụ hỗ trợ khác).

(4) Đảm bảo chất lượng tốt yêu cầu các cơ quan tư pháp phải đáp ứng tiêu chuẩn

quốc tế về tính hiệu lực, hiệu quả, độc lập, khách quan và cung cấp các biện pháp đền

bù, khắc phục hậu quả phù hợp với đặc thù nhạy cảm về giới cho tất cả phụ nữ.

(5) Cung cấp các biện pháp khắc phục yêu cầu các thiết chế cung cấp các thủ tục

và các biện pháp hỗ trợ để PNTEG nhận được sự bảo vệ hữu hiệu và khắc phục thoả

đáng đối với những thiệt hại mà họ gặp phải (như cung cấp và thi hành các biện pháp

phù hợp, kịp thời để chống lại những phân biệt đối xử đối với PNT G và đảm bảo rằng

PNTEG có quyền tiếp cận các phương thức khắc phục hiệu quả, kịp thời, toàn diện và tỷ

lệ thuận với những thiệt hại mà họ phải gánh chịu).

(6) Khả năng chịu trách nhiệm thông qua hoạt động kiểm soát, hệ thống tư pháp

chính thức đảm bảo thực hiện đúng theo các yêu cầu, đó là: khả năng thực thi công lý,

khả năng sẵn có, khả năng tiếp cận, đảm bảo chất lượng tốt, cung cấp các biện pháp

khắc phục hiệu quả. Ngoài ra, tính chịu trách nhiệm còn yêu cầu giám sát hoạt động của

cán bộ tư pháp và việc phải chịu trách nhiệm pháp lý khi họ vi phạm pháp luật (như phát

triển cơ chế độc lập và hiệu quả trong việc quan sát và giám sát việc thực hiện QTCCL

của PNTEG).

Thứ ba, tiêu chí đánh giá các nguồn lực để vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của

NNN bị XHTD.

Để CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được vận hành trong thực tế, các

nguồn lực phải đáp ứng các tiêu chí sau: Một là, đối với nhân lực (đội ng cán bộ, công

chức, viên chức) làm việc trong các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD phải

đảm bảo đủ về số lượng, cơ cấu hợp l , năng lực chuyên mộn nghiệp vững vàng, có đạo

đức nghề nghiệp tốt; Hai là, đối với vật lực phải được bảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất, kỹ

thuật và nguồn lực tài chính để các các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD

vận hành tốt trong thực tế.

57

2.2.2.2. Tiêu chí đánh giá cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của

nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở trạng thái động

Ở trạng thái động, việc đánh giá CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD

được căn cứ theo kết quả vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD trong

thực tế, trong đó căn cứ vào tiêu chí: (1) hiệu lực; (2) hiệu quả.

Thứ nhất, mức độ hiệu lực của CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.

Hiệu lực của CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được hiểu là sự thực

hiện đúng, đủ nhiệm vụ, quyền hạn và hoạt động có kết quả phù hợp với chức năng,

nhiệm vụ quản lý của cơ quan mình theo sự phân công, phối hợp giữa các thiết chế bảo

đảm QTCCL của NNN bị XHTD. Mức độ hiệu lực của CCPL bảo đảm QTCCL của

NNN bị XHTD thể hiện việc các thiết chế này thực hiện đúng, đủ chức năng, nhiệm vụ

của mình trong quá trình bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, đặc biệt là thiết chế tư

pháp chính thức (cơ quan điều tra, cơ quan công tố, toà án, cơ quan thi hành án); thể chế

pháp lý, thiết chế và các nguồn lực tương thích và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trong

quá trình bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.

Thứ hai, mức độ hiệu quả của CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.

Hiệu quả là mục tiêu của hoạt động quản lý, đó chính là sự so sánh giữa các chi phí

– đầu vào. Nên mức độ hiệu quả phản ánh tương quan giữa kết quả đạt được so với mục

đầu vào với giá trị của đầu ra, là mối tương quan giữa sử dụng nguồn lực và tỷ lệ đầu ra

tiêu đã đề ra trong phạm vi các nguồn lực đã chi dùng. Việc đánh giá hiệu quả của

CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD thể hiện thông qua sự so sánh, đối chiếu

các kết quả đạt được với mục tiêu đã đề ra trong phạm vi nguồn lực đã sử dụng, theo đó,

cơ chế này có hiệu quả khi kết quả thực hiện các nội dung bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD đạt được bằng hoặc cao hơn so với mục tiêu đã đề ra với chi phí thấp nhất. Biểu

hiện nổi lên hàng đầu của tiêu chí này là mức độ gia tăng năng lực TCCL của NNN bị

XHTD trong thực tế, trong đó thể hiện mức độ gia tăng sự hiểu biết pháp luật về

QTCCL của NNN bị XHTD, c ng như hả năng theo đuổi vụ án đến cùng và mức độ

đền đền bù, khắc phục thoả đáng đối với những thiệt hại mà NNN phải gánh chịu. Trong

đó, việc đánh giá năng lực TCCL của NNN bị XHTD được đo lường bởi các tiêu chí: (i)

Mức độ biết pháp luật của NNN bị XHTD. Mức độ hiểu biết pháp luật của NNN bị

XHTD thể hiện ở bản thân nạn nhân hiểu rõ quyền lợi của bản thân, hiểu rõ những hành

vi tình dục trái pháp luật và hiểu rõ nghĩa vụ của các chủ thể khác phải bảo vệ quyền lợi

hợp pháp của mình; đồng thời hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chức năng

trong việc thụ lý, xử lý vụ án, c ng như trình tự, thủ tục giải quyết vụ án lên quan đến

XHTD; (ii) Khả năng theo đuổi vụ án của NNN bị XHTD. Khả năng theo đuổi vụ án

58

đến cùng của NNN bị XHTD thể hiện ở khả năng tài chính của NNN bị XHTD để chi

trả cho việc thuê luật sư, thuê các dịch vụ pháp lý, di chuyển, ăn ở trong quá trình giải

quyết vụ án.

2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công

lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục

Trong quá trình vận hành, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD chịu tác

động nhiều yếu tố, đó là: chính trị, pháp lý, kinh tế và văn hoá - xã hội.

Thứ nhất, chính trị là yêu tố chi phối đến sự vận hành của cả hệ thống chính trị,

đặc biệt là nhà nước, mối quan hệ giữa nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội. Đặc

biệt thể chế chính trị là yếu tố rất quan trọng của một quốc gia, chi phối lớn đến tổ chức

và vận hành thông qua hệ thống tư pháp chính thức, hệ thống giám sát và hệ thống hỗ

trợ, tư vấn pháp lý trong bảo đảm QCN nói chung và QTCCL của NNN bị XHTD nói

riêng.

Thứ hai, pháp lý là yếu tố đặc biệt quan trọng của CCPL bảo đảm QTCCL của

NNN bị XHTD, vì thế chất lượng của thể chế pháp lý sẽ ảnh hưởng to lớn đến hiệu lực

và hiệu quả hoạt động của CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế.

Nếu thể chế pháp lý có chất lượng tốt sẽ nâng cao hiệu lực, hiệu quả vận hành của

CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, ngược lại sẽ cản trở sự vận hành CCPL

bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, từ đó làm suy giảm hiệu lực, hiệu quả của cơ chế

này trong thực tế.

Thứ ba, yếu tố kinh tế có tác động mạnh đối với CCPL bảo đảm QTCCL của

NNN bị XHTD, nếu kinh tế phát triển, nguồn NSNN dồi dào, nhà nước sẽ tăng ngân

sách đầu tư cho các dự án để nâng cao năng lực TCCL cho người dân, bao gồm

PNTEG, từ đó góp phần nâng cao năng lực TCCL của NNN bị XHTD, thêm vào đó,

kinh tế phát triển sẽ thúc đẩy nâng cao mức sống và nâng cao trình độ dân trí cho người

dân, bao gồm cả PNTEG, qua đó góp phần nâng cao ý thức pháp luật và khả năng theo

đuổi vụ án XHTD của NNN bị XHTD, từ đó, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD sẽ vận hành thuận lợi trong thực tế. Ngược lại, nếu nền kinh tế kém phát triển,

NSNN thâm hụt, nhà nước sẽ hông ưu tiên đầu tư ngân sách cho các dự án nâng cao

năng lực TCCL cho người dân, theo đó, năng lực TCCL của NNN bị XHTD sẽ bị suy

giảm, khả năng bỏ cuộc của NNN bị XHTD có nguy cơ tăng cao. Từ đó, CCPL bảo

đảm QTCCL của NNN bị XHTD sẽ vận hành hó hăn trong thực tế.

Thứ tư, yếu tố văn hoá- xã hội tác động đến nhận thức, tâm lý, thói quen, tập quán,

lối sống, v.v.. của người dân. Đối với các vụ án XHTD, yếu tố văn hoá - xã hội tác động

lớn đến việc thụ lý và xử lý các vụ án XHTD.

59

Trong xã hội, nếu trình độ dân trí thấp, c ng như sự hiểu biết pháp luật của người

dân chưa đầy đủ dẫn đến bản thân họ không nhận thức rõ những hậu quả nguy hiểm của

các hành vi XHTD và phân biệt rõ đâu là hành vi XHTD, đâu hông phải là hành vi

XHTD; ngoài ra, nếu người dân không hiểu rõ quy trình, thủ tục giải quyết vụ án XHTD

và quyền, nghĩa vụ của bản thân, trách nhiệm người có hành vi XHTD, c ng như trách

nhiệm của các cơ quan chức năng trong thụ lý và giải quyết vụ án XHTD sẽ gây khó

hăn cho các cơ quan chức năng trong quá trình tiếp nhận, thụ lý và xử lý vụ án XHTD.

Đồng thời, với sự thiếu hiểu biết đó dẫn đến bản thân họ không chủ động, tích cực trong

quá trình tìm kiếm công lý cho bản thân, vì thế, việc bảo đảm QTCCL cho đối tượng

này sẽ gặp những hó hăn trong thực tế.

Bên cạnh đó, những rào cản về văn hoá- xã hội của NNN bị XHTD như mặc cảm

với gia đình và cộng đồng; không dám tố cáo người XHTD, đặc biệt đó lại là người thân

của NNN, v.v.. dẫn đến việc giải quyết các vụ án XHTD thêm hó hăn. Ngoài ra, một

số nơi còn có tư tưởng đổ lỗi (Victim-blaming), khi NNN khi bị XHTD, bản thân họ tự

đổ lỗi cho mình hoặc gia đình, xã hội đổ lỗi cho họ như: đi chơi vào buổi tối; chụp hình

khỏa thân; mặc quần áo bó, váy ngắn; thích gần g i; say xỉn; v.v.. Những yếu tố văn

hoá, xã hội trên là những rào cản rất lớn đối bản thân nạn nhân c ng như đối với các cơ

quan nhà nước có thẩm quyền và xã hội trong việc thực hiện những biện pháp cần thiết

để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, vì thế nó sẽ tác động tiêu cực đến việc vận

hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế. Ngược lại, nếu “cởi bỏ”

được những yếu tố tiêu cực trên, các yếu tố văn hoá-xã hội thực sự trở thành những yếu

tố thân thiện, khuyến khích, hỗ trợ, thúc đẩy NNN bị XHTD TCCL, tìm kiếm và đạt

được sự đền bù và khác phục thoả đáng những thiệt hại của bản thân và trừng trị nghiêm

minh những người XHTD, từ đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả vận hành thực tế của

CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.

2.3. CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ CỦA NẠN

NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ

GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM

2.3.1. Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị

xâm hại tình dục ở một số quốc gia trên thế giới

XHTD diễn ra ở mọi quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ có CCPL bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD cụ thể, phù hợp với điều kiện KT-XH của quốc gia mình.

Mỗi CCPL sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có lịch sử, truyền thống, văn hoá và

HTPL của quốc gia mình, vì thế để rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam trong

quá trình hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, luận án này nghiên

60

cứu thực tiễn của Trung Quốc (đại diện cho chính thể cộng hoà XHCN), Hàn Quốc (đại

diện cho chính thể cộng hoà hỗn hợp), Nhật Bản (đại diện cho chính thể quân chủ đại

nghị). Đây là các quốc gia có những nét tương đồng về văn hoá so với Việt Nam, thông

qua những cải cách mạnh mẽ, các quốc gia này đã trở thành những “con rồng, con hổ” ở

châu Á. Khảo nghiệm thực tiễn CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở các quốc

gia này sẽ đem lại những giá trị tham khảo cho Việt Nam hiện nay.

2.3.1.1. Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm

hại tình dục ở Hàn Quốc

Thứ nhất, khái quát CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Hàn Quốc.

Hàn Quốc là quốc gia theo mô hình cộng hoà tổng thống, mặc dù nước này có thủ

tướng nhưng “Tổng thống có tất cả các quyền hành pháp quan trọng và thủ tướng được

xem là tương đương với phó Tổng thống” [95, tr. 407]. Với chính thế này, CCPL bảo

đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Hàn Quốc được tổ chức như sau:

Một là, thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Hàn Quốc.

Để bảo đảm QTCCL của người dân Hàn Quốc nói chung và NNN bị XHTD nói

riêng, Hiến pháp Hàn Quốc năm 1948 (sửa đổi, bổ sung năm 1987) đã hiến định các

quyền và nghĩa vụ của công dân (từ Điều 10 đến Điều 9), trong đó, quy định rõ “ ọi

công dân đều được bảo đảm về giá trị và phẩm giá con người và có quyền mưu cầu hạnh

phúc. Nhà nước có trách nhiệm xác nhận và đảm bảo các quyền con người cơ bản và bất

khả xâm phạm của cá nhân (Điều 10)” [235, tr. 4]. Trên cơ sở đó, Hàn Quốc ban hành

HTPL bảo vệ NNN bị XHTD tương đối đa dạng và phong phú, trong đó quy định các

hành vi XHTD, các biện pháp chế tài đối với những hành vi này, như: BLHS các năm

1953 (sửa đổi, bổ sung các năm 1975, 1988, 1995, 1997, 2001, 2004, 2005, 2010, 2012,

201 ) quy định: tội tấn công tình dục (Điều 107, 108); tội hiếp dâm (Điều 297, 297-2,

299, 301, 301-2); tội cư ng dâm (298, 299); tội quan hệ tình dục với người chưa thành

niên (Điều 302, 305); tội lạm dụng tình dục (Điều 0 ): “Người nào lừa dối hoặc lợi

dụng quyền hành của mình để quan hệ tình dục với nhân viên dưới quyền hay người do

mình bảo trợ thì bị phạt tù đến 05 năm hay bị phạt tiền đến 15 triệu won; nếu quan hệ

với người do mình chăm sóc thì bị phạt tù đến 07 năm” [236]. Để cụ thể hoá các biện

pháp bảo vệ quyền cho nạn nhân bị XHTD, Hàn Quốc còn ban hành Luật phòng, chống

XHTD trẻ em và thanh, thiếu niên năm 2009, sửa đổi bổ sung năm 2010, 2012, 201 ,

2014, 2018) (Act on the Protection of Children and Youth against Sex Offenses), quy

định các trường hợp đặc biệt liên quan đến hình phạt các tội XHTD đối với trẻ em và

thanh, thiếu niên (người dưới 19 tuổi) và các thủ tục đặc biệt và những hỗ trợ cần thiết

để làm giảm thiệt hại cho nạn nhân và hỗ trợ họ trở lại với cộng đồng (Điều 1, 2) [257].

61

Trong đó quy định rõ hành vi, khung hình phạt đối với các hành vi XHTD đối với trẻ

em và thanh thiếu niên, đó là: hiếp dâm (Điều 7); cư ng dâm với trẻ em và thanh thiếu

niên khuyết tật (Điều 8); mua bán dâm với trẻ em và thanh thiếu niên (Điều 13); v.v..

Để phòng, chống vấn nạn quấy rối tình dục nơi làm việc, Luật bình đẳng việc làm

và hỗ trợ hoà hợp gia đình người lao động Hàn Quốc năm 1987 (sửa đổi, bổ sung các

năm 1989, 1995, 1991, 2001, 2005, 2007, 2009, 2010) đã đưa ra định nghĩa về hành

vi quấy rối tình dục nơi làm việc: “Quấy rối tình dục nơi làm việc dùng chỉ tình huống

xảy ra hi người sử dụng lao động, quản đốc hay người lao động dùng lời lẽ, hành

động hay bất cứ yêu cầu nào có yếu tố tình dục đối với người lao động do mình quản

lý tại nơi làm việc hoặc nơi có liên quan đến việc làm hoặc đưa ra những bất lợi

trong làm việc … làm cho họ cảm thấy xấu hổ, nhục nhã hay bị xúc phạm” (Khoản 2

Điều 2). Tại chương 2 của Luật này quy định các biện pháp phòng chống hành vi

quấy rối tình dục tại nơi làm việc; cấm các hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc

(Điều 12); tuyên truyền, phổ biến, giáo dục để ngăn chặn các hành vi quấy rối tình

dục nơi làm việc (Điều 13, 13-2); kiểm soát các trường hợp quấy rối tình dục nơi làm

việc (Điều 14, 14-2).

Theo Luật Tiêu chuẩn lao động, người sử dụng lao động có nghĩa vụ bảo

vệ nhân viên của mình khỏi bị quấy rối tình dục ở nơi làm việc; hông được

phép sa thải hoặc gây tổn hại cho nạn nhân bị quấy rối tình dục hoặc người khác

(nhân viên) đã tố cáo hành vi quấy rối tình dục. Nạn nhân có thể yêu cầu tòa án

và Ủy ban Quan hệ Lao động - cơ quan tư pháp bán chuyên trách, c ng như Ủy

ban Nhân quyền Quốc gia bảo vệ quyền lợi cho mình [239, tr. 2].

Năm 2019, Hàn Quốc đã sửa đổi, bổ sung Luật Tiêu chuẩn lao động và Luật

bảo hiểm tai nạn lao động có hiệu lực từ ngày 16/7/2019 nhằm tăng cường các biện

pháp phòng chống các hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Trong đó, các luật

này đã quy định rõ hành vi quấy rối tình dục, đồng thời cho ph p người lao động tố

giác hành vi quấy rối tình dục nơi làm việc; người sử dụng lao động phải có trách

nhiệm thực hiện các biện pháp đền bù, khắc phục thoả đáng cho nạn nhân. Người có

hành vi quấy rối tình dục nơi làm việc có thể bị phạt tiền đến 30 triệu won hoặc bị

phạt tù đến năm.

Ngoài ra, Hàn Quốc đã áp dụng hình phạt thiến hóa học đối với các tội phạm ấu

dâm. Vào tháng 7/2011, Hàn Quốc là quốc gia đầu tiên ở Châu Á áp dụng “thiến hóa

học” như một hình phạt đối với tội phạm tình dục [233]. Theo đó, tất cả tội phạm xâm

hại tình dục trẻ em dưới 16 tuổi có thể bị áp dụng hình phạt này. Tuy nhiên, người dân

tiếp tục kêu gọi gia tăng các hình phạt đối với những loại tội phạm này. Năm 201 , Hàn

62

Quốc mở rộng thiến hóa học đối với những kẻ bị kết án xâm hại tình dục trẻ vị thành

niên dưới 19 tuổi [90].

Bên cạnh đó, Hiến pháp Hàn Quốc quy định quyền hạn và nghĩa vụ của cơ quan tư

pháp trong bảo vệ công lý và bảo vệ QCN: “Quyền lực tư pháp được trao cho tòa án bao

gồm các thẩm phán. Các tòa án bao gồm Tòa án Tối cao, là tòa án cao nhất trong bộ

máy nhà nước, và các tòa án khác ở các cấp” (Điều 101 (1) (2)); “Việc xét xử và các

phán quyết của toà án phải được công khai. Tuy nhiên, trong trường hợp phiên tòa có

thể ảnh hưởng đến an ninh quốc gia hay tổn hại đến an toàn và trật tự công cộng, hoặc

có thể tổn hại đến đạo đức công chúng, các phiên tòa có thể được xử kín theo quyết định

của tòa án (Điều 109)”. BLTTHS Hàn Quốc năm 1954 (sửa đổi, bổ sung năm 2007) quy

định chặt chẽ việc thực hiện quyền bảo chữa, tăng cường bảo vệ quyền của nạn nhân,

tăng cường vai trò của toà án, gia tăng tính hợp pháp của các thủ tục tố tụng [95, tr. 413],

trong trường hợp công tố viên quyết định không buộc tội, toà án có thẩm quyền yêu cầu

thực hiện việc xét xử quyết định của công tố viên có đúng hông, nếu xét thấy có cơ sở,

toà án sẽ quyết định truy tố gửi văn bản đến Trưởng Công tố của văn phòng công tố

quận để phân công một công tố viên khác phụ trách vụ án và công tố viên đó sẽ tiến

hành truy tố (gọi là thủ tục buộc tội theo lệnh toà) (Điều 260, 262). Ngoài ra, theo Luật

Văn phòng Công tố năm 2009, nếu công tố viên ra quyết định không buộc tội, người bị

hại có quyền háng cáo lên văn phòng công tố cấp trên trong thời hạn 30 ngày kể từ

ngày được thông báo, nếu tiếp tục bị từ tối, nạn nhân có thêm 0 ngày để kháng cáo lên

Văn phòng Công tố tối cao (Điều 10), nếu tiếp tục bị bác đơn, nạn nhân có thể nộp đơn

khiếu nại đến Toà hiến pháp (theo Điều 67, 68 Luật Toà án Hiến pháp).

Những quy định này đặt nền móng cho việc vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của

NNN bị XHTD ở Hàn Quốc. Ngoài ra, Luật phòng, chống XHTD trẻ em và thanh, thiếu

niên năm 2009, sửa đổi bổ sung năm 2010, 2012, 201 , 2014, 2018) quy định rõ trách

nhiệm và nghĩa vụ đối với các cấp chính quyền và xã hội trong việc bảo vệ quyền cho

nạn nhân bị XHTD, đó là: hảo sát và nghiên cứu và cung cấp các dịch vụ phổ biến,

giáo dục, hoàn thiện khung pháp lý và thiết chế, để ngăn chặn các hành vi XHTD đối

với trẻ em, thanh thiếu niên và bảo vệ họ khỏi bị XHTD. Để tăng cường nhận diện các

hành vi XHTD, Nhà nước nỗ lực hợp tác quốc tế thông qua chia sẻ thông tin tội phạm,

điều tra và nghiên cứu tội phạm, hợp tác theo luật hình sự quốc tế, dẫn độ tội phạm, v.v

(Điều 4). Mọi người dân phải nỗ lực cải thiện môi trường xã hội và bảo vệ, hướng dẫn

và giáo dục trẻ em và thanh thiếu niên để tránh trở thành nạn nhân hoặc trở thành phạm

nhân của các vụ XHTD (Điều 5) [257].

Hai là, thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Hàn Quốc.

63

Hệ thống toà án Hàn Quốc gồm: Toà án tối cao, Toà án Hiến pháp và sáu Toà án

thượng thẩm có thẩm quyền phúc thẩm, 13 Toà án quận và các toà án chuyên trách

hác, như: Toà án phát minh sáng chế, Toà án gia đình và Toà án hành chính. Năm

2007, Uỷ ban Tuyên án được thành lập, trực thuộc Toà án tối cao nhằm đảm bảo việc

tuyên án công bằng, khách quan. Uỷ ban này đã xây dựng các hướng dẫn về tuyên án

cho các loại tội phạm, như: tội phạm tình dục, vu khống, giết người, hối lộ, biển thủ, bội

ước và cướp của.

Văn phòng Công tố tối cao tại Hàn Quốc là nơi duy nhất có thẩm quyền truy tố các

tội hình sự [95, tr. 409], đây là cơ quan trong Bộ Tư pháp. Văn phòng Công tố tối cao có

chi nhánh trên toàn quốc, gồm 05 văn phòng công tố cấp cao, 18 văn phòng công tố

quận và 0 văn phòng chi nhánh của Công tố quận.

Tổ chức luật sư được phân bổ theo tuyến đô thị với nhiều đoàn luật sư ở các thành

phố khác nhau và một cơ quan trung ương là Liên đoàn Luật sự Hàn Quốc. Khoảng gần

50% luật sự hành nghề tại Seoul và các khu vực lân cận, do đó “Đoàn Luật sư Seoul có

vai trò đặc biệt quan trọng trong giới luật sư c ng như trong hoạt động TGPL cho người

dân” [95, tr. 409].

Từ năm 1987, Hàn Quốc thành lập một số cơ quan giám sát độc lập có nhiệm vụ

bảo đảm các quyền công dân, bao gồm Thanh tra QH (Ombudsman), Uỷ ban Chống

tham nh ng và Quyền dân sự. Năm 2011, Hàn Quốc thành lập Uỷ ban Nhân quyền quốc

gia. Thông qua các thiết chế này, hoạt động của các cơ quan tư pháp được giám sát chặt

chẽ, QCN được bảo đảm ngày một tốt hơn.

Để nâng cao năng lực tiếp cận công lý của NNN bị XHTD, Hàn Quốc đã áp dụng

nhiều biện pháp, đặc biệt là phát triển hệ thống TGPL chuyên nghiệp. Hệ thống TGPL

của Hàn Quốc được cung cấp qua ba phương thức: Cơ quan TGPL Hàn Quốc (KLAC);

toà án cử luật sư miễn phí; các tổ chức phi chính phủ (Hiệp hội Luật sư Hàn Quốc

(KBA), tổ chức khu vực hoặc các tổ chức dân sự khác, như: Trung tâm TGPL về quan

hệ gia đình, Khối đoàn ết nhân dân vì chế độ dân chủ nhân dân, Liên đoàn Luật sư Hàn

Quốc và các nhóm bảo vệ quyền lợi người dân khác [114]. KLAC là một tổ chức công

cấp dịch vụ pháp l như tư vấn pháp luật và đại diện tố tụng cho những người không có

đủ khả năng thuê luật sư.

KLAC được tổ chức theo ngành dọc, hiên nay có 18 Văn phòng đại diện, 40

Chi nhánh và 63 tiểu Chi nhánh tại các địa phương có trụ sở cơ quan cảnh sát điều

tra. Chủ tịch KLAC được Nghị viện phê chuẩn trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng

Bộ Tư pháp và phải báo cáo, trả lời chất vấn tại Nghị viện về công tác TGPL [95,

tr. 462].

64

Nhà nước và các tổ chức xã hội Hàn Quốc đã thực hiện nhiều biện pháp để nâng

cao nhận thức của người dân về các hành vi XHTD ở Hàn Quốc. Trong bối cảnh đất

nước Hàn Quốc còn chịu nhiều rào cản từ xã hội gia trưởng, trọng nam khinh nữ, phong

trào MeToo (Phong trào chống quấy rối và bạo hành tình dục) ở Hàn Quốc đã phát động

mạnh mẽ từ sau vụ vận động viên trượt băng tốc độ ngắn Olympic Shim Suk-hee cáo

buộc huấn luyện viên của cô cư ng hiếp cô (tháng 1/2019), các chính sách về phòng,

chống quấy rối tình dục được cải cách mạnh mẽ hơn [259].

Ba là, nguồn lực đáp ứng yêu cầu vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD ở Hàn Quốc.

Nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD ở Hàn Quốc ngày càng tăng lên cả về chất và lượng. Đối với lực lượng cảnh sát

được đào tạo chính quy, bài bản tại Học biện Cảnh sát Trung ương, Trường Cao đẳng

Cảnh sát quốc gia và Trường Đào tạo Cảnh sát nâng cao. Đến nay, “số lượng cảnh sát

Hàn Quốc khoảng trên 100. 11 người” [95, tr. 423-424]. Ngân sách hàng năm phục vụ

cho các cơ quan tư pháp ngày một tăng, chỉ tính riêng “ngân sách cho cảnh sát ở Hàn

Quốc chiếm khoảng 4% ngân sách chính phủ hàng năm, mức tăng ngân sách hàng năm

cho lực lượng này là 5,6%” [95, tr. 424]. Đối với công tố viên, lực lượng này phải trải

qua kỳ thi tư pháp do Bộ Tư pháp tổ chức và sau đố hoàn tất hoá đào tạo hai năm tại

Viện Nghiên cứu và Đào tạo tư pháp do Toà án tối cao giám sát. Việc bổ nhiệm và phân

công tất cả các công tố viên do Tổng thống thực thiên theo đề xuất của Bộ Tư pháp, bao

gồm: Tổng công tố, Trưởng Công tố cấ cao, Trưởng Công tố và Công tố viên; trong đó,

Tổng công tố có nhiệm kỳ 02 năm, hông được tái bổ nhiệm, do Bộ Tư pháp chỉ đạo và

giám sát. Các công tố viên không là thành viên QH hoặc thành viên của Hội đồng địa

phương; hông tham gia bất kỳ phong trào chính trị nào; không tham gia hoạt động kinh

doanh có thu lợi nhuận; hông đảm nhận bất kỳ chức vụ nào có thù lao trừ trường hợp

được Bộ trưởng Bộ Tư pháp cho ph p (Điều 43 Luật Văn phòng Công tố).

Đối với lực lượng thẩm phán và người phục vụ trong ngành toà án ở Hàn Quốc

hiện nay trên 2. 00 người [95, tr. 435]. Chánh án Toà án tối cao được Tổng thống bổ

nhiệm với sự đồng ý của Nghị viện có nhiệm kỳ 0 năm; các Thẩm phán của Toà án tối

cao c ng được Tổng thống bộ nhiệm với sự đồng ý của Nghị viện và theo đề nghị của

Chánh án Toà án tối cao có nhiệm kỳ 0 năm; thẩm phán của toà án cấp dưới do Chánh

án Toà án tối cao bổ nhiệm với sự đồng ý của Hội đồng thẩm phán Toà án tối cao có

nhiệm kỳ 10 năm. Để trở thành thẩm phán, ứng viên phải vượt qua kỳ thi sát sạch tư

pháp và hoàn tất khoá học 02 năm tại Viện Nghiên cứu và Đào tạo tư pháp để được cấp

giấy hành nghề luật tại Hàn Quốc. Ngoài ra, Viện Đào tạo các viên chức toà án lập kế

65

hoạch và cung cấp các chương trình đào tạo và phát triển cho thư toà, cảnh sát viên

và các nhân viên khác thuộc ngành tư pháp. Thẩm phán và các viên chức toà án đều phải

giữ gìn và tu dư ng đạo đức. Năm 200 , Hàn Quốc thành lập văn phòng iểm tra đạo

đức tại Văn phòng Trị sự toà án; ngành tư pháp thực hiện các vụ kiểm tra đặc biệt tại các

khu vực có khả năng xảy ra vi phạm để ngăn chặn những vi phạm đạo đức.

Để đáp ứng yêu cầu thực tế, hàng năm ở Hàn Quốc có trên 1000 luật sư tốt nghiệp;

các luật sư tập hợp thành các đoàn luật sư cấp đô thị, có 14 đoàn luật sư trên toàn quốc,

trong đó đoàn luật sư Seoul là lớn nhất đặt dưới sự quản lý của Liên đoàn Luật sư Hàn

Quốc [95, tr. 471-472]. Hiện nay, tổng số nhân viên của Cơ quan TGPL Hàn Quốc

(KLAC) là 950 người, trong đó có hơn 250 luật sư công hưởng lương từ NSNN, mức

lương tương đương với mức lương của công tố viên. KLAC sử dụng kinh phí từ các

nguồn sau: kinh phí từ Chính phủ; tiền mặt và tài sản đóng góp của các cơ quan, tổ chức,

cá nhân khác; kinh phí triển khai các dự án; tiền thu được từ hoạt động kinh doanh của

KLAC và các nguồn thu hác. Hàng năm, ngân sách do Chính phủ cấp chiếm khoảng

45% tổng chi phí của KLAC, phần còn lại do huy động các nguồn lực khác (Bộ, tổ

chức, cá nhân) [175].

Thứ hai, thực tiễn vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Hàn

Quốc.

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và vụ án XHTD nói riêng, các

cơ quan tư pháp phối hợp chặt chẽ với nhau. Việc điều tra hình sự do nhân viên cảnh sát

tư pháp (đây là những người được giao nhiệm vụ điều tra hình sự, gồm những viên chứ

hành chính thuộc lực lượng cảnh sát, giám thị, đại uý, trung uý và cảnh sát tuần tra),

công tố viên và trợ lý công tố viên tiến hành; cảnh sát tư pháp chịu sự kiểm sát và giám

sát của các công tố viên. Sau khi kết thúc điều tra ban đầu của cảnh sát, hồ sơ được

chuyển cho văn phòng công tố và công tố viên sẽ tiếp tục điều tra bằng cách thẩm vấn

nghi can và những người có liên quan, nghiên cứu hồ sơ và các bằng chứng. Công tố

viên có thể tiến hành điều tra bổ sung khi cần thiết. Kết thúc điều tra, công tố viên phụ

trách sẽ quyết định có khởi tố hay không. Theo BLTTHS Hàn Quốc năm 1954 (sửa đổi,

bổ sung năm 2007), quan hệ giữa công tố viên và nhân viên cảnh sát tư pháp hông phải

quan hệ hợp tác mà là mối quan hệ thức bậc (Điều 19 ), do đó, công tố viên chỉ đạo và

giám sát các nhân viên cảnh sát tư pháp liên quan đến việc điều tra hình sự và các nhân

viên cảnh sát phải tuân theo lệnh của công tố viên (Điều 53 Luật Văn phòng Công tố),

trong trường hợp một cảnh sát tư pháp hông tuân lệnh công tố viên, công tố viên có thể

thông qua Trưởng Công tố viên yêu cầu cảnh sát đó ngừng điều tra hoặc yêu cầu nhân

viên cấp trên thay thế nhân viên cảnh sát đó (Điều 54 Luật Văn phòng Công tố).

66

Sau hơn 2 năm ể từ khi áp dụng thiến hóa học lần đầu tiên được đưa vào thực

hiện (từ tháng 6/2011), Hàn Quốc đã có 4 trường hợp bị tòa tuyên án phạt áp dụng hình

thức này. Chi phí cho mỗi lần thiến hóa học ước tính khoảng 4.501 USD (94 triệu đồng)

[152]. Tòa án quận phía nam Seoul (Hàn Quốc) ngày 3/1/2013 lần đầu tiên ra lệnh thiến

bằng hóa chất với một tội phạm mang họ Pyo, đã cư ng hiếp 5 trẻ em vị thành niên

trong thời gian từ tháng 11-2011 đến tháng 5-2012. Sau hi được chẩn đoán mắc chứng

rối loạn ham muốn tình dục, Pyo đã bị xử 15 năm tù giam và bị tiêm thuốc giảm ham

muốn tình dục thái quá. Ngoài ra, Pyo còn trải qua 200 giờ điều trị bệnh lý. Hồ sơ phạm

tội của y sẽ bị công khai trong suốt 10 năm tới và phải đeo vòng điện tử theo dõi suốt 20

năm sau hi ra tù. Bản án này đánh dấu một mốc đáng chú trong lịch sử pháp luật Hàn

Quốc bởi đây là lần đầu tiên biện pháp thiến hóa học được áp dụng kể từ khi luật này có

hiệu lực từ tháng 7-2011 [115].

Tội phạm tình dục xảy ra ở Hàn Quốc với tốc độ trung bình 3,4 mỗi giờ và 80,4

mỗi ngày; từ năm 2015, số vụ hiếp dâm tăng trung bình 10% vụ/năm. Số vụ quấy rối

tình dục, trước đây đã giảm từ 240 xuống 205 trong khoảng thời gian 2013-201 , đã

nhảy vọt lên 294 trong năm 2017 trong bối cảnh phong trào MeToo [232]. Thực tế cho

thấy, số vụ tấn công tình dục ở Hàn Quốc đã tăng từ 17.936 vụ vào năm 2011 lên 25.

vụ vào năm 2018 (tăng 41,4%) (Biểu đồ 2.1, Phụ lục 1). Trong những năm gần đây, Hàn

Quốc xảy ra nhiều vụ bê bối liên quan đến XHTD, đặc biệt là vụ XHTD trực tuyến

thông qua các phòng chat trên Telegram-“phòng chat thứ n”, ít nhất 10 NNN trong đó

26 người chưa thành niên. Từ vụ án này, cho thấy Hàn Quốc thiếu quy định pháp luật

liên quan để trừng phạt các tội phạm liên quan đến các dịch vụ nhắn tin di động như

Telegram vì hông có điều khoản nào bao gồm chính xác một vụ án như vậy, hình phạt

sẽ được quyết định bởi tòa án, dựa trên các quy định trong Luật phòng, chống XHTD trẻ

em và thanh, thiếu niên năm 2009, sửa đổi bổ sung năm 2010, 2012, 201 , 2014, 2018)

[223]. Chính vì thế, sau vụ “phòng chat thứ n”, tháng 5/2020, QH Hàn Quốc đã thông

qua Luật phòng ngừa sự cố phòng chat thứ N trên Telegram, trong đó tăng nặng hình

phạt đối với các tội phạm tình dục, người có hành vi tàng trữ, mua bán hoặc xem ảnh,

video đồi trụy bất hợp pháp nếu bị bắt sẽ nhận án phạt dưới năm tù giam và phạt tiền

30 triệu won; người có hành vi đe dọa cư ng ép người khác quay, chụp các sản phẩm

tình dục sẽ bị phạt tù từ 1- năm [61].

Thực tế này cho thấy, Hàn Quốc đã có rất nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện

CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, đặc biệt là hoàn thiện thể chế pháp lý,

trong đó gia tăng hung hình phạt và áp dụng những biện pháp đặc biệt đối với người

XHTD, tuy nhiên, việc đấu tranh đối với tội phạm này gặp rất nhiều hó hăn, đặc biệt

67

các đối tượng này còn sử dụng các thành tựu khoa học, công nghệ để XHTD đối với

PNTEG.

2.3.1.2. Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm

hại tình dục ở Nhật Bản

Thứ nhất, khái quát CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Nhật Bản.

Nhật Bản là quốc gia theo chính thế quân chủ đại nghị, đảm bảo sự độc lập tương

đối của nhánh quyền tư pháp đối với nhánh quyền lập pháp và hành pháp. Từ năm 1999,

Hội đồng CCTP lầm thời (JRC) được thành lập đã đưa ra các huyến nghị về cải cách

hệ thống tư pháp hình sự, như:

Hoàn thiện hệ thống bào chữa; hoàn thiện và đẩy nhanh tiến độ xét xử các vụ

án; tăng cường vai trò của hoạt động công tố; bảo vệ người bị hại; hiện thực hoá về

một hệ thống tư pháp dễ hiểu; tăng cường giáo dục về HTPL; khuyến khích công

hai thông tin liên quan đến hệ thống tư pháp; v.v.. [95, tr. 291-292].

Trên cơ sở đó, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Nhật Bản được tổ

chức như sau:

Một là, thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Nhật Bản.

Hiến pháp Nhật Bản quy định các quyền và nghĩa vụ của nhân dân (từ Điều 10 đến

Điều 40), trong đó ghi rõ “ ọi người đều được hưởng các quyền cơ bản. Những quyền

đó là vĩnh viễn, bất khả xâm phạm dành cho công dân Nhật không chỉ ở thế hệ này mà

còn ở các thế hệ tương lai và được bảo đảm trong Hiến pháp này (Điều 11)” [228]. Với

quy định này, mọi người dân Nhật Bản đều bình đẳng trước pháp luật, tất cả mọi người

đều được đối xử công bằng, cơ quan tài phán đưa ra phán quyết một cách khách quan

trên cơ sở pháp luật và theo thục tục rõ ràng.

Hiến pháp đã thiết lập quyền lực tư pháp với tư cách là một nhánh quyền lực độc

lập với các nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp “Toàn bộ quyền tư pháp được trao

cho Toà án Tối cao và toà án các cấp được thành lập theo quy định của pháp luật. Không

được thành lập bất kỳ một Toà án đặc biệt nào c ng như không một cơ quan Hành pháp

được trao quyền tư pháp cuối cùng (Điều 77)” [228]. Quy định này được cho rằng, tư

pháp là “người gác cổng cuối cùng đối với quyền tự do của nhân dân, người duy trì trật

tự pháp lý với đỉnh cao là Hiến pháp” [95, tr. 294], vì thế, Hiến pháp Nhật Bản c ng quy

định rõ: “Các phiên tòa được xét xử công khai và các bản án phải được công bố. Nếu

các thẩm pháp thống nhất rằng việc xét xử công khai không có lợi cho trật tự công cộng

hoặc ảnh hưởng tới đạo đức, phiên tòa sẽ được xét xử ín (Điều 82)” [228]. Những quy

định này nhằm hướng đến nền tư pháp liêm chính, độc lập, khách quan, công khai, minh

bạch.Thêm vào đó, Hiến pháp còn quy định “Bị cáo được luật sư bào chữa. Nếu trong

68

các quy trình thủ tục, bị cáo không có tiền thuê luật sư thì toà án sẽ chỉ định một luật sư

để bào chữa cho bị cáo (Điều 7)” [228].

Để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, Nhật Bản đã ban hành sắc lệnh Chống

Quấy nhiễu riêng biệt tại tất cả 47 tỉnh thành toàn quốc và Mục 176 của BLHS quy định

về hình phạt đối với dâm ô. Tuy nhiên, mức hình phạt rất khác nhau giữa sắc lệnh và

Luật hình sự: “theo sắc lệnh, những người phạm tội như sờ soạng phụ nữ bị phạt đến 6

tháng tù hoặc đóng phạt 500.000 yen (4.500 USD). Tuy nhiên, BLHS quy định mức

phạt từ tháng đến 10 năm tù đối với các hành vi phạm tội nghiêm trọng” [155].

Hiện nay, pháp luật về tội phạm tình dục ở Nhật Bản tiếp tục được cải cách theo

hướng quy định rõ các hành vi XHTD và gia tăng hình phạt đối với các hành vi XHTD

so với trước đây. Ngày 16/3/2017, Nội các đã đệ trình một dự luật lên Nghị viện Nhật

Bản về việc sửa đổi một phần của BLHS năm 1907 [258], trong đó “Hình phạt tối thiểu

cho những kẻ hiếp dâm sẽ được nâng từ ba năm hiện tại lên năm năm (Điều 177)” [249].

Hai là, thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Nhật Bản.

Toà án là thiết chế trung tâm trong bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Nhật

Bản. Hiện nay ở Nhật Bản, hệ thống tòa án có ba cấp: tòa án tối cao (supreme court), tòa

án cấp cao (hight court), tòa án sơ thẩm (gồm: tòa án quận/huyện (district court), tòa án

gia đình (family court) và tòa án giản lược/rút gọn (summary court)); 8 tòa án cấp cao

nằm ở 8 thành phố chính, đó là: Sapporo, Sendai, To yo, Nagoya, Osa a, Hiroshima,

Takamatsu và Fukuoka; 50 tòa án quận/huyện (trong đó, 47 tỉnh mỗi tỉnh thiết lập 1 toà,

riêng tỉnh Ho aidō thiết lập thêm 3 toà ở 3 thành phố Hakodate, Asahikawa và Kushiro

(Cả nước Nhật Bản chia thành 47 đơn vị hành chính (tỉnh), mỗi đơn vị hành chính có

một toà án quận/huyện, riêng Đảo Ho aidō thành lập 4 toà)), 50 toà gia đình (được đặt

cùng địa điểm với toà quận/huyện) và 438 tòa án giản lược/rút gọn. Trong đó, Tòa án tối

cao là cơ quan tư pháp cao nhất, là cấp xét xử cuối cùng ở Nhật Bản, thực hiện chức

năng tái thẩm, giám đốc thẩm đối với những bản án, quyết định của tòa án cấp dưới; Tòa

án cấp cao là tòa án cấp trung thẩm, có thẩm quyền xét xử kháng cáo, kháng nghị đối

với bản án, quyết định của tòa án cấp dưới (riêng Toà án cấp cao ở Tokyo có thẩm

quyền duy nhất xét xử sơ thẩm đối với các vụ án yêu cầu huỷ bỏ quyết định của các cơ

quan tài phán hành chính như Uỷ ban Thương mại công bằng); Tòa án sơ thẩm, có thẩm

quyền xét xử sơ thẩm các vụ án, bao gồm: tòa án quận/huyện là toà án thẩm quyền

chung, có thẩm quyền xét xử các vụ án dân sự, hình sự và hành chính; tòa án gia đình là

toà chuyên trách, có thẩm quyền thụ lý và xét xử các vụ án liên quan đến hôn nhân, gia

đình và người chưa thành niên; tòa án giản lược/rút gọn là toà án có thẩm quyền hạn

chế, thụ lý và xét xử các vụ kiện dân sự nhỏ (tranh chấp tài sản không vượt quá

69

1.400.000 yên) và các tội hình sự nhỏ (kháng cáo, kháng nghị bản án dân sự của toà này

do toà án quận/huyện xét xử phúc thẩm; kháng cáo, kháng nghị bản án hình sự của toà

này do Toà án cấp cao xét xử phúc thẩm ).

Tham gia vào bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD còn có cơ quan điều tra thuộc

cơ quan công tố và cơ quan cảnh sát. Ở Nhật Bản, cơ quan công tố trực thuộc Bộ Tư

pháp; Văn phòng công tố tối cao là cơ quan cao nhất của hệ thống công tố, dưới là 8

Văn phòng cấp cao, 50 văn phòng cấp quận và 20 văn phòng địa phương [95, tr. 313].

Trong giai đoạn điều tra, nhiệm vụ trọng tâm của các công tố viên là làm rõ sự thật và

củng cố chứng cứ về hành vi bị buộc tội; trong giai đoạn xét xử, công tố viên Nhật Bản

thực hiện các chức năng tương tự như công tố viên ở các nước khác. Nhật Bản có tổng

số 47 Cơ quan cảnh sát cấp tỉnh; mỗi Cơ quan Cảnh sát tỉnh đều thuộc quyền giám sát

của Cơ quan Cảnh sát khu vực; toàn bộ nước Nhật Bản chia làm 7 khu vực. Ngoài ra, ở

Nhật Bản có truyền thống về “cảnh sát cộng đồng”, một phương thức giữ gìn trật tự

trong phố phường. Mỗi đơn vị cảnh sát tại một thị trấn địa phương có nhiều điểm trực

của cảnh sát tại từng khu phố (gọi là kokan), có 3-4 sỹ quan trực [95, tr. 07]. Đây là

điểm tiền tiêu thực hiện việc tuần tra hàng ngày nhằm ngăn ngừa tội phạm và là nơi để

người dân tố giác tội phạm nói chung và tội phạm tình dục nói riêng.

Nghị viện và Nội các Nhật Bản là cơ quan trực tiếp giám sát hoạt động của các

thiết chế tư pháp, trong đó Nghị viện có quyền bãi nhiệm thẩm phán, như năm 2008,

Nghị viện đã bãi miễn một thẩm phán có hành vi quấy rối tình dục đối với nhân viên nữ

dưới quyền [95, tr. 352].

Ngoài ra, hệ thống cơ quan TGPL Nhật Bản đã góp phần lớn vào việc TGPL cho

NNN bị XHTD. Hiện nay, hệ thống cơ quan TGPL do Chính phủ cấp kinh phí hoạt

động thông qua Bộ Tư pháp, mặc dù cơ quan này hông phải là cơ quan trực thuộc Bộ

Tư pháp nhưng Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm đối với hoạt động của cơ quan này thông

qua việc phê duyệt Kế hoạch hoạt động bốn năm một lần. Hiện nay, có 50 Trung tâm

TGPL được thành lập tại 50 địa phương có trụ sở của tòa án quận; chi nhánh của các

Trung tâm TGPL được thành lập tại 11 thành phố có dân số đông hoặc có nhiều vụ án

phải tham gia tố tụng mà Trung tâm TGPL tại quận không thể đáp ứng hết nhu cầu; các

tiểu chi nhánh và Văn phòng luật ( 7 Văn phòng) tại các khu vực nông thôn nơi hông

có hoặc có rất ít luật sư. Văn phòng luật trực thuộc Trung tâm TGPL [175].

Ba là, nguồn lực phục vụ cho yêu cầu vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN

bị XHTD ở Nhật Bản.

Nhân viên cảnh sát muốn trở thành điều tra viên hình sự trước hết phải được người

giám viên cảnh sát đó tại đơn vị giới thiệu; sau đó ứng viên phải vượt qua kỳ thi sát hạch

70

sau khi tốt nghiệp khoá huấn luận tại Học viện cảnh sát hình sự. Công tố viên ở Nhật

Bản được bổ nhiệm từ những người đỗ kỳ thi luật sư đoàn và sau hi tốt nghiệp khoa

học tại Viện Nghiên cứu và Đào tạo. Sau đó công tố viên mới vào nghề được cử đến làm

việc các văn phòng công tố cấp quận của các đô thị lớn, sau đó 1-2 năm họ sẽ được

thuyên chuyển. Việc chỉ định Chánh án và bổ nhiệm thẩm phán của Toà án tối cao và

thẩm phán của toà án cấp dưới thuộc thẩm quyền của Nội các. Hiện nay, Nhật Bản có

“hơn .500 thẩm phán và hơn 22.000 công chức, viên chức làm việc trong hệ thống toà

án, trong đó thư toà hơn 9.400 người, viên chức giám sát của Toà án gia đình hơn

1 00 người, v.v..” [95, tr. 352-353]. Ngân sách dành cho hoạt động của Toà án tiếp tục

tăng, “chiếm gần 0,4% ngân sách của quốc gia” [95, tr. 350].

Hiện nay, tổng số cán bộ của hệ thống cơ quan TGPL Nhật Bản là trên 1.600

người, bao gồm “hơn 240 luật sư nhân viên được trả lương hàng tháng và ký hợp đồng

với khoảng hơn 22.000 luật sư tư. Các luật sư tư được nhận thù lao khi vụ án kết thúc”

[175]. Cơ quan TGPL Nhật Bản tự quyết định số lượng nhân viên của mình dựa trên yêu

cầu công việc. Với yêu cầu đó, Nhật Bản hiện có 52 đoàn luật sự địa phương, hợp thành

Liên đoàn Luật sư Nhật Bản,với “tổng số luật sư đủ tiêu chuẩn tại Nhật Bản khoảng hơn

0.000 người” [95, tr. 363]. Họ là những người bào chữa và tư vấn, TGPL cho bị can/bị

cáo và người bị hại trong quá trình tố tụng. Kinh phí hoạt động hàng năm của cơ quan

TGPL do Chính phủ cấp, đóng góp của người được TGPL và tiền thu được từ các hoạt

động khác của cơ quan TGPL Nhật Bản.

Thứ hai, thực tiễn vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Nhật

Bản.

Ngành tư pháp ở Nhật Bản độc lập tương đối với ngành hành pháp và lập pháp,

tuy nhiên, toà án thực hiện chức năng giám sát các hoạt động điều tra của cơ quan cảnh

sát và cơ quan công tố [95, tr. 2 ]. Trong điều tra tội phạm nói chung, các tội XHTD

nói riêng, cơ quan cảnh sát địa phương có nhiệm vụ bắt nghi can và thu thập chứng cứ.

Các vụ án XHTD đều do cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành, đồng thời cơ quan công tố

c ng có thẩm quyền điều tra. Việc văn phòng công tố viên trực tiếp điều tra các vụ án

XHTD là một trong những đặc thù của hệ thống tư pháp hình sự ở Nhật Bản. Theo quy

định này, công tố viên chịu trách nhiệm hỏi cung người bị tình nghi; sau khi cảnh sát

chuyển hồ sơ vụ án cho văn phòng công tố, văn phòng này có toàn quyền quyết định có

khởi tố nghi can hay hông (Điều 248 BLTTHS). Các công tố viên ở Nhật bản được độc

quyền về thảm quyền kết tội bị can nên họ ít gặp phải sự cạnh tranh khi ra quyết định

buộc tội [95, tr. 318]. Tuy nhiên, có sự trùng lặp giữa nhiệm vụ của cảnh sát với nghĩa

71

vụ của công tố, đặc biệt liên quan đến điều tra c ng như “làm rõ và chứng minh sự thật

vụ án”.

Số vụ tấn công tình dục có xu hướng giảm, trong giai đoạn 2005-2016, giảm

59, %, trong đó số vụ hiếp dâm c ng giảm đáng ể, so với năm 200 , số vụ hiếp dâm

năm 2014 đãm giảm xuống 49,4% (Bảng 2.1, Phụ lục 1). Mặc dù phong trào eToo đã

lan khắp từ Hollywood tới Hong Kong, nhưng tại Nhật Bản, số người hưởng ứng phong

trào này vẫn còn há ít, vì “Rất hó để nói về vấn đề này ở Nhật Bản. Việc kỳ thị hiếp

dâm rất khủng khiếp. Người ta thường có xu hướng giấu kín mọi chuyện” [2].

Theo thống kê của Bộ tư pháp Nhật Bản, trong số các vụ án hiếp dâm, chỉ có

4% nạn nhân bị hiếp dâm tố cáo vụ án tới cảnh sát và chỉ có 1/ được đưa ra tòa.

Trong năm 2017, chỉ có 285 trong tổng số 1.678 người bị khởi tố vì tội hiếp dâm ở

nước này bị kết án trên năm tù giam; hơn 1.750 trường hợp quấy rối và cư ng

dâm, có 51,3% trong số đó xảy ra trên xe lửa và tàu điện, trong đó có đến 20% xảy

ra ở trạm chờ [2].

Thực tế này cho thấy, tính hiệu lực, hiệu quả của CCPL bảo đảm QTCCL của

NNN bị XHTD ở Nhật Bản chịu tác động rất lớn từ truyền thống, văn hoá của nước này.

Cho nên, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, chính quyền Nhật Bản đang nỗ

lực thay đổi nhận thức, từng bước vượt qua những “rào cản” truyền thống, văn hoá và

nâng cao năng lực TCCL của người dân.

2.3.1.3. Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm

hại tình dục ở Trung Quốc

Thứ nhất, khái quát CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Trung Quốc.

Trung Quốc là quốc gia theo chính thể cộng hoà XHCN, theo đó CCPL bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD ở Trung Quốc được tổ chức như sau:

Một là, thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Trung Quốc.

Hiến pháp Trung Quốc năm 1982 (sửa đổi, bổ sung năm 1998, 1999, 2004, 2018)

đã quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân (từ Điều đến Điều 5 ), trong đó có

những quy định cụ thể như sau: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm nhân quyền (Điều 33)”

[215, tr. 11]. Trên cơ sở đó, Trung Quốc đã quy định quyền của NNN bị XHTD và trách

nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc bảo vệ QTCCL của NNN bị XHTD trong

các văn bản pháp luật chuyên ngành. Đặc biệt BLHS Trung Quốc năm 1979 (sửa đổi

năm 1997, 1999, 2002, 2005, 200 , 2009, 2011) quy định các hành vi XHTD tại Điều

2 và Điều 2 7, như: cư ng dâm, hiếp dâm, giao cấu với trẻ em gái chưa đủ 14 tuổi

[47, tr. 157-158]. Để phòng chống quấy rối tình dục, Trung Quốc đã ban hành Luật bảo

vệ quyền lợi ích của phụ nữ năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2005) (Law on the

72

Protection of Women's Rights and Interests of the People's Republic of China), trong đó

quy định “Quấy rối tình dục đối với người phụ nữ bị cấm. Các nạn nhân có quyền khiếu

nại đến đơn vị hoặc cơ quan liên quan (Điều 40)” [237], tuy nhiên trong luật này chưa

định nghĩa rõ hành vi quấy rối tình dục. Để quy định rõ những hành vi XHTD, BLDS

Trung Quốc năm 2020 (có hiệu lực ngày 01/01/2021), đã đưa ra định nghĩa về quấy rối

tình dục: “quấy rối tình dục là hành vi không mong muốn đối với người khác bằng ngôn

ngữ hoặc hành động tình dục hoặc bằng những tiến bộ tình dục chống lại cấp dưới

(Điều 790)”. Đây là lần đầu tiên trong pháp luật Trung Quốc đưa ra định nghĩa về quấy

rối tình dục, mặc dù một số địa phương Trung Quốc trước đó đã xác định các hành vi

quấy rối tình dục trong các văn bản pháp quy của địa phương của họ, như: các quy định

của tỉnh Giang Tô về bảo vệ quyền phụ nữ định nghĩa quấy rối tình dục là quấy rối đối

với phụ nữ dưới bất kỳ hình thức nội dung tình dục hoặc ngôn ngữ, lời nói, hình ảnh

nào, âm thanh và chuyển động cơ thể [224].

Hiến pháp Trung Quốc còn quy định quy định “TAND nước Cộng hoà nhân dân

Trung Hoa là cơ quan xét xử của nhà nước (Điều 123)” [215] và “VKSND nước Cộng

hoà nhân dân Trung Hoa là cơ quan giám sát pháp luật của nhà nước (Điều 124) [215].

Theo quy định này, VKSND thực hiện quyền công tố, giám sát hoạt động xét xử và

giám sát pháp luật của nhà nước.

Để bảo đảm QTCCL cho mọi người dân nói chung, cho NNN bị XHTD nói riêng,

Hiến pháp Trung Quốc quy định “TAND có quyền xét xử độc lập theo quy định của

pháp luật, không chịu sự can thiệp của cơ quan hành chính, đoàn thể xã hội, cá nhân

(Điều 12 )” [215]; “Bị cáo có quyền biện hộ (Điều 125)” [215] và đảm bảo quyền sử

dụng ngôn ngữ của dân tộc mình: “Công dân các dân tộc thiểu số đều có quyền dùng

tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình để tham gia tố tụng. Người của TAND và VKSND

tham gia tố tụng nếu như không thông thạo ngôn ngữ địa phương phải có phiên dịch”

[215]; “Khu vực cư trú của dân tộc thiểu số hoặc khu vực cư trú của nhiều dân tộc thiểu

số thì dùng ngôn ngữ thông dụng của địa phương để xét xử; quyết định khởi tố, bản án

phán quyết, bố cáo hoặc các văn bản khác cần căn cứ vào nhu cầu trên thực tế để sử

dụng một ngôn ngữ địa phương hoặc mấy loại văn tự khác nhau (Điều 1 4)” [215].

Hai là, thiết chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Trung Quốc.

TAND và VKSND là các cơ quan tư pháp ở Trung Quốc, được thiết kế gồm 4 cấp,

gồm: tối cao; cấp cao ở Bắc Kinh, Thiên Tân, Thượng Hải, Trùng Khánh và các khu

vực tự trị (Tân Cương, Tây Tạng); cấp trung và cấp cơ sở. VKSND có chức năng iểm

sát việc thi hành pháp luật (bao gồm cả việc kiểm sát hoạt động xét xử của toà án), thực

hiện quyền công tố, điều tra một số vụ án hình sự nhất định (chủ yếu các vụ tham

73

nh ng) và các chức năng hác. VKSND có quyền kháng nghị và yêu cầu xét xử lại các

vụ án trong một số hoàn cảnh nhất định. Ngoài ra, Hiến pháp Trung Quốc còn quy định

“TAND tối cao chịu trách nhiệm trước Ủy ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân và

Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc. Toà án nhân dân các cấp địa phương chịu trách

nhiệm trước cơ quan quyền lực nhà nước thành lập ra (Điều 128)” [215] và “VKSND

tối cao chịu trách nhiệm trước Ủy ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân và Đại hội

Đại biểu nhân dân toàn quốc. VKSND địa phương chịu trách nhiệm trước cơ quan

quyền lực nhà nước lập ra và VKSND cấp trên (Điều 133)” [215].

Việc tiến hành điều tra các vụ án XHTD do cơ quan điều tra hình sự tiến hành. Cơ

quan điều tra hình sự là bộ phận thuộc Bộ Công an đặt dưới sự quản lý của Quốc vụ

viện. Các đồn cảnh sát cơ sở tại Trung Quốc có nhiệm vụ rất quan trọng của cảnh sát

cộng đồng, gắn bó mật thiết với nhân dân. Để đầu tranh tội phạm hiệu quả, trong đó bao

gồm cả các vụ XHTD, lực lượng này tăng cường tuần tra và thiết lập đường dây nóng

110. Trong quá trình điều tra, VKS thực hiện chức năng giám sát đối với hoạt động của

cảnh sát trong từng giai đoạn của quá trình điều tra (chi tiết đã được mô tả ở trên). Hình

thức giám sát này là nhằm bảo đảm rằng cơ quan cảnh sát tuân thủ pháp luật trong từng

giai đoạn của quá trình điều tra, bao gồm cả việc phòng ngừa hành vi trái pháp luật như

bắt người mà hông đủ chứng cứ.

Các cơ quan tư pháp tại Trung Quốc chịu sự giám sát bởi nhiều cơ quan khác

nhau, với thẩm quyền khác nhau và tập trung vào những khía cạnh khác nhau trong hoạt

động của cảnh sát, như Ủy ban Kiểm tra kỷ luật của Đảng Cộng sản Trung Quốc;

VKSND; Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và Đại hội Đại biểu nhân dân các cấp.

Ngoài ra, các cơ quan này còn chịu sự giám sát của Ủy ban Toàn quốc Chính Hiệp

Trung Quốc và các thiết chế truyền thông, báo chí và nhân dân Trung Quốc [95, tr. 52-

53].

Hệ thống TGPL của Trung Quốc gồm các tổ chức TGPL của Nhà nước và các tổ

chức TGPL của xã hội: (1) Hệ thống tổ chức TGPL của Nhà nước Trung Quốc thành

lập theo cấp xét xử của Toà án: ở Trung ương (ngang cấp xét xử của TANDTC), Bộ Tư

pháp thành lập Trung tâm TGPL thuộc Bộ; ở khu tự trị, các tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương có Trung tâm TGPL/Phòng TGPL thuộc Sở Tư pháp; ở cấp huyện có Trung

tâm TGPL trực thuộc các Trung tâm TGPL/Phòng TGPL cấp tỉnh và Trung tâm TGPL

trực thuộc các Phòng Tư pháp cấp huyện; ngoài ra, có các Trạm/Điểm TGPL ở các xã,

thị trấn, khu phố, thôn, xóm; tại các cơ quan tiến hành tố tụng; (2) Hệ thống tổ chức

TGPL của xã hội Trung Quốc, gồm: Trung tâm TGPL của đoàn thể, xã hội: công đoàn,

Hội phụ nữ, Hội người tàn tật… để giúp đ cho các thành viên, hội viên của đoàn thể

74

đó. Hoạt động của các Trung tâm thông qua các hình thức: Tư vấn pháp luật cho đối

tượng đến trụ sở của Trung tâm hoặc qua đường dây điện thoại nóng; đại diện, bào chữa

cho đối tượng trợ giúp trong các vụ án. Một số trường Đại học có khoa luật hoặc trường

Đại học chuyên ngành về luật (Đại học Hoa Đông, Phúc Đán…) c ng thành lập Trung

tâm TGPL cho các đối tượng đủ điều kiện TGPL. Các trường đại học luật hoặc có khoa

luật thường kết hợp dạy đại học với công tác TGPL và thường xuyên cử sinh viên luật

có trình độ chuyên môn vững đến Trung tâm TGPL thuộc các tổ chức đoàn thể tham gia

công tác TGPL.

Ba là, nguồn lực đáp ứng yêu cầu vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD ở Trung Quốc.

Từ năm 1997, Trung Quốc đã thực hiện cải cách để hỗ trợ việc tăng cường chuyên

môn hóa công tác điều tra hình sự. Cuối năm 2007 đã có 5. 25 cơ quan điều tra hình sự

được thành lập, khoảng 50% công việc của cảnh sát hình sự do các đơn vị thuộc “các

phòng ban chức năng” thực hiện. Đến năm 2007, có .5 0 cơ sở điều tra kỹ thuật

chuyên trách được thành lập chịu trách nhiệm về các lĩnh vực giám định thuốc, kiểm tra

DNA, giám định tài liệu, phân tích hóa chất, kỹ thuật hình ảnh, kiểm tra tâm lý và phân

tích chứng cứ điện tử. Đến này, toàn Trung Quốc có trên 150.000 cảnh sát hình sự làm

việc ở các cơ quan cảnh sát thuộc 4 cấp từ cấp tỉnh đến cấp xã/phường [95, tr. 54].

Hiện nay, Trung Quốc có khoảng “trên 190.000 thẩm phán, trong đó 7.000 làm

việc tại các TAND cấp cao, 16.000 làm việc tại các TAND cấp trung và 146.000 tại các

TAND cấp cơ sở, trên 24,6% trong số các thẩm phán là phụ nữ” [95, tr. 74]. Nguồn

nhân lực toà án ở Trung Quốc tiếp tục được phát triển về chất, Luật về thẩm phán, được

ban hành lần đầu tiên vào năm 1995, đã được sửa đổi năm 2001 quy định người được đề

nghị bổ nhiệm vào địa vị thẩm phán phải là công dân Trung Quốc, đủ 23 tuổi, tôn trọng

Hiến pháp, có phẩm chất chính trị và chuyên môn tốt, có đạo đức và sức khỏe và đã làm

việc ít nhất 02 năm đối với người có bằng đại học về chuyên ngành luật hoặc người có

bằng đại học không phải ngành luật nhưng có hiểu biết chuyên môn về luật; 01 năm đối

với người có bằng cử nhân luật học hoặc có bằng thạc sỹ hoặc tiến sỹ luật học. Cán bộ

tư pháp chưa đáp ứng các yêu cầu trên phải qua hóa đào tạo chuyên môn. Công tác đào

tạo thẩm phán, cả ở bậc cơ bản và bồi dư ng nâng cao thường xuyên cho thẩm phán, do

Trường thẩm phán quốc gia - một cơ quan trực thuộc TANDTC - đảm trách (Điều 9).

Trung Quốc có hơn 90% iểm sát viên có trình độ đại học và cao đẳng, trong

đó hơn 0% có bằng cử nhân đại học và thêm hơn 2,4% có trình độ thạc sỹ trở lên.

Tuy nhiên, những người có trình độ đào tạo bậc cao chủ yếu tập trung ở các vùng

kinh tế phát triển và phía đông của Trung Quốc. Tổng số cán bộ làm việc trong các

75

cơ quan kiểm sát là khoảng hơn 22 .1 5 người. Trong số đó, . 2 người là viện

trưởng, 10.750 người là viện phó, 14.777 người là thành viên ủy ban kiểm sát,

91.906 là kiểm sát viên và 18.076 người là trợ lý kiểm sát, ngoài ra còn có 26.221

thư ký và 13.678 cảnh sát tư pháp. Tỷ lệ kiểm sát viên nữ tăng dần qua các năm,

hiện nay khoảng trên 25% [95, tr. 71].

Đại hội Đại biểu Nhân dân địa phương chịu trách nhiệm cấp kinh phí hoạt động

cho tòa án địa phương tại Trung Quốc. Từng tòa án chịu trách nhiệm về ngân sách của

mình, nhưng kinh phí của tòa án lại phụ thuộc rất lớn vào ngân sách do các cơ quan

chính quyền địa phương phân bổ và như vậy, phụ thuộc vào nguồn inh phí mà các địa

phương dành ra để cấp cho các tòa án. Nói chung, tòa án ở khu vực đô thị được bảo đảm

về kinh phí tốt hơn so với các tòa án ở nông thôn, nơi thường không thể cân đối được

ngân sách của mình và có thể thường xuyên phải nợ lương trả cho thẩm phán c ng như

các cán bộ khác của tòa án.

Người thực hiện TGPL ở Trung Quốc gồm những nhóm chủ yếu sau: cán bộ

TGPL làm việc tại các tổ chức TGPL (luật sư và cán bộ pháp lý); Luật sư hành nghề tư;

Cán bộ pháp lý ở cơ sở (cán bộ các Phòng Tư pháp, Văn phòng phục vụ pháp luật; thành

viên tổ chức xã hội (hiệp hội lao động, giáo viên), sinh viên khoa luật của các trường đại

học...). Các địa phương hác nhau có các mô hình cung cấp dịch vụ TGPL khác nhau:

một số Trung tâm TGPL như ở tỉnh Hà Nam, Cát Lâm, An Huy và thành phố tự trị

Trùng Khánh, sử dụng cán bộ TGPL; một số thành phố lớn hác như Bắc Kinh, Thượng

Hải sử dụng luật sư tư; một số trung tâm TGPL khác sử dụng hỗn hợp. Tuy nhiên, ở một

số huyện không có luật sư nên các Trung tâm TGPL phải sử dụng các cán bộ TGPL ở

cơ sở để TGPL trong giải quyết các vụ án. Các Trung tâm TGPL thuộc các tổ chức đoàn

thể không nhận được kinh phí từ nguồn ngân sách của Nhà nước mà chỉ nhận được kinh

phí hỗ trợ thông qua việc thực hiện TGPL cho các vụ án . Kinh phí hoạt động của các cơ

quan TGPL Trung Quốc tận dụng nguồn lực của bản thân, sự tài trợ của các tổ chức

quốc tế.

Thứ hai, thực tiễn vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Trung

Quốc.

Các cơ quan có liên quan đến hệ thống tòa án Trung Quốc bao gồm là hệ thống tư

pháp và bộ máy cán bộ tòa án, VKS, cơ quan công an và có thể cả cơ quan an ninh.

Thêm vào đó, các Ủy ban kiểm tra và kỷ luật của Đảng Cộng sản Trung Quốc c ng có

thể đóng vai trò điều tra và kỷ luật song song, có thể có ảnh hưởng lên quá trình xét xử

[95, tr. 81]. Theo Hiến pháp hiện hành của Trung Quốc, cơ quan x t xử, cơ quan iểm

sát do Đại hội Đại biểu nhân dân bầu ra, chịu trách nhiệm và chịu sự giám sát của cơ

76

quan này (Điều 3). Ở địa phương, toà án chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp – đây

c ng là cơ quan chịu trách nhiệm cấp inh phí đảm bảo hoạt động và trả lượng cho thẩm

phán, đồng thời chịu sự giám sát chung của TANDTC và toà án cấp trên. Viện kiểm sát

c ng chịu trách nhiệm và sự giám sát tương tự.

Cơ quan điều tra hình sự cấp trên thực hiện quyền lãnh đạo đối với cơ quan cấp

dưới; cơ quan điều tra hình sự còn chịu sự lãnh đạo của chính quyền địa phương cùng

cấp. Sau khi hoạt động điều tra vụ án XHTD kết thúc và cơ quan điều tra kết luận là

chứng cứ đã rõ ràng, đầy đủ và đáng tin cậy, cơ quan điều tra sẽ có văn bản đề nghị truy

tố. Văn bản này cùng với hồ sơ vụ án và chứng cứ chứng minh được chuyển cho VKS

cùng cấp (Điều 129 BLTTHS). Để quyết định có truy tố hay không, VKS phải xem xét

liệu các tình tiết phạm tội đã rõ hay chưa và chứng cứ đã đầy đủ và đáng tin cậy hay

chưa, lời buộc tội đã được đưa ra đúng đắn chưa, liệu còn có hành vi phạm tội nào bị bỏ

sót hoặc có người nào khác nữa phải được điều tra hay không, liệu trách nhiệm hình sự

cần được điều tra thêm và liệu hoạt động điều tra đã được tiến hành một cách hợp pháp

hay chưa (Điều 137 BLTTHS). VKS phải quyết định việc truy tố trong thời hạn 01

tháng kể từ thời điểm nhận được văn bản của cơ quan công an đề nghị truy tố và có thể

gia hạn nửa tháng trong trường hợp vụ án phức tạp hoặc quan trọng (Điều 138 Bộ luật

TTHS). VKS có thể trả lại hồ sơ nhiều nhất là hai lần cho cơ quan điều tra để điều tra bổ

sung. Hoạt động điều tra bổ sung phải được hoàn thành trong thời hạn 01 tháng (Điều

140 BLTTHS). Sau khi hoạt động điều tra bổ sung đã được tiến hành, nếu VKS quyết

định rằng kết quả điều tra không thỏa mãn các điều kiện để truy tố thì có thể từ chối truy

tố (Điều 140 BLTTHS). Cơ quan công an có thể yêu cầu xem xét lại quyết định này và

sau đó đề nghị VKS cấp trên xem xét lại quyết định xem xét lại đó (Điều 144 BLTTHS).

Với CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Trung Quốc hiện nay, nhiều vụ

án XHTD đã được xử lý nghiêm minh, những người có hành vi XHTD PNTEG ở Trung

Quốc đã được xử lý nghiêm minh. Tuy nhiên, những vụ án XHTD ở Trung Quốc được

phát hiện và đối mặt phán quyết của tòa án chỉ là phần nổi của núi băng trôi.

Hiện nay ở Trung Quốc có khoảng từ 8-12% trong tổng số 270 triệu trẻ em

trên toàn quốc là nạn nhân các hành vi tấn công tình dục, trong đó hoảng 2,7 triệu

trẻ em từng bị cư ng bức. Trong đoạn từ 2015-2018, Trung Quốc chỉ xét xử

11.519 vụ án liên quan tới XHTD trẻ em; trong số 317 vụ tấn công tình dục trẻ em

được truyền thông Trung Quốc đăng tải, thì có khoảng 30% vụ thủ phạm đã thực

hiện hành vi tội phạm với nhiều hơn một trẻ em; 70% thủ phạm có quen biết các

nạn nhân. Hầu hết vụ tấn công xảy ra trong trường học hoặc các địa điểm tổ chức

hoạt động của trẻ em [80].

77

Tuy vậy, khi bị lạm dụng tình dục, rất nhiều người lựa chọn phương án im lặng.

Ngay cả gia đình các em c ng thường chọn phương án im lặng để vượt qua, để nỗi đau

chìm xuống, bởi họ nghĩ đó là cách tốt nhất đối với tương lai của các em. Người ta ước

tính rằng cứ có “ hoảng 7 vụ lạm dụng tình dục trẻ em sẽ có 1 vụ người bị hại chọn cách

im lặng, không tố cáo” [80], chiềm tỷ lệ 14,3%. Tại các khu vực nông thôn, theo quan

niệm phong kiến và sự kỳ thị của người đời, số nạn nhân lựa chọn cách im lặng lại càng

nhiều hơn. Do đó trẻ em nông thôn c ng dễ bị tổn thương hơn.

Thực tế ở Trung Quốc, trong số hơn 50 triệu phán quyết của TAND từ năm

2010 đến 2017, chỉ có 34 tập trung vào quấy rối tình dục, trong đó, chỉ có hai

trường hợp được đưa ra bởi các nạn nhân nhưng cả hai trường hợp đó đều bị bác

bỏ vì thiếu bằng chứng. Gần 40% phụ nữ ở Trung Quốc cho biết họ đã trải qua các

vụ quấy rối tình dục tại nơi làm việc [251].

Tuy nhiên, phần lớn các trường hợp nạn nhân bị quấy rối tình dục gặp những

hó hăn trong việc đưa vụ án giải quyết vì thiếu chứng cứ xác thực để buộc tội đối

với người có hành xâm hại mình, đặc biệt trong trường hợp người quấy rối mình là

người sử dụng lao động (ông chủ) thì người lao động luôn phải đối mặt với những

bất lợi vì họ luôn ở vị trí yếu thế (so với người sử dụng lao động) do đó, họ luôn phải

đối mặt với tình trạng bị tuyên bố vi phạm hợp đồng sau khi họ bị chủ nhân sa thải vì

quấy rối tình dục. Nguyên nhân của thực tế trên là do pháp luật ở Trung Quốc còn

những hạn chế, mặc dù pháp luật Trung Quốc cấm quấy rối tình dục đối với phụ nữ tại

nơi làm việc, nhưng luật pháp thiếu một định nghĩa rõ ràng về quấy rối tình dục và các

điều khoản tạo ra một nguyên nhân cụ thể của hành động đối với quấy rối tình dục. Điều

này gây hó hăn cho nạn nhân tìm kiếm được những biện pháp và sự đền bù thoả đáng

đối vơi những tổn hại mà họ gặp phải.

2.3.2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam

Từ thực tiễn CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD của Trung Quốc, Nhật

Bản và Hàn Quốc, rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam như sau:

Một là, hệ thống thể chế pháp lý (HTPL) về QTCCL của NNN bị XHTD càng

được quy định rõ ràng, cụ thể thì sẽ giúp cho CCPL về bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD được vận hành tốt trong thực tế, từ đó bảo đảm tốt QTCCL của NNN bị XHTD

trong thực tế. Thực tế ở Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc cho thấy, các hành vi về

quấy rối tình dục chưa được quy định rõ ràng vì thế việc bảo đảm QTCCL của NNN bị

quấy rối tình dục gặp rất nhiều hó hăn trong thực tế. Bên cạnh đó, HTPL hình sự cần

bổ sung thêm những biện pháp chế tài nặng hơn, đủ sức răn đe đối với người có hành vi

XHTD, đặc biệt là XHTD đối với trẻ em gái, như thiến hoá học.

78

Hai là, đẩy mạnh cải cách hệ thống tư pháp là một trong những biện pháp để bảo

đảm tốt QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế. Thực tế ở các nước trên cho thấy,

việc cải cách hệ thống tư pháp nhằm hướng đến việc khắc phục tâm lý e ngại về sự công

tâm của thẩm phán và cán bộ tòa án và chi phí luật sư cao; phải tạo thiện cảm và niêm

tin thực sự của người dân vào sự liêm minh của toà án – với tư cách là cơ quan bảo vệ

công lý, bảo vệ QCN. Cùng với đó, thực hiện tốt việc công khai bản án, quyết định có

hiệu lực pháp luật của Tòa án; tăng cường sự giám sát của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối

với hoạt động xét xử của Tòa án. Trong mỗi bản án, từng quy phạm pháp luật đã được

Tòa án cụ thể hóa, áp dụng giải quyết trong từng vấn đề của vụ án, qua đó nâng cao

năng lực tiếp cận công lý của người dân.

Ba là, xây dựng và mở rộng mạng lưới các cơ quan, dịch vụ tư vấn và TGPL; phát

triển mạnh mẽ đội ng luật sư; đồng thời tăng cường khả năng tiếp cận với luật sư, các

cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có khả năng TGPL. Bên cạnh luật sư, các cơ quan, tổ

chức, cá nhân khác có khả năng TGPL phải thông tin về các quy định của pháp luật, về

hoạt động tố tụng và các tin tức liên quan được các phương tiện truyền thông phổ biến

chính xác, kịp thời và đầy đủ, sẽ là kênh truyền tải có hiệu quả nhất để người dân tiếp

cận pháp luật, nâng cao dân trí; qua đó tạo sự chuyển biến cơ bản về ý thức tôn trọng và

nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; đồng thời, người dân c ng biết thêm về tình hình

XHTD, các thủ đoạn mới của hành vi XHTD mới để nâng cao ý thức cảnh giác, tự bảo

vệ mình và phòng ngừa XHTD, đặc biệt trong bối cảnh các thủ phạm XHTD đang lợi

dụng sự tiến bộ khoa học công nghệ để xâm hại PNTEG.

Bốn là, phát huy tốt vai trò của các cơ quan dân cử và cơ quan thông tấn, báo chí

trong giám sát việc bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD. Các cơ quan dân cử phải thực

sự là cơ quan đại biểu của nhân dân, thực hiện tốt hoạt động kiểm tra, kiểm soát, chất

vấn hoặc thông qua hoạt động của các uỷ ban trực thuộc để CCPL bảo đảm QTCCL của

NNN bị XHTD vận hành tốt. Bên cạnh đó, các cơ quan thông tấn, báo chí phải đóng

góp tích cực vào việc kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan công quyền, trong đó có

hệ thống cơ quan tư pháp. Mối liên hệ chủ yếu của người dân với hoạt động tư pháp là

thông qua tin tức của các phương tiện thông tin đại chúng, vì thế, mặc dù cơ quan truyền

thông không phải là phương tiện duy nhất nhưng đóng vai trò quan trọng, là nguồn tin

tức và bình luận chủ yếu gây ảnh hưởng lớn nhất đối với các tầng lớp nhân dân.

Kết luận chương 2

Công lý cho NNN bị XHTD là lẽ phải họ cần được bảo vệ và sự công bằng, khách

quan trong quá trình thụ lý, giải quyết các vụ án XHTD của các cơ quan chức năng có

thẩm quyền; là các biện pháp chống các hành vi XHTD trái pháp luật của người khác,

79

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NNN bị XHTD và đưa ra các biện pháp chế tài

nghiêm minh theo pháp luật đối với người có hành vi XHTD, qua đó bảo vệ sự an toàn,

yên bình và tốt đẹp cho cộng đồng và xã hội. Trên cơ sở đó, QTCCL của NNN bị

XHTD được hiểu là khả năng của PNTEG bị XHTD tìm kiếm và đạt được sự đền bù,

khắc phục thoả đáng, hợp pháp những bất công, thiệt hại của bản thân và xã hội, c ng

như buộc người XHTD phải chịu trách nhiệm pháp l tương xứng với tính chất, mức độ

của HVVP gây ra thông qua hệ thống tư pháp chính thức, hệ thống giám sát và hệ thống

hỗ trợ, TGPL.

Để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế, nhà nước phải ban hành hệ

thống luật để ghi nhận đầy đủ QTCCL của NNN bị XHTD (hoạt động lập pháp); nhà

nước triển khai, thực thi pháp luật để hiện thực hoá QTCCL của NNN bị XHTD vào

trong thực tiễn (hoạt động hành pháp) và nhà nước bảo vệ QTCCL của NNN bị XHTD

bằng hoạt động tố tụng (hoạt động tư pháp). Ngoài ra, nhà nước còn phối hợp chặt chẽ

với các cơ quan, cá nhân, tổ chức khác trong xã hội để thực hiện tốt nghĩa vụ của mình

trong bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD. Theo đó, CCPL bảo đảm QTCCL của

NNN bị XHTD là chỉnh thể pháp lý bao gồm thể chế pháp lý, thiết chế và các nguồn lực

để vận hành cơ chế này trong thực tiễn theo quy định pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu

của PNTEG bị XHTD sử dụng các biện pháp pháp lý và xã hội để tìm kiếm sự khắc

phục, bồi thường thoả đáng những thiệt hại mà họ bị người có năng lực trách nhiệm

pháp lý thực hiện những hành vi xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm và tự do tình

dục của bản thân mình và trừng phạt thích đáng với người XHTD. Cơ chế này được cấu

thành bởi: hệ thống thể chế pháp lý về bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; hệ thống

thiết chế pháp lý về bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; hệ thống các nguồn lực để

vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.

Trên thực tế, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Trung Quốc, Hàn

Quốc và Nhật Bản đã cho chúng ta những bài học qu giá, đặc biệt là hoàn thiện HTPL,

cải cách hệ thống tư pháp, phát triển mạng lưới tư vấn, TGPL và phát huy vai trò của

các cơ quan giám sát. Kết quả đạt được trong chương này là cơ sở lý thuyết để NCS

phân tích, đánh giá thực trạng CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD trong thời

gian qua.

80

CHƯƠNG 3

THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ

CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM

3.1. NHỮNG ƯU ĐIỂM TRONG CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP

CẬN CÔNG LÝ CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM GIAI

ĐOẠN 2014-2019

3.1.1. Các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý

của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam đã được hình thành và từng bước

hoàn thiện

3.1.1.1. Thể chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị

xâm hại tình dục ở Việt Nam

Thể chế bảo đảm QTCCL cho NNN bị XHTD ở Việt Nam những năm qua có

những ưu điểm sau:

Thứ nhất, thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD từng bước được

hoàn thiện theo hướng ngày một toàn diện, đồng bộ và thống nhất hơn.

Một là, về các quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục của PNTEG.

Thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam từng bước

hoàn thiện các quy định về các hành vi XHTD và các hình phạt tương ứng. Nếu như,

trước hi có BLHS năm 1985, TAND x t xử các vụ án XHTD căn cứ theo “án lệ, theo

đường lối chính sách của Nhà nước” [102, tr. 44] và hướng dẫn của TAND tối cao, như

Chỉ thị số 1024 ngày 15/6/1960 của TAND tối cao hướng dẫn xử lý tội hiếp dâm nhằm

khắc phụ huynh hướng coi nhẹ tính chất nghiêm trọng của loại tội này, nhất là khuynh

hướng coi nhẹ tội hiếp dâm trẻ em [102, tr. 44]. Trong các năm từ 19 1 đến 1966,

TAND tối cao rút kinh nghiệm xử lý tội hiếp dâm, đồng thời hướng dẫn việc xử lý các

tội cư ng dâm, tội dâm ô. Từ cơ sở thực tiễn đó, ngày 11/5/19 7 của TAND tối cao đã

ban hành Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội phạm

khác về mặt tình dục số 29/HS2, trong đó đề cập đến bốn hình thức phạm tội XHTD,

đó là: hiếp dâm, cư ng dâm, giao cấu với người dưới 16 tuổi và dâm ô. Đến năm 19 8,

trong báo cáo tổng kết năm, TAND tối cao bổ sung thêm hình thức dâm ô mới xâm

phạm thuần phong mỹ tục và trật tự trị an, đó là đồng tình dâm ô, bao gồm cả giao cấu

nơi cộng cộng hoặc có đông người tham gia. Như vậy, trong thời gian này, thể chế pháp

lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD quy định 04 hành vi XHTD: hiếp dâm, cư ng

dâm, giao cấu với người dưới 16 tuổi và dâm ô. Đến năm 1985, BLHS đầu tiên của Việt

Nam được ban hành, sau đó được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và

81

1997 đã quy 05 hành vi XHTD và các hình phạt đối với các hành vi này: hiếp dâm

(Điều 112); cư ng dâm (Điều 113); giao cấu với người dưới 16 tuổi (Điều 114); hiếp

dâm trẻ em (Điều 112a); Tội cư ng dâm người chưa thành niên (Điều 113a). Tiếp đó,

BLHS năm 1999 được ban hành và sửa đổi, bổ sung năm 2009 và BLSH năm 2015 (sửa

đổi, bổ sung năm 2017) tiếp tục quy định các quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục

của PNTEG, trong đó quy định 06 hành vi XHTD: hiếp dâm; cư ng dâm; hiếp dâm trẻ

em; cư ng dâm trẻ em; dâm ô đối với trẻ em; giao cấu với trẻ em. Đặc biệt BLSH năm

2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có quy định cụ thể về các hành vi XHTD đối với

PNTEG, trong đó có 07 hành vi XHTD: hiếp dâm; hiếp dâm người dưới 16 tuổi (trước

đây quy định là hiếp dâm trẻ em); cư ng dâm; cư ng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới

16 tuổi (trước đây quy định là cư ng dâm người chưa thành niên); giao cấu hoặc thực

hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (trước đây

quy định là giao cấu với người dưới 16 tuổi); dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (trước

đây quy định dâm ô đối với trẻ em); sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích hiêu

dâm (quy định hoàn toàn mới).

Để xác định hành vi XHTD, trong giai đoạn từ 2014 đến 10/2019, các cơ quan

chức năng vẫn tiếp tục căn cứ theo Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp

dâm và một số tội phạm khác về mặt tình dục số 329/HS2 ngày 11/5/1967 của TAND

tối cao và Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 02/01/1998

của TAND tối cáo, VKSND tối cao và Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) hướng dẫn áp

dụng một số quy định của luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS. Đến ngày

20/9/2019, để giải thích rõ hơn cho các quy định về các hành vi liên quan đến XHTD,

Hội đồng thẩm phán TANDTC ban hành Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp

dụng một số quy định về các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của BLHS và việc

xét xử vụ án XHTD người dưới 18 tuổi (có hiệu lực từ ngày 05/11/2019).

Ngoài ra, các hành vi XHTD đối với trẻ em còn được quy định trong Luật Bảo vệ,

chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 và Luật Trẻ em năm 201 ; các hành vi XHTD

còn được quy định trong Luật Bình đẳng giới năm 200 , Luật Phòng chống bạo lực gia

đình năm 2007, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2002 và 2014; Bộ luật Lao động năm

2012 và năm 2019 còn quy định cấm các hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc đối

với người lao động. Để phòng, chống các hành vi quấy rối tình dục, khoản 2, Điều 8 Bộ

luật Lao động năm 2012 đã quy định “cấm quấy rối tình dục tại nơi làm việc” [127] và

khoản 1 Điều 18 quy định cấm các hành vi quấy rối tình dục đối với lao động là người

giúp việc gia đình [127]. Ngoài ra, điểm c khoản 1 Điều 37 của Luật này còn quy định

người lao động có quyền đơn phương chấm đứt hợp đồng lao động nếu bị quấy rối tình

82

dục [127]; người lao động là người giúp việc gia đình có nghĩa vụ tố cáo với cơ quan có

thẩm quyền nếu người sử dụng lao động có hành vi quấy rối tình dục (khoản 4 Điều

182) [127]. Ngoài ra, Luật Trẻ em năm 201 c ng quy định, trẻ em có quyền bất khả

xâm phạm tình dục: “Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị xâm

hại tình dục (Điều 25)” [135], nghiêm cấm mọi hành vi xâm hại tình dục (Khoản Điều

6) [135]. Bên cạnh đó, Luật Bình đẳng giới năm 200 c ng quy định những hành vi bị

cấm, đó là “Bạo lực trên cơ sở giới (Khoản , Điều 10)” [124], trong đó bao gồm cả

hành vi bạo lực tình dục và Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định

những hành vi bạo lực gia đình, đó là “Cư ng ép quan hệ tình dục; Cư ng ép tảo hôn;

cư ng ép kết hôn .. (điểm đ, e hoản 1, Điều 2)” [126]; Luật Hôn nhân và gia đình năm

2014 quy định cấm “Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để … xâm

phạm tình dục (điểm i khoản 2 Điều 5)” [131]. Để phòng, chống các hành vi quấy rối

tình dục tại nơi làm việc, Bộ luật Lao động năm 2019 (có hiệu lực ngày 01/01/2021) đã

đưa ra hái niệm về hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc, đó là “hành vi có tính

chất tình dục của bất kỳ người nào đối với người khác tại nơi làm việc mà hông được

người đó mong muốn hoặc chấp nhận (khoản 9, Điều 3)” [139], đây là lần đầu tiên pháp

luật nước ta đưa ra định nghĩa về hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm.

Mặc dù trong PLHS Việt Nam hiện nay, hành vi quấy rối tình dục chưa được xem

là tội phạm tình dục, nhưng đây là hành vi xâm hại đến danh dự, nhân phẩm của con

người, vì thế cá nhân nào có hành vi quấy rối tình dục có thể bị xử lý vi phạm hành

chính theo quy định của nghị định 1 7/201 /NĐ-CP. Ngoài ra, để xử lý với những hành

vi của cá nhân, tổ chức tuyên truyền, ích động, cung cấp, chia sẻ, lưu trữ, sử dụng

thông tin cổ súy dâm ô, đồi truỵ trên môi trường mạng internet hoặc cung cấp dịch vụ

trò chơi điện tử G1 có nội dung kịch bản có hình ảnh hoặc âm thanh khêu gợi, kích thích

dâm ô, trụy lạc, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 72/201 /NĐ-CP quy định về quản

lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng; Nghị định số

174/201 /NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn

thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện và Nghị định số 15/2020/NĐ-CP

Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô

tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử (có hiệu lực từ 15/4/2020).

Hai là, về quy định chức năng, nhiệm vụ các các cơ quan chức năng trong bảo

đảm QTCCL của NNN bị XHTD.

Nếu như trước hi BLSH năm 1985 được ban hành, chức năng, nhiệm vụ các các

cơ quan chức năng trong bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD chưa được quy định rõ

ràng, thì đến BLSH năm 1985 (sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997)

83

đã quy định tương đối rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền và các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền bất khả xâm phạm và tự do về tình dục

của phụ nữ và trẻ em, đó là: “Các cơ quan Công an, Kiểm sát, Toà án, Tư pháp và Thanh

tra có trách nhiệm thi hành đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình, đồng thời hướng dẫn,

giúp đ các cơ quan hác của Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân đấu tranh chống

và phòng ngừa tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm tội” (khoản 1, Điều 4).

Tiếp tục cụ thể hoá các quy định này, Hiến pháp năm 1992 tiếp tục quy định chức

năng, nhiệm vụ của các cơ quan này trong bảo vệ quyền bất khả XHTD của PNTEG.

Đặc biệt Nghị quyết số 51/2001/QH10 của QH ngày 25/12/2001 về sửa đổi, bổ sung

một số điều Hiến pháp năm 1992, trong đó bỏ chức năng iểm soát chung của VKSND,

thay vào đó, VKSND thực hiện quyền công tố và kiểm soát các hoạt động tư pháp:

“VKSND tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần

bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các VKSND địa

phương, các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động

tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định” (Điều 1).

Sau khi Hiến pháp năm 201 có hiệu lực, chức năng, nhiệm vụ của TAND,

VKSND, các cơ quan điều tra, thi hành án được tổ chức và thực hiện theo Hiến pháp

năm 201 , Luật Tổ chức TAND năm 2014, Luật Tổ chức TAND năm 2014, Luật Tổ

chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và 2019 và

các văn bản hướng dẫn. Bên cạnh đó, để xử lý HVVP hành chính có liên quan đến

XHTD, Nghị định 1 7/201 /NĐ-CP; Nghị định số 72/201 /NĐ-CP; Nghị định số

174/201 /NĐ-CP và Nghị định số 15/2020/NĐ-CP quy định các cơ quan sau có thẩm

quyền xử lý: UBND các cấp, công an nhân dân, Thanh tra, quản lý thị trường.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, để thụ lý vụ án XHTD nói chung và

XHTD PNT G nói riêng, các cơ quan chức năng thực hiện những nhiệm vụ sau:

(1) Cơ quan điều tra thực hiện các nhiệm vụ được quy định trong Điều 8 Luật tổ

chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015: “Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố; tiếp nhận hồ sơ vụ án do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến

hành một số hoạt động Điều tra chuyển giao; tiến hành Điều tra các tội phạm, áp dụng

mọi biện pháp do luật định để phát hiện, xác định tội phạm và người thực hiện hành vi

phạm tội” [132]; “lập hồ sơ, đề nghị truy tố; tìm ra nguyên nhân, Điều kiện phạm tội và

yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa”

[132]. Hệ thống cơ quan điều tra, bao gồm: “Cơ quan Điều tra của Công an nhân dân; cơ

quan Điều tra trong Quân đội nhân dân; Cơ quan Điều tra của Viện kiểm sát nhân dân

84

tối cao (Điều 4)” [132] và “một số cơ quan hác được giao nhiệm vụ tiến hành một số

hoạt động Điều tra (Điều 9)” [132].

(2) VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo khoản 1, Điều 2 Luật Tổ chức

VKSND năm 2014: “VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động

tư pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp

và pháp luật, bảo vệ QCN, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật

được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” [130].

(3) TAND thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo Khoản 1 Điều 2 Luật Tổ chức

TAND năm 2014: “TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực

hiện quyền tư pháp” [129], có nhiệm vụ “bảo vệ công lý, bảo vệ QCN, quyền công dân,

bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung

thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc

sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác” [129].

(4) Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, cơ quan thi hành án tiến hành thi hành án

theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2010, hiện nay là Luật Thi hành án

hình sự năm 2019.

Ngoài ra, để hỗ trợ cho NNN bị XHTD, Luật TGPL năm 200 quy định các tổ

chức thực hiện TGPL là Trung tâm TGPL nhà nước và các tổ chức tham gia TGPL,

trong đó các tổ chức tham gia TGPL bao gồm: Tổ chức hành nghề luật sư; Tổ chức tư

vấn pháp luật thuộc tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ

chức xã hội-nghề nghiệp (sau đây gọi chung là tổ chức tư vấn pháp luật). Trung tâm

TGPL nhà nước do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định

thành lập, đây là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp (Điều 13, 14). Tiếp tục các nội

dung này, Luật TGPL năm 2017 còn quy định cụ thể hơn: Tổ chức thực hiện TGPL bao

gồm Trung tâm TGPL nhà nước (đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Tư pháp, do

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập) và tổ chức tham gia TGPL (gồm tổ chức ký hợp

đồng thực hiện TGPL (tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật ký kết hợp

đồng thực hiện TGPL với Sở Tư pháp theo quy định) và tổ chức đăng tham gia

TGPL (gồm tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật đăng tham gia TGPL

theo quy định)). Sở Tư pháp công bố danh sách các tổ chức thực hiện TGPL tại địa

phương, đăng tải trên trang thông tin điện tử của Sở Tư pháp và gửi Bộ Tư pháp để tổng

hợp đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp (Điều 10, 11,12).

85

Thêm vào đó, để các cơ quan chức năng thực hiện tốt quy định pháp luật về bảo

đảm QTCCL của NNN bị XHTD, các cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng giám

sát đã được Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị xác định: “Tăng

cường sự giám sát của QH, HĐND, của các tổ chức xã hội và công dân đối với công tác

tư pháp” [13], nhằm góp phần khắc phục trường hợp oan, sai và bỏ lọt tội phạm, vì thế,

“Cơ quan nhà nước, Uỷ ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại

BLTTHS năm 200 (Điều 2) và sau đó BLTTHS năm 2015 (Điều 33) đã quy định:

biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến

hành tố tụng; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng” [123]; “Nếu phát hiện những hành vi trái pháp luật của cơ

quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thì cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử có

quyền yêu cầu, Uỷ ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền

kiến nghị với cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định

của Bộ luật này. Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải xem xét, giải quyết và

trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật” [123].

Ba là, về quy định trình tự, thủ tục thụ lý và giải quyết các hành vi XHTD PNTEG.

Để thụ lý và giải quyết các vụ án XHTD PNT G, các cơ quan chức năng căn cứ

theo các quy định về tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, hởi tố, điều tra, truy

tố, xét xử, thi hành án nói chung, tội phạm liên quan đến XHTD nói riêng.

Lần đầu tiên trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự

nói chung và các vụ án XHTD PNTEG nói riêng được quy định trong BLTTHS năm

1988, trong đó, từ Điều 2 đến Điều 25 quy định về các nguyên tắc trong quá trình thụ lý

và giải quyết các vụ án XHTD phụ nữ và trẻ em: bảo đảm pháp chế XHCN trong

TTHS; tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân; bảo đảm quyền bình đẳng

của mọi công dân trước pháp luật; bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của

công dân; bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân; bảo

đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của

công dân; việc tham gia TTHS của các tổ chức xã hội và công dân; sự phối hợp giữa các

cơ quan tiến hành tố tụng với các cơ quan khác của Nhà nước; không ai có thể bị coi là

có tội, nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của Toà án; xác định sự thật của vụ án;

bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự;

bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia TTHS; phát hiện và khắc

phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội; thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm nhân dân

tham gia; thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; toà

án xét xử tập thể; xét xử công khai; bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án; tiếng nói và

86

chữ viết dùng trong TTHS; giám đốc việc xét xử; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

TTHS; bảo đảm quyền khiếu nại và tố cáo của công dân đối với hoạt động của các cơ

quan tiến hành tố tụng; bảo đảm hiệu lực của bản án và quyết định của Toà án.

Sau đó, BLTTHS năm 200 tiếp tục quy định những nội dung trên và bổ sung

thêm những nguyên tắc mới trong trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi

hành án hình sự: thực hành quyền công tố của VKSND; giải quyết vấn đề dân sự trong

vụ án hình sự; giám sát của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động của cơ

quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; thực hiện chế độ hai cấp xét xử; bảo

đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm

quyền tiến hành TTHS gây ra; v.v.. Đến BLTTHS năm 2015, còn bổ sung thêm nguyên

tắc: suy đoán vô tội (Điều 13); không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm (Điều 14);

tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26); v.v.. Các quy định này hiện đang được

quy định trong BLHS, BLTTHS; Nghị định 5 /2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định

chi tiết một số điều của Luật trẻ em; Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-

BCA-BQP của VKSNDTC, Bộ Công an và Bộ Quốc phòng quy định việc phối hợp

giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS

năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; Quyết

định số 2 8/QĐ-VKSTC ngày 28/6/2017 ban hành kèm theo Quy định tạm thời về quản

lý, theo dõi việc thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và các

vụ án hình sự tại VKSNDTC; Luật Tổ chức TAND; Luật Tổ chức VKSND năm 2014;

Quyết định số 15/QĐ-VKSTC ngày 09/01/2018 quyết định ban hành mẫu văn bản tố

tụng, văn bản nghiệp vụ thực hiện trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc

khởi tố, điều tra và truy tố; v.v… Theo đó các quy định này, các cơ quan, tổ chức có

trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm bao gồm: cơ quan điều tra; cơ quan

được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Viện kiểm sát các cấp; Các cơ

quan, tổ chức hác được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 145 BLTTHS năm

2015 gồm: Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an; Tòa án các cấp;

Cơ quan báo chí và các cơ quan, tổ chức khác.

Bên cạnh đó, các quy định pháp luật liên quan đến thủ tục pháp l trong giải quyết vụ

việc XHTD đang được quy định tại BLTTHS 2015; Thông tư liên tịch số 0 /2018/TTLT-

VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH; Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-

VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 quy định việc phối hợp giữa các cơ

quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của BLTTHS về trả hồ sơ điều

tra bổ sung; bên cạnh đó, các quy định pháp luật liên quan đến bảo mật thông tin, bí mật

riêng tư của trẻ em, hỗ trợ, bảo vệ phụ nữ và trẻ em là nạn nhân, nhân chứng của các vụ

87

việc XHTD hiện được quy định cụ thể tại các điều , 21, 25, 2 , 27, 28, 29, 0, 49, 50,

51, 52, 5 , 54, 70, 71 và 72 Luật Trẻ em năm 201 ; Nghị định số 5 /2017/NĐ-CP ngày

9/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều Luật Trẻ em.

Để bảo vệ NNN bị XHTD, đặc biệt là nạn nhân là người dưới 18 tuổi, Luật Tổ

chức TAND 2014 và Luật Tổ chức VKSND 2014 đã quy định về thành lập Toà gia đình

và người chưa thành niên để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người tham gia TTHS

dưới 18 tuổi. Theo Thông tư số 01/2016/TT-CA ngày 21/01/2016 của TAND tối cao

quy định, tòa gia đình và người chưa thành niên giải quyết các vụ án hình sự mà bị cáo

là người dưới 18 tuổi hoặc các vụ án hình sự mà bị cáo là người đã đủ 18 tuổi trở lên

nhưng người bị hại là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần

sự hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do không có môi trường gia đình lành mạnh như

những người dưới 18 tuổi hác (điểm a, khoản Điều ). Thêm vào đó, Thông tư số

02/2018/TT-TANDTC quy định khi xét xử có người bị hại dưới 18 tuổi: phòng xử án

phải được bố trí thân thiện, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi theo đúng

quy; thẩm phán mặc trang phục làm việc hành chính của Tòa án nhân dân (không mặc

áo choàng); đối với những vụ án có người bị hại là người dưới 18 tuổi bị XHTD, bị bạo

hành hoặc bị mua bán thì Tòa án phải xét xử ín; đối với những vụ án khác có yêu cầu

của người dưới 18 tuổi, người đại diện của họ hoặc để giữ bí mật đời tư, bảo vệ người

dưới 18 tuổi thì Tòa án c ng có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai; không xét

xử lưu động đối với vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi (Điều

7); ngoài ra, Điều 9 còn quy định: Người bị hại là người dưới 18 tuổi hoặc cha mẹ,

người đại diện hợp pháp, người giám hộ của họ có quyền nhờ những người sau đây bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại là người dưới 18 tuổi: luật sư; trợ giúp

viên pháp lý; bào chữa viên nhân dân; người khác; Tòa án phải thông báo cho người bị

hại là người dưới 18 tuổi hoặc cha mẹ, người đại diện hợp pháp, người giám hộ của họ

về quyền nhờ những người quy định này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị

hại là người dưới 18 tuổi. Trường hợp họ không lựa chọn được người bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp cho người bị hại nhưng có văn bản đề nghị thì Tòa án yêu cầu Đoàn

luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sư cử luật sư hoặc Trung tâm TGPL cử Trợ

giúp viên pháp lý, luật sư hoặc Ủy ban MTTQ Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt

trận cử bào chữa viên nhân dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại là

người dưới 18 tuổi. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại là người

dưới 18 tuổi có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, có mặt hi cơ quan tiến

hành tố tụng lấy lời khai của người mà mình bảo vệ; có quyền kháng cáo phần bản án,

quyết định của Tòa án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ;

88

có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch,

người dịch thuật, người định giá tài sản theo quy định của BLTTHS.

Trong quá trình xét xử vụ án, Hội đồng xét xử phải cách ly người dưới 18 tuổi bị

XHTD với bị cáo; người bị hại tham gia phiên tòa ở phòng cách ly; thông tin về diễn

biến phiên tòa c ng như việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ được truyền qua hệ

thống truyền hình trực tuyến có âm thanh hoặc được thực hiện bằng phương thức khác

nhưng phải bảo đảm cho họ theo dõi đầy đủ diễn biến phiên tòa và thực hiện được

quyền, nghĩa vụ của mình. Người đại diện, người giám hộ, chuyên gia hoặc cán bộ tâm

lý - xã hội, người làm công tác bảo vệ trẻ em phải có mặt ở phòng cách ly để hỗ trợ

người bị hại tham gia phiên tòa (Điều 10). Bên cạnh đó, Thông tư liên tịch số

06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH về phối hợp thực hiện

một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi còn quy

định: đối với vụ án có người dưới 18 tuổi bị XHTD thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành

tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải phối hợp chặt chẽ với nhau và phối

hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan ngay từ khi phát hiện nguồn tin về

tội phạm; khẩn trương kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ, khởi tố, điều tra, truy tố,

xét xử, bảo đảm giải quyết vụ án, vụ án nhanh chóng, kịp thời, trong thời gian ngắn

nhất” (Điều 13); Trường hợp lấy lời khai người dưới 18 tuổi bị XHTD thì phải ưu tiên

địa điểm lấy lời khai tại nơi cư trú của người đó; nếu không có nơi cư trú thì phải tiến

hành tại cơ sở chăm sóc trẻ em theo quy định của pháp luật; việc lấy lời khai của họ phải

được tiến hành ngay sau khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm (Điều 14).

Ngoài ra, các quy định liên quan đến đảm bảo quyền được hỗ trợ và TGPL cho

NNN bị XHTD, như: người được TGPL; tổ chức thực hiện TGPL; người thực hiện

TGPL; hoạt động TGPL; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với hoạt động

TGPL; v.v.. được quy định chủ yếu trong Luật TGPL năm 200 và tiếp tục được quy

định trong Luật TGPL năm 2017. Thêm vào đó, để đảm bảo QTCCL của NNN bị

XHTD, HTPL Việt Nam còn có nhiều quy định liên quan đến tổ chức và vận hành của

của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ đảm bảo

QTCCL của NNN bị XHTD, như: Hiến pháp 201 , Luật Tổ chức TAND năm 2014,

Luật Tổ chức VKSND năm 2014, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, Luật

Hoạt động giám sát của QH và HĐND năm 2015, Luật Thanh tra năm 2010, Luật Tổ

chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), Nghị định số 123/201 /NĐ-CP

của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ

quan ngang Bộ và các văn bản hướng dẫn, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm

2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2019), v.v.. (Bảng . , Phụ lục 2). Trong đó quy định

89

rõ chức năng, nhiệm của của các cơ quan này và sự phối hợp giữa các cơ quan với nhau

trong thụ lý, xử lý một vụ án XHTD; quy định việc giám sát đối với các cơ quan trong

việc thực hiện các nhiệm vụ này.

Như vậy, các quy định của pháp luật đã bao hàm tất cả các nội dung và các hía

cạnh liên quan đến việc bảo vệ quyền như các quy định về tội, hung hình phạt, các quy

định liên quan đến thủ tục tố tụng, việc bảo vệ nhân chứng và nạn nhân, các quy định

pháp luật liên quan đến trợ giúp tư vấn pháp l , các quy định cho sự vận hành của các

thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD. Việc ghi nhận các quyền và nghĩa vụ

trong HTPL tạo ra huôn hổ để đảm bảo quyền trong thực tế bởi đây là cơ sở để các

NNN tìm iếm sự đền bù, hắc phục một cách thỏa những thiệt hại của bản thân do

hành vi XHTD gây ra. Các quy định trong HTPL nước ta đã công nhận QCN là các

quyền tự nhiên vốn có; các vấn đề liên quan đến QTCCL của PNTEG bị XHTD đã

được lồng gh p vào trong nhiều chính sách và các văn bản quy phạm pháp luật. Các quy

định này đã tương đối hoàn thiện x t trên nhiều hía cạnh như tính ổn định, sự phù hợp,

tính hả thi hi áp dụng trong điều kiện KT-XH ở Việt Nam hiện nay.

Bốn là, quy định những hành vi và biện pháp xử l đối với những hành vi cản trở

việc thực hiện QTCCL của NNN bị XHTD.

Những hành vi và biện pháp xử l đối với những hành vi cản trở việc thực hiện

QTCCL của NNN bị XHTD được quy định tại Chương XXXIII BLTTHS hiện hành và

Thông tư liên tịch số 02/2018/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT.

Ngoài ra, Thông tư liên tịch số 0 /2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-

BLĐTBXH còn quy định: Khi nhận được khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định tố

tụng trái pháp luật của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền

tiến hành tố tụng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng là

người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền giải quyết, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố

tụng, người có thẩm quyền phải phân loại, phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có

liên quan giải quyết kịp thời và gửi văn bản giải quyết cho người đã hiếu nại, tố cáo

theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Chương XXXIII BLTTHS hiện hành và Thông

tư liên tịch số 02/2018/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT. Trường

hợp khiếu nại, tố cáo đối với lệnh, quyết định bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp,

tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử thì VKSND, TAND phải giải

quyết ngay trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được khiếu nại, tố cáo. Nếu cần phải có

thời gian để xác minh làm rõ thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không

được quá 03 ngày kể từ khi nhận được khiếu nại, tố cáo (Điều 17).

90

Thứ hai, thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD từng bước được

hoàn thiện phù hợp với xu hướng phát triển KT-XH và hội nhập quốc tế.

Một là, để bảo vệ quyền của PNTEG theo tiêu chuẩn của hệ thống Luật nhân

quyền quốc tế, Việt Nam đã sớm phê chuẩn và tham gia CEDAW, CRC c ng như

ICCPR. Với tư cách là quốc gia thành viên của LHQ, Việt Nam đã thông qua một số

tuyên bố và nghị quyết liên quan về ứng phó với bạo lực nhằm vào phụ nữ như: Tuyên

bố của Liên Hợp Quốc về Xóa bỏ Bạo lực với Phụ nữ năm 199 ; Tuyên bố và Cương

lĩnh hành động Bắc Kinh năm 1995; Tài liệu các chiến lược mẫu cập nhật và biện pháp

thực tin về xóa bỏ bạo lực đối với Phụ nữ trong lĩnh vực phòng ngừa tội phạm và tư

pháp hình sự năm 2010; Kết luận của Phiên họp thứ 57 Ủy ban Địa vị phụ nữ (CSW57);

Tuyên bố về những nguyên tắc công l cơ bản dành cho nạn nhân của các tội và việc

lạm dụng quyền lực; Hướng dẫn tư pháp trong các vụ án liên quan đến nạn nhân trẻ em

và nhân chứng về tội phạm và Các nguyên tắc và hướng dẫn của LHQ về Tiếp cận

TGPL trong các hệ thống tư pháp hình sự; v.v.. Ở hu vực Đông Nam , Việt Nam

c ng cam ết thực hiện Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực với phụ nữ tại khu vực ASEAN

năm 2004 của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam (AS AN); Tuyên bố năm 201 về

Xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và đối với trẻ em ở ASEAN, và Kế hoạch hành động khu

vực về chấm dứt bạo lực đối với PNTEG năm 2015. Đây chính là các văn iện pháp l

quốc tế quan trọng giúp Việt Nam xây dựng, hoàn thiện CCPL đảm bảo quyền của phụ

nữ và trẻ em nói chung c ng như QTCCL của NNN bị XHTD nói riêng.

Hai là, nhằm tích cực hoàn thiện HTPL về bảo đảm QCN theo tiêu chuẩn hệ thống

Luật nhân quyền quốc tế, Việt Nam đã ban hành Hiến pháp năm 201 có hiệu lực ngày

01/01/2014, đây là bản Hiến pháp có sự phân biệt tương đối rạch ròi giữa QCN và

quyền công dân, trong đó quy định 20 nhóm quyền thuộc về QCN, 16 nhóm quyền

thuộc về quyền công dân. Đặc biệt, Hiến pháp mới này đã thể hiện sự tiến bộ vượt bậc

về tư duy lập hiến trong bảo vệ QCN, quyền công dân, đó đã chuyển từ tư duy “trao

quyền” sang tư duy “thừa nhận và bảo đảm quyền”. Trên cơ sở đó, trong giai đoạn 2014

- 2019, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam được vận hành trên cơ

sở pháp lý của Hiến pháp năm 201 , Luật Tổ chức TAND năm 2014, Luật Tổ chức

TAND năm 2014, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 và các văn bản pháp

luật hác có liên quan, đặc biệt là sự chuyển tiếp từ BLHS năm 1999, BLTTHS năm

200 sang BLHS năm 2015, BLTTHS năm 2015.

Ba là, các quy định pháp luật liên quan đến quy trình tố tụng tư pháp của nước ta

đã được đổi mới theo hướng kết hợp giữa tố tụng thẩm vấn và tố tụng tranh tụng nhằm

tăng tính dân chủ, minh bạch trong hoạt động tư pháp: Hiến pháp năm 201 đã hiến

91

định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Khoản 5 Điều 103), từ đó,

BLTTHS năm 2015 quy định “Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả

kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa” (Điều 26). Những quy

định mới này nhằm góp phần vào việc tăng cường chất lượng hoạt động xét xử các vụ

án, trong đó bao gồm cả vụ án XHTD, qua đó x t xử đúng người, đúng tội, trừng trị

nghiêm minh người có hành vi XHTD và đền bù thoả đáng những tổn thương mà NNN

bị XHTD phải gánh chịu.

Bốn là, các quy định pháp luật hiện hành đã mở rộng đối tượng được TGPL, trong

đó bao gồm cả NNN bị XHTD. nếu NNN bị XHTD được Luật TGPL năm 200 quy

định gồm: “trẻ em không nơi nương tựa; người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có

điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt hó hăn; người nghèo; người có công với cách mạng

(Điều 10)” [125], thì Luật TGPL năm 2017 đã mở rộng đối tượng, đó là: “người cao tuổi

và người khuyết tật có hó hăn về tài chính, trẻ em, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18

tuổi (Điều 7)” [137]. Như vậy, theo quy định của Luật mới này, đa số PNT G bị XHTD

là những đối tượng được TGPLmà không phải trả các chi phí.

Hệ thống pháp luật hiện tại đã tạo điều kiện tốt hơn (so với giai đoạn trước) để các

tổ chức tham gia vào quá trình tư phạm hình sự nhằm đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích

chính đáng của nạn nhân nói chung, NNN bị XHTD nói riêng, do đó QTCCL của họ

ngày càng được cải thiện hơn trong thực tế.

3.1.1.2. Thiết chế bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại

tình dục ở Việt Nam

Cùng với quá trình cải cách nhà nước Việt Nam, các thiết chế bảo đảm QTCCL

của NNN bị XHTD ở Việt Nam có những ưu điểm sau:

Thứ nhất, các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam tiếp tục

được hoàn thiện theo hướng tăng cường khả năng thực thi công lý của NNN bị XHTD.

Đến nay nước ta đã thiết lập được một hệ thống tương đối toàn diện các thiết chế

tư pháp phục vụ cho việc điều tra, truy tố và xét xử đảm bảo sự đền bù và hắc phụ hậu

quả cho các NNN bị XHTD. Hệ thống các cơ quan này hoạt động công hai theo các

quy định của Hiến pháp và pháp luật và các bên tham gia ban hành, điều này đảm bảo

cho các quy định của pháp luật được thực thi trong cuộc sống. Nếu như trước khi Hiến

pháp năm 201 được ban hành, hệ thống TAND, VKSND được tổ chức thành:

TANDTC, VKSNDTC; TAND, VKSND cấp tỉnh; TAND, VKSND cấp huyện; TAND,

VKSND quân sự thì từ khi thực hiện Hiến pháp năm 201 , bổ sung thêm TAND,

VKSND cấp cao đặt tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, theo

Hiến pháp mới và Luật Tổ chức TAND năm 2014 và các văn bản hướng dẫn, Tòa gia

92

đình và người chưa thành niên là toà chuyên trách được thành lập trực thuộc TAND cấp

cao, cấp tỉnh và cấp huyện. Đến hết năm 2019, cả nước đã thành lập 8 Toà gia đình và

người chưa thành niên [170], điều này đáp góp phần quan trọng trong việc xét xử các vụ

án XHTD trẻ em gái, quá đó tăng cường khả năng thực thi công lý của NNN bị XHTD.

Thứ hai, các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam được tổ

chức và đi vào hoạt động ổn định, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu thụ lý và giải quyết các vụ

án liên quan đến XHTD.

Các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam bao gồm: TAND,

VKSND, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án, cơ quan giám sát và các cơ quan TGPL.

Vị trí, vai trò và tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp đặc biệt là các cơ quan tư pháp

chính thức ngày càng được hoàn thiện nhằm đảm bảo tốt hơn vai trò điều tra, truy tố, x t

xử, bảo vệ công l cho PNTEG bị XHTD. Hiến pháp năm 201 ; Luật Tổ chức TAND

năm 2014 ra đời đã xác định rõ hơn vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của TAND. Hệ

thống TAND đã được cải tiến từ ba cấp thành hệ thống TAND bốn cấp, điều này đã

tăng thẩm quyền xét xử cho tòa án cấp cơ sở. Các tòa án chuyên trách ra đời giúp cho hệ

thống tòa án hoạt động một cách chuyên nghiệp hơn; mô hình tòa án gia đình và người

chưa thành niên dần được hình thành từ TAND cấp huyện đến TAND cấp cao, điều này

đặc biệt có nghĩa trong hoạt động đảm bảo quyền cho NNN bị XHTD bởi nạn nhân

chủ yếu của tội danh này vẫn là trẻ em gái còn rất nhỏ tuổi.

Bên cạnh đó, VKSND c ng xây dựng mô hình tổ chức theo hướng phù hợp với tổ

chức TAND và quy định pháp luật hiện hành; tổ chức các cơ quan điều tra bước đầu

được sắp xếp lại theo hướng thu gọn đầu mối. Việc tổ chức các cơ quan điều tra theo mô

hình tổ chức hiện nay có ưu điểm là: được tổ chức chuyên sâu theo nhóm tội phạm, kết

hợp hoạt động trinh sát với hoạt động điều tra, khắc phục được tình trạng án tồn đọng

kéo dài; tập trung nhiệm vụ điều tra tạo cơ sở để cơ quan điều tra cấp trên có điều kiện

tập trung lực lượng, phương tiện điều tra các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, liên

tỉnh, xuyên quốc gia; huy động đầy đủ và nhanh nhất lực lượng, phương tiện khi có yêu

cầu điều tra vụ án, đáp ứng tốt nhất yêu cầu khẩn trương, cấp bách của hoạt động điều

tra. Để bổ trợ và iểm sát hoạt động của cơ quan điều tra thuộc Bộ công an, Cơ quan

điều tra VKSND tối cao c ng đã từng bước được củng cố, kiện toàn và tăng cường.

Một là, các thiết chế tư pháp chính thức.

Để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, hệ thống thiết chế tư pháp chính thức ở

Việt Nam bao gồm: TAND các cấp, VKSND các cấp, cơ quan điều tra và cơ quan thi

hành án hình sự.

(1) TAND, VKSND các cấp.

93

TAND các cấp bảo đảm QTCCL của phụ nữ và trẻ em bị XHTD thông qua hoạt

động xét xử HVVP quyền tự do và bất khả xâm phạm tình dục của PNTEG và xét xử

các hành vi cản trở thực hiện QTCCL của phụ nữ và trẻ em bị XHTD. VKSND các cấp

bảo đảm QTCCL của phụ nữ và trẻ em bị XHTD thông qua hoạt động thực hành quyền

công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với việc xử lý các HVVP quyền tự do và bất

khả xâm phạm tình dục của PNTEG và hành vi cản trở thực hiện QTCCL của phụ nữ và

trẻ em bị XHTD. Theo quy định của pháp luật hiện hành, VKSND các cấp thực hiện

việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội XHTD và cản trở việc thực hiện

QTCCL của phụ nữ và trẻ em bị XHTD; đồng thời kiểm sát tính hợp pháp của các hành

vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện

ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và

trong suốt quá trình giải quyết vụ án XHTD.

Hiện nay, tổ chức bộ máy của TAND, VKSND được tổ chức 04 cấp theo thẩm

quyền (TAND, VKSND tối cao, TAND, VKSND cấp cao, TAND, VKSND cấp tỉnh,

TAND, VKSND cấp huyện). Thực hiện Nghị quyết số 957/NQ-UBTVQH13 ngày

28/5/2015 của UBTVQH về việc thành lập 03 TAND, VKSND cấp cao, TAND, VKSND cấp cao được thành lập tại Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh1. Ngoài ra, theo Luật Tổ chức TAND năm 2014, cơ cấu tổ chức của TAND tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ương gồm: Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế,

Tòa lao động, Tòa gia đình và người chưa thành niên (Điều 38) và cơ cấu tổ chức của

TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương gồm: Tòa hình sự, Tòa

dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử l hành chính. Trường hợp cần

thiết, Ủy ban thường vụ QH quyết định thành lập Tòa chuyên trách hác (Điều 45).

(2) Cơ quan điều tra.

Theo Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, đối với các vụ án XHTD,

cơ quan điều tra có nhiệm vụ: tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm XHTD

1 TAND cấp cao tại Hà Nội có phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ đối với 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, bao gồm: thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng; các tỉnh: Hòa Bình, Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai, Yên Bái, Lạng Sơn, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nam, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có trụ sở đặt tại thành phố Hà Nội; TAND cấp cao tại Đà Nẵng có phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ đối với 12 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, bao gồm: thành phố Đà Nẵng; các tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Gia Lai, Kom Tum và ĐắkLắk. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có trụ sở đặt tại thành phố Đà Nẵng; TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh có phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ đối với 23 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, bao gồm: thành phố Hồ Chí Minh, thành phố cần Thơ; các tỉnh: Bình Thuận, Ninh Thuận, Đồng Nai, Bà Rịa - V ng Tàu, Binh Dương, Bình Phước, Long An, Tây Ninh, Đắ Nông, Lâm Đồng, Hậu Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, An Giang và Kiên Giang. Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có trụ sở đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh.

và kiến nghị khởi tố vụ án XHTD; tiếp nhận hồ sơ vụ án do cơ quan được giao nhiệm vụ

94

tiến hành một số hoạt động Điều tra chuyển giao; tiến hành Điều tra các tội phạm

XHTD, áp dụng mọi biện pháp do luật định để phát hiện, xác định tội phạm và người

thực hiện hành vi phạm tội XHTD; lập hồ sơ, đề nghị truy tố; tìm ra nguyên nhân, Điều

kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc

phục và ngăn ngừa đối với tội phạm này.

Trong Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 quy định, cơ quan đều tra

bao gồm: Cơ quan Điều tra của Công an nhân dân; Cơ quan Điều tra trong Quân đội

nhân dân; Cơ quan Điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong đó, (1) Cơ quan

Điều tra của Công an nhân dân bao gồm: cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an; Cơ

quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh; Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an; Cơ

quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện;

(2) Cơ quan Điều tra trong Quân đội nhân dân, gồm: Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc

phòng; Cơ quan An ninh điều tra quân hu và tương đương. Cơ quan điều tra hình sự

Bộ Quốc phòng; Cơ quan điều tra hình sự quân hu và tương đương; Cơ quan điều tra

hình sự hu vực; ( ) Cơ quan Điều tra của VKSND dân tối cao gồm: cơ quan điều tra

VKSND tối cao; cơ quan điều tra Viện iểm sát quân sự trung ương (Điều 4, 5, 6, 7).

( ) Cơ quan thi hành án.

Theo Luật Thị hành án hình sự hiện hành, cơ quan thi hành án hình sự sẽ tiến hành

việc thi hành án đối với bản án về tội xâm phạm tình dục của TAND đã có hiệu lực pháp

luật. Hiện nay, các cơ quan thi hành án bao gồm: trại giam thuộc Bộ Công an, trại giam

thuộc Bộ Quốc phòng, trại giam thuộc quân hu; cơ quan thi hành án hình sự Công an

cấp tỉnh; cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện; cơ quan thi hành án hình sự

cấp quân hu. Ngoài ra, cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự bao

gồm: Trại tạm giam thuộc Bộ Công an, trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại tạm

giam thuộc Công an cấp tỉnh, trại tạm giam cấp quân khu; UBND cấp xã; Đơn vị quân

đội cấp trung đoàn và tương đương.

Hai là, các thiết chế giám sát và hỗ trợ, tư vấn pháp lý.

Quốc hội, các cơ quan của QH, Đoàn ĐBQH, ĐBQH, HĐND, đại biểu HĐND, Uỷ

ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận giám sát việc thực hiện thực

hiện chính sách, pháp luật về quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục PNTEG của

các cá nhân và tổ chức theo quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời giám sát hoạt

động của TAND, VKSND, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án trong quá trình thụ lý

và giải quyết các vụ án XHTD. Trong đó, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của QH có trách

nhiệm phối hợp với Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của

QH xem xét, đánh giá những vấn đề liên quan đến quyền bất khả xâm phạm và tự do

95

tình dục của PNTEG trong dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của QH, UBTVQH

và việc lồng ghép các mục tiêu, chỉ tiêu thực hiện quyền bất khả xâm phạm và tự do tình

dục PNTEG khi thẩm tra quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH quốc gia; giám sát việc

thực hiện chính sách, pháp luật liên quan đến PNTEG và việc thực hiện quyền bất khả

xâm phạm và tự do tình dục của PNT G. Đại biểu QH, HĐND các cấp có trách nhiệm

thường xuyên và định kỳ tiếp xúc với phụ nữ, trẻ em hoặc đại diện trẻ em; tiếp nhận,

chuyển và theo dõi, giám sát việc giải quyết kiến nghị của cơ quan, tổ chức liên quan

đến quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục PNTEG.

Việc bảo vệ QTCCL của NNN bị XHTD ngoài các cơ quan chuyên trách đã được

đề cập ở trên còn có vai trò của các đơn vị và tổ chức cung cấp dịch vụ đảm bảo quyền

PNTEG; các tổ chức xã hội, đoàn thể và các cơ quan truyền thông và các đối tác quốc

tế, các hội nghề nghiệp như hội luật sư; các trung tâm tư vấn trợ giúp pháp l tư nhân,

các tổ chức cộng đồng trong đó: TTQ, HLHPN Việt Nam, ĐTNCS Hồ Chí Minh

cùng các cơ quan đoàn thể và các tổ chức chính trị xã hội hác đóng vai trò tích cực

trong thức hiện bảo vệ quyền PNTEG. Các đối tác quốc tế đóng vai trò quan trọng trong

việc hỗ trợ các nguồn lực cho các thiết chế tư pháp chính quy và thiết chế tư pháp phi

chính quy trong việc hoàn thiện hung luật pháp, chính sách nhằm đảm bảo tốt hơn

QTCCL của NNN bị XHTD.

Trong quá trình hiện nhiệm vụ của mình, các thiết chế giám sát và hỗ trợ, TGPL

phối hợp với các cơ quan hành chính nhà nước, Uỷ ban MTTQ Việt Nam các cấp và các

đoàn thể nhân dân phối hợp chặt với cơ quan dân cử và cơ quan hành chính các cấp

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về các hành vi XHTD và trình tự, thủ tục giải

quyết các vụ án XHTD, trong đó, các cơ quan hành chính nhà nước bao gồm Chính phủ,

các Bộ và UBND các cấp (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã).

Thứ ba, các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam thực hiện

triệt để các biện pháp hỗ trợ theo quy định của pháp luật nhằm tăng cường khả năng tiếp

cận của NNN bị XHTD. Các cơ quan tư pháp thực hiện các biện pháp hỗ trợ để NNN bị

XHTD thực hiện QTCCL, như hắc phục rào cản về ngôn ngữ, tuổi tác, thông tin, tài

chính, v..v. Trên cơ sở đó, hệ thống tư pháp tiếp tục được hoàn thiện về tổ chức và hoạt

động nhằm đáp ứng tốt yêu cầu tiếp nhận, giải quyết các vụ án XHTD, đặc biệt các vụ

án XHTD đối với PNTEG.

Thứ tư, các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam đã nỗ lực

cải thiện chất lượng hoạt động nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để kịp thời thụ lý và

giải quyết các vụ án XHTD, quá đó ịp thời đền bù và khắc phục thoả đáng những thiệt

hại mà NNN phải gánh chịu.

96

Tổ chức và hoạt động của các thiết chế bổ trợ tư pháp (luật sư, tư vấn pháp luật,

TGPL, giám định tư pháp) ngày càng hoàn thiện và phát triển cung cấp các biện pháp

TGPL, các biện pháp hỗ trợ xã hội, các thủ tục đặc thù cho NNN bị XHTD. Cùng với sự

lớn mạnh của đội ng luật sư, hệ thống bảo vệ trẻ em, các tổ chức cơ sở bảo vệ phụ nữ

được triển hai xây dựng trên quy mô cả nước: “từ năm 2008 hệ thống bảo vệ trẻ em đã

được triển hai với mục đích cung cấp những dịch vụ bảo vệ trẻ em khi cần” [16, tr.

210]. Từ năm 2004, Việt Nam đã thành lập Đường dây tư vấn và hỗ trợ trẻ em miễn phí

với đầu số là 18001567 (nay là Tổng đài quốc gia bảo vệ trẻ em – 111). Tổng đài thực

hiện nhiệm vụ tiếp nhận thông tin, tư vấn và kết nối dịch vụ qua điện thoại để trợ giúp

trẻ em và gia đình trẻ em; đã góp phần can thiệp, trợ giúp cho nhiều đối tượng trẻ em,

đặc biệt là trẻ em bị xâm hại, bạo lực; năm 201 , “Tổng đài tiếp nhận 331.582 cuộc gọi,

tư vấn 25.791 cuộc” [16, tr. 210]. Các trung tâm dịch vụ công tác xã hội đã cung cấp các

dịch vụ tư vấn cho trẻ em và gia đình tại cộng đồng ngày càng phát triển cả về lượng và

chất chất, tính đến tháng 12/2014, “Việt Nam có 34 trung tâm dịch vụ công tác xã hội

cấp tỉnh trên cả nước, trong đó có 07 trung tâm công tác xã hội trẻ em của tỉnh, 1 4 cơ

quan tư vấn cho trẻ em cấp huyện, 4.1 5 điểm tư vấn tại cộng đồng, .42 điểm tư vấn

tại trường học được thiết lập và đi vào hoạt động” [16, tr. 210]. Cùng với đó, sự phát

“những dịch vụ xã hội dành cho nhóm phụ nữ và trẻ em yếu thế được cung cấp rộng rãi

triển hệ thống, cộng tác viên sẵn sàng giải quyết các vấn đề của PNTEG tại cộng đồng;

thông qua các tổ chức phi lợi nhuận hay tổ chức tình nguyện nhiều hơn những cán bộ

công tác xã hội được đào tạo chuyên nghiệp” [16, tr. 214]. Hiện có “khoảng 70.000

người hoạt động trong ngành dịch vụ xã hội ở các cấp độ khác nhau (kể cả các trung tâm

và tại cộng đồng) và có tổng số 408 trung tâm công tác xã hội gồm 34 trung tâm dịch vụ

công tác xã hội được duy trì hoạt động bởi khối tư nhân và nhà nước” [16, tr. 214].

Qua công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng TGPL hằng năm cho thấy, phần lớn

các vụ án được TGPL đều đạt chất lượng và chất lượng tốt theo quy định của pháp luật,

đặc biệt, các vụ án XHTD trẻ em đều được các Trung tâm TGPL tạo điều kiện phân

công các Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư có nhiều kinh nghiệm thực tế, am hiểu tâm lý

trẻ em thực hiện việc TGPL.

Các Trợ giúp viên pháp l đã tích cực tham gia vào các vụ án XHTD trẻ em,

được dư luận quan tâm như như Lê Ngọc ., Đỗ Hoàng P... ở Bình Dương; bảo

vệ cho bị hại trong vụ giao cấu với người từ đủ 1 đến dưới 16 tuổi, trong vụ án

hiếp dâm người dưới 16 tuổi và giao cấu với trẻ em... ở Tiền Giang. Chỉ tính riêng

trong giai đoạn 2015-2019, các Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh/thành phố đã thực

hiện được 382.960 vụ việc TGPL cho 382.960 lượt người được TGPL, trong đó

97

TGPL cho trẻ em là 18.155 lượt. Một số địa phương thực hiện nhiều vụ việc

TGPL cho trẻ em như thành phố Hà Nội 703 vụ, thành phố Hồ Chí Minh 549 vụ,

Quảng trị 185 vụ [176].

Ngoài ra, các tổ chức quốc tế đã hợp tác và hỗ trợ Việt Nam trong thúc đẩy bảo vệ

QCN, đặc biệt quyền của phụ nữ và trẻ em, đó là: Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ Tiền

tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu (ADB); cơ quan thường trú thường trú ở

Việt Nam bao gồm Úc, Bỉ, Canada, Đan ạch, Đức, Phần Lan, Ý, Ireland, Hà Lan,

New Zealand, Na Uy, Thụy Sỹ, Thụy Điển, Cơ quan Phát triển Quốc tế Vương Quốc

Anh (DFID) và Hoa Kỳ đã giúp chúng ta trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, và bảo trợ xã

hội đối với nạn nhân bị xâm hại. UN C và các tổ chức phi chính phủ quốc tế như

Save the Children, ChildFund, Plan International và Tầm nhìn Thế giới, các tổ chức hoạt

động trong lĩnh vực quyền trẻ em, đã đóng góp đáng ể vào quá trình đàm luận về

quyền trẻ em tại Việt Nam [16, tr. 1]. Các cơ quan này c ng có nhiều chương trình, dự

án nhằm hỗ trợ nâng cao iến thức và ỹ năng bảo vệ QTCCL của NNN cho người dân

và cán bộ của các cơ quan công quyền.

Thứ năm, các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam đã thực

hiện các cải cách nhằm cung cấp các biện pháp khắc phục cần thiết để hỗ trợ PNTEG bị

XHTD.

Trong thời gian qua, các cơ quan tư pháp chính thức thực hiện các chức năng,

nhiệm vụ theo luật định, từng bước đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế về tính hiệu lực, hiệu

quả, độc lập, khách quan và cung cấp các biện pháp đền bù và khắc phục thoả đáng

những thiệt hại của NNN bị XHTD. Sau nhiều năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW

của Bộ Chính trị về Chiến lược CCTP đến năm 2020, cho đến nay hệ thống các cơ quan

tư pháp chính thức của chúng ta đã được cải thiện; tổ chức và hoạt động của tòa án và

các cơ quan, tổ chức tham gia thực hiện quyền tư pháp như cơ quan điều tra, kiểm sát,

thi hành án, luật sư, giám định tư pháp… “đã được cải cách từng bước theo hướng tuân

thủ tốt hơn các nguyên tắc phổ biến của nền tư pháp dân chủ trong NNPQ, như nguyên

tắc độc lập xét xử; nguyên tắc xét xử công hai…” [8]; các nguyên tắc đặc thù trong

từng loại tố tụng tư pháp như “nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo”;

“nguyên tắc suy đoán vô tội (trong TTHS)”; “nguyên tắc x t xử công bằng và bình

đẳng” đã và đang được áp dụng trong hoạt động của các cơ quan tư pháp.

Một số địa phương (như tỉnh Hà Nam), công tác cải cách thủ tục hành chính tư

pháp đã được chú trọng, triển hai mô hình “một cửa”; tăng cường công khai, minh

bạch trong các hoạt động của toà án, đồng thời bảo đảm quyền giám sát, kiểm tra và

TCCL của người dân; triển hai quy định mới về phòng xét xử; lắp camera giám sát tại

98

phòng tiếp dân, tiếp đương sự, hoà giải, đối thoại; tăng cường sử dụng công nghệ thông

tin, đẩy mạnh hoạt động cổng thông tin điện tử; sử dụng camera giám sát trực tuyến

phiên toà tại toà án hai cấp theo tinh thần chỉ đạo của TANDTC; thực hiện công khai

bản án, quyết định của toà án trên công thông tin điện tử.

Thứ sáu, các thiết chế giám sát đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình

trong việc giám sát các thiết chế tư pháp chính thức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ

theo quy định pháp luật để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam.

Các cơ quan dân cử, tổ chức hội nghề nghiệp ngày càng được tăng cường; sự phát

triển của các cơ quan này đã hỗ trợ tốt hơn cho các cơ quan tư pháp chính thức trong

việc đảm bảo quyền của các công dân nói chung, của NNN bị XHTD nói riêng. Hoạt

động của các cơ quan tư pháp luôn chịu sự giám sát của cơ quan dân cử, MTTQ và các

đoàn thể nhân dân, các cơ quan giám sát chuyên trách. Nhằm tăng tính chịu trách nhiệm

của hệ thống tư pháp, các cơ quan dân cử (QH và HĐND các cấp) thực hiện các hoạt

động giám sát đối với các cơ quan, tổ chức và các nhân trong quá trình giải quyết các vụ

án XHTD PNTEG, như nghe báo cáo của các cơ quan tư pháp tại các kỳ họp, chất vấn

lãnh đạo các cơ quan tư pháp tại các kỳ họp và lấy phiếu tín nhiệm các chức danh lãnh

đạo của các cơ quan tư pháp do cơ quan dân cử bầu hoặc phê chuẩn. Trong thời gian

qua, QH đã tổ chức giám sát tối cao đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật về

phòng, chống xâm hại trẻ em, sau đó đã ban hành nghị quyết của QH về vấn đề này.

Bên cạnh đó, VKSND iểm sát hoạt động tố tụng các vụ án XHTD PNTEG từ

khâu khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Ngoài ra, Nhân dân và các cơ quan

đại diện của Nhân dân như TTQ và các đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tấn, báo

chí theo dõi, thông tin và giám sát chặt chẽ quá trình giải quyết các vụ án XHTD.

3.1.1.3. Nguồn lực để vận hành cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý

của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam

Thứ nhất, đội ng cán bộ, công chức, viên chức của các thiết chế bảo đảm QTCCL

của NNN bị XHTD ở Việt Nam tiếp tục được cải thiện cả về chất lẫn lượng.

Một là, cán bộ, công chức, viện chức và người lao động của TAND và VKSND

tiếp tục được phát triển theo quy định trong Luật Tổ chức TAND năm 2014, Luật Tổ

chức VKSND năm 2014 và các văn bản hướng dẫn khác.

(1) Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư toà, Thẩm

tra viên đươc pháp luật hiện hành quy định rõ ràng, chặt chẽ, tương đối phù hợp với thực

tiễn: (i) Đối với Chánh án, Phó Chánh án. Chánh án TANDTC do QH bầu, miễn nhiệm,

bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. Phó Chánh án TANDTC được Chủ tịch nước

bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức trong số các Thẩm phán TANDTC; Chánh án, Phó

99

Chánh án TAND cấp cao do Chánh án TANDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức;

Chánh án, Phó Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Chánh án

TANDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; Chánh án, Phó Chánh án TAND huyện,

quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương do Chánh án TANDTC bổ nhiệm,

miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của các Chánh án, Phó Chánh án TAND là 05 năm,

kể từ ngày được bổ nhiệm, riêng đối với Chánh án TANDTC theo nhiệm kỳ của QH (05

năm), hi QH hết nhiệm kỳ, Chánh án TANDTC tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cho đến

khi QH khóa mới bầu ra Chánh án TANDTC mới. Theo quy định pháp luật hiện hành,

Chánh án TANDTC không nhất thiết là ĐBQH, nhưng trên thực tế, Chánh án TANDTC

thường là ĐBQH; (ii) Đối với thẩm phán. Thẩm phán TAND tối cao là những chuyên

gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành. Ngạch thẩm phán thứ hai là

thẩm phán cao cấp làm công việc xét xử trong các Tòa án cấp cao đặt tại ba khu vực

Bắc, Trung, Nam. Đây là ngạch thẩm phán mới được quy định ở Việt Nam. Sau ngạch

thẩm phán cao cấp là thẩm phán trung cấp, chủ yếu công tác ở TAND cấp tỉnh. Cuối

cùng là ngạch thẩm phán sơ cấp, làm việc ở TAND cấp huyện, là lực lượng thẩm phán

đông đảo nhất, giải quyết phần lớn các vụ án theo trình tự xét xử sơ thẩm. Các thẩm

phán được tuyển chọn, bổ nhiệm theo quy trình luật định. Các thẩm phán TAND tối cao

được Hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia xem x t, đề nghị Chánh án

TAND tối cao trình QH xem xét phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm. Đối với các thẩm

phán cao cấp, trung cấp và sơ cấp phải thông qua thủ tục thi tuyển, sau hi được Hội

đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia xem x t, đề nghị, Chánh án TAND tối

cao trình Chủ tịch nước bổ nhiệm. Việc tổ chức thi tuyển ba ngạch thẩm phán (cao cấp,

trung cấp, sơ cấp) và cơ cấu Hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia là bước

đổi mới quan trọng phát triển đội ng những người trực tiếp thường xuyên thực hiện

quyền tư pháp trong các TAND. Nhiệm kỳ đầu của thẩm phán là 5 năm, trong trường

hợp được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp

theo là 10 năm. Sự đổi mới nêu trên có nghĩa quan trọng nhằm bảo đảm tính độc lập

và sự yên tâm của thẩm phán trong quá trình đảm nhiệm công việc. Theo Nghị định số

5 /2015/NĐ-CP quy định về tuổi nghỉ hưu cao hơn đối với cán bộ, công chức (có hiệu

lực từ ngày 01/6/2015), Thẩm phán TANDTC có thể làm việc đến 65 tuổi đối với nam

và 60 tuổi đối với nữ (Khoản 2 Điều 2 và Khoản 2 Điều 5); (iii) Hội thẩm nhân dân.

TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố

thuộc tỉnh và tương đương đề xuất nhu cầu về số lượng, cơ cấu thành phần Hội thẩm đề

nghị Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp lựa chọn và giới thiệu người đủ tiêu chuẩn để

HĐND có thẩm quyền theo luật định bầu Hội thẩm nhân dân; Chánh án TAND sau khi

100

thống nhất với Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp. đề nghị HĐND miễn nhiệm, bãi

nhiệm Hội thẩm nhân dân. Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân theo nhiệm kỳ của HĐND

đã bầu ra Hội thẩm nhân dân (05 năm). Khi HĐND hết nhiệm kỳ, Hội thẩm nhân dân

tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Hội đồng nhân dân khóa mới bầu ra Hội thẩm nhân

dân mới; (iv) Đối với thư ký toà và thẩm tra viên. Thư Tòa án là người có trình độ cử

nhân luật trở lên được Tòa án tuyển dụng, được đào tạo nghiệp vụ Thư Tòa án và bổ

nhiệm vào ngạch Thư Tòa án, gồm có các ngạch: Thư viên; Thư viên chính;

Thư viên cao cấp. Thẩm tra viên là công chức chuyên môn của Tòa án đã làm Thư

Tòa án từ 05 năm trở lên, được đào tạo nghiệp vụ Thẩm tra viên và bổ nhiệm vào ngạch

Thẩm tra viên, gồm các ngạch: Thẩm tra viên; Thẩm tra viên chính; Thẩm tra viên cao

cấp. Số lượng thẩm phán TANDTC từ 1 đến 17 người; số lượng Thẩm phán Tòa án

khác, cơ cấu tỷ lệ các ngạch Thẩm phán tại mỗi cấp Tòa án và tổng biên chế của Tòa án

nhân dân do UBTV QH quyết định theo đề nghị của Chánh án TANDTC sau khi có ý

kiến của Chính phủ. Căn cứ vào tổng biên chế, số lượng, cơ cấu tỷ lệ các ngạch Thẩm

phán đã được UBTV QH quyết định, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phân bổ biên

chế, số lượng Thẩm phán Tòa án khác; công chức khác, viên chức và người lao động

của các đơn vị trực thuộc các TAND.

(2) Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ

quan điều tra, Điều tra viên, Kiểm tra viên và công chức khác, viên chức và người lao

động khác của VKSND đươc quy định cụ thể, rõ ràng như sau: (i) Đối với Viện trưởng,

Phó Viện trưởng. Viện trưởng VKSNDTC do QH bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề

nghị của Chủ tịch nước. Phó Viện trưởng VKSNDTC do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn

nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng VKSNDTC; Viện trưởng, Phó Viện

trưởng VKSND cấp cao, cấp tỉnh, cấp huyện đều do Viện trưởng VKSNDTC bổ nhiệm,

miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của các Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND là 05

năm, ể từ ngày được bổ nhiệm, riêng đối với nhiệm kỳ của Viện trưởng VKSNDTC

theo nhiệm kỳ của QH (05 năm), hi QH hết nhiệm kỳ, Viện trưởng VKSNDTC tiếp tục

làm nhiệm vụ cho đến khi QH khóa mới bầu ra Viện trưởng VKSNDTC mới. C ng như

Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC không nhất thiết là ĐBQH, nhưng trên

thực tế, Viện trưởng VKSNDTC thường là ĐBQH; (ii) Đối với Kiểm sát viên. Kiểm sát

viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng thực

hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; là công dân Việt Nam trung thành với

Tổ quốc và Hiến pháp Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản

lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế XHCN, có trình độ cử

nhân luật trở lên và đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát. Ngạch Kiểm sát viên

101

VKSND gồm có: Kiểm sát viên VKSNDTC; Kiểm sát viên cao cấp; Kiểm sát viên

trung cấp; Kiểm sát viên sơ cấp, trong đó: Kiểm sát viên VKSNDTC phải là Kiểm sát

viên cao cấp ít nhất 05 năm, có năng lực chỉ đạo, điều hành công tác thực hành quyền

công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSNDTC và có năng lực giải quyết những

vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của VKSNDTC. Trong trường hợp do nhu cầu cán

bộ của VKSND, người đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 20 năm trở lên và đáp

ứng các tiêu chuẩn trên thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Kiểm sát viên

VKSNDTC; Kiểm sát viên cao cấp phải là Kiểm sát viên trung cấp ít nhất 05 năm, có

năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, có hả năng hướng dẫn

nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với Kiểm sát viên

cấp dưới và đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên cao cấp. Trong trường hợp

do nhu cầu cán bộ của VKSND, người đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 15 năm

trở lên, có đủ tiêu chuẩn trên thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên cao cấp của

VKSND; nếu là sĩ quan quân đội tại ng thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên

cao cấp của Viện kiểm sát quân sự; Kiểm sát viên trung cấp phải là Kiểm sát viên sơ cấp

ít nhất 05 năm, có năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, có hả

năng hướng dẫn nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với

Kiểm sát viên sơ cấp và đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên trung cấp. Trong

trường hợp do nhu cầu cán bộ của VKSND, người đã có thời gian làm công tác pháp

luật từ 10 năm trở lên, có đủ tiêu chuẩn trên có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên

trung cấp của VKSND; nếu là sĩ quan quân đội tại ng thì có thể được bổ nhiệm làm

Kiểm sát viên trung cấp của Viện kiểm sát quân sự; Kiểm sát viên sơ cấp phải là người

có thời gian làm công tác pháp luật từ 04 năm trở lên, có năng lực thực hành quyền công

tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên sơ cấp. Ở

VKSNDTC có thể được bố trí bốn ngạch Kiểm sát viên; ở Viện kiểm sát quân sự trung

ương có Viện trưởng là Kiểm sát viên VKSNDTC và có thể được bố trí các ngạch Kiểm

sát viên cao cấp, trung cấp, sơ cấp; các Viện kiểm sát khác có thể được bố trí các ngạch

Kiểm sát viên cao cấp, trung cấp, sơ cấp. Kiểm sát viên được bổ nhiệm lần đầu có thời

hạn là 05 năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm.

Theo Nghị định số 5 /2015/NĐ-CP quy định về tuổi nghỉ hưu cao hơn đối với cán bộ,

công chức (có hiệu lực từ ngày 01/6/2015), Kiểm sát viên VKSNDTC có thể làm việc

đến 65 tuổi đối với nam và 60 tuổi đối với nữ (Khoản 2 Điều 2 và Khoản 2 Điều 5); (iii)

Đối với Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Kiểm tra viên và

công chức khác, viên chức và người lao động khác. Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan

điều tra VKSNDTC, Viện kiểm sát quân sự trung ương do Viện trưởng VKSNDTC bổ

102

nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Kiểm tra viên là người được bổ nhiệm theo quy định của

pháp luật để giúp Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp;

thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo sự phân công của Viện trưởng VKSND,

gồm các ngạch: Kiểm tra viên; Kiểm tra viên chính; Kiểm tra viên cao cấp. Số lượng

Kiểm sát viên ở VKSNDTC hông qua 19 người; tổng biên chế, số lượng Kiểm sát

viên; cơ cấu tỷ lệ các ngạch Kiểm sát viên tại mỗi cấp Viện kiểm sát; số lượng, cơ cấu tỷ

lệ các ngạch Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao do UBTV QH quyết định

theo đề nghị của Viện trưởng VKSNDTC sau khi có ý kiến của Chính phủ. Căn cứ tổng

biên chế, số lượng, cơ cấu tỷ lệ các ngạch Kiểm sát viên đã được UBTV QH quyết định,

Viện trưởng VKSNDTC quyết định biên chế, số lượng Kiểm sát viên, công chức khác,

viên chức và người lao động khác của các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối

cao và các Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới.

Hai là, nguồn nhân lực của cơ quan điều tra.

Theo quy định của Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, Điều tra viên

là người được bổ nhiệm để làm nhiệm vụ Điều tra hình sự, gồm các ngạch: Điều tra viên

sơ cấp; Điều tra viên trung cấp; Điều tra viên cao cấp. Tiêu chuẩn của Điều tra viên phải

là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp Việt Nam, có phẩm chất

đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần kiên quyết

bảo vệ pháp chế XHCN, có trình độ đại học An ninh, đại học Cảnh sát hoặc cử nhân luật

trở lên, đã được đào tạo về nghiệp vụ Điều tra, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm

vụ được giao. Ở từng ngạch sẽ có quy định cụ thể về thời gian làm công tác pháp luật,

đó là: Điều tra viên sơ cấp phải có thời gian làm công tác pháp luật từ 04 năm trở lên, có

năng lực Điều tra các vụ án thuộc loại tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, đã trúng tuyển

ỳ thi vào ngạch Điều tra viên sơ cấp; Điều tra viên trung cấp phải là điều tra viên sơ

cấp ít nhất là 05 năm, có năng lực Điều tra các vụ án thuộc loại tội rất nghiêm trọng, đặc

biệt nghiêm trọng, có khả năng hướng dẫn các hoạt động Điều tra của Điều tra viên sơ

cấp và đã trúng tuyển ỳ thi vào ngạch Điều tra viên trung cấp. Trường hợp do nhu cầu

cán bộ của Cơ quan Điều tra, người có đủ tiêu chuẩn quy định trên và đã có thời gian

làm công tác pháp luật từ 09 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm làm Điều tra viên

trung cấp; Điều tra viên cao cấp phải là Điều tra viên trung cấp ít nhất 05 năm, có năng

lực Điều tra các vụ án thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, phức

tạp, có khả năng nghiên cứu, tổng hợp, đề xuất biện pháp phòng, chống tội phạm, có khả

năng hướng dẫn các hoạt động Điều tra của Điều tra viên sơ cấp, Điều tra viên trung cấp

và đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Điều tra viên cao cấp. Trong trường hợp do nhu cầu

cán bộ của Cơ quan Điều tra, người có đủ tiêu chuẩn quy định trên và đã có thời gian

103

làm công tác pháp luật từ 14 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm làm Điều tra viên cao

cấp. Điều tra viên được bổ nhiệm lần đầu có thời hạn là 05 năm; trường hợp được bổ

nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm.

Ba là, nguồn nhân lực của cơ quan thi hành án.

Nhà nước bảo đảm biên chế, cán bộ cần thiết cho các cơ quan quản lý thi hành án

hình sự, cơ quan thi hành án hình sự. Người làm công tác thi hành án hình sự đã được

đào tạo, huấn luyện chuyên môn nghiệp vụ, bồi dư ng pháp luật phù hợp với nhiệm vụ,

quyền hạn được giao.

Nhìn chung, trong thời gian qua, các cơ quan tư pháp đã đặt biệt quan tâm công tác

đào tạo, đào tạo lại đội ng cán bộ tư pháp cả về chuyên môn, nghiệp vụ, cả về giáo dục

bồi dư ng phẩm chất và đạo đức nghề nghiệp. Tính đến 31/12/2018, tổng số biên chế

TAND là 14.149 người, thiếu 1.088 người so với biên chế UBTV QH giao; trong đó

trình độ trên tiến sĩ có 50 người, thạc sĩ có 1 51 người, cử nhân 12004 người; có 2391

người có trình độ cử nhân hoặc cao cấp lý luận chính trị; 4442 người có trình độ trung

cấp lý luận chính trị. Tổng số hội thẩm cấp tỉnh, cấp huyện của “cả nhiệm kỳ 2016-2021

là 17.014 người, trong đó cấp tỉnh là 1785 người, cấp huyện là 15229 người” [165], đến

12/2019, “tổng số biên chế của TAND các cấp là 13792 người, giảm 1445 người so với

biên chế được UBTV QH giao” [170].

Từ năm 201 đến nay, TANDTC đã tổ chức đào tạo nghiệp vụ xét xử cho

1.348 học viên; đào tạo nghiệp vụ Thẩm tra viên và Thư ký cho 2.655 học viên;

bồi dư ng nghiệp vụ cho 2.791 Thẩm phán, Thư ký Toà án.... Bên cạnh đó, năm

2018 Toà án nhân dân tối cao còn tổ chức 08 khoá tập huấn định kỳ qua hệ thống

truyền hình trực tuyến đến 778 điểm cầu trong hệ thống Tòa án với sự tham gia

thường xuyên của trên 10.000 cán bộ có chức danh tư pháp. Tham gia giảng dạy là

các chuyên gia đầu ngành của Toà án, các chuyên gia có uy tín trong và ngoài

nước [166].

Do đó, đến nay đội ng cán bộ tư pháp đã có sự trưởng thành nhanh chóng cả về

lượng và chất, dần đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Phần lớn cán bộ tư pháp đánh

giá há tốt về số lượng, cơ cấu đội ng cán bộ tại các bộ phận có chức năng đảm bảo

QTCCL cho NNN bị XHTD ở cơ quan mình. Trên 80% cán bộ trong mẫu nghiên cứu

đều cho rằng số lượng cán bộ đảm bảo phù hợp với công việc, cơ cấu x t theo độ tuổi,

giới tính, trình độ học vấn, thành phần dân tộc đều ở mức phù hợp hay rất phù hợp

(Bảng .7, Phụ lục 2). Đa số cán bộ các cơ quan tư pháp được đánh giá cao ở một số

năng lực như: 5, % cán bộ tư pháp tham gia nghiên cứu đánh giá hả năng hiểu biết,

nắm rõ các quy định của pháp luật của đội ng cán bộ thuộc cơ quan mình ở mức tốt

104

hoặc rất tốt; 1,7% cán bộ tham gia nghiên cứu đánh giá hả năng áp dụng các quy định

pháp luật vào giải quyết các vụ việc cụ thể ở mức tốt hoặc rất tốt (Bảng .8, Phụ lục 2).

Bốn là, nguồn nhân lực của thiết chế giám sát.

Đối với nguồn lực của QH, các cơ quan của QH, Đoàn ĐBQH, ĐBQH thực hiện

chức năng giám sát được thực hiện theo Luật Tổ chức QH năm 2014 (sửa đổi, bổ sung

năm 2020), trong đó, tổng số đại biểu QH không quá 500 người, bao gồm đại biểu hoạt

động chuyên trách và đại biểu hoạt động không chuyên trách; nhiệm kỳ của đại biểu QH

theo nhiệm kỳ của QH (05 năm). Số lượng đại biểu QH hoạt động chuyên trách ít nhất

là 40% tổng số đại biểu QH; số lượng và danh sách đại biểu QH hoạt động chuyên trách

tại Đoàn ĐBQH do UBTV QH quyết định, phê chuẩn. Cơ quan có thẩm quyền quản lý

cán bộ ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo phân cấp chịu trách nhiệm quản lý

công tác cán bộ đối với đại biểu QH hoạt động chuyên trách tại địa phương mình theo

quy định của UBTV QH.

Đối với nguồn lực cho HĐND, đại biểu HĐND thực hiện chức năng giám sát

được thực hiện theo Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung

năm 2019), trong đó, tổng số đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã được phân bổ

theo điều kiện KT-XH và số dân của địa phương đó: (i) Cấp tỉnh: nếu là tỉnh miền núi,

vùng cao, số đại biểu từ 50 đến 75 đại biểu; các tỉnh khác, số đại biểu từ 50 đến 85 đại

biểu. Riêng thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí inh được bầu 95 đại biểu; (ii) Cấp

huyện: nếu là huyện miền núi, vùng cao, hải đảo, số đại biểu từ 0 đến 5 đại biểu; các

huyện khác, số đại biểu từ 0 đến 5 đại biểu, trong trường hợp HĐND ở huyện có từ ba

mươi đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc trở lên do UBTV QH quyết định theo đề nghị

của Thường trực HĐND cấp tỉnh, nhưng tổng số hông quá 40 đại biểu; (iii) Cấp xã:

nếu là xã miền núi, vùng cao, hải đảo, số đại biểu từ 15 đến 0 đại biểu.

Đối với nguồn lực cho Uỷ ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên của

Mặt trận thực hiện chức năng giám sát được thực hiện theo Luật Tổ chức TTQ năm

2015 và các văn bản pháp luật liên quan, trong đó, tổ chức, biên chế bộ máy giúp việc

của Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp do cơ quan có thẩm quyền quy định. Cán bộ, công

chức, viên chức trong cơ quan Ủy ban MTTQ Việt Nam và người làm công tác Mặt trận

hông chuyên trách được đào tạo, bồi dư ng để nâng cao trình độ, nghiệp vụ công tác

Mặt trận, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.

Năm là, nguồn nhân lực của thiết chế hỗ trợ và tư vấn pháp lý.

Theo Luật TGPL năm 200 và năm 2017, người thực hiện TGPL bao gồm: trợ

giúp viên pháp lý; luật sư thực hiện TGPL theo hợp đồng với Trung tâm TGPL nhà

nước; luật sư thực hiện TGPL theo phân công của tổ chức tham gia TGPL; tư vấn viên

105

pháp luật có 02 năm inh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên làm việc tại tổ chức tham

TGPL; cộng tác viên TGPL. Sở Tư pháp công bố danh sách người thực hiện TGPL tại

địa phương, đăng tải trên trang thông tin điện tử của Sở Tư pháp và gửi Bộ Tư pháp để

tổng hợp đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.

Đội ng cán bộ của các cơ quan dân cử, cán bộ phụ trách đảm bảo quyền của phụ

nữ và trẻ em gái thuộc Bộ LĐTBXH ngày càng được hoàn thiện về số lượng, cơ cấu và

chất lượng; tính đến hết năm 2019, tổng số luật sư của cả nước là 1 .859 người; số

lượng luật sư tăng đều mỗi năm hơn 850 người (Biểu đồ 3.1, Phụ lục 2). Đội ng luật sư

đã đảm nhận 100% việc bào chữa trong các vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu

với chất lượng bào chữa trong các vụ án này ngày càng được nâng cao [58]; sự lớn

mạnh nhanh chóng của đội ng luật sư đã góp phần tích cực trong việc nâng cao chất

lượng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, thúc đẩy quá trình thực hiện chủ

trương đổi mới thủ tục tố tụng tư pháp, trước hết là nâng cao chất lượng tranh tụng tại

phiên toà, qua đó góp phần nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của toà án [99].

Thứ hai, kinh phí hoạt động và cơ sở vật chất, trang thiết bị của các thiết chế bảo

đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam tiếp tục được quan tâm đầu tư, đặc biệt là

nguồn inh phí và cơ sở vật chất, trang thiết bị và công cụ phục vụ cho hoạt động của

các thiết chế tư pháp nước ta đã được cải thiện đáng ể.

Một là, kinh phí hoạt động của TANDTC, TAND cấp cao, TAND cấp tỉnh, TAND

cấp huyện do Chính phủ trình QH quyết định sau khi thống nhất với TANDTC. Trường

hợp Chính phủ và TANDTC không thống nhất về dự toán kinh phí hoạt động của

TAND thì Chánh án TANDTC kiến nghị QH xem xét, quyết định. Kinh phí hoạt động

của VKSND do VKSNDTC lập dự toán và đề nghị Chính phủ trình QH quyết định.

Trong trường hợp Chính phủ và VKSNDTC không thống nhất về dự toán kinh phí hoạt

động của VKSND thì Viện trưởng VKSND kiến nghị QH xem xét, quyết định. Việc

quản lý, phân bổ và sử dụng inh phí được thực hiện theo quy định của pháp luật về

ngân sách. Thực tế, TAND tối cao đã phân bổ 620 tỷ đồng vốn đầu tư phát triển từ

NSNN năm 2018 cho 9 dự án xây dựng các trụ sở TAND cấp huyện; phân bổ 70 tỷ để

bảo trì, sửa chữa trụ sở và 30 tỷ để sửa chữa, mua sắm các thiết bị phục vụ phòng xét xử

thân thiện [165]. Điều này cho thấy rằng đa số các cán bộ tư pháp tham gia nghiên cứu

đều cho rằng các nguồn lực vật chất phục vụ cho việc thực thi nhiệm vụ được đảm bảo.

Trên 80% cán bộ tư pháp tham gia nghiên cứu đều đánh giá inh phí cho việc thực hiện

nhiệm vụ chuyên môn tại cơ quan đơn vị họ được đảm bảo. Đồng thời 89, % cán bộ cơ

quan tư pháp hẳng định cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ thực thi nhiệm vụ chuyên

môn của họ được đảm bảo tương đối đầy đủ trong thực tế (Bảng .9, Phụ lục 2).

106

Hai là, nhà nước bảo đảm kinh phí cho hoạt động Điều tra hình sự và thi hành án

hình sự. Việc lập dự toán, sử dụng và quyết toán inh phí và cơ sở, vật chất cho hoạt

động Điều tra hình sự được thực hiện theo pháp luật NSNN. Căn cứ yêu cầu công tác thi

hành án hình sự, địa bàn hoạt động và điều kiện kinh tế - xã hội, Nhà nước bảo đảm cơ

sở vật chất của cơ quan quản lý thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án hình sự, bao

gồm đất đai, trụ sở, công trình; trang thiết bị, v hí, công cụ hỗ trợ, phương tiện giao

thông, thông tin liên lạc, kỹ thuật nghiệp vụ và các điều kiện vật chất, kỹ thuật khác; ưu

tiên bảo đảm cơ sở vật chất cho cơ quan đóng ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo,

vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó hăn, địa bàn trọng yếu về an ninh quốc

gia, trật tự, an toàn xã hội. Nhà nước bảo đảm kinh phí cho hoạt động thi hành án hình

sự. Việc lập, dự toán, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho hoạt động thi hành án

hình sự được thực hiện theo pháp luật NSNN.

Ba là, kinh phí hoạt động của QH là một khoản trong NSNN do QH quyết định,

bao gồm kinh phí hoạt động chung của QH, kinh phí hoạt động của UBTV QH, Hội

đồng dân tộc, các Ủy ban của QH, Tổng Thư QH, Văn phòng QH, cơ quan thuộc

UBTV QH, kinh phí hoạt động của Đoàn ĐBQH, lương của ĐBQH hoạt động chuyên

trách, hoạt động phí, thù lao tham gia hoạt động QH, các khoản phụ cấp và các chế độ

của ĐBSH gắn với hoạt động của QH. Kinh phí hoạt động của HĐND các cấp do

NSNN bảo đảm. Việc quản lý, sử dụng kinh phí hoạt động của HĐND phải bảo đảm tiết

kiệm, hiệu quả và phải được kiểm toán theo quy định của pháp luật.

Bốn là, kinh phí hoạt động của Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp do NSNN bảo

đảm theo quy định của pháp luật. Việc lập dự toán, phân bổ, chấp hành và quyết toán

kinh phí NSNN cho hoạt động của MTTQ Việt Nam thực hiện theo quy định của Luật

NSNN. MTTQ Việt Nam được quản lý và sử dụng tài sản Nhà nước giao, tài sản và các

nguồn tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài tặng, cho theo quy định của

pháp luật.

Năm là, nguồn tài chính cho công tác TGPL bao gồm nguồn NSNN; đóng góp, tài

trợ của tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước và các nguồn hợp pháp khác; kinh phí

NSNN được bố trí trong dự toán NSNN hằng năm của cơ quan thực hiện quản lý nhà

nước về TGPL theo quy định của pháp luật về NSNN. Đối với địa phương chưa tự cân

đối được ngân sách, ưu tiên bố trí ngân sách từ số bổ sung cân đối ngân sách hằng năm

để hỗ trợ cho việc thực hiện vụ việc TGPL phức tạp, điển hình. Kinh phí cho hoạt động

TGPL của tổ chức tự nguyện thực hiện do tổ chức đó tự bảo đảm.

107

3.1.2. Hiệu lực, hiệu quả trong vận hành cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp

cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam tiếp tục được cải

thiện

3.1.2.1. Hiệu lực của cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn

nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam

Thứ nhất, các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam cơ bản

thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định pháp luật hiện hành để bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD và thực hiện các hỗ trợ cần thiết để nâng cao năng lực

TCCL của NNN bị XHTD.

Mỗi cơ quan trong hệ thống tư pháp đảm nhận phần trách nhiệm theo chức năng,

nhiệm vụ của mình, điều này tạo ra cơ chế iểm tra và kiềm chế lẫn nhau trong quá trình

thực hiện nhiệm vụ, bảo đảm cho việc thi hành pháp luật đúng đắn và có hiệu quả. Thực

tế hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp nước ta những năm qua cho thấy công tác

phối hợp giữa cơ quan điều tra với VKSND, TAND cùng cấp luôn được quan tâm thực

hiện. Hoạt động phối hợp diễn ra “thường xuyên, chặt chẽ, không ngừng được củng cố,

đã tạo được những chuyển biến tích cực góp phần đảm bảo kịp thời đưa ra truy tố, xét

xử đúng người, đúng tội, hông làm oan sai, đảm bảo quy định của pháp luật” [106].

Thứ hai, đa số các vụ án XHTD được trình báo đều được các cơ quan chức năng

thụ l , điều tra, truy tố và đưa ra x t xử một cách nghiêm minh đảm bảo đúng người,

đúng tội.

Trong các vụ án XHTD PNT G của cả nước được x t xử sơ thẩm trong giai đoạn

2014-2019: hiếp dâm chiếm tỷ lệ 22,4%; hiếp dâm trẻ em chiếm tỷ lệ 28,4%; cư ng

dâm chiếm tỷ lệ 0,4%; cư ng dâm trẻ em chiếm tỷ lệ 0,3%; giao cấu với trẻ em chiếm tỷ

lệ 34% và dâm ô trẻ em chiếm tỷ lệ 14,5%. Như thế, trẻ em gái bị XHTD chiếm tỷ lệ

77,2% (bao gồm hiếp dâm trẻ em, cư ng dâm trẻ em, giao cấu với trẻ em và dâm ô trẻ

em) (Bảng .2, Phụ lục 2). Đặc biệt, trong số các vụ giao cấu với trẻ em gái và dâm ô trẻ

em gái, số vụ và số nạn nhân trong giai đoạn 2014-2019 cao hơn so với giai đoạn 2008-

2013 lần lượt là: 41,54% (số vụ giao cấu với trẻ em) và 40,77% (số nạn nhân trong vụ

giao cấu với trẻ em); 45,96% (số vụ dâm ô trẻ em) và 45,26% (số nạn nhân trong vụ

dâm ô trẻ em) (Bảng .2, Phụ lục 2). Trong số trẻ em gái bị XHTD, có trên 50% nạn

nhân là trẻ em gái từ 1 đến đưới 16 tuổi; độ tuổi từ đến dưới 13 tuổi chiếm khoảng

35%, trẻ em dưới tuổi chiếm hoảng 10%; phần lớn 5 ,4% trẻ bị xâm hại đều có hoàn

cảnh gia đình hó hăn, hông được quan tâm; đặc biệt có 25,2% trẻ bị xâm hại sống

trong gia đình có bạo lực và 14,1% trẻ bị xâm hại sống trong gia đình có bố mẹ ly hôn

108

[157, tr. 50]. Đặc biệt, những năm gần đây, ở Việt Nam “trung bình nạn nhân nhỏ hơn

nghi phạm 10 tuổi” [41, tr. 5]; trong tổng số các bị cáo bị x t xử về tội phạm XHTD

PNT G có có độ tuổi từ 18 đến 0 tuổi chiếm tỷ lệ 36,29% [96, tr. 120].

Qua thực tiễn x t xử vụ án liên quan đến XHTD trong cả giai đoạn 2014-2019, tỷ

lệ xét xử vụ án XHTD PNTEG so với số thụ l đạt tỷ lệ tương đối cao khoảng 90%

(90,1% số vụ và 89,9% số bị cáo), cao hơn so với giai đoạn 2008-2013 (82,3% số vụ và

84,8% số bị cáo) (Bảng 3.10, Phụ lục 2).

Bên cạnh đó, tỷ lệ xét xử phúc thẩm các vụ án XHTD trong giai đoạn 2014-2019

so với số vụ án thụ lý luôn chiếm tỷ lệ cao trong các năm của cả giai đoạn này, trong đó

trung bình của cả giai đoạn này là: 87,6% số vụ và 87,4% số bị cáo. Cùng với đó, tỷ lệ

xét xử phúc thẩm các vụ án XHTD so với xét xử sơ thẩm trong giai đoạn 2014-2019

chiểm tỷ lệ tương đối thấp, trung bình của cả giai đoạn này là 27,1% số vụ và 27,2% số

bị cáo (Bảng 3.11, Phụ lục 2).

3.1.2.2. Hiệu quả của cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn

nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam

Thứ nhất, cơ chế này góp phần từng bước phát huy vai trò của thiết chế tư pháp

trong bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam.

Kết quả khảo thực tế cho thấy đa số cán bộ thuộc các thiết chế tư pháp đánh giá tốt

hoạt động x t xử của tòa án trên các tiêu chí như: x t xử đúng pháp luật, x t xử thấu tình

đạt l . ặc dù điểm số trung bình mà người dân đánh giá về hoạt động x t xử của tòa án

trên các tiêu chí như: “x t xử đúng pháp luật”, “x t xử thấu tình đạt l ”; “x t xử đảm bảo

tính công bằng” ở mức điểm thấp hơn mức điểm các cán bộ thuộc thiết chế tư pháp đánh

giá (điểm số trung bình người dân đánh giá là và ,5 điểm, điểm cán bộ đánh giá 4

điểm) tuy nhiên các mức điểm đều ở mức bình thường và gần tốt (Bảng 3.12, Phụ lục

2); hi có vụ việc xảy ra, hơn 75% người dân chọn xử l vụ việc thông qua thiết chế tư

pháp chính thức đã cho thấy người dân vẫn rất tin tưởng vào hoạt động đảm bảo

QTCCL của các thiết chế này.

Thứ hai, năng lực tiếp cận công l của NNN bị XHTD từng bước được cải thiện.

Thực tế khảo sát cho thấy phần lớn người dân có hiểu biết tương đối tốt về các

hành vi liên quan đến XHTD theo quy định của BLHS năm 2015 và quy định pháp luật

liên quan, đa số người dân nhận diện được đâu là hành vi tình dục trái pháp luật. Đa số

người dân phân biệt được đâu là hành vi XHTD với hành vi không phải XHTD theo quy

định của BLHS hiện hành (chiếm tỷ lệ trên 90%); tỷ lệ người không phân biệt được

chiếm tỷ lệ tương đối thấp (từ 2%-8,4%) (Bảng .13, Phụ lục 2).

109

3.2. NHỮNG NHƯỢC ĐIỂM TRONG CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN

TIẾP CẬN CÔNG LÝ CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 2014-2019

3.2.1. Các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý

của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam vẫn chưa đáp ứng kịp thời yêu

cầu thực tế

3.2.1.1. Thể chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị

xâm hại tình dục ở Việt Nam

Bên cạnh những ưu điểm, thể chế pháp lý về bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD

ở Việt Nam vẫn còn sự chồng chéo, mâu thuẫn, còn những khoảng trống nhất định và

còn những quy định chưa phù hợp với thực tế, cụ thể là:

Thứ nhất, những nhược điểm trong các quy định về hành vi XHTD.

Các quy định, định nghĩa về các hành vi XHTD ể cả trong xã hội và trong các

quy định của luật thường há đa dạng và sẽ hông đồng nhất. Những quy định, định

nghĩa này thường thay đổi theo thời gian, phụ thuộc vào các đặc trưng của xã hội, luật

pháp, đạo đức và thậm chí là sự thay đổi của công nghệ [220, tr. 3]. Theo ông Friday

Achilefu Nwaigwe, Quyền Phó Đại diện UN C tại Việt Nam: “Việc định nghĩa tội

phạm tình dục trong luật có vai trò quan trọng bởi nó tác động trực tiếp đến các điều tra

viên, kiểm sát viên, và thẩm phán xử lý các vụ án XHTD được tố giác. Điều này c ng

tác động đến việc các nạn nhân bị XHTD có tố giác tội phạm để đòi hỏi công l được

thực thi hay không” [77]. Cho đến nay, pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới

đều hình sự hóa hành vi XHTD, đặc biệt XHTD đối với PNTEG. Ở Việt Nam hiện nay,

tội phạm tình dục được quy định trong Chương X V (Các tội xâm phạm tính mạng, sức

khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người) của BLHS năm 2015 từ điều 141 đến điều

147, tuy nhiên những hành vi tình dục trái pháp luật trong HTPL Việt Nam, đặc biệt

trong PLHS chưa thật sự cụ thể và rõ ràng, quy định về tội danh hiếp dâm và cư ng dâm

còn hẹp không thể hiện đầy đủ những khía cạnh về hành vi bị tấn công tình dục mà các

NNN bị XHTD phải chịu trong thực tế. Những khía cạnh này được thể hiện trong các

nội dung sau:

Một là, những bất cập trong PLHS hiện hành quy định về hành vi hiếp dâm, cư ng

dâm và dâm ô.

Các tội danh này được cấu thành bởi người có năng lực trách nhiệm hình sự thực

hiện thông qua hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác. Trong

đó, hành vi “giao cấu” được quy định tại khoản 1 của các điều 141, điều 142, điều 143,

điều 144 và điều 145 trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chưa rõ ràng,

110

chưa cụ thể và hó xác định trong thụ lý các vụ án XHTD. Theo Nghị quyết số

06/20119/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TANDTC ngày 01/10/2019 Hướng dẫn

áp dụng một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của BLHS và

việc xét xử vụ án XHTD dưới 18 tuổi, xác định giao cấu là “hành vi xâm nhập của bộ

phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào. Giao cấu

với trẻ em dưới 10 tuổi được xác định là đã hoàn thành hông phụ thuộc vào việc đã

xâm nhập hay chưa xâm nhập (Khoản 1 điều 3)” [71]. Như vậy, so với định nghĩa hành

vi “giao cấu” được hướng dẫn tại Bản tổng kết của TANDTC số 29/HS2 ngày 11-5-

19 7 thì định nghĩa hành vi “giao cấu” được đưa ra trong Nghị quyết số 0 /20119/NQ-

HĐTP đã thu hẹp đáng ể phạm vi.

Việc quy định như vậy vẫn gây ra những hó hăn trong việc thụ lý và xét xử đối

với tội hiếp dâm và tội cư ng dâm trong thực tế, bởi vì việc xác định tội hiếp dâm hoặc

tội cư ng dâm thông qua việc thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ

tình dục hác bằng “dùng v lực, đe dọa dùng v lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể

tự vệ được của nạn nhân” (tội hiếp dâm) hoặc “dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc

mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cư ng” (tội cư ng dâm)

là cách tiếp cận mang nặng tính bằng chứng và tương đối hạn hẹp, điều này gây hó

khăn cho các cơ quan chức năng đồng thời gây hó hăn cho các nạn nhân trong việc

tìm iếm công l thông qua con đường tư pháp chính thức. Bởi hiện nay, PLHS Việt

Nam đang quy định “lợi dụng tình trạng hông thể tự vệ được” hoặc “ở trong tình trạng

quẫn bách phải miễn cư ng” là dấu hiệu phạm tội hiếp dâm hoặc tội cư ng dâm, theo

quy định này các cơ quan chức năng có xu hướng chứng minh hành vi tội phạm căn cứ

vào bằng chứng pháp y, thông qua các thương tích, dấu vết như (chầy xước, bầm dập,

thâm tím….). Quan niệm cho rằng hiếp dâm, cư ng dâm thực sự liên quan đến thương

tích về mặt thể chất khiến nhiều cán bộ tư pháp không tiến hành thụ lý vụ án nếu không

có bằng chứng pháp y hoặc lời khai của các nhân chứng hác. Đa số cán bộ tư pháp hình

sự cho biết họ dựa vào khám nghiệm âm đạo và phát hiện tinh dịch để xác định xem đó

có phải là các dấu vết liên quan đến XHTD hông, tuy nhiên, việc làm này gặp phải

những thách thức lớn trong các vụ án mà nạn nhân nữ trưởng thành đã có quan hệ tình

dục trước khi xảy ra vụ án hay trong những vụ việc mà những nạn nhân không kịp thời

trình báo cơ quan chức năng ngay hi vụ án xảy ra, điều này làm hỏng bằng chứng pháp

y do việc tắm rửa sau khi bị hiếp dâm, bị cư ng dâm hoặc những dấu vết trên cơ thể sau

một vài ngày sẽ phai mờ. Thực tiễn xét xử các vụ án XHTD, đặc biệt XHTD trẻ em gái

cho thấy “việc phát hiện, thu thập chứng cứ, giám định, chứng minh tội phạm gặp rất

nhiều hó hăn do thiếu dấu vết, chứng cứ, tổn thương cơ thể chỉ được ghi nhận ở 24% số

111

vụ” [41, tr. 36], các nghiên cứu của Liên Hợp quốc c ng cho thấy, “7 % nạn nhân của

XHTD ở Việt Nam không có dấu hiệu thương tích rõ rệt” [41, tr. 36] vì các đối tượng có

hành vi XHTD thường rất hôn h o để che đậy hành vi phạm tội của mình, kể cả việc đe

dọa, khống chế nạn nhân. Điều này dẫn đến nhiều PNTEG là nạn nhân của tội hiếp dâm,

cư ng dâm hó được đảm bảo QTCCL, bởi theo các quy định pháp luật hiện hành, “các

cơ quan chức năng thường lấy lý do chứng cứ, dấu vết mờ nên không quyết liệt trong khởi

tố, điều tra, truy tố, xét xử vì sợ oan sai” [144].

Theo Điều 14 BLHS năm 2015 và Khoản Điều 3 Nghị quyết số 06/2019/NQ-

HĐTP vẫn chưa coi hành vi dâm ô đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên là hành vi nguy

hiểm cho xã hội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, bởi vì một số chuyên gia

pháp lý ở Việt Nam cho rằng “Hành vi dâm ô người từ 16 tuổi trở lên thì không phạm

tội mà chỉ áp dụng biện pháp giáo dục”. Do đó, đây vẫn là một hoảng trống pháp l

trong việc đấu tranh, phòng ngừa, xử l tội XHTD để bảo vệ quyền lợi ích chính đáng,

hợp pháp cho phụ nữ. Điều đó hiến cho việc xử l các vụ việc liên quan đến “dâm ô”

gặp nhiều hó hăn trong thực tế như: vụ án ông Nguyễn Khắc Thủy có hành vi dâm ô

với 4 trẻ em tại hu chung cư La eside (phường Nguyễn An Ninh, thành phố V ng Tàu)

phải mất tới 2 năm tòa án mới có phán quyết cuối cùng; vụ án ông Nguyễn Hữu Linh

ôm, hôn bé gái 8 tuổi tại thang máy chung cư Galaxy 9 (quận 4, Thành phố Hồ Chí

inh) đã bị cơ quan công an hởi tố nhưng cơ quan chức năng lại hó xử l bởi nếu căn

cứ theo Điều 146 BLHS năm 2015 thì hành vi của ông Linh được cho rằng chưa đủ yếu

tố cấu thành tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” [93].

Bên cạnh đó, nếu theo khoản 1 Điều 14 BLHS năm 2015 thì người dưới 18 tuổi

(đặc biệt từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi và có đủ năng lực trách nhiệm pháp lý hình sự)

có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi có bị truy cứu TNHS không? Nếu truy cứu

TNHS thì chưa có đủ cơ sở pháp l và như thế sẽ áp dụng theo khung hình phạt nào?

Nếu không bị truy cứu TNHS sẽ hông đảm bảo quyền được đền bù thoả đáng đối với

trẻ em gái bị dâm ô bởi người dưới 18 tuổi. Điều đó cho thấy các nhà làm luật Việt Nam

vẫn chưa coi hành vi “dâm ô đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên và hành vi dâm ô của

người dưới 18 tuổi là hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức phải truy cứu TNHS”. Bên

cạnh đó, sự phổ biến nhanh chóng của công nghệ thông tin và truyền thông đã tạo ra

môi trường mới cho các hành vi xâm hại và bóc lột tình dục thông qua môi trường

mạng. Những năm qua trên thực tế đã có nhiều trường hợp các cá nhân sử dụng môi

trường mạng để ve vãn, dụ dỗ trẻ em thực hiện các hành vi tình dục trực tuyến như phơi

bày bộ phận cơ thể, bộ phận sinh dục hay thực hiện hành vi tình dục hác với mục đích

nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục hay để thực hiện các mục đích inh doanh tình dục

112

hác. Tuy nhiên cho đến nay “BLHS và các luật chuyên ngành hác của nước ta vẫn

chưa đề cập đến các hành vi tình dục trên các thiết bị truyền thông trong hi đó nhiều

quốc gia trên thế giới đã đưa ra các tội mới liên quan đến ve vãn, dụ dỗ tình dục trực

tuyến trẻ em” [262, tr. 6]. Đây có thể được xem là một hoảng trống trong hung pháp

l của Việt Nam liên quan đến đảm bảo QTCCL cho nạn nhân bị XHTD mà hiện tại đa

số vẫn là PNTEG.

Hai là, pháp luật Việt Nam hiện nay chưa quy định rõ ràng các hành vi và biện

pháp chế tài hình sự liên quan đến quấy rối tình dục mặc dù đây là một hiện tượng đã và

đang diễn ra trong thực tế, gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, tinh thần và sự bảo đảm

quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhân phẩm, danh dự của PNTEG.

Hiện tại, Bộ luật Lao động năm 2012 đã quy định cấm quấy rối tình dục tại nơi

làm việc (Khoản 2, Điều 8, Điểm c khoản 1 Điều 37, Khoản 1 Điều 183, khoản 4 Điều

182) nhưng lại hông đưa ra định nghĩa rõ ràng cho các hành vi quấy rối tình dục, mặc

dù Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Bộ LĐTBXH, Phòng Thương mại và công

nghiệp Việt Nam đã ban hành Bộ quy tắc ứng xử về quấy rối tình dục tại nơi làm việc

năm 2015, trong đó quy định: “Quấy rối tình dục” là hành vi có tính chất tình dục gây

ảnh hưởng tới nhân phẩm của nữ giới và nam giới, đây là hành vi hông được chấp

nhận, không mong muốn và không hợp lý làm xúc phạm đối với người nhận, và tạo ra

môi trường làm việc bất ổn, đáng sợ, thù địch và khó chịu. Quấy rối tình dục “trao đổi”

(nhằm mục đích đánh đổi) diễn ra khi người sử dụng lao động, người giám sát, người

quản l hay đồng nghiệp thực hiện hay cố gắng thực hiện nhằm gây ảnh hưởng đến quy

trình tuyển dụng, thăng chức, đào tạo, kỷ luật, sa thải, tăng lương hay các lợi ích khác

của người lao động để đổi lấy sự thỏa thuận về tình dục”, tuy nhiên quy định này chỉ

mang tính chất nội bộ trong cơ quan, đơn vị, vì thế không có giá trị về mặt pháp l để

truy cứu trách nhiệm pháp lý khi xảy ra vụ án quấy rối tình dục, điều này tạo ra rào cản

khiến cho nạn nhân không thể trình báo vụ việc và nếu có trình báo các cơ quan chức

năng c ng hông thể xử l bởi thiếu các quy định rõ ràng. ặc dù, Bộ luật Lao động

năm 2019 (có hiệu lực ngày 01/01/2021) đã đưa ra định nghĩ về hành vi quấy rối tình

dục tại nơi làm việc, đó là “hành vi có tính chất tình dục của bất kỳ người nào đối với

người khác tại nơi làm việc mà hông được người đó mong muốn hoặc chấp nhận

(khoản 9, Điều 3) [139], đây lần đầu tiên pháp luật nước ta đưa ra định nghĩa về hành vi

quấy rối tình dục tại nơi làm, nhưng quy định này mới chỉ giới hạn hành vi quấy rối tình

dục ở nơi làm việc, còn hành vi quấy rối tình dụng ở những nơi khác, như nơi công cộng

thì chưa có quy định cụ thể. Hơn nữa, định nghĩa về hành vi quấy rối tình dục trong Bộ

113

luật Lao động năm 2019 vẫn còn rất chung chung, rất hó xác định, điều này dẫn đến

khó xử lý khi xảy ra các hành vi quấy rối tình dục.

Thứ hai, những hạn chế trong xác định chủ thể của hành vi XHTD và xác định các

hung hình phạt.

Hiện tại trong các quy định tại Điều 115, 11 BLHS năm 1999 và Điều 145,

146,147 BLHS năm 2015 đều sử dụng cụm từ “người nào từ đủ 18 tuổi trở lên” (trong

BLHS năm 1999 sử dụng “người nào đã thành niên”) nghĩa là những người từ đủ 18

tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm pháp l về các tội liên quan đến XHTD được quy định

trong Điều 145,14 ,147. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều trường hợp là những người từ

đủ 1 tuổi đến 18 tuổi có hành vi XHTD với người từ đủ 1 đến dưới 1 tuổi: “trong 12

năm từ 200 đến 2017 có đến 1.725 bị cáo phạm các tội xâm phạm tình dục là người

chưa thành niên (dưới 18 tuổi) chiếm 7,79% số lượng bị cáo phạm các tội xâm phạm

tình dục” [96, tr. 120]. Như vậy việc sử dụng cụm từ “người nào từ đủ 18 tuổi trở lên”

trong các Điều 145,14 ,147 của BLHS được cho là đã tạo ra ẽ hở để lọt tội phạm.

Bên cạnh đó, các chế tài xử phạt các hành vi XHTD được quy định trong pháp luật

hiện hành còn chưa tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Các hung

hình phạt đối với tội liên quan đến XHTD được quy định trong các điều từ 141 đến 147

của BLHS năm 2015 được cho là tương đối thấp. Theo ết quả khảo sát thực tiễn cho

thấy, trong tổng số 800 người dân trả lời phiếu hỏi có 2 7 người (chiếm ,4%) cho

rằng các quy định pháp luật liên quan đến hung hình phạt đối với tội XHTD là chưa

hoàn thiện; đồng thời có 1 1 cán bộ tư pháp (chiếm 40, % trong tổng số 00 cán bộ tư

pháp) được hỏi hẳng định quan điểm tương tự, cụ thể là:

(1) Việc xác định hung hình phạt đối với các tội liên quan đến hành vi XHTD

được quy định tại hoản 4 Điều 141 và hoản 4 Điều 14 được cho là hông phù hợp,

gây hó hăn, vướng mắc cho các cơ quan tiến hành tố tụng cụ thể như sau: “Theo quy

định tại điều 141 và Điều 14 thì hung hình phạt liền ề của hoản 4 là hoản , hung

hình phạt liền ề của hoản là hoản 2, hung hình phạt liền ề của hoản 2 là hoản

1” [96, tr. 185]. Tuy nhiên “mức hình phạt hởi điểm tại hoản 4 Điều 141 và hoản 4

Điều 14 lại thấp hơn hình phạt hởi điểm quy định tại hoản . Vì vậy trường hợp bị

cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, được áp dụng các quy định tại Điều 54 thì việc xác định

mức án trong hung hình phạt liền ề nhẹ hơn là rất hó hăn” [96, tr. 185].

(2) Quy định “Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội” tại điểm b khoản Điều

141, Điều 14 , 145, điểm đ hoản Điều 142, điểm c khoản Điều 144 được cho là

chưa đáp ứng được yêu cầu bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD hiện nay. Bởi vì trong

thực tiễn, ngoài trường hợp bị nhiễm H V, người phạm tội XHTD còn mắc nhiều loại

114

bệnh truyền nhiễm nguy hiểm khác (lây nhiễm qua đường tình dục), như bệnh viêm gan

siêu vi B, bệnh lậu, bệnh sùi mào gà, bệnh giang mai, mụn rộp sinh dục, v.v.. Thực tiễn

ở một số quốc gia trên thế giới, người phạm tội bị bệnh truyền nhiễm, không chỉ bệnh

HIV mà các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục khác, mà vẫn phạm tội XHTD thì áp

dụng khung tăng nặng, như trong BLHS Liên bang Nga năm 19 quy định: “phạm tội

hiếp dâm mà kéo sự lây nhiễm của nạn nhân bị bệnh hoa liễu” (điểm c khoản 3 Mục

1 1); “phạm tội tấn công tình dục mà kéo theo sự lây nhiễm của nạn nhân bị bệnh hoa

liễu” (điểm c khoản 2 Mục 132).

(3) Những bất hợp lý trong Điều 142: người nào có hành vi “giao cấu hoặc thực

hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi” bị truy cứu ở khung hình

phạt từ 07 năm đến 15 năm tù (điểm c khoản 1) trong hi đó người có hành vi “giao cấu

hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 10 tuổi” bị phạt tù 20 năm,

tù chung thân hoặc tử hình (điểm c khoản 3). Với quy định này, người nào có hành vi

“giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ 10 tuổi đến dưới 13

tuổi” bị truy cứu ở khung hình phạt từ 07 năm đến 15 năm tù. Tuy nhiên, trong thực tế,

trẻ em nói chung, trẻ em gái nói riêng, đặc biệt là trẻ em dưới 13 tuổi là những người

đang trong độ tuổi phát triển, chưa hoàn thiện về thể chất và tâm sinh lý, cho nên khi bị

XHTD, những nạn nhân này sẽ chịu những thương tổn lâu dài, ảnh hưởng sâu đến sự

phát triển của nạn nhân và gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho gia đình nạn nhân và

cộng đồng xã hội. Vì thế, việc quy định khung hình phạt như tại điểm c khoản 1 Điều

142 là bất hợp lý, cần phải nâng khung hình phạt lên như điểm c khoản 3 của Điều này.

(4) Quy định khung hình phạt tại đối với tại khoản các Điều 145 (tội giao cấu

hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác đối với người từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi),

Điều 146 (tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi), Điều 147 (tội sử dụng người dưới 16

tuổi vào mục đích hiêu dâm) là chưa thoả đáng.

Đối với tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác đối với người từ

13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì hình phạt cao nhất là 15 năm tù trong trường hợp nạn nhân

bị tổn thương cơ thể đến 61% trở lên hoặc bị nhiễm HIV (Khoản Điều 145). Tuy

nhiên, những tổn thương mà nạn nhân phải gánh chịu hết sức nghiêm trọng, ảnh hưởng

đến cuộc sống và tương lai của nạn nhân, đặc biệt trường hợp nạn nhân bị nhiễm HIV

thì còn nghiêm trọng hơn, cho nên với quy định khung hình phạt như vậy chưa đảm bảo

sự đền bù thoả đáng đối với trẻ em gái từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi bị người khác thực

hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.

Ngoài ra, tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi và tội sử dụng người dưới 16 tuổi

vào mục đích hiêu dâm đều có khung hình phạt cao nhất là 12 năm tù đối với trường

115

hợp nạn nhân bị rối loạn tâm thần và hành vi mà tỷ lệ thương tổn cơ thể từ 61% trở lên

hoặc làm nạn nhân tự sát (khoản Điều 146, 147). Với những hậu quả nặng nề như vậy

mà người phạm tội chỉ chịu khung hình phạt tối đa là 12 năm tù thì chưa đủ sức răn đe

đối với người phạm tội và hông đảm bảo sự đền bù thoả đáng đối với NNN bị XHTD.

Thứ ba, những hạn chế trong các quy định pháp luật liên quan đến quy trình tố

tụng hình sự đối với vụ án XHTD ở Việt Nam.

Hiện tại đối với vụ án XHTD, theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành, quá

trình tư pháp hình sự thường trải qua 4 giai đoạn phổ biến là: (1) trình báo/tiếp xúc ban

đầu; (2) điều tra, thu thập chứng cứ; ( ) các quá trình trước xét xử/truy tố và (4) các quá

trình xét xử. Trong mỗi giai đoạn của quá trình tư pháp hình sự đều có những quy định

mà các cơ quan chức năng và các chủ thể liên quan hác phải tuân theo. Tuy nhiên, các

nghiên cứu đã cho thấy nhiều quy định pháp luật liên quan đến quy trình tố tụng hình sự

đối với vụ án XHTD ở Việt Nam đang tạo ra rào cản trên con đường tiếp cận công l

của các NNN bị XHTD, đó là:

Một là, những hạn chế liên quan đến các quy định về xử l thông tin tố giác, tin

báo tội pham tình dục. Với các vụ việc liên quan đến XHTD thì giai đoạn trình báo, tố

giác tội phạm rất quan trọng, tuy nhiên một “lỗ hổng” trong hung pháp l hiện tại của

nước ta là chưa có quy trình tố tụng đặc biệt để xử lý tin tố giác, tin báo tội phạm. Trong

hi đó chúng ta lại thiếu các quy định xử l các cơ quan, tổ chức, cá nhân không tố cáo,

tố giác hành vi XHTD, không thực hiện hoặc thực hiện chậm trễ trách nhiệm bảo vệ

quyền của nạn nhân bị XHTD. Do đó rất nhiều trường hợp các cơ quan nhận tin báo, tố

giác tội phạm đã hông thực hiện hết trách nhiệm của mình trong giải quyết vụ việc

hiến cho việc đảm bảo QTCCL của các nạn nhân gặp nhiều hó hăn, trở ngại. inh

chứng cho trường hợp này là vụ việc XHTD đối với cháu b 5 tuổi ở phường 14, quận

Tân Bình, thành Phố Hồ Chí inh năm 2019, hi mẹ cháu b đưa con đến công an

phường 14 (quận Tân Bình) để trình báo vụ việc thì công an phường đã hông hướng

dẫn đầy đủ các quy trình thủ tục giúp nạn nhân trình báo và giải quyết vụ việc, sau hi

gia đình nạn nhân quyết tâm tố cáo thì lại huyên gia đình nạn nhân giải quyết bằng con

đường tự thỏa thuận, thương lượng bồi thường (Hộp 3.1, Phụ lục 3). Bên cạnh đó,

HTPL nước ta còn thiếu các quy định cụ thể đầu mối tiếp nhận, xử lý thông tin, thông

báo, tố giác và phối hợp xác minh, đánh giá, điều tra về hành vi XHTD, tình trạng mất

an toàn hoặc gây tổn hại, mức độ nguy cơ gây tổn hại đối với NNN; chưa có quy định

về thẩm quyền, thủ tục tách trẻ em ra khỏi cha mẹ, người chăm sóc trong trường hợp

chính cha mẹ, người chăm sóc có hành vi XHTD đối với trẻ em; thiếu hệ thống theo dõi

để đảm bảo những trẻ em này không tiếp tục bị XHTD [94].

116

Hai là, các quy định liên quan đến thủ tục pháp l hiện còn nhiều bất cập. Trong

bối cảnh mà hầu hết các NNN bị XHTD hông hiểu rõ quy trình thủ tục pháp l thì việc

có quá nhiều thủ tục sẽ làm chậm đáng ể thời gian thụ l , hám x t thu giữ dấu hiệu

chứng cứ vụ việc (được minh chứng bởi vụ XHTD đối với cháu b 5 tuổi ở phường 14,

quận Tân Bình, thành Phố Hồ Chí inh năm 2019) (Hộp 3.1, Phụ lục 3). Các quy định

liên quan đến thu thập chứng cứ pháp y và các biên liên quan là một minh chứng cho

thấy quy định pháp l hiện hành ở nước ta còn quá nhiều tầng, nhiều nấc. Đối với công

tác x t xử tội phạm tình dục thì việc thu thập chứng cứ pháp y có nghĩa vô cùng quan

trọng bởi các quy định pháp luật hiện tại hiến cho thủ tục tố tụng của tòa án thường tập

trung vào chứng cứ về dấu vết trên thân thể nạn nhân hoặc bằng chứng pháp y hay độ tin

cậy trong lời khai của nạn nhân để x t xử, tuy nhiên, việc thực hiện hâu này vẫn còn

nhiều phức tạp và còn nhiều lỗ hổng. Hiện nay, quy trình trưng cầu giám định vụ án

XHTD đang được thực hiện theo các bước: (1) sau khi nạn nhân hoặc gia đình trình báo

sự việc, cơ quan điều tra tiến hành lập biên bản lấy lời hai; (2) đưa nạn nhân đến cơ sở

khám, chữa bệnh, thường là các bệnh viện có chuyên khoa sản để khám chứng thương;

(3) sau khi hoàn tất hồ sơ, cơ quan điều tra gửi quyết định trưng cầu giám định pháp y

tình dục đến trung tâm pháp y nhưng thường là muộn vài ngày, có vụ muộn vài tháng.

Khi đó hầu như hông còn dấu vết của hành vi XHTD, trung tâm pháp y chỉ có thể thẩm

định lại các dấu hiệu tổn thương đã được ghi nhận tại các cơ sở khám chữa bệnh trước

đó xem có đúng hông, ết quả này không có tác dụng giúp cơ quan điều tra xác định

đây có phải là vụ án XHTD hay không, “thậm chí có trường hợp thời gian giám định

pháp y sẽ o dài hơn nếu trong quá trình giải quyết vụ án bị cáo được tư vấn của luật

sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp hoặc vì một l do nào đó đã hông đồng ý

với bản kết luận giám định pháp y đã nhận được trước đó nên đã đề nghị với Hội đồng

xét xử cho giám định pháp y lại” [167].

Để rút ngắn và nâng cao hiệu quả của giám định pháp y về XHTD đối với PNTEG

cần được quy định là loại đặc biệt, phải được thực hiện nhanh, nhưng, Luật Giám định

tư pháp năm 2012 (có hiệu lực từ ngày 01/01/201 ) đã hông quy định việc trưng cầu

giám định pháp y về XHTD đối với PNTEG là loại đặc biệt, phải được thực hiện nhanh

để xác định thủ phạm, trong hi đó việc thực hiện quy trình thủ tục này lại hông hề đơn

giản với các nạn nhân nữ (thời gian kéo dài, những dấu vết trên cơ thể nạn nhân bị xoa

mờ, vùng kín bị hóa sẹo, hông thu được tinh dịch…), điều đó hiến cho việc giải quyết

vụ án bị o dài, gặp nhiều hó hăn thậm chí dẫn đến bỏ lọt tội phạm hoặc xử lý không

đúng tội danh.

117

Ba là, những hạn chế trong các quy định liên quan đến cung cấp chứng cứ chứng

minh tội phạm XHTD. Việc thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm XHTD là trách

nhiệm của cơ quan điều tra, tố tụng và x t xử, tuy nhiên quy định của PLHS hiện hành

quy định nạn nhân phải có trách nhiệm chứng minh mình bị XHTD trái ph p. Để chứng

minh mình bị hiếp dâm hoặc bị cư ng dâm, nạn nhân phải chứng minh là đã bị quan hệ

tình dục “ngược lại muốn” của bản thân. Điều này đang đặt trách nhiệm chứng minh

tội phạm lên nạn nhân và biến hành vi của nạn nhân thành yếu tố trung tâm trong việc

xác định tội phạm tình dục, thực tế này hiến cho quá trình tố tụng trở nên hó hăn, đặc

biệt với trẻ em gái bị XHTD và nó hiến cho nạn nhân e ngại trình báo vụ án với cơ

quan chức năng.

Bốn là, hệ thống pháp luật của nước ta còn “thiếu các quy định về bảo vệ nạn nhân

trong quá trình thu thập chứng cứ” [193]. Hệ thống pháp luật đã quy định về việc bảo

mật thông tin, việc giữ bí mật đời sống riêng tư cho nạn nhân tuy nhiên “những quy định

này hiện chưa đủ chi tiết đồng thời hệ thống pháp luật vẫn còn thiếu các quy định bảo vệ

người tố giác tội phạm” [206]. Do vậy, các quy định pháp luật của nước ta hiện nay

chưa chú trọng đầy đủ đến đặc tính dễ bị tổn thương của NNN bị XHTD đặc biệt là trẻ

em gái trong quá trình TTHS. Điều này sẽ tạo ra rào cản hiến NNN bị XHTD giữ bí

mật hông hai báo vụ việc với cơ quan chức năng.

Thứ tư, những hác biệt trong các quy định pháp luật Việt Nam với công ước quốc

tế về bảo vệ quyền trẻ em.

Hiện tại, các quy định của công ước quốc tế về QCN, quyền PNTEG đã được nội

luật hóa trong HTPL nước ta. Tuy nhiên, việc định nghĩa về “trẻ em” trong pháp luật

hiện hành nước ta chưa phù hợp với CRC: nếu như CRC quy định “trẻ em là người dưới

18 tuổi trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm

hơn” [97] thì Luật Trẻ em Việt Nam năm 201 lại quy định “trẻ em là người dưới 16

tuổi (Điều 1)” [135].

ặc dù BLHS, BLTTHS hiện hành đã công nhận người dưới 18 tuổi cần được

bảo vệ và hỗ trợ đặc biệt, nhất là trong quá trình tố tụng, tuy nhiên, rất nhiều quy định

liên quan đến định hung tăng nặng đối với các tội liên quan đến XHTD trong BLHS

mới chỉ áp dụng cho trẻ ở độ tuổi dưới 1 , như: Điều 142 BLHS quy định tội Hiếp dâm

người dưới 1 tuổi; Điều 144 quy định tội cư ng dâm người từ đủ 1 đến dưới 1 tuổi;

Điều 145 quy định tội giao cấu với người từ đủ 1 tuổi đến dưới 1 tuổi, v.v.. Như vậy,

mặc dù BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung các điều khoản về hành vi XHTD, nhưng

so với công ước CRC và Nghị định thư bổ sung về việc xác định trẻ em là người dưới

18 tuổi thì những quy định trong BLHS hiện hành vẫn cần tiếp tục hoàn thiện.

118

Thứ năm, một số vướng mắc liên quan đến các quy định về sự vận hành của các

thiết chế bảo quyền của NNN bị XHTD.

Để đảm bảo QTCCL của NNN bị XHTD thì tòa án phải là cơ quan x t xử độc lập,

phải tạo ra cơ chế để các thẩm phán được độc lập trong quá trình x t xử mà hông bị chi

phối , bóp m o, can thiệp bởi bất cứ cơ quan hay tổ chức nào ngoài các quy định trong

hiến pháp và pháp luật. Ở nước ta, nguyên tắc toà án độc lập trong x t xử được ghi nhân

trong Hiến pháp, Luật Tổ chức TAND; Bộ luật TTHS, tuy nhiên, trong một số quy định

của pháp luật và thực tiễn vẫn có những yếu tố làm giảm đi tính độc lập xét xử của tòa

án. Về mặt tổ chức, đó là việc bổ nhiệm thẩm phán theo nhiệm kỳ chứ không phải là dài

hơn hoặc chế độ thẩm phán suốt đời; thêm vào đó, chế độ đãi ngộ đối với đội ng thẩm

phán, nhân viên tư pháp chưa bảo đảm tính đặc thù của nghề nghiệp. Ngoài ra, việc tổ

chức tòa án các cấp tỉnh và cấp huyện có mối quan hệ mật thiết với cấp uỷ và chỉnh

quyền địa phương c ng là yếu tố bị cho là ảnh hưởng đến tính độc lập của tòa án. Hiện

tại việc bổ nhiệm thẩm phán ở nước ta dựa rất nhiều vào các tiêu chuẩn về chính trị, tư

tưởng, cùng với đó quy trình bổ nhiệm có sự tham gia của quá nhiều chủ thể ngoài

ngành, đặc biệt là cấp uỷ địa phương. Tất cả các quy định đó khiến các thẩm phán hó

giữ được tính độc lập trong hoạt động nghề nghiệp nếu như muốn được bổ nhiệm hoặc

tái bổ nhiệm.

3.2.1.2. Thiết chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị

xâm hại tình dục ở Việt Nam

Bên cạnh những kết quả đạt được đó, các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD ở Việt Nam còn có những hạn chế sau:

Thứ nhất, thiết chế điều tra ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ những hạn chế làm giảm

khả năng thực thi công lý của NNN bị XHTD.

ô hình cơ quan điều tra hiện nay c ng bộc lộ một số hạn chế, như: mô hình các

cơ quan điều tra ở nước ta còn do “nhiều đơn vị ở các bộ, ngành khác nhau cùng thực

hiện nhiệm vụ điều tra tố tụng; chưa xác định rõ cơ quan giúp Chính phủ thống nhất

quản l nhà nước về hoạt động điều tra” [8], đồng thời, việc tổ chức cơ quan điều tra

trong thực tế ở nhiều nơi xảy ra tình trạng “nhiều cơ quan điều tra số lượng án ít, nhưng

vẫn phải tổ chức đầy đủ bộ máy dẫn đến lãng phí về nhân lực và ngân sách” [8], thêm

vào đó, trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan này “chưa tách bạch rõ nhiệm vụ

phòng ngừa tội phạm và điều tra tố tụng; việc kết hợp giữa hoạt động trinh sát và điều

tra tố tụng chưa đúng yêu cầu của Chiến lược CCTP” [8]. Thêm vào đó, cơ quan điều tra

thuộc VKSND tối cao sẽ bộc lộ nh ng bất cập đó là “VKSND tối cao vừa làm nhiệm vụ

kiểm sát hoạt động tư pháp vừa có cơ quan điều tra chuyên trách nhưng không có cơ chế

119

kiểm tra từ bên ngoài nên hó đảm bảo tính khách quan trong hoạt động điều tra; chất

lượng điều tra của cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao còn hạn chế, hiệu

quả chưa cao” [8]. Ngoài ra, “việc giao cho nhiều cơ quan hác thực hiện một số hoạt

động điều tra với quyền hạn lớn (được khởi tố vụ án, khởi tố bị can, điều tra chuyển viện

kiểm sát truy tố) dẫn đến có nhiều cơ quan có thẩm quyền tố tụng” [8]. Những hạn chế

này sẽ làm giảm chất lượng hoạt động của các cơ quan điều tra trong việc thụ lý và giải

quyết các vụ án XHTD PNTEG.

Thứ hai, thiết chế tư pháp chính thức ở Việt Nam vẫn còn những hạn chế trong tổ

chức và hoạt động, làm suy giảm khả năng sẵn sàng bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD.

Tổ chức và hoạt động bộ máy của các TAND và VKSND chưa phù hợp với yêu

cầu CCTP và bảo vệ QCN, đặc biệt là TAND cấp huyện; các cơ quan điều tra vẫn còn

nhiều đầu mối gây hó hăn trong quá trình iểm tra, giám sát việc tiếp nhận, giải quyết

tin báo tội phạm, điều tra các vụ án XHTD PNTEG. Hiện nay Toà gia đình và người

chưa thành niên mới được triển khai thành lập ở TAND cấp tỉnh (mới chỉ thành lập

được 38 Toà), còn rất nhiều tỉnh chưa thành lập được Toà chuyên trách này, đặc biệt

chưa có TAND cấp huyện nào thành lập được toà chuyên trách này vì thiếu điều kiện

cứng (phải đảm bảo đủ 50 vụ/năm mới được xem xét thành lập). Chính vì thế, việc thụ

lý và xét xử các vụ án XHTD PNTEG vẫn sử dụng cơ sở vật chất chung nên chưa bảo

đảm yêu cầu của phòng xử án thân thiện đối với các vụ án XHTD PNTEG.

Thứ ba, các thiết chế tư pháp chính thức ở Việt Nam vẫn có những “rào cản” nhất

định đối với NNN bị XHTD trong quá trình tìm kiếm và đạt được sự đền bù thoả đáng

những thiệt hại mà họ gánh chịu do hành vi XHTD gây ra. Bên cạnh đó, hệ thống tư

pháp chưa thực sự tạo ra đầy đủ các điều kiện cho NNN bị XHTD TCCL, vì thế, nhiều

NNN bị XHTD hoặc họ phải bỏ cuộc giữa chừng trong quá trình giải quyết vụ án

XHTD hoặc họ không trình báo với cơ quan chức năng mà tự hoà giải, dàn xếp với thủ

phạm XHTD. Nhiều toà án chưa tổ chúc xét xử được vụ án nào theo mô hình toà thân

thiện đối với những vụ án XHTD trẻ em gái, như ở Hà Tĩnh, Sơn La, Vĩnh Long [168].

Thứ tư, thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam vẫn còn chưa

đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn, một số nơi, chất lượng tốt của hệ thống tư pháp chưa

được đảm bảo.

Theo khảo sát thực tế cho thấy vẫn còn tỷ lệ há cao cán bộ cơ quan tư pháp có

những định iến nhất định với những NNN bị XHTD, điều này tạo ra những hó hăn

trong quá trình họ tiếp nhận và xử l vụ việc. Vẫn còn tỷ lệ đáng ể cán bộ tư pháp cho

rằng “XHTD một phần do lỗi của nạn nhân” hay nhiều người quan niệm rằng “phụ nữ

120

và trẻ em gái hi bị xâm hại mất đi trinh tiết rất hó có được cuộc sống hôn nhân hạnh

phúc, do đó việc công bố, công hai vụ việc liên quan đến XHTD chỉ làm nạn nhân tổn

thương thêm” (Trích biên bản phỏng vấn Kiểm sát viên VKSND huyện Phú Tân, Cà

Mau). Việc có định iến như vậy sẽ hiến các cơ quan chức năng hông nỗ lực để đưa

các vụ việc ra ánh sáng đồng thời chính cán bộ có thể huyên các nạn nhân sử dụng con

đường thương lượng hòa giải nhằm chấm dứt nỗi đau một cách nhanh chóng đặc biệt

trong những tình huống hi việc xác định dấu vết chứng cứ gặp nhiều hó hăn. Tuy

nhiên, nếu vụ việc hông được đưa ra ánh sáng và hông được x t xử thông qua con

đường tư pháp hình sự chính thức thì nạn nhân rất hó tìm lại được công l đồng thời họ

có thể trở thành nạn nhân bị xâm hại nhiều lần. Nhiều người dân và cả cán bộ tư pháp

c ng cho rằng “cán bộ tiếp nhận, giải quyết vụ việc liên quan đến XHTD thường ứng xử

thiếu sự đồng cảm với nạn nhân” hay “cán bộ tiếp nhận giải quyết vụ việc liên quan đến

xâm hại tình dục thường hông nhạy cảm với những trải nghiệm, sang chấn tâm l mà

nạn nhân bị xâm hại tình dục phải chịu đựng”; còn hiện tượng n tránh đùn đẩy giữa các

cơ quan x t xử (Bảng .4, Bảng .5, Phụ lục 2).

Qua nghiên cứu hồ sơ bản án cho thấy, năng lực, phẩm chất đạo đức trong thực thi

nhiệm vụ của các cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp như cơ quan điều tra, VKSND,

TAND là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến hả năng đảm bảo công l cho

NNN bị XHTD trên thực tế. Có nhiều vụ việc do cơ quan điều tra bỏ lọt chứng cứ chứng

minh tội phạm dẫn đến hậu quả rất nghiêm trọng (Hộp 3.2, Phụ lục 3). Những sai xót

đến từ cơ quan điều tra có thể xuất phát do năng lực thực thi nhiệm vụ của cán bộ điều

tra, có thể do cán bộ điều tra thiếu trách nhiệm hay do những tiêu cực hác (Hộp 3.3,

Phụ luc 3).

Thực tế, x t xử tôi hiếp dâm ở nước ta cho thấy sự yếu m trong năng lực thực thi

nhiệm vụ của một bộ phận đội ng cán bộ các cơ quan tư pháp có ở tất cả các giai đoạn

của quá trình tố tụng như: (i) Giai đoạn tiếp xúc ban đầu, “nạn nhân hông được tiếp

đón, bị răn đe hoặc làm nản lòng ngay từ khi bắt đầu trình báo” [41, tr. 32]; (ii) Giai

đoạn trình báo, “thiếu tôn trọng và thiếu nhạy cảm với nạn nhân, nạn nhân bị yêu cầu kể

lại câu chuyện của mình nhiều lần; việc trình báo bị từ chối; hoặc có tiếp nhận trình báo

nhưng hông tiến hành điều tra hoặc trì hoãn việc điều tra; cảnh sát khuyến khích hòa

giải và dàn xếp riêng; hoặc nạn nhân rút đơn” [41, tr. 32], thái độ của một số ít cán bộ

khi tiếp nhận tin báo về tội phạm XPTD trẻ em “còn thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm,

gây hó hăn, phiền hà về thủ tục trình báo, làm ảnh hưởng rất lớn đến tâm l người tố

giác” [157, tr. 56], một số trường hợp khác do bệnh thành tích mà cơ quan Công an đã

đùn đẩy trách nhiệm tiếp nhận tin báo tội phạm, dẫn đến người phạm tội cảm thấy phiền

121

hà, phức tạp nên không báo tin [157, tr. 56]; (iii) Giai đoạn điều tra, “ hông điều tra

hoặc điều tra hông đầy đủ; tiếp cận hạn chế hoặc hạn chế sử dụng chứng cứ pháp y;

thiếu dịch vụ trợ giúp, hỗ trợ hoặc bảo vệ; không có hoặc rất ít trao đổi thông tin giữa

các nhà cung cấp dịch vụ trong hệ thống tư pháp hình sự và nạn nhân; cán bộ điều tra

quyết định không khởi tố; hoặc nạn nhân rút đơn” [41, tr. 32], công tác giám định còn

hạn chế, đôi hi ết luận giám định hông đúng, hông chính xác, có những vụ án, cùng

thời điểm, giám định hai nơi thì cho hai ết quả khác nhau. Bên cạnh đó, c ng có trường

hợp do lợi ích cá nhân, trong một số vụ án, cán bộ điều tra đã hướng cho người phạm tội

và người bị hại tự nguyện thoả thuận với nhau về việc bồi thường để không bị khởi tố vụ

án, từ đó bưng bít thông tin làm cho người phạm tội không bị xử l theo quy định pháp

luật” [157, tr. 56]; (iv) Giai đoạn trước xét xử và xét xử, “ hông có hoặc chỉ có hỗ trợ

hạn chế cho nạn nhân tại tòa; thủ tục kéo dài; tập trung vào chứng cứ pháp y hoặc thể

chất mà không có sự đồng thuận của nạn nhân; công tố viên hoặc thẩm phán quyết định

hông tiếp tục vụ án; hoặc tòa tuyên bị cáo trắng án” [41, tr. 32], năng lực nghề nghiệp

của một số chủ thể tiến hành tố tụng còn hạn chế dẫn đến việc tiếp nhận, xử lý thông tin

chậm, đánh giá chứng cứ còn thiếu sót chưa đầy đủ [157, tr. 56]. Ngoài ra, các thiết chế

tư pháp chính thức hiện vẫn gặp hó hăn trong việc trang bị cơ sở vật chất thân thiện

với NNN như hệ thống phòng xử án riêng, các phòng xử án với thiết ế đảm bảo mô

hình tòa án gia đình và người chưa thành niên.

Thứ năm, các thiết chế ở Việt Nam chưa bảo đảm bảo cung cấp đầy đủ các biện

pháp khắc phục cho NNN bị XHTD.

Thực tiễn hoạt động của các cơ quan tư vấn TGPL ở Việt Nam cho thấy đa số

người dân hông biết đến những cơ quan có chức năng trợ giúp tư vấn pháp l cho nạn

nhân bị XHTD. Kết quả khảo sát thực tiễn cho thấy 88,8% người dân trong mẫu nghiên

cứu hẳng định rằng họ hông biết cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng tư vấn, trợ

giúp pháp l cho nạn nhân bị XHTD; ,1% người dân hẳng định hông có cơ quan, tổ

chức nào thực hiện chức năng tư vấn, trợ giúp pháp l cho nạn nhân bị XHTD tại địa

phương của họ và 42, % người dân trả lời rằng có rất ít các cơ quan, tổ chức thực hiện

chức năng này. Ngoài ra, 24,1% người dân cho rằng chi phí mà nạn nhân phải bỏ ra để

được tư vấn trợ giúp pháp l là há cao; bên cạnh đó, người dân và cán bộ đều có đánh

giá hông cao về tính hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan tư vấn trợ giúp pháp l .

Với thang điểm 5, điểm trung bình mà người dân đánh giá về hiệu quả hoạt động của cơ

quan tư vấn trợ giúp pháp l là điểm ở mức điểm trung bình, điểm trung bình cán bộ

các thiết chế tư pháp đánh giá là 2,5 điểm (Bảng .6, Phụ lục 2).

122

Thứ sáu, khả năng chịu trách nhiệm của hệ thống tư pháp còn thấp, chưa đáp ứng

kịp thời yêu cầu bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam hiện nay.

Cơ chế giám sát các thiết chế tư pháp trong thực hiện các chức năng bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD chưa thực sự chặt chẽ. Hiện tại việc giám sát được thực

hiện theo ngành dọc và giám sát ngang giữa chính quyền địa phương với hoạt động tư

pháp đồng thời việc công hai công bố bản án đảm bảo cho sự tham gia giám sát của

nhân dân. Tuy nhiên hệ thống giám sát để theo dõi các biện pháp mà cơ quan nhà nước

giải quyết các vụ án được trình báo hiện còn nhiều hạn chế. Trong hi đó “Các nhà

cung cấp dịch vụ tư pháp hình sự không phải chịu trách nhiệm giải trình khi thực hiện

các biện pháp ứng phó và dịch vụ dựa trên quyền, và lấy nạn nhân làm trung tâm”, điều

này làm giảm hiệu quả của cơ chế giám sát. Các hoạt động giám sát của QH và HĐND

các cấp chưa được tiến hành thường xuyên, đôi hi còn mang tính hình thức, chủ yếu

dựa vào báo cáo của các cơ quan chịu sự giám sát, vì thế kết luận giám sát còn chung

chung; chưa quy rõ trách nhiệm cho cá nhân, người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong

thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ PNTEG khỏi bị XHTD; việc công hai, minh

bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan chưa cao nên Nhân dân hó tham gia vào

giám sát hoạt động giải quyết các vụ án XHTD của các cơ quan tư pháp. Việc giám sát

hoạt động của cơ quan thi hành án đang là một hó hăn hiến cho “việc thực hiện các

cam kết pháp l thường rất chậm trễ. Thông thường, cơ sở hạ tầng pháp lý bao gồm

cảnh sát, quan tòa và cơ quan tư pháp hông có biện pháp bảo vệ đầy đủ, bồi thường và

công bằng cho PNTEG bị bạo lực” [41, tr. vi].

3.2.1.3. Nguồn lực để vận hành cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý

của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam

Chất lượng nguồn nhân lực của một số thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD ở một số bộ phận, một số địa phương chưa được bảo đảm để đáp ứng yêu cầu và

nhiệm vụ. Hiện tại, các thiết chế tư pháp phi chính thức thiếu nguồn lực để thực hiện các

hỗ trợ, trợ giúp và truyền thông cho nạn nhân khi tham gia vào những hệ thống và quy

trình tư pháp hình sự phức tạp. Bên cạnh đó mặc dù số lượng của các luật sư ở nước ta

hông ngừng tăng lên tuy nhiên sự thiếu hụt về số lượng và chất lượng của đội ng luật

sư vẫn là một rào cản hiến cho dịch vụ mà các luật sư cung cấp cho nạn nhân vẫn chưa

đảm bảo; số lượng luật sư của nước ta hiện phân bổ hông đồng đều giữa thành thị và

nông thôn, chủ yếu vẫn tập trung ở các thành phố lớn, nhất là Thành phố Hồ Chí Minh

và Hà Nội. Tỷ lệ số luật sự/số dân ở Việt Nam hiện nay còn thấp nhiều nước trong khu

vực và trên thế giới, nếu như “năm 2015 cả nước có khoảng 9000 luật sự và gần 5000

người tập sự trong hơn 4000 tổ chức hành nghề luật sư” [120, tr. 97]; đầu năm 2019 “đã

123

tăng lên 12.821 luật sư, hành nghề ở hơn 4000 tổ chức hành nghề luật sư” [186, tr. 92]

và đến cuối năm 2019 là 1 .859 luật sư (Biểu đồ 3.1, Phụ lục 2), theo đó, tỷ lệ số luật

sự/số dân ở Việt Nam hiện nay là 1/6962, trong hi đó tỷ lệ này ở “Nhật Bản là 1/4500,

Thái Lan là 1/1500, Mỹ là 1/250” [186, tr. 93]. Tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam còn

nhỏ lẻ, chủ yếu dưới hình thức văn phòng; hiệu quả tham gia tố tụng chưa cao; nhiều

luật sư vẫn gặp khó trong quá trình hành nghề, nhất là giai đoạn điều tra trong các vụ án

hình sự. Ở một số địa bàn, nơi xảy ra nhiều vụ án các thẩm phán, công chức khác của

tòa án hay các cán bộ viện iểm sát, cơ quan điều tra đôi hi bị quá tải, áp lực về công

việc.

Số lượng án trung bình trong năm (năm 2015, 201 và 2017) cho thấy số

lượng các loại vụ án phải giải quyết của Tòa án cấp này tăng hàng năm trung bình

,5%/năm. Thực tế hiện nay, mỗi Thẩm phán phải giải quyết, xét xử trung bình 8

vụ, việc/tháng, cá biệt có nơi 12-14 vụ/tháng, như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí

inh, Đồng Nai, Bình Dương... Từ đó cho thấy số lượng Thẩm phán tại các Tòa

án nhân dân cấp huyện hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu công tác xét xử, giải quyết

các loại vụ, việc thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp này [163].

Hiện tượng “thiếu cảnh sát và điều tra viên là nữ” [41, tr. 33] hiến cho quá trình

tiếp nhận xử l vụ việc liên quan đến XHTD gặp hó hăn. ột số cán bộ viện iểm sát

mà tôi phỏng vấn cho biết “Do thiếu cán bộ nữ, do quan niệm, trên thực tế đối với các

vụ án hình sự nói chung các vụ liên quan đến XHTD với phụ nữ và trẻ em gái nói riêng

vẫn được giao cho cán bộ nam giới đảm nhiệm. Điều này gây hó hăn nhất định bởi

cán bộ là nam giới thường hó tiếp xúc thân thiện với nạn nhân đặc biệt là trẻ em gái”

(Trích biên bản phỏng vấn sâu cán bộ VKSND Cần Thơ).

Các tổ chức hỗ trợ cộng đồng hay các cơ quan, đơn vị có chức năng bảo vệ quyền

của phụ nữ và trẻ em hiện còn thiếu các cán bộ chuyên trách có đủ hả năng cung cấp

các dịch vụ tư vấn, trợ giúp về mặt tâm l để các nạn nhân nữ bị XHTD có thể vượt qua

được những sang chấn tâm l . Tại các cộng đồng đặc biệt ở đô thị nhỏ hay các vùng

nông thôn hông có các trung có hả năng cung cấp dịch vụ trợ giúp tư vấn tâm l cho

nạn nhân bị bạo lực tình dục. Cán bộ phụ trách bình đẳng giới và bảo vệ quyền trẻ em

thuộc Sở LĐTBXH tỉnh Kiên Giang cho biết “Hiện nay hó hăn lớn nhất trong quá

trình hỗ trợ PNTEG bị XHTD là việc thiếu các chuyên gia hay các nhân viên có hả

năng tư vấn, trợ giúp tâm l ở cấp cộng đồng” (Trích biên bản phỏng vấn cán bộ Sở

LĐTBXH tỉnh iên Giang).

Ngoài ra, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc ở nhiều cơ

quan tư pháp chính thức, đặc biệt cấp huyện của nhiều địa phương còn thiếu do kinh phí

124

hạn hẹp nên việc đầu tư còn mang tính chắp vá, chưa có tính thống nhất, đồng bộ trong

cả hệ thống.

3.2.2. Hiệu lực, hiệu quả trong vận hành cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp

cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam vẫn còn thấp

3.2.2.1. Hiệu lực của cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn

nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam

Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, các thiết chế bảo đảm QTCCL của

NNN bị XHTD ở Việt Nam vẫn còn sự thiếu nhịp nhàng trong phối hợp, gây ra những

cản trở nhất định trong thực thi công lý của các thiết chế này.

Chính “việc phân lập các chức năng vốn phải gắn bó với nhau chặt chẽ tạo ra khó

hăn về cơ cấu trong quản lý hệ thống tư pháp” [95, tr. 127]; cán bộ thuộc các cơ quan

riêng rẽ cùng thực hiện thẩm quyền nhất định đối với các phần khác nhau của hệ thống

tư pháp hiến cho việc phối hợp để thực hiện nhiệm vụ nhiều hi gặp hông ít hó hăn.

Bởi bất kỳ hoạt động phối hợp nào c ng cần được luật hóa và dù có được luật hóa thì

việc phối hợp, “sự hợp tác của số lượng lớn các cơ quan mà mỗi cơ quan trong số đó

đều có quyền lợi trong việc bảo vệ quan điểm của mình” sẽ là một thách thức hông nhỏ

đối với sự vận hành một cách trơn tru cho hệ thống cơ quan tư pháp.

Trên thực thế luôn xuất hiện những vấn đề nội tại trong cơ chế phối hợp giữa các

cơ quan tư pháp như: Tòa án không có khả năng buộc các điều tra viên phải chịu trách

nhiệm về hành vi của họ trong giai đoạn điều tra hoặc khả năng giám sát một cách hiệu

quả các hoạt động điều tra; điều tra viên có rất ít động cơ để hợp tác với các bên hác.

ột thẩm phán tham gia phỏng vấn sâu cho biết “Việc phối hợp giữa các bên trong điều

tra, truy tố, x t xử vụ án gặp nhiều hó hăn đặc biệt với các vụ án có tính chất phức tạp.

ặc dù có cơ chế phối hợp đôi hi việc nghị án giữa ba bên tạo ra những rào cản nhất

định với quá trình xử l vụ án” (Trích biên bản phỏng vấn thẩm phán TAND TP Rạch

Giá, Kiên Giang).

3.2.2.2. Hiệu quả của cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn

nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam

Bên cạnh những ưu điểm trên, cơ chế này vẫn chưa đem lại hiệu quả thực sự trong

bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam, đó là:

Thứ nhất, tình trạng ẩn của tội phạm liên quan đến XHTD vẫn còn nhiều.

Theo báo cáo của tổ chức Y tế thế giới (WHO), Đông Nam là một trong những

hu vực có tỷ lệ phụ nữ bị XHTD cao thứ hai trên thế giới sau châu Phi; 40,2% phụ nữ

từ 15 tuổi trở lên ở hu vực này ghi nhận đã từng bị XHTD do chồng, bạn tình hay

người lạ gây ra [41, tr. 10]. Tại Việt Nam, theo số liệu của Vụ thống ê tổng hợp của

125

TAND tối cao, số vụ án liên quan đến XHTD PNT G liên tục tăng trong những năm

qua: nếu như trong 06 năm giai đoạn 2008 – 2013, trung bình mỗi năm có 1.626,5 vụ,

đến giai đoạn 2014-2019, trung bình mỗi năm có 1.957 vụ (tăng 20,32%); số NNN bị

XHTD giai đoạn 2008-2012, trung bình mỗi năm có 1.639,5 nạn nhân, đến giai đoạn

2014-2019, trung bình mỗi năm có 1.962,3 nạn nhân (tăng 19,69%) (Bảng .1, Phụ lục

2). Trong đó, số vụ XHTD trẻ em gái và số nạn nhân là trẻ em gái chiếm đa số trong các

vụ XHTD: trong cả giai đoạn 2014-2019, số vụ XHTD trẻ em gái và nạn nhân là trẻ em

gái lần lượt chiếm 77,227% và 77,232% so với tổng số vụ XHTD và tổng số NNN, cao

hơn so với giai đoạn 2008-2013 (chiếm tỷ lệ làn lượt là 76,207% và 76,239%); bên cạnh

đó, số vụ XHTD trẻ em gái và nạn nhân là trẻ em gái liên tục tăng trong những năm qua,

số vụ và nạn nhân năm 2019 tăng 16,6% so với năm 2014 (Bảng .1, Phụ lục 2).

Trong tổng số các vụ XHTD đã được xử lý, các vụ XHTD trẻ em gái chiếm đa số

(gấp 3,45 lần so với tổng số vụ và tổng số NNN bị XHTD), tính chất của các vụ xâm hại

tình dục trẻ em có chiều hướng diễn biến phức tạp, nghiêm trọng. Trẻ em bị XHTD xảy

ra ở nhiều độ tuổi, do nhiều loại đối tượng gây ra, trong đó phần lớn là người quen, họ

hàng, hàng xóm, không chỉ người Việt Nam mà cả người nước ngoài và có cả trường

hợp xâm hại trẻ em trên môi trường mạng. Trong hi đó, nạn nhân là trẻ em gái hi bị

dụ dỗ, bị đe dọa phần lớn do các em hông nhận thức một cách đầy đủ về hành vi mà

người phạm tội gây ra với mình, đồng thời, không dám tố cáo với cơ quan chức năng

hoặc nói cho người thân mình biết. Nhiều vụ án gia đình hông cung cấp thông tin,

thông báo, tố giác tới các cơ quan chức năng, vì sợ ảnh hưởng đến trẻ em và gia đình.

Thủ phạm có sự đe doạ hoặc dùng tiền mua chuộc, hoà giải với gia đình của nạn nhân.

Vì thế, các cơ quan chức năng gặp nhiều hó hăn trong việc đấu tranh, xử lý kịp thời

các vụ XHTD trẻ em gái.

ặc dù số vụ án liên quan đến XHTD đối với PNTEG bị đưa ra x t xử ngày càng

tăng, tuy nhiên, những con số nêu trên chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm” bởi còn rất

nhiều vụ việc liên quan đến XHTD phụ nữ và trẻ em gái vẫn chưa được phát hiện và xử

l bởi các cơ quan chức năng. Ngay cả khi các vụ án được trình báo thì các bước tiếp

cận hệ thống tư pháp chính thức (hay “chuỗi công l ”) c ng thường bị ngắt giữa chừng

với tỷ lệ bỏ cuộc cao và chỉ có vài vụ án bị kết án, do vậy tỷ lệ tội phạm ẩn là rất lớn [41,

tr. 2]. Kết quả khảo sát thực tiễn chỉ ra rằng vẫn còn 21,5% người dân hông lựa chọn

việc giải quyết vụ việc thông qua cơ chế chính thức; 15, % người dân lựa chọn giữ bí

mật chuyện này nhằm bảo vệ thanh danh gia đình và hạnh phúc về sau cho nạn nhân;

28% lựa chọn việc thương lượng hòa giải với ẻ phạm tội và 15,9% lựa chọn giải quyết

126

thông qua cơ chế phi chính thức như tổ hòa giải, công đoàn, các tổ chức truyền thống tại

cộng đồng (Biểu đồ .2, Phụ lục 2).

Kết quả phỏng vấn đội ng cán bộ trong hệ thống cơ quan tư pháp c ng cho thấy

ết quả tương tự. Rất nhiều cán bộ tư pháp mà chúng tôi phỏng vấn cho biết: “Nạn nhân

của những vụ án liên quan đến XHTD thường lựa chọn con đường giữ ín chuyện này

hay lựa chọn việc thương lượng hòa giải với ẻ phạm tội, sau hi thương lượng hòa giải

hông thành họ mới đem vụ việc trình báo cho các cơ quan chức năng” (Trích biên bản

phỏng vấn Thẩm phán trung cấp TAND tỉnh Hải Dương). Bên cạnh đó, kết quả khảo sát

thực tiễn cho thấy, hi trở thành nạn nhân bị hiếp dâm mà ẻ phạm tội là người lạ có

25% lựa chọn giải quyết vụ việc thông qua thương lượng hòa giải hay giữ ín chuyện

này; đối với trường hợp nạn nhân bị người thân của mình hiếp dâm thì chỉ có 4 % người

dân hông lựa chọn việc trình báo vụ việc cho các cơ quan chức năng mà lựa chọn giải

quyết thông qua con đường thương lượng, hòa giải hay giữ ín chuyện này, trong đó

2, % lựa chọn giữ ín chuyện này, 0,4% lựa chọn việc tìm iếm sự tư vấn giúp đ của

người thân, 8% tìm cách thương lượng hòa giải với người đó để được đền bù và 2,1%

lựa chọn giải pháp hác như bỏ đi, cắt đứt liên hệ với người đó. Đối với trường hợp bị

cư ng dâm, nếu người phạm tội là người lạ có 70,8% người dân lựa chọn trình báo vụ

việc cho các cơ quan chức năng, nhưng nếu người phạm tội là người thân thì chỉ có

5 ,9% người dân lựa chọn việc trình báo vụ việc, nghĩa là còn 4 ,1% người dân lựa

chọn việc giữ im lặng hay chọn con đường thương lượng hòa giải và tìm iếm sự tư vấn

giúp đ của người thân (Bảng .14, Phụ lục 2).

Thông thường hi người bị bạo hành tình dục trong gia đình là phụ nữ họ thường

có thái độ cam chịu hoặc không dám tố cáo với chính quyền địa phương, tổ chức đoàn

thể đặc biệt hi người xâm hại họ là người thâm quen. Họ hông sẵn sàng cung cấp

chứng cứ chứng minh là họ bị XHTD hi cơ quan chức năng yêu cầu. Điều này gây

nhiều hó hăn cho tòa án trong việc giải quyết, xét xử vụ việc nhằm trả lại công l cho

nạn nhân [167]. Với những hành vi dâm ô vẫn còn tỷ lệ há cao nạn nhân hông lựa

chọn trình báo vụ việc cho cơ quan chức năng. Họ có thể giữ ín chuyện này đặc biệt

trong trường hợp người phạm tội là người thân trong gia đình. Điều này có thể do họ e

ngại việc tiết lộ sự việc sẽ phá v hạnh phúc, thanh danh gia đình và một số trường hợp

hông biết rằng đây là những hành vi có thể được xử l thông qua con đường tư pháp

hình sự.

Ngoài ra, các vụ việc liên quan đến XHTD trong hôn nhân, trong đó có ết hôn

sớm thường hông được nhìn nhận là hành vi vi phạm pháp luật nên thường hông được

trình báo cho các cơ quan chức năng và hông được đưa ra x t xử, vì thế “ hông có hồ

127

sơ nào về hiếp dâm trong hôn nhân” [41, tr. 36]. Thực tế hiện nay, tỷ lệ tảo hôn, đặc biệt

đối với người dân tộc thiểu số ở nước ta còn chiếm tỷ lệ nhất định nhưng những vụ việc

này thường hông được trình báo để ghi nhận như các vụ việc liên quan đến XHTD.

Năm 201 -2014, “tỷ lệ ết hôn trước 15 tuổi ở phụ nữ có độ tuổi 15-49 là 2,1% ở khu

vực trung du và miền núi phía Bắc và 1,9% ở khu vực Tây Nguyên. Nếu tính tỷ lệ phụ

nữ ở độ tuổi 20-49 kết hôn trước 18 tuổi ở hai khu vực này lần lượt là 18,8% và 15,8%”

[16, tr. 203]; ở Ninh Thuận năm 2011 “có đến 0,9 % phụ nữ nằm trong độ tuổi từ 15-49

kết hôn hoặc sống chung như vợ chồng lần đầu trước năm 15 tuổi và 11,2% phụ nữ 20-

49 tuổi kết hôn hoặc sống chung như vợ chồng lần đầu trước năm 18 tuổi; 10,3% phụ nữ

từ 15-19 tuổi đã ết hôn hoặc chung sống như vợ chồng” [16, tr. 203].

Theo kết quả điều tra dân số và nhà ở Việt Nam vào thời điểm 0h ngày

01/04/2019, thì tỷ lệ phụ nữ từ 20-24 tuổi kết hôn lần đầu dưới 15 tuổi và trước 18 tuổi

lần lượt là 0,4% cà 9,1%, trong đó nông thôn (lần lượt là 0,5% và 12,5%) cao hơn thành

thị (lần lượt là 0,1% và 3,7%) (Bảng 3.15, Phụ lục 2). Cho nên, NNN bị XHTD còn

nhiều gian nan trong quá trình tìm kiếm các biện pháp khắc phục, đền bù thoả đáng

những thiệt hại mà họ gặp phải.

Thứ hai, nhiều vụ việc được trình báo nhưng do năng lực thực thi nhiệm vụ của cơ

quan chức năng nên đã hông được đưa ra x t xử hay hông chứng minh được bị can đã

phạm tội.

Tình trạng “x t xử oan sai vẫn còn tồn tại, vẫn còn hiện tượng vi phạm thời gian

giải quyết vụ việc” [96, tr. 167]; hả năng được bồi thường thiệt hại một cách thỏa đáng

cho nạn nhân vẫn chưa đảm bảo. Trong giai đoạn này, “số vụ và bị cáo được đưa ra x t

xử về các tội XPTD trẻ em địa bàn miền Đông Nam Bộ đạt tỷ lệ không cao (so với số

vụ và bị can bị khởi tố); số vụ và bị can còn lại chưa hoặc hông được xét xử chiếm

30,6% số vụ, 31,6% bị can” [157, tr. 54], thực tế này do hết thời hạn điều tra mà không

chứng minh được bị can đã phạm tội hoặc đã hết thời hiệu truy cứu TNHS, người phạm

tội được miễn trách nhiệm hình sự khiến việc khởi tố, điều tra vụ án bị đình chỉ.

Trong thời gian qua có nhiều vụ việc liên quan đến quấy rối tình dục nhưng do các

quy định pháp luật chưa rõ ràng nên các cơ quan chức năng thường xử l vụ việc một

cách hiên cư ng, thiếu chính xác: theo Báo cáo nghiên cứu về quấy rối tình dục tại nơi

làm việc ở Việt Nam do Bộ LĐTBXH thực hiện với sự giúp đ của Tổ chức lao động

quốc tế (ILO) cho thấy, chiếm phần lớn các nạn nhân bị quấy rối tình dục ở Việt Nam là

nữ giới (78,2%) và độ tuổi của các nạn nhân này (trong khoảng từ 18 đến 30). Nhiều vụ

liên quan đến quấy rối tình dục nhưng các cơ quan chức năng lại áp dụng Điều 5 Nghị

định số 1 7/201 NĐ-CP của Chính phủ để xử phạt về HVVP quy định về trật tự công

128

cộng, như: vụ người đàn ông 47 tuổi (quê Hải Phòng) đã cư ng hôn nữ sinh 20 tuổi

trong thang máy chung cư ở đường Lê Văn Lương (Thành Xuân, Hà Nội) vào tối

4/3/2019 hoặc vụ một cán bộ nam 39 tuổi (huyện Triệu Phong, Quảng Trị) “xin hôn” và

sờ soạng nữ đồng nghiệp trong phòng làm việc vào tháng 8/2018, những hành vi của hai

người đàn ông trên rõ ràng là quấy rối tình dục song hiện nay lại hông có quy định về

tội danh này.

Thêm vào đó, trên phạm vi cả nước tổng số vụ án liên quan đến XHTD bị đình

chỉ, trả hồ sơ điều tra bổ sung vẫn còn chiếm tỷ lệ nhất định. Điều đó cho thấy một phần

sự yếu kém trong công tác phát hiện, xử lý tội phạm của cơ quan chức năng (Bảng .10,

Phụ lục 2). Chính “hoạt động kém hiệu quả của cơ quan công an, công tố và tòa án c ng

có thể dẫn đến việc nạn nhân sớm rút đơn hiếu nại” [41, tr. 14]. Thực tiễn ở Việt Nam

cho thấy tỷ lệ rút đơn còn diễn ra há phổ biến, việc rút đơn iện có thể xảy ra ở tất cả

các giai đoạn từ giai đoạn trình báo đến giai đoạn điều tra, giai đoạn trước hi x t xử và

giai đoạn x t xử. Sự hạn chế trong năng lực thực thi công vụ hiến cho tình trạng tội

phạm ẩn gia tăng bởi người dân hông dám tố cáo do ngại tiếp xúc với cán bộ tư pháp,

do họ hông tin tưởng vào hả năng đảm bảo công l của các thiết chế này.

Thứ ba, cơ chế này vẫn chưa góp phần nâng cao năng lực TCCL của NNN bị

XHTD một cách vượt bậc.

Một là, trình độ hiểu biết các quy định pháp luật về XHTD của một bộ phận người

dân nói chung và của NNN bị XHTD nói riêng còn nhiều hạn chế.

Thực tế cho thấy vẫn còn một bộ phận người dân chưa nhận biết được đâu là hành

vi XHTD theo quy định của pháp luật hiện hành ở Việt Nam. Vẫn còn 8,4% người dân

cho rằng quan hệ tình dục hoặc thực hiện hành vi tình dục hác với vợ hoặc người yêu

dưới 1 tuổi là hông vi phạm pháp luật. ột số người dân ghi rõ trong phiếu hỏi rằng

quan hệ tình dục với vợ (dưới 1 tuổi) hông được coi là vi phạm pháp luật; 5,4% người

dân trong mẫu nghiên cứu xác định rằng việc A lợi dụng tình trạng quẫn bách về inh tế

của B, dùng tiền để mua chuộc, p buộc B phải miễn cư ng giao cấu hoặc miễn cư ng

thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với A hông phải là vi phạm pháp luật mặc dù

chiếu theo BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì hành vi này được xác định

là tội cư ng dâm (Bảng .13, Phụ lục 2).

Trong nhiều năm qua, đa số các nạn nhân bị XHTD là trẻ em có độ tuổi tương đối

nhỏ, những người dưới 18 tuổi do vậy năng lực pháp l để tự đưa ra quyết định rất hạn

chế [192]; các nạn nhân này thường hông nhận thức đầy đủ về hành vi mà tội phạm

gây ra với mình. Đối với người bảo trợ cho các em và ngay cả với nạn nhân là người

129

trưởng thành việc hiểu, biết và có thể vận dụng được các quy định pháp luật là một điều

hó hăn đặc biệt trong bối cảnh hi quy định pháp luật của nước ta còn nhiều tầng nấc.

Hai là, mức độ hiểu biết của một bộ phận người dân về các cơ chế, thủ tục cần

phải tiếp cận hoặc áp dụng để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng hi họ là nạn nhân bị

XHTD còn thấp. Kết quả khảo sát thực tế chỉ ra rằng 7,8% người dân trong mẫu

nghiên cứu trả lời, họ hông biết phải đến đâu trình báo vụ việc trong trường hợp họ hay

người thân của họ là nạn nhân XHTD; 59, % người dân được hỏi biết chính xác và %

người dân được hỏi biết hông chính xác nơi họ phải đến để trình báo vụ việc. Đối với

các thủ tục cần phải làm để nạn nhân XHTD có thể trình báo vụ việc hay để áp dụng hi

tham gia tố tụng hình sự, thực tế cho thấy đa số người dân hông biết hoặc chỉ biết sơ

qua về các thủ tục này đây là một trong những rào cản rất lớn cho con đường tiếp cận

công l của nạn nhân (Bảng .16, Phụ lục 2).

3.3. NGUYÊN NHÂN NHỮNG ƯU, NHƯỢC ĐIỂM TRONG CƠ CHẾ PHÁP LÝ

BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH

DỤC Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2014-2019

3.3.1. Nguyên nhân những ưu điểm trong cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp

cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam

Những ưu điểm trong CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam

xuất phát những nguyên nhân sau:

Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập trung lãnh đạo công tác xây dựng, hoàn

thiện HTPL, CCTP nhằm nâng cao chất lượng bảo đảm QCN nói chung, QTCCL của

NNN bị XHTD nói riêng.

Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương đã

ban hành nhiều văn bản cụ thể hoá chủ trương, đường lối cải cách HTPL, CCTP phù

hợp với yêu cầu phát triển KT-XH và thực tiễn, như: Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị

quyết số 49-NQ/TW năm 2005; cùng với đó đã chỉ đạo quyết liệt trong quá trình xây

dựng và ban hành Hiến pháp năm 201 , từ đó đẩy mạnh công tác xây dựng, hoàn thiện

HTPL, thúc đẩy CCTP, trong đó chú trọng hoàn thiện các thiết chế tư pháp phù hợp với

Hiến pháp 2013 nhằm bảo đảm và phát triển QCN, đặc biệt quyền của PNTEG. Trên cơ

sở quan điểm chỉ đạo của Đảng, CCPL bảo đảm QTCCL của người dân nói chung và

của NNN bị XHTD nói riêng đã được hình thành và tiếp tục hoàn thiện phù hợp với

thực tiễn đấu tranh, phòng chống vấn nạn XHTD ở Việt Nam.

Thứ hai, Nhà nước Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh hoàn thiện HTPPL, CCTP nhằm

đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước, hội nhập quốc tế sâu rộng, tích cực thực

hiện các cam kết quốc tế về bảo đảm, phát triển QCN mà Việt Nam đã gia nhập.

130

Thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, 49-NQ/TW, các cơ quan chức năng Nhà

nước Việt Nam đã nỗ lực hoàn thiện HTPL Việt Nam, đặc biệt là việc ban hành Hiếp

pháp năm 201 và hoàn thiện các văn bản pháp luật phù hợp với Hiến pháp mới; chức

năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp được cải thiện

đáng ể; đội ng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp tiếp tục được phát triển cả về số lượng

và chất lượng; cơ sở vật chất hoạt động của các cơ quan tư pháp, cơ quan dân cử, cơ

quan hỗ trợ và TGPL từng bước được cải thiện; hoạt động giám sát của cơ quan dân cử

và nhân dân đối với cơ quan tư pháp được tăng cường.

Thứ ba, sự phát triển KT-XH của Việt Nam trong gần 5 năm đổi mới và sự hợp

tác quốc tế trên lĩnh vực bảo vệ QCN nói chung và QTCCL nói riêng ngày càng thường

xuyên hơn đã góp phần vào nâng cao năng lực TCCL của NNN bị XHTD.

Sự nghiệp đổi mới đất nước trong gần 5 năm qua đã thúc đẩy KT-XH phát triển

mạnh mẽ, đời sống nhân dân đã được nâng lên đáng ể cả về chất lẫn lượng, trình độ

dân trí ngày một phát triển (Biểu đồ 3.3, Phụ lục 2). Thực tế này góp phần quan trọng

trong bảo vệ và phát triển QCN ở Việt Nam, đặc biệt góp phần nâng cao trình độ TCCL

của người dân, trong đó có PNT G. Bên cạnh đó, Việt Nam đã nỗ lực, tích cực hợp tác

quốc tế trong lĩnh vực tư pháp và đàm phán, ết, thực hiện các thoả thuận, cam kết

quốc tế phục vụ các hoạt động bảo vệ và phát triển QCN, đặc biệt đối với quyền của

PNT G, như Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội Công tố viên

quốc tế (2012); thành viên của Hội nghị Lahay về tư pháp quốc tế (năm 201 ); thành

thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016), Hội đồng

Kinh tế - Xã hội (2016 - 2018) và gần đây, được bầu vào Ủy ban Pháp luật Liên hợp

quốc (nhiệm kỳ 2016 - 2021); v.v.. Ngoài ra, Việt Nam tích cực hợp tác với UNDP,

UNFPA, UNICEF và UN Women thực hiện các dự án để chấm dứt bạo lực đối với phụ

nữ và trẻ em, như dự án “Tăng cường TCCL và bảo vệ quyền tại Việt Nam”, trong đó

tập trung vào cải cách HTPL, CCTP, tăng cường năng lực TCCL của người dân Việt

Nam.

3.3.2. Nguyên nhân của những nhược điểm trong cơ chế pháp lý bảo đảm

quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam

3.3.2.1. Nguyên nhân chủ quan

Những nhược điểm của CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam

xuất phát những nguyên nhân chủ quan sau:

Thứ nhất, HTPL về bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam chưa hoàn

thiện; còn có những khác biệt so với pháp luật quốc tế về bảo vệ QTCCL cho PNTEG.

Bà Rana lowers, đại diện của Unicef tại Việt Nam cho rằng “Việt Nam vẫn thiếu một

131

khung pháp lý mạnh để bảo vệ trẻ em khỏi tất cả các hình thức bạo lực, đặc biệt là bạo

lực tình dục” [266] (như đã trình bày ở mục 3.2.1.1).

Thứ hai, hệ thống thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam

chưa đồng bộ và hoàn thiện; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các thiết chế chưa cao; sự

phối hợp giữa thiết chế tư pháp chính thức với nhau và thiết chế giám sát, hỗ trợ và

TGPL chưa chính thức chưa hiệu quả. Bà Rana lowers, đại diện của UNICEF tại Việt

Nam cho rằng “việc thiếu các dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ cho các nạn nhân” [266] c ng

là nguyên nhân dẫn đến QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam chưa được bảo đảm

(như đã trình bày ở mục 3.2.1.2)..

Thứ ba, hệ thống nguồn lực để vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD ở Việt Nam vẫn chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu cải cách tư pháp nói chung và

nhiệm vụ bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD nới riêng. Chất lượng cán bộ tư pháp ở

địa phương (điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên) vẫn còn những hạn

chế; đầu tư phát triển cơ sở vật chất cho toà án, viện kiểm sát và cơ quan điều tra, cơ

quan thi hành án còn nhiều bất cập (như đã trình bày ở mục 3.2.1.3).

Thứ tư, mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN

bị XHTD ở Việt Nam, đặc biệt mối quan hệ giữa cơ quan điều tra với VKSND và

TAND, nhiều lúc, nhiều nơi chưa chặt chẽ. Điều này làm cho sự phối hợp các yếu tố

trong quá trình vận hành CCPL thiếu hiệu lực, hiệu quả trong bảo đảm QTCCL của

NNN bị XHTD.

3.3.2.2. Nguyên nhân khách quan

Những nhược điểm của CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam

xuất phát những nguyên nhân khách quan sau:

Thứ nhất là, những rào cản về mặt văn hóa hiến cho nạn nhân bị XHTD hó đưa

vụ việc của mình ra ánh sáng hay hông theo đuổi vụ việc của mình đến cùng.

Xã hội Việt Nam hiện tại vẫn chịu nhiều ảnh hưởng từ Nho giáo, vì thế những quy

chuẩn về thứ bậc xã hội, nam quyền và sự phục tùng; những định chuẩn xã hội dựa trên

tuổi tác và giới tính c ng góp phần khiến phụ nữ và trẻ em dễ trở thành nạn nhân của

XHTD hơn. Vì thế, những định kiến về giới tính, tuổi tác của xã hội Việt Nam và văn

hóa đổ lỗi cho nạn nhân c ng góp phần khiến nhiều vụ XHTD tiếp tục ẩn mình trong

bóng tối [207]. ột trong những rào cản lớn hiến các nạn nhân bị XHTD lựa chọn giữ

ín vụ việc, dùng con đường thương lượng thỏa thuận hay hông theo đuổi vụ việc đến

cùng đó chính là các quan niệm, chuẩn mực văn hóa của gia đình và cộng đồng. C ng

giống như nhiều quốc gia trên thế giới, phụ nữ và trẻ em giái ở nước ta luôn phải đối

mặt với các rào cản mang tính cơ cấu và văn hóa. Do đó phần lớn các nạn nhân bị quấy

132

rối và tấn công tình dục luôn đối mặt với cảm giác lo âu, bất lực và bị trầm cảm o dài.

Không chỉ những người xung quanh mà ngay bản thân nạn nhân thường tự đổ lỗi cho

bản thân mình hi để xảy ra vụ việc. Họ cho rằng chính những hành vi của mình là

nguyên nhân dẫn đến những hậu quả đau lòng, thực tế có đến 31,5% nạn nhân của nạn

XHTD trực tiếp đổ lỗi cho mình; 14,6% nạn nhân đổ lỗi cho các thuộc tính cá nhân như

“quá tin tưởng”; ,9% nạn nhân đổ lỗi cho các hành vi của mình, như “ hông ngăn chặn

từ đầu”; 1 % nạn nhân tự trách cơ thể mình hoặc giới tính của mình [64]. Theo kết quả

khảo sát thực tế, cho thấy có đến 7 , % người dân trong mẫu nghiên cứu đồng hay

đồng một phần với nhận định cho rằng, XHTD xảy ra một phần do lỗi của nạn nhân

(ăn mặc quá hở hang, hông iên quyết chống lại hành vi xâm hại, tin theo lời dụ dỗ,

nạn nhân hơi dậy sự ham muốn của hung thủ). Tâm l đổ lỗi cho mình hiến nạn nhân

thường co mình lại và hông giám tố cáo sự việc cho các cơ quan chức năng.

Bên cạnh đó văn hóa đề cao “trinh tiết” của người phụ nữ, việc sợ bị làm ảnh

hưởng đến thanh danh của gia đình, đến cuộc sống hôn nhân sau này đã hiến nhiều nạn

nhân nữ hi bị xâm hại thường dấu diếm hông dám thổ lộ với người thân và hông

trình báo với cơ quan chức năng. Kết quả khảo sát thực tiễn chỉ ra rằng chúng ta vẫn

đang sống trong môi trường văn hóa mà các định iến, quy chuẩn văn hóa hông ủng hộ

việc phụ nữ hoặc trẻ em gái lên tiếng đấu tranh với các hành vi xâm hại. Kết quả khảo

sát thực tiễn cho thấy có đến 52,9% người dân trong mẫu nghiên cứu của tôi đồng hay

đồng một phần với nhận định cho rằng PNTEG hi đã bị XHTD hông còn trinh tiết

thì đã mất đi giá trị, hó có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc; 79,5% người đồng hay

đồng một phần với nhận định cho rằng vệc công bố công hai vụ việc liên quan đến

XHTD chỉ làm nạn nhân tổn thương thêm; 9,8% người dân trong mẫu nghiên cứu đồng

hay đồng một phần với nhận định cho rằng tố giác với cơ quan chức năng về việc

người thân trong gia đình như (ông, cha, anh chị em) có hành vi XHTD đối với mình

hay với người hác sẽ làm ảnh hưởng đến thanh danh, hạnh phúc của gia đình; 7 ,1%

người dân đồng hay đồng một phần với nhận định cho rằng rất hó để có thể nói với

người hác hay trình báo với cơ quan chức năng về việc chồng hay người yêu mình bắt

mình quan hệ , thực hiện hành vi tình dục trái với muốn của mình (Bảng .18, Phụ lục

2).

Thứ hai, những định kiến trong xã hội Việt Nam về giải quyết các vụ án XHTD

PNTEG.

Xã hội Việt Nam hiện tại vẫn chịu nhiều ảnh hưởng từ Nho giáo, như: trọng nam

khinh nữ; phụ nữ phải đề cao “trinh tiết”, phụ nữ được dạy phải biết vâng lời (khi lập gia

đình phải vâng lời chồng), tuân phục, sẵn sàng hi sinh vì người thân, gia đình và sẵn

133

sàng đặt hạnh phúc của gia đình lên trên chính mình; bất bình đẳng trong gia đình, đặc

biệt trẻ em được dạy để hông được hỗn hay cãi lại người lớn và hông được bày tỏ

chính kiến, vì vậy các nạn nhân khó có thể nói “ hông” trước những hành vi của người

lớn khiến trẻ không thoải mái; v.v… Những điều này ảnh hưởng đến giải quyết các vụ

XHTD, đặc biệt ảnh hướng đến năng lực TCCL của NNN bị XHTD. Như thế, giới tính,

tuổi tác c ng tạo nên những tương quan về quyền lực và khiến PNTEG dễ bị tổn thương

hơn trước nguy cơ XHTD. Trước những định kiến về giới tính và tuổi tác của xã hội

Việt Nam, có thể hiểu vì sao phần đông phụ nữ và trẻ em Việt Nam vẫn chưa được dạy

các kiến thức và kỹ năng để tự vệ trước XHTD, đặc biệt là sự xâm hại đến từ người yêu

hay người thân trong gia đình. Ngoài ra, văn hóa đổ lỗi cho nạn nhân c ng góp phần

khiến nhiều vụ XHTD tiếp tục ẩn mình trong bóng tối.

Từ mô hình này chúng ta xác định được vai trò ảnh hưởng của các nhân tố đến lựa

chọn giải quyết vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự của NNN bị XHTD như

sau: định kiến về văn hoá, tâm l (X4) có sự ảnh hưởng nhất định, nghĩa là nếu nạn nhân

hay người thân của NNN bị XHTD không bị định kiến về văn hoá và tâm l thì xác suất

lựa chọn con đường tư pháp hình sự để giải quyết vụ án của họ tăng lên 9, % và yếu

tố tuổi (X1) c ng có ảnh hưởng, nếu NNN bị XHTD tăng thêm 1 tuổi thì xác suất lựa chọn con đường tư pháp hình sự để giải quyết vụ án của họ tăng lên 0,87% (Bảng 3.19,

Phụ lục 2). Vì thế, để gia tăng xác suất lựa chọn giải quyết vụ việc thông qua con đường

tư pháp hình sự của của NNN bị XHTD cần phải thay đổi nhận thức của NNN bị XHTD

và phá v những rào cản về văn hoá và tâm l xã hội đối với các vụ án XHTD. Vì vậy,

để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD cần phải thực hiện nhiều biện pháp,

Một mặt phát triển một nền văn hóa và một hệ thống giáo dục nhấn mạnh sự

trân trọng thân thể, phẩm giá con người và không xem việc gây tổn thương người

hác đơn thuần là một “trò đùa”, mặt khác c ng cần gạt bỏ những định chuẩn quá

đơn giản về “người tốt/kẻ xấu”, từ bỏ những đòi hỏi văn hóa về sự hi sinh và phục

tùng của người phụ nữ, dạy cho trẻ em phát triển khả năng tự lập và cách nói

“ hông”. Cho nên, song song với việc xây dựng một hệ thống luật nghiêm khắc và

rõ ràng đối với tội phạm tình dục, chúng ta c ng cần tạo nên một không gian an

toàn để nạn nhân lên tiếng, tìm được sự đồng cảm và những hỗ trợ tâm lý thích

hợp, kịp lúc [207].

Thứ ba, hỗ trợ cho NNN bị XHTD ở Việt Nam còn hạn chế vì thế năng lực tiếp

cận công lý của họ bị hạn chế. Để tham gia vào chuỗi TCCL, tài chính là một nhân tố

tác động đến lựa chọn của nạn nhân và gia đình xem họ có trình báo vụ việc hay có theo

đuổi vụ việc đến cùng hay hông, hiện tại, theo quy định pháp luật các nạn nhân bị

134

XHTD hông phải mất phí để thực hiện các thủ tục TTHS. Tuy nhiên có thể nhiều

người dân hông biết đến quy định này, bên cạnh đó ngoài chí phí chính thức thì các

hoản chi phí phi chính thức, các chi phí phải bỏ ra cho việc đi lại, ăn nghỉ để theo đuổi

vụ việc hay chi phí mà gia đình nạn nhân bị mất đi do họ phải nghỉ việc để có thời gian

theo đuổi vụ việc c ng cần phải được tính đến. Kết khảo sát thực tiễn cho thấy trên 40%

người dân tham gia mẫu nghiên cứu đều cho rằng chi phí chính thức mà nạn nhân phải

bỏ ra để thực hiện hiện tố tụng là cao và rất cao; trên 0% người dân và trên % cán bộ

thuộc các thiết chế tư pháp cho rằng chi phí phi chính thức mà nạn nhân phải bỏ ra để vụ

việc của mình được quan tâm x t xử thỏa đáng là cao và rất cao (Bảng .17, Phụ lục 2).

Thứ tư, hạn chế trong nhận thức của người dân đối với các quy định pháp luật về

QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam hiện nay.

Từ mô hình này chúng ta xác định được vai trò ảnh hưởng của các nhân tố đến lựa

chọn giải quyết vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự của NNN bị XHTD như

sau: mức độ hiểu biết về thủ tục TTHS (X5) có vị trí ảnh hưởng cao nhất, điều đó có nghĩa là nếu nạn nhân hay người thân của NNN bị XHTD có thêm sức độ hiểu biết về

thủ tục TTHS thì xác suất lựa chọn con đường tư pháp hình sự để giải quyết vụ án của

họ tăng lên 22,0 %; mức độ hiểu biết pháp luật hình sự (X3) có vị trí ảnh hưởng thứ hai, điều đó có nghĩa nếu nạn nhân hay người thân của NNN bị XHTD có thêm sức độ hiểu

biết về quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục trong PLHS thì xác suất lựa chọn con

đường tư pháp hình sự để giải quyết vụ án của họ tăng lên 9,82% (Bảng 3.19, Phụ lục

2). Vì thế, để gia tăng xác suất lựa chọn giải quyết vụ việc thông qua con đường tư pháp

hình sự của của NNN bị XHTD cần phải năng cao mức độ hiệu biết về PLHS và pháp

luật về TTHS. Trong hi đó, trình độ hiểu biết của người dân về pháp luật còn nhiều hạn

chế, đặc biệt hiểu biết của người dân về các hành vi XHTD, thủ tục xử lý vụ án XHTD

(Bảng .13, Bảng 3.14 Phụ lục 2).

Kết luận chương 3

Trong những năm qua, ở Việt Nam số vụ án liên quan đến XHTD PNTEG có

chiều hướng các diễn biến và mức độ ngày càng nghiêm trọng. CCPL bảo đảm QTCCL

của NNN bị XHTD những năm qua đã được cải thiện đáng ể nhờ sự hoàn thiện hông

ngừng của thể chế pháp lý, đồng thời và sự hoàn thiện các thiết chế nhằm thực thi tốt

hơn các quy định pháp luật trong thực tế. Các nguồn lực đảm bảo cho sự vận hành của

các thiết chế c ng được cải thiện. Đội ng cán bộ, công chức được đảm bảo về số lượng

cơ cấu và chất lượng, các nguồn lực hác được tăng cường. Trình độ hiểu biết pháp luật

và các quy chuẩn văn hóa của người dân đã thay đổi giúp các nạn nhân có hả năng tốt

hơn trong quá trình công hai và theo đuổi vụ việc thông qua con đường tư pháp hình

135

sự. Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD còn

những khuyết điểm nhất định, cho nên con đường TCCL của nhiều NNN bị XHTD ở

nước ta còn rất gian nan. Nhiều nạn nhân vẫn hông dám công hai trình báo vụ việc,

nhiều vụ việc được trình báo nhưng vẫn chưa được đưa ra x t xử một cách thỏa đáng do

những lỗ hổng trong hung luật pháp và chính sách, do những hạn chế trong bộ máy và

cơ chế vận hành của bộ máy. Sự yếu m trong năng lực thực thi nhiệm vụ của đội ng

cán bộ trong các thiết chế tư pháp chính thức, những hạn chế trong năng lực TCCL của

nạn nhân và gia đình nạn nhân. Tất cả những nhân tố nêu trên đã và đang làm cản trở

việc “tìm iếm sự đền bù và hắc phục thỏa đáng” cho những thiệt hại mà NNN bị

XHTD phải chịu đựng ở Việt Nam hiện nay, điều này dẫn đến tình trạng ẩn của loại tội

phạm này còn há lớn trong thực tế. Vì thế, những hạn chế này cần phải được giải quyết

triệt để thông qua việc hoàn thiện thể chế, thiết chế pháp lý và các nguồn lực đảm bảo

cho QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam được thực hiện tốt nhất.

136

CHƯƠNG 4

NHỮNG YÊU CẦU MỚI, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ

CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN C NG LÝ CỦA

NẠN NH N NỮ Ị XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM

4.1. NHỮNG YÊU CẦU MỚI VÀ QUAN ĐIỂM VỀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ

PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM

HẠI TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1.1. Những yêu cầu mới về hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp

cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam hiện nay

4.1.1.1. Hội nhập quốc tế đặt ra những yêu cầu đối với hoàn thiện cơ chế pháp

lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam

Chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, có hiệu quả là một trong những nhiệm vụ

quan trọng để phát triển đất nước Việt Nam nhanh, bền vững. Trong quá trình này đặt ra

nhiều vấn đề mà chúng ta cần phải giải quyết, đó là:

Thứ nhất, quy định về độ tuổi trẻ em trong pháp luật Việt Nam vẫn còn có sự khác

biệt với CRC, điều này gây những “rào cản” trong bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD, đặc biệt là trẻ em gái; đồng thời tạo ra những trở ngại trong việc Việt Nam thực

hiện có trách nhiệm các cam kết quốc tế về bảo vệ quyền của PNTEG mà Việt Nam đã

ký kết.

Thứ hai, trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam phải đối mặt với những loại

tội phạm mới, trong đó những hành vi XHTD đối với PNTEG c ng có những biểu hiện

mới, tinh vi hơn, phức tạp hơn. Tình trạng XHTD trẻ em trong hoạt động du lịch đã diện

ra ở Việt Nam và ngày càng diễn biến phức tạp.

Trong những năm gần đây, “cả nước có hơn 50 vụ án XHTD trẻ em mà đối tượng

gây án là người nước ngoài. Đặc biệt tập trung vào một số tỉnh, thành phố phát triển du

lịch như TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Bà Rịa – V ng Tàu, Đà Nẵng, Hà Nội, Quảng

Ninh, Hải Phòng, Lạng Sơn, Lào Cai… đây là những trung tâm du lịch lớn hoặc là nơi

có nhiều trẻ em di cư đến từ địa bàn há” [33]. Thực tế này cho thấy, cùng với việc kích

cầu phát triển du lịch ở Việt Nam thì nguy cơ XHTD trẻ em thông qua con đường du

lịch ngày một gia tăng. Đây là vấn đề lớn đòi hỏi các cơ quan quản lý, các công ty lữ

hành và lực lượng công an phải quyết liệt đấu tranh, chấn áp đối với hành vi XHTD

nhằm thúc đẩy phát triển nền du lịch sạch ở Việt Nam.

137

4.1.1.2. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra những yêu cầu đối với

hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm

hại tình dục ở Việt Nam

Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chắc

chắn không nằm ngoài “dòng chảy” chung của thời đại, chính vì thế, cách mạng công

nghiệp 4.0 sẽ có những tác động nhất định, tuy nhiên mức độ và quy mô của sự tác động

này theo chiều thuận hay chiều nghịch (thuận lợi hay thách thức) sẽ phụ thuộc vào mức

độ sẵn sàng của các ngành, các lĩnh vực và năng lực quản trị quốc gia của Việt Nam.

Trong các lĩnh vực chịu sự tác động lớn của cuộc mạng công nghiệp 4.0, lĩnh vực đấu

tranh, phòng chống tội phạm chịu tác động rất lớn, đặc biệt hiện nay nhiều đối tượng đã

sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông để tiến hành các hành vi XHTD. Bà Rana

lowers, đại diện của Unicef tại Việt Nam, cho rằng những con số thống kê các vụ

XHTD trên chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm” và “sự phát triển nhanh chóng của

Internet ở Việt Nam gây ra mối nguy cơ mới cho trẻ em với số vụ lạm dụng trên Internet

và mạng xã hội c ng đang gia tăng” [266]. Vì thế để bảo đảm QTCCL của NNN bị

XHTD, một mặt cần tiếp tục hoàn thiện HTPL, đặc biệt là tăng cường khung hình phạt,

bổ sung thêm các hình phạt mới; mặt khác cần tăng cường trang thiết bị hiện đại để đấu

tranh, phòng chống loại tội phạm này. Ngoài ra, tăng cường các biện pháp giáo dục,

truyền thông để mọi người dân nâng cao trình độ hiểu biết và các kỹ năng để tự phòng,

tránh các hành vi XHTD trên mạng xã hội (Social Network).

4.1.2. Quan điểm hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý

của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam hiện nay

Trong quá trình hội nhập quốc tế và sự tác động mạnh mẽ của cách mạng công

nghiệp 4.0, tình hình XHTD PNTEG ở Việt Nam trong thời gian tới tiếp tục có những

diễn biến phức tạp, các hành vi XHTD ngày càng tinh vi, núp bóng dưới nhiều hình thức

hác nhau, đặc biệt trong quá trình phát triển du lịch và thương mại điện tử. Để hoàn

thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở nước ta trong thời gian tới, các

ngành, các cấp cần quán triệt các quan điểm sau:

4.1.2.1. Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn

nhân nữ bị xâm hại tình dục nhằm xoá bỏ sự kỳ thị và định kiến xã hội đối với nạn

nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam

Sự kỳ thị và định kiến xã hội đối với NNN bị XHTD là một trong những rào cản

lớn đối với bản thân NNN bị XHTD c ng như người thân/gia đình họ trong quá trình

tìm kiếm và đạt được sự đền bù thoả đáng những tổn thất mà bản thân nạn nhân phải

138

gánh chịu, bởi lý thuyết kỳ thị xã hội và lý thuyết rào cản tâm l đã chứng minh rằng sự

kỳ thị và định kiến xã hội sẽ hạn chế cơ hội hoà nhập cộng động (và ngay cả quyền

sống) của người bị ỳ thị bởi “những người này sẽ tự ti do lỗi sợ hãi vì mình hác biệt

so với số đông” [238, tr. 133].

Cho nên, hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam phải

thúc đẩy việc xoá bỏ sự kỳ thị và định kiến xã hội đối với NNN bị XHTD, từ đó g bỏ

những rào cản đối với họ trên con đường tìm kiếm công lý cho bản thân mình.

4.1.2.2. Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn

nhân nữ bị xâm hại tình dục nhằm góp phần tích cực vào đấu tranh, phòng chống

tình trạng xâm hại tình dục ở Việt Nam

XHTD nói chung và XHTD đối với PNTEG là vấn nạn chung của nhiều nước trên

thế giới, ở Việt Nam vấn nạn này trong thời gian qua vẫn chưa có chiều hướng suy

giảm, vì thế tăng cường đấu tranh, phòng chống các hành vi XHTD ở Việt Nam là trách

nhiệm của toàn xã hội.

Thông qua việc hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, thể chế

pháp lý, thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD tiếp tục được hoàn thiện, đặc

biệt trong quá trình này: QH, Chính phủ, Bộ LĐTBXH, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Y

tế và các Bộ khác có liên quan, TAND tối cao, VKSND tối cao phải tiếp tục xây dựng

và hoàn thiện các chính sách, pháp luật về bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; chính

quyền địa phương phải phối hợp chặt chẽ với MTTQ Việt Nam và các đoàn thể nhân

dân tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao phẩm chất, đạo đức, lối sống cho

đội ng cán bộ làm công tác phòng ngừa, đấu tranh với các vi phạm QCN nói chung và

vi phạm QTCCL của NNN bị XHTD nói riêng; kiên quyết xử lý nghiêm những cán bộ

vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật công tác. Đồng thời, phát huy vai trò, trách nhiệm

của thành viên Ban Chỉ đạo các cấp trong việc tham mưu cấp uỷ, chính quyền chỉ đạo

công tác phòng, chống các hành vi XHTD PNT G trên địa bàn tình; thường xuyên kiểm

tra, đôn đốc, hướng dẫn đối với xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, trường học

nâng cao cảnh giác trước các thủ đoạn của chủ thể phạm tội và tích cực tham gia vào các

hoạt động phòng, chống các hành vi XHTD PNTEG ở các địa phương; thực hiện

nghiêm túc chế độ thông tin báo cáo và kịp thời biểu dương, khen thưởng, các tập thể, cá

nhân có thành tích xuất sắc; huy động các nguồn lực, nhất là nguồn kinh phí hỗ trợ thực

hiện công tác phòng, chống các hành vi XHTD PNTEG ở các địa phương; tiếp tục thực

hiện sâu rộng tạo nên sự đồng thuận thống nhất cao của các cấp, các ngành trong việc

nhận thức và thực hiện sự chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp, MTTQ và

139

các đoàn thể nhân dân về tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo và phối hợp trong việc

tiếp nhận, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tôi phạm nhất là ở cấp cơ sở, theo đó, hàng

tháng Công an cấp xã, phường, thị trấn phải chuyển danh sách thống kê từng tố giác, tin

báo về tội phạm cho cơ quan điều tra hoặc VKSND cấp huyện để theo dõi đối chiếu với

sổ thụ lý giải quyết của Cơ quan điều tra để từ đó quản lý nắm chắc tình hình tội phạm

và tỷ lệ khám phá án theo các kỳ báo cáo; công an các cấp phải kiểm tra, đôn đốc việc

thực hiện của các đơn vị; định kỳ tổng hợp, báo cáo theo quy định. Tăng cường tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để mọi người dân hiểu rõ các quy định pháp luật

hiện hành về các hành vi XHTD; các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết

các vụ án XHTD. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương, cùng MTTQ và các đoàn thể

nhân dân tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn cho người dân, đặc biệt cho PNTEG về

các kiến thức, kỹ năng phòng, chống XHTD.

Việc thực hiện các nội dung này thúc đẩy mạnh mẽ việc nâng cao năng lực tiếp

cận công lý của NNN bị XHTD, xử lý triệt để các vụ án XHTD, trừng trị nghiêm minh

người có hành vi XHTD, qua đó góp phần tích cực vào đẩy lùi vấn nạn này.

4.1.2.3. Vận dụng triệt để lý thuyết tiếp cận dựa trên quyền con người vào quá

trình hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị

xâm hại tình dục ở Việt Nam

Lý thuyết tiếp cận dựa trên QCN sử dụng các tiêu chuẩn và nguyên tắc về QCN

làm cơ sở và mục tiêu cho quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật, kiện toàn tổ chức

bộ máy và đảm bảo các nguồn lực nhằm bảo đảm QCN ngày một tốt hơn. Chính vì thế,

trong quá trình hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam hiện

nay phải tăng cường vào hoàn thiện các biện pháp hỗ trợ, trợ giúp cho NNN bị XHTD.

Thực tế PNTEG bị XHTD thuộc nhóm người dễ bị tổn thương, đồng thời họ gặp

nhiều hó hăn trong quá trình tìm iếm sự đền bù và khắc phục thoả đáng do những

hạn chế về thể chế pháp lý, thiết chế, các nguồn lực bảo đảm cơ chế này vận hành và

phải đối mặt với những rào cản do sự kỳ thị, định kiến xã hội ở nước ta hiện nay. Vì thế,

nếu cơ chế này không tạo dựng được sự hỗ trợ, trợ giúp kịp thời, thuận tiện thì NNN bị

XHTD có xu hướng bỏ cuộc trong quá trình “đòi” công l cho bản thân. Cho nên vận

dung triệt để lý thuyết tiếp cận dựa trên quyền con người vào hoàn thiện CCPL bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam nhằm xây dựng nền tư pháp thân thiện, minh

bạch, liêm chính, vì cong l và con người; hệ thống hỗ trợ, TGPL thuận lợi, dễ tiếp cận,

đầy đủ, bao phủ rộng rãi (đặc biệt vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số),

v.v.. thông qua đó nâng cao năng lực tiếp cận công lý của NNN bị XHTD ở Việt Nam.

140

4.1.2.4. Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn

nhân nữ bị xâm hại tình dục phải phù hợp với công ước quốc tế về bảo vệ quyền của

phụ nữ và trẻ em mà Việt Nam đã gia nhập

Việt Nam đã gia nhập nhiều công ước quốc tế về QCN, trong đó có công ước

CEDAW và CRC. Việc hoàn thiện thể chế pháp lý và thiết chế bảo đảm QTCCL của

NNN bị XHTD ở Việt Nam cần phải tương thích với nội dung của các công ước quốc tế

mà Việt Nam đã gia nhập. Hiến pháp 201 đã hiến định “Nước Cộng hòa XHCN Việt

Nam (…) tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa

XHCN Việt Nam là thành viên” (Điều 12) [128], đồng thời Luật Điều ước Quốc tế năm

201 c ng quy định “Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà

nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn

đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp” (Khoản 1, Điều 6)

[136], vì thế Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật mà nội dung quy

định này chưa tương thích với các quy định của công ước quốc tế mà nước ta đã gia

nhập. Cho nên, trong quá trình hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD

ở Việt Nam, QH, Chính phủ và các cơ quan liên quan phải tiếp tục hoàn thiện các quy

định pháp luật về QTCCL của NNN bị XHTD tương thích với nội dung trong CEDAW

và CRC mà nước ta đã gia nhập, như quy định về độ tuổi của trẻ em trong pháp luật Việt

Nam phù hợp với CRC.

4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP

CẬN CÔNG LÝ CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM

4.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện thể chế pháp l đảm ảo qu ền tiếp cận

công l của nạn nh n nữ ị m hại tình ục

Những hạn chế của thể chế pháp l là một trong những nguyên nhân đã và đang

tạo ra rào cản hiến PNTEG bị XHTD hông trình báo vụ án của mình với các cơ quan

chức năng đồng thời nó hạn chế việc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả trả lại

công l cho nạn nhân thông qua con đường tư pháp hình sự. Do vậy, việc hoàn thiện thể

chế pháp l là một trong những nhóm giải pháp quan trọng nhằm đảm bảo tốt hơn

QTCCL cho đối tượng này, vì thế các nội dung sau cần được thực hiện đồng bộ.

4.2 n các quy định pháp luật về hành vi xâm hại tình dục ở Vi t

Nam

Việc làm rõ các quy định về hành vi XHTD có nghĩa vô cùng quan trọng bởi nó

ảnh hưởng trực tiếp đến việc hởi tố, điều tra, truy tố và x t xử các vụ án XHTD của cơ

quan chức năng do đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc đảm bảo quyền cho NNN bị

141

XHTD. Để xóa bỏ các rào cản trong hoạt động hởi tố, điều tra, truy tố và x t xử vụ án

XHTD nhằm bảo vệ QTCCL cho NNN, các quy định pháp luật Việt Nam cần tiếp tục

hoàn thiện các nội dung sau:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện PLHS, đặc biệt là tập trung sửa đổi các nội dung sau:

dâm ô đối với người đủ từ 16 tuổi trở lên phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự; quy định

rõ TNHS đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có hành vi dâm ô đối với người

dưới 16 tuổi hoặc có hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với

người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

Đối với tội hiếp dâm, các quy định PLHS liên quan đến tội danh này nên sửa đổi

theo hướng tập trung vào vấn đề “đồng thuận” hay “ hông đồng thuận” chứ không phải

vấn đề sử dụng v lực hay đe doạ dùng v lực làm căn cứ điều tra xét xử tội phạm. Vì

vậy cần thay đổi cụm từ “không thể tự vệ” trong điều 141 và điều 142 BLHS năm 2015

(sửa đổi, bổ sung năm 2017) thành “không thể đưa ra sự đồng ý một cách tự nguyện”.

Quy định này sẽ mở rộng các hành vi bị coi là hiếp dâm và tránh việc các cơ quan chức

năng coi nặng chứng cứ pháp y, đề cao các dấu vết mà coi nhẹ độ tin cậy của sự việc

hoặc vấn đề về thiếu sự đồng thuận của nạn nhân, qua đó hạn chế tình trạng bỏ qua, bỏ

lọt tội phạm. Hơn nữa, các chuyên gia c ng đưa ra đề nghị “cần quy định rõ bị cáo phải

có trách nhiệm chứng minh rằng nạn nhân đã thể hiện “rõ ràng sự đồng tình tự nguyện”

khi quan hệ tình dục; bị cáo phải cung cấp bằng chứng chứng minh rằng nguyên đơn

đồng thuận với hành vi giao cấu; trách nhiệm chứng minh sự vô tội thuộc về bên phạm

tội chứ không phải là của nạn nhân” [193, tr. 33].

Ngoài ra, để tạo điều iện và huyến hích nạn nhân nữ bị XHTD trình báo vụ

việc với cơ quan chức năng, cần mở rộng phạm vi các tội phạm tình dục, xóa bỏ các rào

cản trong quá trình thụ l điều tra, x t xử vụ việc, vì thế PLHS quy định về XHTD nên

loại bỏ yêu cầu cung cấp bằng chứng về sự “thâm nhập”. Thay vào đó, “PLHS nên tập

trung vào các dạng hành vi tình dục hác nhau để công nhận việc nạn nhân miễn cư ng

tham gia hành vi tình dục mà không chống trả là do họ ở thế yếu so với kẻ phạm tội”

[193, tr. 33].

Thứ hai, PLHS, pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình cần quy định tội cư ng

bức tình dục trong hôn nhân là tội phạm hình sự và được tiến hành theo thủ tục tố tụng

đặc biệt (nghĩa là hông cần thiết phải có đơn tố cáo của người bị hại như điều 155

BLTTHS 2015).

Hiện nay, theo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, “Cư ng ép quan hệ

tình dục” là một trong những hành vi bạo lực gia đình (điểm đ hoản 1 điều 2) và

142

“Người có HVVP pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức độ

vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm

hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật” ( hoản 1,

điều 42). Nếu coi hành vi bạo lực gia đình (bạo lực tình dục) là hành vi cư ng dâm hoặc

hiếp dâm theo điều 141, 143 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì để tiến

hành thụ lý và xử lý vụ án này cần phải thoả mãn khoản 1 Điều 155 BLTTHS năm 2015

(Chỉ được hởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135,

136, 138, 1 9, 141, 14 , 155, 15 và 22 của BLHS khi có yêu cầu của bị hại hoặc

người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc

thể chất hoặc đã chết…), vì hi hông có đơn tố cáo của người bị hại thì sẽ không thể

khởi tố được vụ án hình sự. Trong hi đó, hành vi bạo lực gia đình trên có thể bị xử lý vi

phạm hành chính theo Nghị định 1 7/201 /NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng

cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình, nhưng trong Nghị định này c ng

hông quy định cụ thể hành vi “Cư ng ép quan hệ tình dục” bị xử l như thế nào mà chỉ

quy định chung chung: “Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi

lăng mạ, chì chiết, xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình” ( hoản 1, điều

51), vì thế, những quy định này hông đủ cơ sở pháp l để đảm bảo QTCCL của phụ nữ

trong gia đình hi bị bạo lực tình dục.

Thứ ba, cần quy định rõ các hành vi quấy rối tình dục trong pháp luật xử lý vi

phạm hành chính, PLHS, pháp luật lao động.

Chúng ta có thể căn cứ theo Khuyến nghị chung số 19 của Công ước của Liên hợp

quốc về Loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (C DAW): “hành vi không

mong đợi về giới tính như tiếp xúc cơ thể và tán tỉnh, bình phẩm về giới tính, khoe ảnh

khiêu dâm và thể hiện nhu cầu tình dục, bằng lời hay hành động (Điều 11)” [191, tr. 16]

hoặc theo các chuyên gia của Liên Hợp quốc, quấy rối tình dục là “hành vi có tính chất

tình dục không được hưởng ứng trong quan hệ cấp trên với cấp dưới và ngang cấp, tại

nơi làm việc (kể cả trong khu vực làm việc không chính thức), trong hoạt động giáo dục,

tiếp nhận hàng hóa và dịch vụ, các hoạt động thể thao và giao dịch bất động sản, trong

đó hành vi có tính chất tình dục hông được hưởng ứng bao gồm, các hoạt động trực

tiếp hoặc có hàm ý, tán tỉnh và có hành vi đụng chạm; đòi hỏi hoặc yêu cầu quan hệ tình

dục; nhận xét có màu sắc tình dục; phô bày những tranh ảnh, áp phích hoặc hình vẽ về

tình dục; hoặc bất kỳ hành vi nào về thể chất, bằng lời hoặc không bằng lời, mang tính

chất tình dục mà hông được hưởng ứng” [193, tr. 36].

143

Cần mở rộng hành vi quấy rối tình dục không chỉ ở nơi làm việc (như trong Bộ

luật Lao động hiện hành quy định). Trong đó, cần quy định cụ thể những hành vi quấy

rối tình dục và các biện pháp chế tài đủ mạnh đối với hành vi này. Trước mắt, nâng mức

xử phạt hành chính đối với hành vi quấy rối tình dục bằng mức bồi thường thiệt hại về

tinh thần theo quy định của BLDS năm 2015 (Khoản 2, Điều 592); tiến tới hình sự hoá

đối với hành vi quấy rối tình dục, vì bản chất của hành vi này là vi phạm đến quyền bất

khả xâm phạm và tự do tình dục của con người, nghĩa là vi phạm đến quyền bất khả

xâm phạm về thân thể, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con người. Trong đó BLHS

bổ sung thêm tội quấy rối tình dục như sau:

“Điều … Tội quấy rối tình dục

- Người nào có hành vi tình dục trái pháp luật, không phải là hành vi hiếp dâm,

cư ng dâm, dâm ô, giao cấu và thực hiện các hoạt động tình dục hác đối với trẻ em và

sử dụng trẻ em vào mục đích hiêu dâm, thông qua cử chỉ, lời nói hoặc phi lời nói có

liên quan đến tình dục nhằm gây tổn thương danh dự và nhân phẩm con người thì bị

phạt tù từ 0 tháng đến 0 năm.

- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ 0 năm đến 07

năm: phạm tội từ 02 lần trở lên; phạm tội với người dưới 18 tuổi; gây rối loạn tinh thần

và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 1% đến dưới 60%; tái phạm.

- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15

năm: gây rối loạn tinh thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61%

trở lên; làm nạn nhân tự sát.

- Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm

công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.

4.2.1.2. oàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến quy t ình thủ tục thụ

lý và giải quyết vụ án xâm hại tình dục ở Việt Nam

Như đã phân tích ở trên các quy định liên quan đến quy trình tố tụng đang tồn tại

nhiều hạn chế, vướng mắc hiến cho việc trình báo, tố giác, điều tra, x t xử các vụ án

liên quan đến XHTD còn gặp nhiều hó hăn. Theo đó để tạo điều iện thuận lợi hơn

cho các NNN bị XHTD trong quá trình trình báo, thụ lý và giải quyết vụ việc cần hoàn

thiện các quy định pháp luật sau đây:

Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến quy trình, thủ tục

thụ lý và giải quyết vụ án XHTD theo hướng áp dụng các thủ tục đặc biệt đối với các vụ

án XHTD, trong đó:

144

Một là, TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ Công an cần ban hành văn bản hướng

dẫn nghiệp vụ xử lý tin báo, tố giác, khởi tố, điều tra, truy tố các tội XHTD, đặc biệt

XHTD phụ nữ và trẻ em gái [206], mặt hác cần bổ sung các quy định xử l các cơ

quan, tổ chức, cá nhân không tố cáo, tố giác hành vi XHTD; không thực hiện hoặc thực

hiện chậm trễ trách nhiệm bảo vệ quyền của nạn nhân.

Hiện nay, việc tiếp nhận tin tối giác tội phạm và xử lý tin tố giác tội phạm được

thực hiên theo BLTTHS năm 2015, Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-

BNN&PTNT-VKSNDTC của Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tài chính - Bộ Nông

nghiệp và Phát triển Nông thôn - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Thông tư số Thông

tư 28/2020/TT-BCA của Bộ Công an, tuy nhiên trong đó chưa có quy định riêng biệt,

đặc thù đối với tiếp nhận và xử lý tin tối giác tội XHTD. Theo quy định của Thông tư

liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC, “trong thời hạn 03

ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm

quyền giải quyết, Thủ trưởng Cơ quan điều tra hoặc cấp trưởng Cơ quan được giao

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, trực tiếp hoặc uỷ quyền cấp phó tổ chức,

chỉ đạo, phân công Điều tra viên, Cán bộ điều tra thuộc quyền thụ lý, giải quyết (Điều 9,

10)” [15]. Với quy định này, sau khi tiếp nhận tin báo tố giác tội XHTD đến khi ra quyết

định khởi tố, điều tra sẽ kéo dài trong khoản thời gian vài ngày, điều này sẽ làm cho

những dấu vết trên cơ thể của NNN bị XHTD mờ đi hoặc mất đi sẽ gây hó hăn cho

việc thu thập chứng cứ và giám định pháp y. Vì thế, TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ

Công an cần có hướng dẫn cụ thể đối với tiếp nhận và xử lý tin tối giác tội phạm XHTD

cần phải được xử lý thật nhanh và ngay sau đó cơ quan điều tra hoặc cơ quan được giao

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tiến hành ngay quyết định khởi tố và

tiếp hành thu thập dấu vết phạm tội trong vòng 24 giờ.

Hai là, cần quy định biện pháp điều tra đặc biệt đối với các tội XHTD, đặc biệt là

XHTD trẻ em gái; tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Giám định tư pháp năm 2012 (sửa đổi,

bổ sung năm 2020) theo hướng quy định việc trưng cầu giám định pháp y về XHTD đối

với PNTEG là loại giám định đặc biệt, phải được thực hiện nhanh; quy định rõ hoạt

động phối hợp giữa cơ quan công an và cơ quan y tế, cơ quan giám định nhằm đưa ra

kết quả giám định c ng như thu thập chứng cứ một cách nhanh chóng, hiệu quả và chính

xác nhất; các cơ quan điều tra, truy tố, x t xử cần phối hợp với ngành y tế để xác định

tổn hại tinh thần của nạn nhân.

Ba là, để đảm bảo QTCCL cho nạn nhân nữ bị XHTD cần có quy trình thủ tục đặc

biệt trong quá trình thu thập chứng cứ, lấy lời hai để hông làm tổn hại sâu hơn về mặt

145

tinh thần đối với nạn nhân, nghĩa là cần tạo ra quá trình điều tra thân thiện, tránh hắc

sâu hơn những tổn thương, những nỗi đau mà nạn nhân phải chịu đựng. Theo đó việc

tiếp xúc lấy lời khai, xét hỏi người bị hại, nhân chứng cần phải được thực hiện theo quy

trình đặc biệt, đặc biệt với người chưa thành niên; hỗ trợ họ cung cấp lời khai hiệu quả

và giảm chấn thương tâm l hi tham gia vào quá trình tố tụng. Điều này sẽ làm tăng tỷ

lệ các nạn nhân nữ hai báo vụ việc với cơ quan chức năng đồng thời giảm tỷ lệ bỏ cuộc

giữa chừng.

Thứ hai, sửa đổi các quy định về độ tuổi của trẻ em trong BLHS, BLTTHS, Luật

trẻ em hiện hành cho phù hợp với Công ước CRC. Theo đó cần xác định trẻ em là

“người dưới 18 tuổi”; việc xác định tình tiết tăng nặng hung hình phạt nên được sửa

đổi theo hướng là việc thực hiện hành vi với người dưới 18 tuổi chứ hông phải là dưới

1 tuổi.

4.2.1. . oàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến hung hình phạt và

xác định chủ thể của tội xâm hại tình dục ở Việt Nam

Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung các quy định về khung hình phạt đối với tội XHTD

trong BLHS hiện hành theo hướng gia tăng hung hình phạt.

Hiện tại nhóm các tội về XHTD (tại Điều 141, 142, 14 , 144, 145, 14 ), được quy

định trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) đã có nhiều thay đổi so với các quy

định về tội danh này trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) tuy nhiên chế

tài, hình phạt với các tội danh này hiện còn nhẹ, chưa đủ sức răn đe, vì thế cần sửa đổi

theo hướng tăng nặng hung hình phạt, đặc biệt đối với các hành vi XHTD đối với trẻ

em gái. Trong đó, sửa đổi khung hình phạt ở điểm c khoản 1 Điều 142 thành khu hình

phạt như điểm c khoản 3 của Điều này: người nào có hành vi “giao cấu hoặc thực hiện

hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi” bị bị phạt tù 20 năm, tù chung

thân hoặc tử hình.

Thứ hai, với việc xác định chủ thể của tội, các quy định pháp luật hiện tại được

quy định trong điều 145, 14 , 147 BLHS hiện hành được cho là đã tạo ra ẽ hở để lọt tội

phạm.

Hiện nay, theo quy định của BLHS hiện hành, tuổi chịu trách nhiệm hình sự:

“Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những

tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác (Khoản 1 Điều 12)” [138], vì thế quy định tại

Điều 145, 14 , 147 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là mâu thuẫn. Với các

quy định này, người chịu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi quy định tại các điều

này (giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến

146

dưới 16 tuổi; dâm ô đối với người dưới 16 tuổi; sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục

đích hiêu dâm) phải là người đủ 18 tuổi, trong hi đó thực tế vẫn có trường hợp người

dưới 18 tuổi thực hiện những hành vi này. Hơn nữa, khoản 2 Điều 12 của BLHS này

quy định “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội

phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều

123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250,

251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này” [138], nghĩa là

phạm tội với khung hình phạt trên 07 năm tù, tuy nhiên trong hoản 3 của các Điều 145,

146, 147 BLHS lại áp dụng đối với người đủ 18 tuổi, trong hi đó thực tế vẫn có trường

hợp người dưới 18 tuổi thực hiện những hành vi này và gây ra hậu quả rất nghiêm trọng

và đặc biệt nghiêm trọng. Vì thế, các Điều 145, 14 , 147 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ

sung năm 2017) cần sửa đổi theo hướng: thay cụm từ “Người nào đủ 18 tuổi trở lên”

trong khoản 1 của các điều này bằng “Người nào đủ 14 tuổi trở lên”. Ngoài ra,

TANDTC cần ban hành hướng dẫn quy định chi tiết về các trường hợp người từ đủ từ

14 trở lên giao cấu với người từ đủ 1 đến dưới 1 tuổi. Nếu trong trường hợp đây là vụ

tảo hôn (hiện nay ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn xảy ra tình trạng tảo hôn) thì

cần áp dụng hình thức cải tạo không giam giữ.

Ngoài ra, nâng khung hình phạt tại khoản các Điều 145, 146, 147 là: phạt tù từ

mức 15 năm đến 20 năm.

Thứ ba, sửa đổi, bổ sung thêm các biện pháp chế tài hác đối với hành vi XHTD

trong pháp luật Việt Nam hiện nay.

Bổ sung thêm các biện pháp xử l đối với hành vi XHTD đối với trẻ em, như:

thiến hoá học: thực tiễn nhiều nước trên thế giới và khu vực đã áp dụng hình thức thiến

hoá học đối với người có hành vi hiếp dâm, cư ng dâm trẻ em, như Hàn Quốc,

Indonesia, một số bang của Mỹ (California, Georgia, ontana, lorida), Đức, Anh, Ba

Lan, Thụy Điển, Đan ạch, Nga, v.v.. Bổ sung thêm hình phạt tiền là hình phạt bổ sung

đối với người thực hiện các hành vi XHTD ở các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146 của

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). ức bồi thường thiệt hại của NNN bị

XHTD bao gồm: thiệt hại về sức khoẻ, thiệt hại về tinh thần và thiệt hại về kinh tế (đây

là những thiệt hại phát sinh do NNN bị XHTD hoặc gia đình của NNN phải nghỉ làm

việc để theo đuổi vụ án, c ng như những chi phí phát sinh trong suốt quá trình tố tụng).

Căn cứ để xác định mức bồi thường áp dụng theo khoản 2, Điều 590; khoản 2 Điều 592

BLDS năm 2015; trong trường hợp làm NNN bị XHTD chết thì phải bồi thường cho gia

đình nạn nhân theo khoản 2, Điều 591 BLDS năm 2015.

147

4.2.1. . oàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến sự vận hành của bộ

máy đảm bảo quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt

Nam

Để đảm bảo cho sự vận hành của bộ máy hay hung thiết chế bảo đảm QTCCL

của NNN bị XHTD, Quốc hội cần sớm sửa đổi bổ sung các quy định liên quan đến sự

vận hành của các thiết chế như: Sửa đổi các quy định của pháp luật để bảo đảm sự độc

lập của Tòa án trong xét xử, bảo đảm phán quyết của Tòa án phải trên cơ sở kết quả xét

hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa. Theo đó

cần sửa đổi các quy định liên quan đến bổ nhiệm, tuyển dụng bố chí sắp xếp đội ng cán

bộ đặc biệt là đội ng thẩm phán; sửa đổi các quy định về thu thập chứng cứ của đương

sự, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trách nhiệm

pháp lý của chủ thể cung cấp chứng cứ, trách nhiệm pháp lý của những người được triệu

tập đến phiên tòa. Để đảm bảo phối hợp hoạt động giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát

và các cơ quan x t xử trong thu thập chứng cứ, hoàn thiện hồ sơ vụ án; “Các cơ quan

tiến hành tố tụng tại Trung ương sớm nghiên cứu, xây dựng và ban hành Thông tư liên

tịch hướng dẫn một số quy định của BLTTHS về quy trình điều tra, truy tố, xét xử các

vụ án XHTD”; đồng thời xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng

với các cơ quan, tổ chức xã hội trong việc cử các chuyên gia tâm lý - xã hội trợ giúp cho

nạn nhân, nhất là PNTEG trong các vụ án XHTD hi họ tham gia tố tụng.

4.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện thiết chế đảm ảo qu ền tiếp cận công l

của nạn nh n nữ ị m hại tình ục ở Việt Nam

Bên cạnh việc hoàn thiện thể chế pháp lý phù hợp, điều quan trọng tiếp theo là

phải có được bộ máy bảo đảm QCTCCL của NNN bị XHTD vận hành tốt nhằm thực thi

một cách hiệu quả các quy định pháp luật trong thực tế. Hiện nay, nước ta đã thiết lập

được hệ thống thiết chế tư pháp chính thức và phi chính thức với sự tham gia của nhiều

bên, điều này tạo điều iện phát huy vai trò của các thiết chế này trong bảo đảm QTCCL

của PNTEG bị XHTD. Tuy nhiên để mỗi thiết chế này thực hiện tốt chức năng, vai trò

của mình đồng thời đảm bảo cho sự phối hợp hoạt động giữa các thiết chế với nhau cần

tiếp tục đổi mới cách thức tổ chức, sắp xếp và hoạt động của các thiết chế này.

4.2.2.1. Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của thiết chế tư pháp chính thức

bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục

Thứ nhất, đổi mới cách thức tổ chức, sắp xếp và hoạt động của TAND.

Để TAND thực sự là cơ quan x t xử độc lập hông bị chi phối, bóp m o, can thiệp

bởi bất cứ cơ quan tổ chức nào, “tổ chức hệ thống toà án theo thẩm quyền xét xử, không

148

phụ thuộc vào đơn vị hành chính” [195, tr. 19], vì thế cần nghiên cứu thành lập toà án sơ

thẩm khu vực thay thế cho TAND cấp huyện vì việc tổ chức toàn án này với quy mô

lớn, số lượng án giải quyết nhiều hơn, đặc biệt là án XHTD. Hiện nay, TAND cấp

huyện thụ lý số lượng vụ án không nhiều, đặc biệt án XHTD, vì thế việc đầu tư cơ sở vật

chất, phương tiện, trang thiết bị gặp nhiều hó hăn. Việc thành lập toà án sơ thẩm khu

vực sẽ giảm được đầu mối quản lý, nâng cao hiệu quả đầu tư, tập trung được các nguồn

lực để hiện đại hoá hệ thống tư pháp, xây dựng các phòng xét xử thân thiện, hiện đại

phục vụ tốt cho xét xử các vụ án XHTD. Đồng thời đây còn là điều kiện để “tập trung

đội ng thẩm phán, chuyên môn hoá hoạt động xét xử ở cấp sơ thẩm, tăng cường cơ hội

tự đào tạo cho thẩm phán qua việc cọ xát thực tiễn, trao đổi, học tập lẫn nhau, tích luỹ

kinh nghiệm xét xử và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ” [142, tr. 200].

Bên cạnh đó, cần tổ chức lại hệ thống tòa án theo hướng thành lập các tòa chuyên

trách nhằm đảm bảo các thẩm phán tham gia x t xử có đủ năng lực, trình độ, có hiểu

biết chuyên sâu về lĩnh vực mà mình đảm nhiệm. Hiện nay mô hình tòa chuyên trách đã

được thành lập ở cấp tỉnh và cấp huyện nơi có nhiều vụ án xảy ra. Tuy nhiên với nhiều

tòa cấp huyện hoạt động “phân án vẫn được thực hiện theo chí chủ quan của tránh án

TAND, điều này dẫn đến tình trạng phân án theo cảm tính chủ quan, hông đảm bảo

tính hách quan đồng thời nó dẫn đến nhiều tiêu cực trong hâu x t xử” (Trích biên bản

phỏng vấn sâu Thẩm phán trung cấp TAND Cà Mau). Trong đó, hẩn trương xây dựng

và hoàn thiện mô hình tòa án gia đình và người chưa thành niên theo Luật Tổ chức

TAND năm 2014 và Thông tư số 01/2016/TT-CA ngày 21/1/2016 của TANDTC . Tuy

nhiên khoản 2 Thông tư này quy định điều kiện thành lập toà chuyên trách là “1. Việc tổ

chức các Tòa chuyên trách tại TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, TAND

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương phải đáp ứng được các điều

kiện sau: a) Số lượng vụ án mà Tòa án thụ lý, giải quyết thuộc thẩm quyền của Tòa

chuyên trách theo quy định tại Điều Thông tư này phải từ 50 vụ/năm trở lên. b) Có

biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư Tòa án đáp ứng được yêu cầu tổ chức Tòa

chuyên trách. 2. Trường hợp tại Tòa án hông đáp ứng đủ điều kiện tổ chức Tòa chuyên

trách quy định tại khoản 1 Điều này thì không tổ chức Tòa chuyên trách nhưng phải bố

trí Thẩm phán chuyên trách để giải quyết”. Tuy nhiên, trung bình mỗi năm của giai đoạn

2014-2019 có từ 1957 – 2172 vụ XHTD/năm (Bảng 3.10, Phụ lục 2), như thế mỗi năm

TAND cấp huyện (số đơn vị hành chính cấp huyện năm 2019 là 71 đơn vị) thụ lý

khoảng 2,7–3.0 vụ XHTD/năm, trong hi đó tiêu chuẩn thành lập toà chuyên trách thì

149

TAND huyện phải thụ lý 50 vụ/năm, nên để thành lập Tòa gia đình và người chưa thành

niên tại TAND cấp huyện cần phải thực hiện một trong ba phương án sau:

(1) Phương án 1: thành lập toà án sơ thẩm khu vực như đề xuất ở trên, sau đó

thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên là toà chuyên trách trong toà án sơ

thẩm khu vực.

(2) Phương án 2: thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên là toà chuyên

trách trong các TAND cấp huyện hiện nay theo hình thức đặc thù, nghĩa là hông căn cứ

vào mức độ phải thụ lý 50 vụ/năm của TAND cấp huyện như trong Thông tư số

01/2016/TT-CA ngày 21/1/2016 của TAND tối cao.

( ) Phương án : Tòa gia đình và người chưa thành niên được thành lập ở TAND

cấp tỉnh (hiện nay đã và đang triển khai) và các vụ án XHTD có nạn nhân dưới 18 tuổi

thì do toà chuyên trách này thụ lý và giải quyết (như thế các vụ án XHTD có nạn nhân

dưới 18 tuổi sẽ không do TAND cấp huyện thụ lý và giải quyết nữa).

Bên cạnh đó, TAND tối cao cần chỉ đạo các đơn vị chuyên môn tổ chức tổng kết

thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; triển hai thi hành các đạo

luật về tư pháp đối với người chưa thành niên. Ngoài ra, “giảm số lượng hội thẩm trong

hội đồng xét xử sơ thẩm vì trình độ và năng lực của hội thẩm còn bị hạn chế trong việc

tham gia thảo luận và đưa ra quyết định về những vấn đề áp dụng pháp luật” [59, tr.

106-107], trong hi đó “cả nước có hơn 15.000 Hội thẩm nhưng tiêu chuẩn chuyên môn

của họ lại rất chung chung, chưa cụ thể và khác xa các tiêu chuẩn về chuyên môn đối

với Thẩm phán. Nếu có hội thẩm tham gia thì chỉ cần 01 người (trong Hội đồng xét xử

có 3 thành viên) hoặc 2 người (trong Hội đồng xét xử có 5 thành viên), còn lại là thẩm

phán chuyên nghiệp” [56, tr. 462].

Thứ hai, đổi mới cách thức tổ chức, sắp xếp và hoạt động của VKSND.

Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện VKSND các cấp theo hướng “VKSND được tổ

chức phù hợp với hệ thống tổ chức của toà án” [195, tr. 19]; bên cạnh đó VKSND tối

cao sớm xây dựng và ban hành Thông tư liên tịch về công tác phối hợp giữa các cơ quan

tố tụng trong quá trình tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, khởi tố,

điều tra, truy tố, xét xử các vụ án XHTD trẻ em. Đồng thời VKSND tối cao chỉ đạo

VKSND các cấp áp dụng đồng bộ các giải pháp để thực hiện tốt công tác thực hành

quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết các vụ án XHTD trẻ em; phối hợp chặt chẽ với

Cơ quan điều tra ngay từ khi có tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố vụ án

XHTD trẻ em để kịp thời thu thập chứng cứ, bảo vệ, hỗ trợ trẻ em là nạn nhân, đẩy

nhanh tiến độ giải quyết vụ án và chống bỏ lọt tội phạm; bảo đảm ra quyết định truy tố

150

đúng thời hạn đạt 100% số vụ án XHTD trẻ em và truy tố bị can đúng tội danh đạt

100%.

Ba là, đổi mới cách thức tổ chức, sắp xếp và hoạt động của cơ quan điều tra.

Hoạt động điều tra vụ án hình sự có vai trò rất quan trọng vì thế cần thiết “tổ chức

lại cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối” [195, tr. 19]. Theo đó, thống nhất

thống nhất cơ quan điều tra thuộc thẩm quyền của cơ quan công an (riêng đối với cơ

quan điều tra quân sự dành riêng cho các vụ án trong quân đội), VKSND thực hiện

quyền công tố và kiểm sát hoạt động tố tụng, bao gồm cả hoạt động điều tra.

Bốn là, xây dựng và áp dụng chỉ số công l đánh giá hiệu lực, hiệu quả hoạt động

của các thiết chế tư pháp.

Chỉ số công lý là một trong những công cụ đo lường hiệu lực, hiệu quả hoạt động

của các thiết chế tư pháp trong bảo đảm QTCCL của người dân nói chung của NNN bị

XHTD nói riêng. Ở Việt Nam, chỉ số công lý giới thiệu một hướng tiếp cận mới để đánh

giá kết quả thực hiện tiến trình cải cách luật pháp và tư pháp. Dựa vào kinh nghiệm các

khảo sát về tiếp cận công l đã được tiến hành trước đây, c ng như từ việc xây dựng các

chỉ số đo lường hiệu quả quản trị địa phương đang được sử dụng ở Việt Nam (PAPI-

The Provincial Governance and Public Administration Performance Index), chỉ số hài

lòng cung cấp dịch vụ công và chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI - Provincial

Competitiveness Index) và kinh nghiệm của Tổ chức World Justice Project xây dựng

Chỉ số Pháp quyền (Rule of Law Index) công bố hàng năm, với các chỉ báo: (1) Kiểm

soát quyền lực nhà nước; (2) Phòng chống tham nh ng; ( ) Công hai, minh bạch hoạt

động của nhà nước; (4) Đảm bảo các quyền cơ bản của công dân; (5) Đảm bảo trật tự và

an toàn xã hội; (6) Thi hành pháp luật; (7) Tiếp cận công l trong lĩnh vực dân sự; (8)

Tiếp cận công l trong lĩnh vực hình sự [265], Hội Luật gia Việt Nam (VLA), Trung

tâm Nghiên cứu Phát triển và Hỗ trợ Cộng đồng (C COD S) và UNDP đã tiến hành

khảo sát nhiều tỉnh, thành phố ở Việt Nam để đo lường, đánh giá về chỉ số Công lý ở

Việt Nam, với 4 chỉ báo sau: (1) Tiếp cận công lý; (2) công bằng và bình đẳng; (3) thi

hành pháp luật; (4) quyền cơ bản [73, tr. 66-68]. Chỉ số công l được hiểu là “một công

cụ định lượng được xây dựng để chuyển tải ý kiến và đánh giá của người dân về hiệu

quả hoạt động của các định chế nhà nước trong việc đảm bảo công lý và các quyền cơ

bản trên thực tế, đồng thời giúp các bên có liên quan đánh giá và giám sát các thay đổi

thực chứng về thực thi pháp luật và bảo đảm công lý ở Việt Nam” [72, tr. 8]. Do đó

những năm tới các cơ quan công quyền cần phối hợp với các tổ chức, cơ quan nghiên

cứu trong và ngoài nước hoàn thiện, xây dựng bộ chỉ số công l đồng thời tăng cường

151

đánh giá áp dụng chỉ số công l nhằm giám sát đánh giá hiệu quả hoạt động của các thiết

chế trong việc đảm bảo quyền dựa trên phản hồi từ trải nghiệm và quan sát thực tiễn của

người dân. Việc đánh giá hiệu quả hoạt động của thiết chế tư pháp thông qua Chỉ số

công lý giúp các thiết chế tư pháp có cái nhìn toàn diện hơn về hoạt động của mình để

tiếp tục cải thiện nhằm đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của người dân.

4.2.2.2. Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của thiết chế giám sát, hỗ trợ và tư

vấn pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục

Một là, đổi mới cách thức tổ chức, sắp xếp và hoạt động của thiết chế dân cử.

Để đảm bảo cho các thiết chế đặc biệt các thiết chế tư pháp chính thức hoạt động

có hiệu lực, hiệu quả, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế giám sát đồng thời đẩy mạnh hoạt

động giám sát đối với hoạt động các cơ quan này trong thực tế. Hiện tại, ngoài cơ chế

giám sát trong nội bộ các cơ quan, việc giám sát còn được thực hiện thông qua giám sát

của các cơ quan dân cử, giám sát của TTQ và giám sát của nhân dân với hoạt động

của các thiết chế tư pháp. Theo đó những năm tới cần đẩy mạnh việc công bố công hai

các bản án trên các trang thông tin điện tử, tạo điều iện cho hoạt động giám sát của

Nhân dân; đồng thời đẩy mạnh hoạt động giám sát của QH, HĐND các cấp, giám sát

trong nội bộ và giám sát ch o trong hoạt động của các thiết chế tư pháp.

Quốc hội tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động giám sát tư pháp; tăng

cường giám sát đối với các vụ án XHTD; làm tốt nhiệm vụ trong giai đoạn “hậu giám

sát”, iên trì đôn đốc, giám sát các cơ quan trong việc thực hiện các kiến nghị sau giám

sát. Trong đó nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban tư pháp của QH trong việc

giám sát các vụ án XHTD. Để thực hiện tốt yêu cầu này, cần tăng cường số lượng

ĐBQH hoạt động chuyên trách lên 40%-45% (hiện nay là khoảng 35%), dần dần tiến tới

giảm tối đa ĐBQH hoạt động kiêm nhiệm, đặc biệt đối với các trường hợp vừa là

ĐBQH vừa là cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan nhà nước ở địa phương; ngoài ra,

việc lấy phiếu tín nhiệm đối với Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao,

Bộ trưởng Bộ Công an vẫn tiếp tục thực hiện 02 lần trong cả nhiệm kỳ và thời điểm lấy

phiếu tín nhiệm cần thực hiện vào năm thứ 02 và năm thứ 04 của nhiệm kỳ (hiện nay

tiến hành một lần vào giữa nhiệm kỳ). Ngoài ra, nâng cao chất lượng giám sát tư pháp

của HĐND, bố trí cán bộ chuyên trách của Ban Pháp chế có nghiệp vụ, chuyên môn về

tư pháp để nâng cao chất lượng giám sát hoạt động xử lý các vụ án XHTD.

Hai là, đổi mới cách thức tổ chức, sắp xếp và hoạt động của thiết chế hỗ trợ, tư vấn

pháp lý.

152

Cần tiếp tục phát triển và tổ chức lại các thiết chế bổ trợ tư pháp như luật sư, các

cơ quan giám định, các cơ quan tổ chức hỗ trợ tư vấn tâm l cho nạn nhân bị XHTD,

trong đó cần hỗ trợ để phát triển và tổ chức lại các tổ chức hành nghề luật sư, các tổ

chức xã hội nghề nghiệp của luật sư ở các tỉnh, thành phố.

Đối với các cơ quan giám định tư pháp, cần iện toàn hệ thống tổ chức giám định

tư pháp. Hiện nay ở nước ta có 4 tổ chức giám định tư pháp ở Trung ương là: Viện Pháp

y quốc gia, Viện Pháp y tâm thần Trung ương thuộc Bộ Y tế, Viện Pháp y Quân đội

thuộc Bộ Quốc phòng và Viện Khoa học hình sự thuộc Bộ Công an. Theo đó cần tiếp

tục hỗ trợ hoàn thiện các trung tâm giám định pháp y thuộc Sở Y tế, Phòng giám định

pháp y thuộc bệnh viện đa hoa cấp tỉnh. Xây dựng mô hình giám sát tư pháp đối với tội

XHTD theo quy trình một cửa, như hình thức trung tâm 1 cửa tại Thái Lan và mô hình 1

điểm dừng tại Hàn Quốc, điều này tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng vượt qua những

sang chấn tâm lý của NNN bị XHTD, đặc biệt là trẻ em gái. Nhà nước phối hợp với

TTQ và các đoàn thể nhân dân phát triển các trung tâm tư vấn trợ giúp tâm l cho

NNN bị XHTD, đặc biệt trẻ em bị XHTD. Theo đó Bộ LĐTBXH cần tiếp tục duy trì và

phát triển các dịch vụ, tổng đài hỗ trợ tư vấn cho phụ nữ và trẻ em là nạn nhân bị

XHTD; đảm bảo cho các dịch vụ này được phát triển một cách rộng rãi và hoạt động có

hiệu quả trong tư vấn trợ giúp tâm l cho mọi nạn nhân trên mọi vùng miền của tổ quốc.

Tiếp tục duy trì, phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em kết nối với các

dịch vụ công tác xã hội, bảo trợ xã hội, y tế, giáo dục và TGPL nhằm đáp ứng việc bảo

vệ trẻ em ở cả ba cấp độ (phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp); phối hợp, xử lý thông tin kịp

thời giữa địa phương với Tổng đài 111 trong việc xác minh, hỗ trợ, can thiệp các vụ án

bạo lực giới, XHTD với trẻ em và phụ nữ; thực hiện quy trình hỗ trợ, can thiệp đối với

nạn nhân là PNTEG bị XHTD.

Thứ ba, tăng cường học hỏi inh nghiệm và tranh thủ các nguồn lực từ hoạt động

hợp tác quốc tế nhằm hoàn thiện tổ chức, bộ máy các thiết chế tư pháp.

Những năm tới các thiết chế tư pháp cần thông qua các chương trình hợp tác quốc

tế, trao đổi, học hỏi inh nghiệm với các đối tác quốc tế thông qua đó tiếp cận, thu thập

thông tin, kinh nghiệm, góp phần hoàn thiện tổ chức, bộ máy thiết chế tư pháp. Hoat

động trao đổi, tham khảo, học hỏi inh nghiệm về mô hình tổ chức hoạt động của các cơ

quan tư pháp nước ngoài cần được thực hiện một cách có chọn lọc, tránh dàn trải, trùng

lặp, dẫn đến hình thức và lãng phí. Theo đó, các cơ quan tư pháp ở Trung ương đẩy

mạnh hoạt động trao đổi thông qua nghiên cứu, điều tra đối với các vụ án XHTD; phối

hợp với các cơ quan tư pháp thực hiện các yêu cầu ủy thác, tương trợ tư pháp của Việt

153

Nam cho nước ngoài và tiếp nhận xử l các hồ sơ yêu cầu tương trợ tư pháp; đẩy mạnh

việc đàm phán, ết và tổ chức thực hiện một số điều ước quốc tế về tư pháp.

4.2.3. Nhóm giải pháp tăng cường các nguồn lực để vận hành cơ chế pháp lý

đảm ảo qu ền tiếp cận công l của nạn nh n nữ ị m hại tình ục

Để hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, Đảng và Nhà nước

cần thực hiện đồng bộ các biện pháp để tăng cường nguồn nhân lực và các nguồn lực vật

chất hác phục vụ cho vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, cụ thể

như sau:

4.2.3.1. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp đủ về số lượng ph

hợp về cơ cấu và đảm bảo về chất lượng

Để đảm bảo số lượng cơ cấu cho đội ng cán bộ ở các cơ quan tư pháp địa

phương, những năm tới các cơ quan tư pháp Trug ương và địa phương cần cân đối cơ

cấu đội ng cán bộ tư pháp nhằm bố trí đủ về số lượng và cơ cấu tại những địa bàn trọng

điểm nơi có nhiều vụ án xảy ra tránh áp lực quá lớn cho thẩm phán, iểm sát viên và

điều tra viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Việc thiếu cán bộ tư pháp đặc biệt là

điều tra viên, iểm sát viên là nữ đã và đang tạo ra rào cản nhất định trong hoạt động bảo

đảm QTCCL của các nạn nhân bị XHTD là nữ hay trẻ em gái. Bởi hiện nay “Hầu hết

phụ nữ làm việc trong lĩnh vực tư pháp hình sự nắm giữ các vị trí thấp, và có ít khả năng

và ảnh hưởng đến việc ra quyết định” [193, tr. 54]; “chưa đến 1% các điều tra viên hình

sự là nữ giới” [193, tr. 59]. Do đó, để tiến tới xây dựng mô hình tố tụng thân thiện với

người chưa thành niên đặc biệt là trẻ em gái bị XHTD, các cơ quan, đơn vị của VKSND,

cơ quan điều tra tiếp nhận tin báo tội phạm “không chỉ cần phải chú trọng đến nâng cao

số lượng cán bộ nữ, mà còn cần phải tăng cường nỗ lực nhằm nâng cao năng lực cho

phụ nữ” [193, tr. 64] để họ có thể phát triển, trưởng thành đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ

đảm trách các vụ án đặc biệt các vụ án liên quan đến XHTD với PNTEG. Chính phủ cần

xem xét lại tiêu chí tuyển dụng và quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm của mỗi cơ quan tư pháp

hình sự đối với cán bộ nữ nhằm xóa bỏ những định kiến giới, thiên lệch về các tiêu

chuẩn do nam giới định ra.

Bên cạnh đó, để nâng cao năng lực thi công vụ cho đội ng cán bộ thuộc các thiết

chế tư pháp chính thức thì đội ng cán bộ công an, cán bộ viện kiểm sát và thẩm phán

cần được tham gia vào các chương trình tập huấn và phát triển chuyên môn; nghiệp vụ,

trong đó họ “cần được đào tạo về các ỹ năng cung cấp thông tin, hỗ trợ, trợ giúp và

truyền thông cho nạn nhân khi tham gia vào hệ thống tư pháp hình sự” [41, tr. 33]. Theo

kết quả khảo sát thực tế cho thấy rằng, hạn chế lớn nhất của đội ng cán bộ tư pháp là

154

việc họ ít có hả năng giao tiếp hiệu quả với các nạn nhân dẫn đến tình trạng nạn nhân

rất e d hi phải tiếp xúc với cán bộ do họ cảm nhận rằng “cán bô tư pháp thiếu cảm

thông với các trải nghiêm tâm l mà nạn nhân phải chịu đựng”. Trong hi đó đa số cán

bộ tư pháp tham gia nghiên cứu cho rằng họ ít hi được tham gia các háo đào tạo tập

huấn liên như “Đào tạo ỹ năng, hiểu biết nắm bắt tâm l nạn nhân và người phạm tội”,

“Đào tạo iến thức ỹ năng giao tiếp, tiếp xúc với nạn nhân”; có đến 8, % cán bộ các

thiết chế tư pháp tham gia trả lời phiếu hỏi cho biết họ rất hiếm hi được tham gia “Đào

tạo ỹ năng, hiểu biết nắm bắt tâm l nạn nhân và người phạm tội” và 27% hẳng định

họ chưa được đào tạo tập huấn về ỹ năng này; có 45% cán bộ tư pháp trong mẫu

nghiên cứu hẳng định họ rất hiếm hi được “Đào tạo iến thức ỹ năng giao tiếp, tiếp

xúc với nạn nhân, người phạm tội” và 27,7% hẳng định họ chưa được đào tạo về ỹ

năng này (Bảng 4.1, Phụ lục 4). Để đảm bảo nâng cao năng lực và ỹ năng cho đội ng

cán bộ bên cạnh việc đưa đội ng này đi đào tạo, tập huấn. Các cơ quan cung cấp dịch

vụ đào tạo tập huấn cần nâng cao chất lượng của háo đào tạo đã và đang được cung

cấp. Bởi chất lượng các hóa đào tạo là nhân tố tác động trực tiếp đến nâng cao năng lực

cho đội ng cán bộ. Nghiên cứu thực tế cho thấy 54,7% cán bộ tư pháp đánh gía chất

lượng, hiệu quả của các háo đào tạo, cập nhật iến thức văn bản pháp luật ở mức bình

thường và , % cán bộ đánh giá về các háo đào tạo này ở mức hiệu quả. Tuy nhiên

với các háo đào tạo ỹ năng hiểu biết nắm bắt tâm l nạn nhân và người phạm tội có

đến 5 , % cán bộ tư pháp đánh giá các háo đào tạo này hông hiệu quả và rất hông

hiệu quả; 50% cán bộ tư pháp cho rằng các chương trình, đào tạo tập huấn iến thức ỹ

năng giao tiếp, tiếp xúc với nạn nhân, người phạm tội là hông hiệu quả.

Hiện tại, các trường đào tạo cử nhân luật, đào tạo nghề, bồi dư ng nghiệp vụ về tư

pháp đã phát triển nhanh về số lượng, tuy nhiên công tác đào tạo cán bộ pháp luật, đào

tạo nghề cho các chức danh tư pháp hiện còn rất phân tán. Chương trình chất lượng đào

tạo chưa đáp ứng việc thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng cán bộ tư pháp và phục

vụ nhiệm vụ nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa. “Công tác đào tạo, bồi dư ng

định kỳ, thường xuyên, cập nhật các kiến thức mới và chuyên sâu theo từng lĩnh vực cho

cán bộ có chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp chưa được quan tâm đúng mức, thực hiện

chưa có nền nếp, ổn định. Thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư chưa được trang bị kiến

thức, kỹ năng tranh tụng và điều hành phiên tòa tranh tụng” [8].

Theo đó, những năm tới các cơ sở đào tạo này (như Đại học Luật Hà Nội, Đại học

Luật thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Kiểm sát,

Học viện Tư pháp, Học viện Toà án, v.v..) tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo;

155

đẩy mạnh công tác hợp tác quốc tế trong đào tạo iến thức, ỹ năng cho cán bộ tư pháp,

bổ, trợ tư pháp trong việc giải quyết các vụ án XHTD PNTEG.

4.2.3.2. Đảm bảo các nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất t ang thiết bị cho

hoạt động tư pháp

Những năm qua theo báo cáo của Ban chỉ đạo CCTP Trung ương việc đầu tư xây

dựng trụ sở làm việc, đảm bảo cung cấp phương tiện trang thiết bị cho hoạt động các cơ

quan tư pháp trên toàn quốc luôn được quan tâm thực hiện. Các đơn vị và địa phương đã

chú trọng tập trung đầu tư “xây dựng cơ sở vật chất, trang bị, phương tiện làm việc và

ưu tiên bố trí kinh phí phục vụ công tác điều tra, kiểm sát, xét xử, giám định tư pháp, thi

hành án phù hợp điều kiện kinh tế của đất nước. Chế độ, chính sách đối với cán bộ, công

chức ngành TAND, VKSND, Thi hành án đã từng bước được bổ sung, góp phần động

viên cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ” [8].

Kết quả điều tra thực tế cho thấy các cán bộ tư pháp đều đánh giá tốt về cơ sở vật

chất trang thiết bị và inh phí hoạt động cho đội ng cán bộ các cơ quan tư pháp. Tuy

nhiên để nâng cao hiệu quả công tác giải quyết, xét xử các vụ án XHTD nói chung,

XHTD với PNTEG nói riêng, nhà nước và các địa phương cần tăng cường đầu tư cơ sở

vật chất, phương tiện cho các cơ quan trong hệ thống tư pháp. Với tòa án cần đầu tư xây

dựng mô hình phòng x t xử thân thiện bởi đây là một yếu tố đảm bảo về mặt tâm l cho

nạn nhân và gia đình nạn nhân, điều đó huyến hích họ mạnh dạn trình báo vụ việc và

đưa vụ việc ra x t xử thông qua con đường tư pháp hình sự.

Bên cạnh đó cần chú trọng đảm bảo về cơ sở vật chất như: xây dựng phòng chức

năng Giám sát tâm l , hình thức phòng xét xử các vụ án được đổi mới theo hướng thân

thiện với người chưa thành niên về cách sắp xếp chỗ ngồi của những người tiến hành tố

tụng, những người tham gia tố tụng.

4.2.4. Nhóm giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả vận hành cơ

chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công l của nạn nh n nữ bị xâm hại tình dục

4.2.4.1. Hoàn thiện sự phối hợp giữa các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý bảo

đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục

Thứ nhất, thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tham gia đảm bảo

quyền tiếp cận công l của NNN bị XHTD là việc làm quan trọng bởi bộ máy của chúng

ta hiện có sự tham gia phối hợp của nhiều cơ quan, đơn vị hác nhau. Do đó, nếu hông

xây dựng cơ chế phối hợp vận hành hiệu quả thì sự vận hành của hệ thống sẽ gặp hó

hăn.

156

Theo đó với các cơ quan tư pháp chính thức cần thiết lập cơ chế phối hợp giữa cơ

quan điều tra, viện iểm sát và tòa án. Cơ quan điều tra, viện iểm sát cần phối hợp hoạt

động chặt chẽ ngay từ hi bắt đầu tiếp nhận đơn tố cáo của gia đình bị hại. Hoạt động

phối hợp cần được thực hiện ngày từ hâu điều tra thu thập, giám định chứng cứ, dấu

vết. Trong quá trình thực hiện các hâu này “Kiểm sát viên phải thực sự trách nhiệm,

luôn bám sát các hoạt động điều tra, phối hợp chặt chẽ với điều tra thực hiện các biện

pháp điều tra, thu thập chứng cứ đảm bảo theo đúng quy định của BLTTHS. Trong quá

trình x t xử, chủ động phối hợp với Tòa án nhằm sớm đưa các vụ án ra x t xử, đề nghị

mức án nghiêm hắc, tương xứng với hành vi bị cáo để Hội đồng x t xử đưa ra bản án

có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, đảm bảo việc x t xử đúng người, đúng tội” [91].

Để hạn chế đến mức thấp nhất những vấn đề nội tại phát sinh trong cơ chế phối

hợp giữa các cơ quan tư pháp như: Tòa án hông có hả năng buộc các điều tra viên

phải chịu trách nhiệm về hành vi của họ trong giai đoạn điều tra, hay sự phối hợp lỏng

lẻo giữa viện iểm sát và tòa án, cần có quy định rõ ràng cụ thể hơn về trách nhiệm và

quyền hạn của các bên đến đâu trong từng hâu. Cần thiết lập cơ chế iểm tra, iểm sát

ch o lẫn nhau giữa các cơ quan cùng tiến hành hoạt động tố tụng. Cần tăng cường trách

nhiệm giải trình trong hoạt động của các cơ quan tư pháp nhằm đảm bảo hoạt động của

cơ quan này đặc biệt là hoạt động của tòa án được thực hiện theo hướng công hai, minh

bạch. Cán bộ của các cơ quan cần thường xuyên trao đổi, thống nhất nhận thức về các

quy định của pháp luật c ng như những vấn đề còn có ý kiến hác nhau hi đánh giá các

tình tiết khách quan của vụ án, nhằm đảm bảo xét xử, giải quyết các vụ án về xâm hại

tình dục với phụ nữ và trẻ em gái đúng pháp luật.

Thứ hai, để vận hành hiệu quả cơ chế phối hợp giữa các cơ quan tư pháp chính

thức cần hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng với công tác tư pháp. Theo đó cần tăng

cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng thông qua đưa ra chủ trương định hướng

cho hoạt động của cơ quan tư pháp. Các cấp ủy đảng cần đẩy mạnh hoạt động triển hai,

giám sát hoạt động thực hiện triển hai các nhiệm vụ CCTP và công tác tư pháp c ng

như thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa cơ quan tư pháp.

Thứ ba, bên cạnh việc xây dựng và thiết lập cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cơ

quan trong thiết chế tư pháp chính thức, để đảm bảo QTCCL cho NNN bị XHTD, cần

thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành để đảm bảo cho tất cả các cơ quan, tổ chức kể cả ở

khu vực công và hu vực tư đều có thể tham gia một cách tích cực và hiệu quả trong

chuỗi tiếp cận công l . Theo đó cần tăng cường các cơ chế hợp tác kết hợp với việc

157

giám sát thực hiện một cách đầy đủ toàn diện có sự hiện diện của các bên liên quan, đảm

bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các thiết chế tư pháp chính thức với người giám hộ, người

đại diện quyền và lợi ích của nạn nhân. Sự phối hợp giữa người thực hiện TGPL, người

bào chữa, bào chữa viên nhân dân với tòa án, viện iểm sát và cơ quan điều tra, thi hành

án trong quá trình tố tụng và hâu thi hành bản án.

Thứ tư, cần đẩy mạnh hoạt động phối hợp giữa các cơ quan và giữa các địa

phương trên cả nước trong quá trình truy tìm bị cáo trong trường hợp đối tượng bỏ trốn

hỏi địa phương. Rất nhiều vụ án liên quan đến XHTD bị đình chỉ hông thể đưa ra x t

xử tìm lại công l cho nạn nhân là do bị cáo bỏ trốn hỏi địa phương. Trong hi đó công

tác phối hợp điều tra truy tìm những đối tượng này hiện còn gặp nhiều hó hăn vướng

mắc. “Các địa phương, các cơ quan thường hông nỗ lực tìm iếm do hông có cơ chế

hen thưởng hay huyến hích họ làm việc này giống như tìm tội phạm bị truy nã. Điều

đó tạo ra hó hăn nhất định trong xử l các vụ án đặc biệt hi đối tượng bỏ trốn” (Trích

biên bản phỏng vấn Cán bộ cơ quan điều tra hình sự Cần Thơ).

4.2.4.2. Nâng cao năng lực tiếp cận công lý cho nạn nhân nữ bị xâm hại tình

dục

Trong bối cảnh hi mà hệ thống tư pháp chính thức được đánh giá còn nhiều hạn

chế như: “Thủ tục rườm rà, phức tạp, hình thức và hay bị trì hoãn; Dễ bị chi phối bởi các

thế lực và quyền lực” [45, tr. 188-189] thì việc hạn chế trong năng lực TCCL sẽ hiến

cho QTCCL của NNN bị XHTD sẽ rất hó được thực thi trong thực tế. Vì thế, để nâng

cao năng lực TCCL của NNN bị XHTD, chính quyền các cấp cần phải thực hiện các nội

dung sau:

Thứ nhất, tuyên truyền nâng cao nhận thức pháp luật cho người dân nói chung,

cho NNN bị XHTD nói riêng.

Việc thiếu hiểu biết về các quyền và nghĩa vụ của mình, hay việc hông hiểu biết,

hông có hả năng vận dụng các quy định pháp luật, thiếu hiểu biết về cơ chế, thủ tục

pháp l sẽ là rào cản lớn hiến cho các nạn nhân chấp nhận sự im lặng hông dám tố cáo

tội phạm c ng như từ bỏ việc hông theo đuổi vụ việc đến cùng. Theo đó cần có nhiều

hình thức để phổ biến thông tin pháp luật, nâng cao hiểu biết cho các nạn nhân để họ tự

tin, mạnh dạn hơn trong việc tố cáo tội phạm. Các cơ quan chức năng và tổ chức của

cộng đồng cần phối hợp để xác định một chiến lược tuyên truyền, giáo dục pháp luật

dựa trên nghiên cứu về nhu cầu và sự hiểu biết pháp luật của từng nhóm dân cư.

Theo kết quả khảo sát thực tiễn cho thấy, người Kinh có hả năng nhận biết đâu là

hành vi vi phạm pháp luật tốt hơn những người thuộc các dân tộc ít người; có đến 21, %

158

người dân tộc thiểu số cho rằng việc quan hệ tình dục hoặc thực hiện hành vi tình dục

với vợ, người yêu dưới 1 tuổi là hông vi phạm pháp luật nhưng con số này ở người

Kinh chỉ là 7%; 5,4% người dân tộc thiểu số cho rằng việc dụ dỗ, p buộc người dưới 1

tuổi sờ, bóp, hôn..vào những bộ phận vùng nhạy cảm (bộ phận sinh dục, ngực, vùng

mặt, đầu, đùi, mông…) trên cơ thể người dụ dỗ, p buộc hoặc người hác hông phải là

hành vi vi phạm pháp luật tuy nhiên con số này ở người inh là 2, %. Do đó với công

tác tuyên truyền cần chú trọng tuyên truyền cho người dân tộc thiểu số, người sinh sống

ở vùng sâu, vùng xa. Các hình thức phổ biến pháp luật cần đáp ứng nhu cầu hiểu biết

pháp luật để giải quyết những vấn đề cụ thể của các nhóm dân cư. Đối với nạn nhân đặc

biệt là nạn nhân ngh o hay các nhóm xã hội dễ bị tổn thương hác cần hết sức hỗ trợ họ

trong tiếp cận thông tin về pháp luật. Phát huy tối đa vai trò của các phương tiện truyền

thông đại chúng, đặc biệt các mạng xã hội để tuyên truyền và hỗ trợ pháp luật cho nạn

nhân một cách thuận tiện, nhanh chóng, hiệu quả và ít tốn m nhất.

Nội dung tuyên truyền cần chú trọng tuyên truyền về các hành vi tình dục bị cấm

theo quy định của luật, tuyên truyền hậu quả, tác động của hành vi xâm XHTD. Tuyên

truyền rộng rãi đến mọi đối tượng đặc biệt là trẻ em gái về cách thức phòng tránh các

tình huống dễ xảy ra XHTD. Dạy cho các em cách ứng phó và xử l hi rơi vào tình

huống đó. Tuyên truyền sâu rộng về các quy trình, thủ tục tố tụng, các bước hay các cơ

quan để nạn nhân và gia đình có thể trình báo vụ việc hay nơi họ có thể nhận được tư

vấn trợ giúp pháp l . Đồng thời chú trọng tuyên truyền để thay đổi những định iến của

người dân đối với cán bộ hay với hoạt động của các thiết chế tư pháp. Nghiên cứu của

tôi cho thấy tất cả các nhân tố như nhận thức của người dân về các quyền và nghĩa vụ,

nhận thức về các thủ tục, hay niềm tin vào sự đúng đắn trong cách giải quyết vụ việc

thông qua con đường tư pháp hình sự đều có sự tác động tới xu hướng lựa chọn hành vi

của người dân xem họ có trình báo vụ việc hay giữ im lặng. Họ sẽ giải quyết vụ việc

thông qua con đường tư pháp hình sự hay con đường thương lượng hòa giải.

Kết quả khảo sát thực tiễn cho thấy tất cả các yếu tố như giới tính, trình độ học

vấn, thành phần dân tộc và địa bàn sinh sống đều có mối quan hệ với việc lựa chọn xử l

vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự. Theo đó nữ giới có xu hướng hông lựa

chọn giải quyết vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự cao hơn nam giới, người

sinh sống ở hu vực nông thôn có xu hướng lựa chọn giải quyết vụ việc thông qua con

đường tư pháp hình sự nhiều hơn người sinh sống ở hu vực đô thị, tỷ lệ người inh lựa

chọn hông giải quyết vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự nhiều hơn người

dân tộc thiểu số, người có trình độ học vấn dưới THPT lựa chọn hông giải quyết vụ

159

việc thông qua con đường tư pháp hình sự nhiều hơn những người có trình độ học vấn

từ cao đẳng đại học trở lên (Bảng 4.2, Phụ lục 4). Do vậy hi lựa chọn đối tượng tuyên

truyền cần chú trọng tuyên truyền cho đối tượng này.

Thứ hai, chính quyền địa phương thực hiện ngay biện pháp tuyên truyền nhằm

thay đổi hành vi, quan điểm, định iến văn hóa làm giảm áp lực, huyến hích nạn nhân

đứng lên tố giác tội phạm c ng như giúp họ ổn định về mặt tinh thần, vượt qua những

hó hăn hi phải đối mặt với vụ việc. Theo đó các cơ quan chức năng cần sử dụng các

phương tiện truyền thông hiện đại, các chương trình ết nối để huyến hích các nạn

nhân ể lại câu chuyện của họ và để các nạn nhân trở thành hạt nhân cho các phong trào

xóa bỏ định iến văn hóa liên quan đến XHTD. Cộng đồng, các tổ chức của chính phủ

hay các tổ chức chính trị - xã hội hác tham gia vào các phong trào xóa bỏ định iến văn

hóa như việc cho rằng nạn nhân của các vụ XHTD bắt nguồn từ chính hành vi thiếu

đứng đắn hay hông iên quyết của nạn nhân. Chúng ta cần xóa bỏ định iến về trinh

tiết hiến nhiều phụ nữ và trẻ em gái phải sống trong cô đơn, sợ hãi hi họ chẳng may

trở thành nạn nhân của tội XHTD.

Thứ ba, cần mở rộng diện bao phủ và nâng cao hiệu qủa hoạt động của các hình

thức TGPL.

Sự tư vấn, TGPL một cách thích hợp được cung cấp cho các nạn nhân của vụ án

có nghĩa vô cùng quan trọng trong việc ngăn chặn việc lặp lại tình trạng nạn nhân

(biến nạn nhân thành nạn nhân thêm một lần nữa) [192]. Đồng thời nếu các NNN bị

XHTD không tiếp cận được sự TGPL, họ có xu hướng bị đối xử bất công, phải chịu

những hành động trái pháp luật và bị đòi hỏi hối lộ. ặc dù có vai trò rất quan trọng

nhưng trên thực tế tỷ lệ các nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở nước ta được tiếp cận, hỗ

trợ về pháp l còn rất thấp.Số liệu điều tra trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt hó hăn do Sở

LĐTBXH tỉnh Kiên Giang thực hiện năm 201 cho thấy chỉ có 18,1% số trẻ em bị

XHTD được trợ giúp tư pháp [143]; ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội năm 2014

cho thấy trong số những người được phỏng vấn từng bị quấy rối tình dục, chỉ có 1,9%

người từng bị quấy rối tình dục tìm kiếm trợ giúp tư pháp chính thức [7].

Theo đó để nâng cao năng lực tiếp cận công l cho NNN bị XHTD, chúng ta cần

đảm bảo tính sẵn có và tính hiệu quả của các dịch vụ hỗ trợ thiết yếu dành cho nạn nhân.

Ngoài ra, chúng ta cần nâng cao năng lực cho các nhà cung cấp dịch vụ để đảm bảo các

dịch vụ hỗ trợ được dựa trên quyền, lấy nạn nhân làm trung tâm và mang tính nhạy cảm

về giới [7]. Theo đó, trong chiến lược CCTP trong giai đoạn tới, Đảng và Nhà nước cần:

xây dựng một chiến lược tư vấn và TGPL cho NNN bị XHTD; phát huy vai trò của

160

MTTQ Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, đặc biệt là Hội luật gia, Liên đoàn Luật sư,

các trung tâm đào tạo luật cung cấp các dịch vụ pháp lý miễn phí và TGPL cho NNN bị

XHTD, kết hợp với phát triển mạng lưới TGPL ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân

tộc thiểu số. Vì thế, để đáp ứng tốt nhu cầu được TGPL ngày một tăng của người dân,

hệ thống trợ giúp và tư vấn pháp lý phải được đầu tư phát triển mạnh mẽ, trong đó đẩy

mạnh xã hội hoá đối đối với hoạt động TGPL.

Kết luận chương 4

Bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là vấn đề hệ trọng trong quá trình xây dựng

NNPQ XHCN và bảo vệ QCN, đặc biệt quyền của phụ nữ và trẻ em. Hoàn thiện CCPL

bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam hiện nay không chỉ nâng cao năng

lực tiếp cận công lý cho NNN bị XHTD, mà còn góp phần vào nâng cao hiệu quả công

tác đấu tranh, phòng ngừa đối với hành vi XHTD ở nước ta hiện nay.

Để thực hiện được yêu cầu này, các ngành, các cấp cần phải thực hiện đồng bộ các

giải pháp: hoàn thiện HTPL về bảo đảm QTCCL cho NNN bị XHTD ở Việt Nam; hoàn

thiện hệ thống các thiết chế pháp lý về bảo đảm QTCCL cho NNN bị XHTD ở Việt

Nam; tăng cường các nguồn lực để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam;

nâng cao năng lực tiếp cận công lý của NNN bị XHTD ở Việt Nam. Thông qua các giải

pháp này, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các tổ chức xã hội ở Việt Nam hiện

nay đáp ứng tốt yêu cầu của PNTEG bị XHTD sử dụng pháp luật và kịp thời tiếp cận,

trình báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tìm kiếm sự khắc phục, bồi thường

thoả đáng những thiệt hại mà họ bị người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện

những hành vi xâm phạm đến quyền tự do và bất khả xâm phạm tình dục của bản thân

mình.

161

KẾT LUẬN

1. Công lý, QTCCL, CCPL, NNN bị XHTD đã được nhiều học giả trong nước và

ngoài nước quan tâm nghiên cứu ở nhiều phương diện hác nhau, trong đó chủ yếu tiếp

cận trên phương diện khoa học pháp lý. Kết quả nghiên cứu của các công trình này được

NCS tiếp thu và sử dụng trong việc xây dựng cơ sở lý luận về QTCCL của NNN bị

XHTD.

2. QTCCL là một trong những quyền cơ bản của con người, đã được pháp luật

quốc tế hiện đại ghi nhận, bảo đảm QTCCL được coi là một trong những nội dung quan

trọng trong xây dựng NNPQ hiện đại. CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là

cách thức vận hành của hệ thống pháp lý trong thực tiễn theo quy định pháp luật nhằm

đáp ứng yêu cầu của PNTEG bị XHTD tìm kiếm sự khắc phục, bồi thường thoả đáng

những thiệt hại mà họ bị người khác xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm và tự do

tình dục của bản thân mình và trừng phạt thích đáng với người XHTD. Cơ chế nào được

cấu thành bởi: thể chế pháp lý về bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; thiết chế bảo

đảm QTCCL của NNN bị XHTD; các nguồn lực đáp ứng yêu cầu vận hành CCPL bảo

đảm QTCCL của NNN bị XHTD và mối liên hệ giữa yếu tố cấu thành CCPL bảo đảm

QTCCL của NNN bị XHTD. Trên thực tế, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD

ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản đã cho Việt Nam những giá trị tham khảo quý

báu, đặc biệt là hoàn thiện thể chế pháp lý, cải cách hệ thống tư pháp, phát triển mạng

lưới tư vấn, TGPL và phát huy vai trò của các cơ quan giám sát.

3. Việt Nam trong những năm qua, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD

những năm qua đã được cải thiện đáng ể nhờ sự hoàn thiện hông ngừng thể chế pháp

lý, đồng thời và sự hoàn thiện các thiết chế nhằm thực thi pháp luật ngày một tốt hơn

trong thực tế. Các nguồn lực đảm bảo cho sự vận hành CCPL này c ng được cải thiện.

Đội ng cán bộ, công chức được đảm bảo về số lượng cơ cấu và chất lượng; các nguồn

lực hác c ng được tăng cường. Người dân ngày càng hiểu biết pháp luật tốt hơn, tích

cựcthay đổi các tập quán lạc hậu, từ đó đã giúp các NNN bị XHTD có hả năng tốt hơn

trong quá trình theo đuổi vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự.

Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD

còn những khuyết điểm nhất định, con đường TCCL của nhiều NNN bị XHTD ở nước

ta còn rất gian nan. Nhiều NNN vẫn hông dám công hai trình báo vụ việc, nhiều vụ

việc được trình báo nhưng vẫn chưa được đưa ra x t xử một cách thỏa đáng do những lỗ

hổng trong hung luật pháp, do những hạn chế trong bộ máy và cơ chế vận hành của bộ

162

máy; sự yếu m trong năng lực thực thi nhiệm vụ của đội ng cán bộ trong các thiết

chế tư pháp chính thức, thiết chế giám sát và hỗ trợ, TGPL, những hạn chế trong năng

lực TCCL của nạn nhân và gia đình nạn nhân. Tất cả những nhân tố nêu trên đã và đang

làm cản trở việc “tìm iếm sự đền bù và hắc phục thỏa đáng” cho những thiệt hại mà

NNN bị XHTD phải chịu đựng ở Việt Nam hiện nay.

4. Bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là nội dung quan trọng trong quá trình

xây dựng NNPQ XHCN và bảo vệ QCN, đặc biệt quyền của PNTEG.

Hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam hiện nay

không chỉ nâng cao năng lực TCCL cho NNN bị XHTD, mà còn góp phần vào nâng cao

hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa đối với tội phạm tình dục ở nước ta hiện nay.

Để thực hiện được yêu cầu này, các ngành, các cấp cần phải thực hiện đồng bộ các giải

pháp: hoàn thiện HTPL về bảo đảm QTCCL cho NNN bị XHTD ở Việt Nam; hoàn

thiện hệ thống các thiết chế pháp lý về bảo đảm QTCCL cho NNN bị XHTD ở Việt

Nam; tăng cường các nguồn lực để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam;

nâng cao năng lực TCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam. Thông qua các giải pháp này,

các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các tổ chức xã hội ở Việt Nam hiện nay đáp

ứng tốt yêu cầu của PNTEG bị XHTD sử dụng pháp luật và kịp thời tiếp cận, trình báo

với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tìm kiếm sự khắc phục, bồi thường thoả đáng

những thiệt hại mà họ bị XHTD; đồng thời trừng trị thích đáng người phạm tội XHTD,

qua đó đẩy lùi vấn nạn XHTD PNT G, đặc biệt là XHTD trẻ em gái hiện nay.

163

DANH MỤC CÁC C NG TRÌNH ĐÃ C NG Ố CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Dang Viet Dat (2020), “The Right of Access to Justice in Constitutions of some

Asian Countries and Lessons Learned for Vietnam”, in boo Association for Asian

Constitutional Studies and Vietnam National University, Hanoi, School of Law, 8th

Asian Constitutional Law Forum (International Conference Proceedings): ASIAN

Constitutional Law Recent Developments and Trends, Vietnam National University

Press, Hanoi, Volume, 2, pp. 398-412.

2. Dang Viet Dat (2020), “Complete the nstitutions to ensure the rights for female

victims of sexual abuse in Vietnam”, Journal of Science Hanoi Open University, No. 9,

pp.11-15.

. Dang Viet Dat (2020), “Legal mechanism in ensuring the right to access to

justice of female victims of sexual abuse: Practice and some issues raised in Vietnam”,

Journal of Science Hanoi Open University, No. 3, pp. 26-31.

4. Dang Viet Dat, Truong Ho Hai (2019), “The Relation between Openness,

Transparency and Accountability in State Governance and the Rights of Access to

Justice of Citizens in Vietnam”, in boo Vietnam National University, Hanoi, School

Law, Proceedings of the International Workshop: Openness, Transparency and

Accountability in State Governance and Anti – Corruption in the World and Vietnam,

Judicial Publishing House, Hanoi, pp. 521-547.

5. Đặng Viết Đạt, Trương Hồ Hải (2019), “Nâng cao năng lực tiếp cận công lý của

nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11, tr. 38-44.

. Đặng Viết Đạt (2019), “Hoàn thiện hung pháp l đảm bảo quyền tiếp cận công

lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam”, Tạp chí Pháp luật về Quyền con

người, số 4, tr. 80-97.

7. Đặng Viết Đạt (2018), “Quyền tiếp cận công lý và bảo đảm quyền tiếp cận công

lý ở Việt Nam”, Tạp chí Pháp luật về Quyền con người, số 3, tr. 68-75.

8. Đặng Viết Đạt, Trương Hồ Hải (2018), “Bảo vệ công lý và quyền con người

trong hoạt động xét xử ở Việt Nam hiện nay” trong Đào Trí Úc và V Công Giao, Công

lý và quyền tiếp cận công lý: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc

gia, Hà Nội, tr. 187-197.

9. Đặng Viết Đạt, Trương Hồ Hải (2018), “Chỉ số công lý: lý luận và thực tiễn ở

Việt Nam”, trong Đào Trí Úc và V Công Giao, Công lý và quyền tiếp cận công lý: Một

số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 300-315.

164

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

1. Nguyễn Thị Hoài An (2019), Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối với

việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật, Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

2. Tâm An, Phụ nữ Nhật Bản chật vật tố giác tội phạm tình dục, tại trang

https://baophapluat.vn/quoc-te/phu-nu-nhat-ban-chat-vat-to-giac-toi-pham-tinh-

duc-386413.html, [truy cập ngày 24/4/2020]

3. Nguyễn Ngọc Anh và Phan Trung Hoài (2019), Bình luật Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2015, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Nguyễn Hoàng Anh, “Pháp luật, công lý, lẽ công bằng” trong Đào Trí Úc và V

Công Giao (Đồng chủ biên) (2018), Công lý và quyền tiếp cận công lý: Một số vấn

đề lý luận, thực tiễn, NXB Hồng Đức, Hà Nội.

5. Nguyễn Quang Anh (2015), Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền

lực nhà nước ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

6. Nguyễn Thế Anh (2016), Vai trò bảo vệ công lý của Tòa án trong Hiến pháp

2013, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/1598-vai-tro-bao-ve-

cong-ly-cua-toa-an-trong-hien-phap-2013.html, [ngày 17/08/2016]

7. Astrid Bant (2018), Hội thảo “Công lý cho nạn nhân bị bạo lực”, tại trang

https://vietnam.unfpa.org/vi/news/, [truy cập 11/8/2019]

8. Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương (2014), Báo cáo tổng kết năm thực

hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược CCTP đến năm

2020, tại trang https://vbpq.toaan.gov.vn/, [truy cập ngày 20/4/2019]

9. Ban chỉ đạo tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương (2019), Kết quả tổng điều

tra dân số và nhà ở (thời điểm0h ngày 01/4/2019), NXB Thống kê, Hà Nội.

10. Nguyễn Thị Báo (2016), Bảo đảm quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, NXB

Lý luận chính trị, Hà Nội.

11. Nguyễn Mạnh Bình (2012), Hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối với

thực thi quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

12. V Ngọc Bình, “Quyền tiếp cận công lý cho phụ nữ qua công ước CEDAW” trong

Đào Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên) (2018), Công lý và quyền tiếp cận

công lý: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn, NXB Hồng Đức, Hà Nội.

165

13. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết 08 – NQ/TW về “một số nhiệm vụ trọng tâm công

tác tư pháp trong thời gian tới”, ngày 02/01/2002, Hà Nội.

14. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược CCTP đến năm

2020, ngày 02/6/2005, Hà Nội.

15. Bộ Công an, Bộ quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ NNPTNT, VKSND tối cao

(2017), Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-

V SNDTC quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc

thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, ngày 29/12/2017

16. Bộ Lao động và Thương binh xã hội, UN C (201 ), Báo cáo phân tích tình hình

trẻ em Việt Nam 201 , tại trang https://www.unicef.org/, [truy cập ngày 23/4/2019]

17. Lê Lan Chi (2019), Bảo đảm quyền của nạn nhân tội phạm và một số nhóm yếu

thế trong tư pháp hình sự từ quy định của pháp luật đến hoạt động của người hành

nghề luật, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.

18. Nguyễn Ngọc Chí, “Công lý và tiếp cận công lý trong tố tụng hình sự” trong Đào

Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên) (2018), Công lý và quyền tiếp cận công

lý: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn, NXB Hồng Đức, Hà Nội.

19. Ngô Quốc Chiến (201 ), “Quyền tiếp cận công lý của công dân và nghĩa vụ xét xử

của tòa án”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3.

20. Chính phủ (2013), Nghị định số 1 7/201 /NĐ-CP của Chính phủ về Quy định xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng,

chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình,

ngày 12/11/2013.

21. Phí Thành Chung (2018), “Nhiệm vụ bảo vệ công lý và trách nhiệm chứng minh

của toà án trong hoạt động tố tụng”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2.

22. Dân số, tại trang https://danso.org, [truy cập ngày 12/4/2020]

23. Nguyễn Đăng Dung và Đặng Phương Hải (2015), “Toàn án thực hiện quyền tư

pháp, bảo vệ công l , bảo vệ quyền con người, quyền công dân”, Tạp chí Lý luận

chính trị, số 2.

24. Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên) (2014), Viện kiểm sát nhân dân trong nhà nước

pháp quyền, NXB Tư pháp, Hà Nội.

25. Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên) (2020), Hệ thống Toà án Việt Nam trong điều kiện

xây dựng Nhà nước pháp quyền, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

26. Nguyễn Đăng Dung, V Công Giao, Lã Khánh Tùng (2009), Giáo trình lý luận và

pháp luật về quyền con người, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

166

27. Nguyễn Đăng Dung (2015), “Quyền con người và bảo vệ, bảo đảm thực hiện

quyền con người theo Hiến pháp năm 201 ”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 11.

28. Nguyễn Chí D ng (2009), Cơ chế pháp lý giám sát hoạt động tư pháp ở Việt Nam,

Luận án tiến sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

29. Nguyễn Chí D ng và cộng sự (2014), Lệch chuẩn xã hội và tội phạm: Một số vấn

đề lý luận và thực tiễn, NXB Thanh Niên.

30. Lưu Tiến D ng (2012), Độc lập xét xử trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam,

NXB Tư pháp, Hà Nội.

31. Trần Thái Dương (201 ), “Quyền tiếp cận công lý và quyền được trợ giúp pháp lý

của người khuyết tật ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 10.

32. Trần Thái Dương, “Bảo đảm quyền tiếp cận công lý của người huyết tật ở Việt

Nam hiện nay: lý luận, pháp luật và thực tiễn” trong Đào Trí Úc và V Công Giao

(Đồng chủ biên) (2018), Công lý và quyền tiếp cận công lý: Một số vấn đề lý luận,

thực tiễn, NXB Hồng Đức.

33. Đại học kiểm sát Hà Nội, Xâm hại tình dục trẻ em - Dưới góc nhìn từ hoạt động du

lịch tại Việt Nam, tại trang https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/80/811,

[truy cập ngày 16/4/2018]

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (201 ), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức

XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Bùi Tiến Đạt, “Công l thủ tục: Lý luận, kinh nghiệm quốc tế và pháp luật Việt

Nam”, trong Đào Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên) (2018), Công lý và

quyền tiếp cận công lý: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn, NXB Hồng Đức, Hà Nội.

36. Nguyễn inh Đoan (2011), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Nguyễn inh Đoan (Chủ biên) (2016), Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà

nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

38. Nguyễn inh Đoan (Chủ biên) (2018), Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà

nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Lê inh Đức (2020), Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của Luất sư trong

hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính

trị quốc gia, Hà Nội

40. Trần Ngọc Đường (2015), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện cơ

chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành

167

pháp và tư pháp ở nước ta, Báo cáo khoa học Đề tài khoa học cấp Bộ, Văn phòng

Quốc hội.

41. Eileen Skinnider, Ruth Montgomery, Stephanie Garrett (2017), Xét xử tội hiếp

dâm: Hiểu cách ứng phó của hệ thống tư pháp hình sự đối với bạo lực tình dục ở

Thái Lan và Việt Nam (Ngô Thu Hương dịch), UN Women, UNDP, UNODC,

UNi.

42. V Công Giao, “Các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trên thế giới và việc áp

dụng ở Việt Nam” trong Đặng Minh Tuấn, V Công Giao, Đoàn Đức Lượng, Lê

Thị Nga (Đồng chủ biên) (2019), Các cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà

nước trên thế giới và ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. V Cộng Giao, “Quyền tiếp cận công lý và vai trò của toà án trong việc bảo đảm

quyền này”, trong Đào Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên) (2018), Công lý

và quyền tiếp cận công lý: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn, NXB Hồng Đức, Hà

Nội.

44. V Công Giao - Ngô inh Hương (201 ), Tiếp cận dựa trên quyền con người: Lý

luận và thực tiễn, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

45. V Công Giao (2009), “Tiếp cận công lý và các nguyên lý của nhà nước pháp

quyền”, Tạp chí Khoa học Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 25.

46. V Công Giao và Nguyễn inh Tâm (2015), “Quyền công dân và cơ chế bảo vệ

quyền công dân theo Hiến pháp năm 201 ”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11.

47. Đinh Bích Hà (2007), Bộ luật Hình sự nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, NXB

Tư pháp.

48. Nguyễn Thị inh Hà, “Tiếp cận công lý trong tố tụng hành chính” trong Đào Trí

Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên) (2018), Công lý và quyền tiếp cận công lý:

Một số vấn đề lý luận, thực tiễn, NXB Hồng Đức, Hà Nội.

49. Lê Thu Hà (2015), “Tăng cường hả năng tiếp cận công lý cho người dân từ việc

mở thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự của tòa án trong Bộ luật tố tụng dân sự”,

Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4.

50. Nguyễn Hà, Phạm Dung, Phụ nữ, trẻ em bị xâm hại: Im lặng không làm sự việc

qua đi, tại trang https://laodong.vn/lao-dong-doi-song/phu-nu-tre-em-bi-xam-hai-

im-lang-khong-lam-su-viec-qua-di-611418.ldo, [truy cập ngày 11/06/2018]

51. Trương Thị Hồng Hà (2009), “Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng

giám sát của Quốc hội, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

168

52. Trương Thị Hồng Hà (2007), “Xây dựng cơ chế pháp lý đảm bảo cho nhân dân

tham gia hoạt động giám sát và phản biện xã hội”, Tạp chí Cộng sản, số tháng 8,

năm 2007, tr.56-61.

53. Nguyễn Thị Thu Hà (2017), Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người, quyền

công dân trong giải quyết vụ án dân sự tại toà án nhân dân, NXB Lao động, Hà

Nội.

54. Phan Thanh Hà (2016), Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, Luận án

tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

55. Phan Thanh Hà (2017), “ ột số vấn đề cơ chế pháp lý bảo hộ công dân trong

nước ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số tháng 8 ( 52), năm 2017,

tr. 9-15.

56. Trương Hồ Hải (2020), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học

nghiên cứu tổng kết lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và bổ sung,

phát triển vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới, KX.02.11/16-20, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội

57. Phạm Hồng Hải (2009), “Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam”, Pháp lý, số 6.

58. Thu Hằng, Phát huy vai tr của luật sư trong công cuộc cải cách tư pháp, tại trang

http://dangcongsan.vn/thoi-su/phat-huy-vai-tro-cua-luat-su-trong-cong-cuoc-cai-

cach-tu-phap-538822.html, [truy cập ngày 21/3/2020]

59. Trần Thị Thu Hằng (2019), Địa vị pháp lý của Hội thẩm ở Việt Nam hiện nay,

Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

60. Chu Thị Thuý Hằng (2018), Cơ chế pháp lý giám sát thực hiện các quy định của

hiến pháp về bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

61. Bạch Hiền, Bắt giữ nghi phạm cuối cùng trong vụ “ph ng chat thứ N” gây rúng

động dư luận Hàn Quốc, tại trang https://www.doisongphapluat.com/tin-the-

gioi/bat-giu-nghi-pham-cuoi-cung-trong-vu-phong-chat-thu-n-gay-rung-dong-du-

luan-han-quoc-a323053.html, [truy cập ngày 27/5/2020]

62. Trần Quang Hiển (2013), Cơ chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh chấp hành

chính ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

63. Phan Chí Hiếu và Nguyễn Văn Cương (Đồng chủ biên) (2019), Cách mạng công

nghiệp lần thứ tư và những vấn đề pháp lý đặt ra, NXB Tư pháp, Hà Nội.

64. Nguyễn Thị Hiếu, Xâm hại tình dục xuất hiện ngày càng nhiều: nguyên nhân do

đâu? phần 3: nỗi ám ảnh kéo dài, tại trang http://isee.org.vn/xam-hai-tinh-duc-

169

xuat-hien-ngay-cang-nhieu-nguyen-nhan-do-dau-phan-3-noi-am-anh-keo-dai/,

[truy cập ngày 12/5/2019]

65. Đặng Thị Hoa (2020), Bạo lực gia đình ở Việt Nam: Thực trạng và các yếu tố tác

động, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

66. Tô Văn Hoà (2007), Tính độc lập của Toà án: nghiên cứu pháp lý về các khía

cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị đối với Việt

Nam, NXB Lao động, Hà Nội.

67. Nguyễn Quốc Hoàn (2001), Cơ chế điều chỉnh pháp luật, Luận án Tiến sĩ Luật

học, Đại học Luật Hà Nội.

68. Dương Hoán (2019), Cơ chế pháp lý bảo đảm pháp chế trong hoạt động hành

chính nhà nước , Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.

69. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Cao cấp lý luận

chính trị (Khối kiến thức thứ tư), tập 14, Các chuyên đề bổ trợ , NXB Lý luận

chính trị, Hà Nội.

70. Trần Thị Hoè (2015), Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người trong

điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh.

71. Hội đồng thẩm phán TAND tối cao (2019), Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP

hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều 141,142,143,144,145, 146, 147

của BLHS và việc xét xử vụ án XHTD người dưới 18 tuổi, ngày 01/10/2019

72. Hội Luật gia Việt Nam, CECODES, UNDP (2013), Chỉ số công lý - Thực trạng về

Công bằng và Bình đẳng dựa trên ý kiến của người dân năm 2012, Hà Nội.

73. Hội Luật gia Việt Nam, CECODES, UNDP (2016), Chỉ số công lý 2015 – Hướng

tới một nền tư pháp vì dân, Hà Nội.

74. Hoàng Minh Hội (201 ), “Cơ chế pháp lý về giám sát của nhân dân đối với cơ

quan hành chính ở Việt Nam hiện nay – thực trạng và giải pháp”, Tạp chí khoa học

pháp lý, số 7.

75. Hoàng Minh Hội (2019), “Cơ chế pháp lý kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà

nước đối với chính quyền địa phương: Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí nghiên

cứu lập pháp, số 11.

76. Ng Quang Hồng (2011), Nghiên cứu so sánh về điều tra trong Luật tố tụng hình

sự của Trung Quốc và Việt Nam, NXB. Tư pháp, Hà Nội.

77. Trương Việt Hùng, Việt Nam tăng cường tiếp cận tư pháp cho người chưa thành

niên, tại trang https://www.unicef.org/vietnam/vi, [truy cập ngày 22/3/2020]

170

78. Đinh Thế Hưng, “Thực hiện quyền tư pháp nhằm bảo đảm quyền tiếp cận công lý

trong nhà nước pháp quyền” trong Đào Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên)

(2018), Công lý và quyền tiếp cận công lý: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn, NXB

Hồng Đức, Hà Nội.

79. Nguyễn Quang Hưng (2013), “ p dụng mô hình “ ột cửa” trong cải cách thủ tục

hành chính tại tòa án để nâng cao hả năng tiếp cận công l ”, Tạp chí Dân chủ và

Pháp luật, số chuyên đề CCTP và pháp luật.

80. Nguyễn Hưng, Phanh phui hàng triệu trẻ bị lạm dụng tình dục ở Trung Quốc, tại

trang http://baovanhoa.vn/the-gioi/artmid/425/articleid/19389/phanh-phui-hang-

trieu-tre-bi-lam-dung-tinh-duc-o-trung-quoc, [truy cập ngày 14/06/2019]

81. Phan Thị Lan Hương (201 ), “Khắc phục rào cản nhằm bảo đảm tiếp cận công lí

cho phụ nữ bị bạo lực tình dục ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 9.

82. Phan Thị Lan Hương (2020), Bảo đảm quyền của nhóm yếu thế khoảng trống

pháp lý và khuyến nghị cho Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

83. Nguyễn Tuấn Khanh (2014), Cơ chế pháp lý bảo đảm thực hiện quyền khiếu nại

hành chính của công dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

84. Nguyễn Văn Khoa (2017), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ

cán bộ tư pháp trong tiến trình CCTP, NXB Tư pháp, Hà Nội.

85. Khoa Luật Dân sự Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2017), Hội thảo khoa

học quyền tiếp cận công lý trong pháp luật dân sự, thành phố Hồ Chí Minh.

86. Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người (Tập hợp những

bình luận/khuyến nghị chung của các uỷ ban công ước của Liên hợp quốc), NXB

Công an nhân dân, Hà Nội.

87. Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người (Tập hợp những

chuyên đề của Liên hợp quốc), NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

88. Nguyễn Việt Khoa (2020), Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam

hiện nay, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

89. Hoàng Thị Kim Khuyên (2019), Pháp luật về bảo trợ xã hội ở Việt Nam: Những

vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Tư pháp, Hà Nội.

90. Kiểm sát Online (2017), Những quốc gia nào đã áp dụng "thiến hóa học" tội phạm

ấu dâm?, tại trang https://conglyxahoi.net.vn/tu-lieu/nhung-quoc-gia-nao-da-ap-

dung-thien-hoa-hoc-toi-pham-au-dam-1216.html, [truy cập ngày 17/2/2019]

91. Kiểm sát Online (2019), Một số kinh nghiệm giải quyết các vụ án xâm hại tình dục

đối với trẻ em, tại trang https://kiemsat.vn/mot-so-kinh-nghiem-giai-quyet-cac-vu-

an-xam-hai-tinh-duc-doi-voi-tre-em-52247.html, [truy cập ngày 22/4/2020]

171

92. Lê Trung Kiên (2018), Hệ thống hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam và Trung

Quốc, NXB Tư pháp, Hà Nội.

93. Hồng Kiều, Th y Giang khoảng trống trong xử lý xâm hại tình dục trẻ em, tại

trang https://baocantho.com.vn/khoang-trong-trong-xu-ly-xam-hai-tinh-duc-tre-

em-a110725.html, [truy cập ngày 12/2/2020]

94. Đào Hồng Lan, Tăng cường phòng ngừa và giảm thiểu tình trạng trẻ em bị xâm

hại tình dục, tại trang http://www.molisa.gov.vn/, [truy cập ngày 11/3/2002]

95. Hoàng Thế Liên và các cộng sự, (2011), Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hệ

thống tư pháp của năm quốc gia, Trung Quốc, n-do-ne-xia, Nhật Bản, Hàn Quốc

và Nga, NXB Tư pháp.

96. Nguyễn Thị Ngọc Linh (2019), Các tội xâm phạm tình dục trong luật hình sự Việt

Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội.

97. Liên Hợp quốc (1989), Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 19 9, tại

trang https://thuvienphapluat.vn/van-ban/linh-vuc-khac/Cong-uoc-cua-Lien-hop-

quoc-ve-quyen-tre-em-233659.aspx, [truy cập ngày 23/6/2018]

98. Trần Quý Long (2019), Những nghiên cứu xã hội học về trẻ em Việt Nam, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

99. Nguyễn Đình Lục, Sau ba năm thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, tại trang

https://moj.gov.vn/tctccl, [truy cập ngày 22/5/2019]

100. Tạ Thị Minh Lý, “Vai trò của hoạt động luật sự và trợ giúp pháp lý trong việc tăng

cường tiếp cận pháp luật và tiếp cận công lý cho nhóm công dân nghèo và yếu thế”

trong Đào Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên) (2018), Công lý và quyền tiếp

cận công lý: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn, NXB Hồng Đức, Hà Nội.

101. Tạ Thị Minh Lý (2013), Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam

trong điều kiện đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

102. Dương Tuyết Miên (1998), “Về các tội phạm tình dục trong luật hình sự Việt

Nam”, Tạp chí Luật học, số 3, tr. 44 – 49.

103. Dương Tuyết Miên (2005), “Những hậu quả về tâm l đối với nạn nhân của tội

hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em và giải pháp khắc phục”, Đặc san về bình đẳng giới, tr.

35-40.

104. Dương Tuyết Miên (2019), Tội phạm học đương đại (tái bản lần thứ nhất), NXB

Tư pháp, Hà Nội.

105. Nguyễn Hữu Minh (2016), Phương pháp nghiên cứu xã hội học, NXB hoa học

xã hội, Hà Nội

172

106. Quang Minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an giao ban công tác 9 tháng

đầu năm 2019, tại trang http://bocongan.gov.vn, [truy cập trang 22/3/2020]

107. Trần Văn Nam (2017), Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình hình thành, phát

triển và đổi mới theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam, NXB Trẻ, thành phố Hồ Chí

Minh.

108. Chu Thị Ngọc (2017), “Bảo đảm quyền tiếp cận công lý - một yêu cầu trong việc

bảo đảm quyền con người của tòa án”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà

Nội: Luật học, Tập 33, số 1.

109. Hoàng Thị Bích Ngọc, V Cộng Giao, “Tiếp cận công lý theo quan điểm của Liên

hiệp quốc”, trong Đào Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên) (2018), Công lý

và quyền tiếp cận công lý: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn, NXB Hồng Đức, Hà

Nội.

110. Trần Thảo Nguyên (2006), Triết học kinh tế trong Lí thuyết về công lý của Nhà

triết học Mĩ - John Rawls, NXB Thế giới, Hà Nội.

111. Tiến Nguyên, Hà Nội: Kẻ hiếp dâm bé gái 10 tuổi ở Chương Mỹ chấp nhận án

chung thân, tại trang https://dantri.com.vn/phap-luat, [truy cập ngày 22/3/2020]

112. Nguyễn Hải Ninh (2017), “Nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự - nền tảng cho

việc bảo vệ công lý của toà án khi thực hiện quyền tư pháp”, Tạp chí Nghiên cứu

Lập pháp, số 4.

113. Nguyễn Minh Phương và V Thị Thu Hằng, “Quyền tiếp cận công lý trong hoạt

động công vụ Việt Nam” trong Đào Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên)

(2018), Công lý và quyền tiếp cận công lý: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn, NXB

Hồng Đức, Hà Nội.

114. Nguyễn Thị Pha, Trợ giúp pháp lý ở Hàn Quốc, tại trang https://trogiupphaply.gov.vn,

[truy cập ngày 15/4/2020]

115. Nguyên Phạm, Hàn Quốc: “thiến hóa học” kẻ cưỡng hiếp trẻ em, tại trang

https://tuoitre.vn, [truy cập ngày 20/7/2019]

116. Hoàng Phê (Chủ biên) (1994), Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

117. Hoàng Phê (Chủ biên) (2007), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

118. Nguyễn Huy Phượng (2013), Giám sát xã hội đối với hoạt động của các cơ quan

tư pháp theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

NXB Tư pháp, Hà Nội.

119. Plato – Xenophon (2006), Socrates tự biện (Nguyễn Văn hoa dịch và chú thích),

NXB Tri Thức, Hà Nội.

173

120. Trần Thế Quân (2019), “Phương hướng hoàn thiện chế độ bổ trợ tư pháp giai đoạn

sau năm 2020”, Ban Chỉ đạo Đề án tổng kết Nghị quyết số 49-NƯ/TW, Kỷ yếu hội

thảo khoa học Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ

Chính trị ( hoá X); phương hướng nhiệm vụ CCTP giai đoạn sau năm 2020, Hà

Nội.

121. Đinh Văn Quế (2018), Chuyện pháp đình (Bình luận án), NXB Thông tin và

truyền thông, Hà Nội.

122. Hoàng Thị Kim Quế, “Công bằng, bình đẳng, công l , nhân đạo, đạo đức, pháp

luật và quyền con người – Sự phân định tương đối và mối quan hệ tất yếu”, trong

Đào Trí Úc và V Công Giao (2018), Công lý và quyền tiếp cận công lý, NXB

Hồng Đức, Hà Nội.

123. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

124. Quốc hội (2006), Luật Bình đẳng giới năm 2006, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

125. Quốc hội (2006), Luật Trợ giúp pháp lý năm 200 , NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

126. Quốc hội (2007), Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007, NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

127. Quốc hội (2012), Bộ luật Lao động năm 2012, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

128. Quốc hội (2014), Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 201 ,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

129. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014, NXB Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

130. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

131. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

132. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

133. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

134. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

135. Quốc hội (2016), Luật Trẻ em năm 201 , NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

136. Quốc hội (2016), Luật Điều ước quốc tế năm 201 , NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

174

137. Quốc hội (2017), Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

138. Quốc hội (2017), Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

139. Quốc hội (2019), Bộ luật Lao động năm 2019, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

140. Lương Xuân Quỳ (Chủ biên) (1996), Cơ chế thị trường và vai trò của nhà nước

trong nền kinh tế thị trường Việt Nam, NXBThống kê.

141. Tào Thị Quyên (2012), Cơ chế bảo vệ hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Lý luận chính trị - Hành chính, Hà Nội.

142. Nguyễn Văn Quyền và Nguyễn Tất Viễn (Đồng chủ biên) (2018), Quyền tư pháp

trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội.

143. Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Kiên Giang (2017), Báo cáo số liệu điều

tra trẻ em có hoàn cảnh đặc bệt khó khăn năm 201 , số 181/BC-SLĐTBXH ngày

12/1/2017.

144. Tạp chí Toà án điện tử, Tọa đàm về Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy

định của BLHS năm 2015 về các tội xâm hại tình dục, tại trang

https://tapchitoaan.vn, [truy cập ngày 15/3/2020]

145. Lê Minh Tâm (2014) “Hệ thống pháp luật Việt Nam trước yêu cầu xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, trong sách Nguyễn Văn Hiển (Chủ biên), Bàn

về hệ thống pháp luật, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

146. Phan Nhật Thanh, “Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người ở Việt

Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6.

147. Chu Hồng Thanh (2012), “Hiến pháp với việc xác lập, bảo đảm quyền con người

và quyền công dân”, Tạp chí Luật học, số 1, tr. 36-39.

148. Nguyễn Tiến Thành (2016), Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở

Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hà Nội.

149. Trịnh Đức Thảo (2017), Giải pháp đột phá xác định cơ chế phân công, phối hợp

và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,

hành pháp và tư pháp ở nước ta hiện nay, Báo cáo khoa học Đề tài khoa học cấp

Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

150. Nguyễn Bích Thảo, “Công lý và tiếp cận công lý trong tố tụng dân sự” trong Đào

Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên) (2018), Công lý và quyền tiếp cận công

lý: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn, NXB Hồng Đức, Hà Nội.

151. Trần Quyết Thắng (2016), “Công lý theo ết quả công lý theo thủ tục và liên hệ

với nền tư pháp Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4/2016.

175

152. Lê Thoa, Hàn Quốc sẽ thiến nhiều loại tội phạm tình dục, tại trang https://nld.com.vn,

[truy cập ngày 12/4/2019]

153. Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 18/CT-TTg về việc tăng cường giải pháp phòng,

chống bạo lực, xâm hại trẻ em, ngày 16/5/2017

154. Lê Thị Thục, Lê Thúy Hằng, Nguyễn Thị Thanh Hải, Chu Thị Thị Thúy Hằng

(2015), Tiếp cận công lý trong hệ thống pháp lý đa kênh: Nghiên cứu điển hình về

bạo lực gia định đối với phụ nữ ở Việt Nam, NXB Lao động, Hà Nội.

155. Anh Thư, Các nước phạt tội phạm ấu dâm, dâm ô nghiêm khắc ra sao?, tại trang

https://tuoitre.vn, [truy cập ngày 3/4/2019]

156. Hoàng Thư (2017), Bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân bị bạo lực giới,

tại trang http://baophapluat.vn, [truy cập ngày 16/9/2017].

157. Trần Văn Thưởng, (2018), Các tội xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn miền

Đông Nam Bộ, tình hình nguyên nhân và giải pháp ph ng ngừa, Luận án tiến sỹ

luật học, Học viện hoa học xã hội, Hà Nội.

158. Tòa án nhân dân Tối cao (1967), Bản tổng kết số 329/HS2 ngày 11/5/1967, Hà

Nội.

159. Tòa án nhân dân Tối cao (1995), Công văn số 73/TK ngày 02/3/1995 về việc

đường lối xét xử về loại tội phạm tình dục trẻ em, Hà Nội.

160. Tòa án nhân dân tối cao (2010), Quyền con người trong thi hành công lý, NXB

Lao động - xã hội, Hà Nội.

161. Tòa án nhân dân Tối cao (2010), Báo cáo thực tiễn công tác xét xử các vụ án xâm

hại tình dục đối với phụ nữ và trẻ em tại Tòa án các cấp giai đoạn 2006-2010, số

237/BC-TA, ngày 26/12/2010, Hà Nội.

162. Tòa án nhân dân Tối cao (2014), Báo cáo thực tiễn công tác xét xử các vụ án xâm

hại tình dục đối với phụ nữ và trẻ em tại Tòa án các cấp giai đoạn 2011-2014, số

376/BC-TA, ngày 23/12/2014, Hà Nội.

163. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Báo cáo thuyết minh về đề nghị điều chỉnh, bổ

sung Thẩm phán sơ cấp cho Tòa án nhân dân huyện, quận, thi xã, thành phố

thuộc tỉnh và tương đương, số 423/BC-CA ngày 18 tháng 7 năm 2018, Hà Nội.

164. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC quy định chi

tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi

thuộc thẩm quyền của t a gia đình và người chưa thành niên, ngày 21/9/2018, Hà

Nội.

176

165. Toà án nhân dân tối cao (2018), Báo cáo tổng kết công tác năm 201 và nhiệm vụ

trọng tâm công tác năm 2019 của các toà án, số 368/BC-TA, ngày 23/12/2018,

Hà Nội.

166. Toà án nhân dân tối cao (2019), Báo cáo tóm tắt công tác tòa án từ đầu nhiệm kỳ

đến nay và năm 201 và nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới, ngày 14/1/2019, Hà

Nội.

167. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả

phòng, chống tội phạm về xâm hại tình dục đối với phụ nữ và trẻ em gái, tại trang

http://hvta.toaan.gov.vn/, [truy cập ngày 20/7/2019]

168. Toà án nhân dân tối cao (2019), Báo cáo tổng hợp những hạn chế, thiết sót trong

công tác chuyên môn nghiệp vụ năm 201 của các toà án thông qua công tác kiểm

tra, số 15/BC-TA ngày 15/3/2019, Hà Nội.

169. Tòa án nhân dân Tối cao (2019), Báo cáo thực tiễn công tác xét xử các vụ án xâm

hại tình dục đối với phụ nữ và trẻ em tại Tòa án các cấp giai đoạn 2014-2019, số

411/BC-TA ngày 25/12/2019, Hà Nội.

170. Toà án nhân dân tối cao (2020), Báo cáo tổng kết công tác năm 2019 và nhiệm vụ

trọng tâm công tác năm 2020 của các toà án, số 01/BC-TA, ngày 09/1/2020, Hà

Nội.

171. Tổng Cục thống kê (2020), Niên giám thống kê năm 2019, NXB Thống kê, Hà

Nội.

172. Nguyễn Trà, Con bị dâm ô, mẹ suốt đêm tìm nơi giám định, tại trang

https://plo.vn/an-ninh-trat-tu, [truy cập ngày 21/4/2019]

173. Ngô Ngọc Trai (2019), Hành trình minh oan cho tử t Hàn Đức Long, NXB Hội

nhà văn, Hà Nội

174. Uyên Trinh, Bị cáo dâm ô khiến nữ sinh lớp 5 tự tử lãnh 7 năm t , tại trang

https://tuoitre.vn, [ngày 20/3/2020]

175. Thanh Trịnh, Sơ lược một số nội dung về Trợ giúp pháp lý trên thế giới, tại trang

https://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/so-luoc-mot-so-noi-dung-ve-tro-

giup-phap-ly-tren-the-gioi, [truy cập ngày 23/8/2019]

176. Trần Nguyên Tú (2020), Trợ giúp pháp lý cho trẻ em bị xâm hại, thực trạng và

kiến nghị, tại trang https://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/tro-giup-

phap-ly-cho-tre-em-bi-xam-hai-thuc-trang-va-kien-nghi, [truy cập ngày

24/5/2020]

177. Nguyễn Văn Tuân (2019), Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam: thực trạng và định hướng

phát triển, NXB. Lao động, Hà Nội.

177

178. Nguyễn Văn Tuân (2018), Quyền bào chữa và vai trò của luật sư trong tố tụng

hình sự, NXB Dân trí, Hà Nội.

179. Nguyễn Xuân Tùng (2012), Về khái niệm “công lý” trong chiến lược CCTP đến

năm 2020 tại Việt Nam, tại trang http://www.sotuphap.hochiminhcity.gov.vn, [truy

cập ngày 12/10/2012]

180. Nguyễn Xuân Tùng (2013), Công lý được xác định là giá trị căn bản trong hiến

pháp nhiều quốc gia trên thế giới, tại trang http://moj.gov.vn/qt/tintuc, [truy cập

ngày 16/12/2013]

181. Nguyễn Xuân Tùng (2013), “Về khái niệm “công l ” trong Dự thảo sửa đổi Hiến

pháp năm 1992”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 11.

182. Nguyễn Xuân Tùng (2014), “Tòa án nhân dân và nhiệm vụ “bảo vệ công l ””, Tạp

chí Tổ chức nhà nước, số 12.

183. Nguyễn Xuân Tùng (201 ), “Công l là một giá trị căn bản chế độ xã hội ta cần

hướng tới và bảo vệ”, Tạp chí Tổ Chức nhà nước, số 3.

184. Nguyễn Minh Tuấn (2004), “Khi pháp luật là hiện thân của công l ”, Tạp chí Tia

sáng, số 11/2014.

185. Nguyễn Thanh Tuấn (2015), Bảo đảm công lý trong thể chế pháp quyền, tại trang

http://www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập ngày 20/03/2015]

186. Phạm Quý Tỵ (2019), “Phương hướng, nhiệm vụ, xây dựng, hoàn thiện chế độ bổ

trợ tư pháp giai đoạn sau năm 2020”, Ban Chỉ đạo Đề án tổng kết Nghị quyết số

49-NƯ/TW, Kỷ yếu hội thảo khoa học Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết số

49-NQ/TW của Bộ Chính trị ( hoá X); phương hướng nhiệm vụ CCTP giai đoạn

sau năm 2020, Hà Nội.

187. Đào Trí Úc (2017), “Vị trí, vai trò của tòa án trước yêu cầu xây dựng và hoàn thiện

Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản: chuyên đề cơ sở, số 129.

188. Đào Trí Úc, “Bản chất, đặc điểm và các nguyên tắc chủ đạo của quyền tư pháp”

trong Đào Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên) (2014), CCTP vì một nền tư

pháp liêm chính, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

189. Đào Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên) (2014), CCTP vì một nền tư pháp

liêm chính, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

190. Đào Trí Úc và Võ Khánh Vinh (Đồng chủ biên) (2003), Giám sát và cơ chế giám

sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, NXB Công an Nhân

dân, Hà Nội.

191. UNIFEM (2009), Tuyển chọn các khuyến nghị chung của CEDAW, tại trang

http://nhanquyen.vn, [truy cập ngày 11/5/2019]

178

192. UNODC và UNDP (2014), Tiếp cận sớm trợ giúp pháp lý trong các quá trình tố

tụng hình sự: Sổ tay cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà thực tiễn, tại

trang https://www.unodc.org/documents/, [truy cập ngày 12/3/2019]

193. UNODC và UN WOMEN, (2013), Đánh giá tình hình phụ nữ trong hệ thống tư

pháp hình sự Việt Nam, tại trang https://www.unodc.org/documents/, [truy cập

ngày 15/1/2020]

194. Nguyễn Thị Tố Uyên (2017), Cơ chế pháp lý về sự tham gia của các tổ chức xã

hội trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

195. Văn phòng ban chỉ đạo CCTP Trung ương, “Báo cáo tình hình triển hai thực hiện

Chiến lược CCTP thời gian qua, đề xuất mục tiêu, quan điểm, phương hướng và

nhiệm vụ CCTP giai đoạn sau năm 2020” trong Ban Chỉ đạo Đề án tổng ết Nghị

quyết số 49-NƯ/TW, ỷ yếu hội thảo khoa học Đánh giá tình hình thực hiện Nghị

quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ( hoá X); phương hướng nhiệm vụ CCTP

giai đoạn sau năm 2020, Hà Nội, ngày 1 /10/201.

196. Trịnh Tiến Việt (Chủ biên), Lý thuyết kiểm soát xã hội đối với tội phạm và ứng

dụng ở Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội.

197. Võ Khánh Vinh (2005), “Các giải pháp và cơ chế pháp lý trực tiếp đấu tranh

phòng ngừa và chống tham nh ng”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 20, tr. 2-4.

198. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2009), Cơ chế giám sát Hiến pháp với việc bảo đảm

quyền con người, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

199. Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2019), Hội thảo khoa học: Tiếp tục đổi

mới tư duy pháp lý phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước, Hà Nội.

200. Viện Khoa học Pháp lý – Bộ Tư pháp (200 ), Từ điển Luật học, NXB Từ điển

Bách hoa và NXB Tư pháp.

201. Viện Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ

Chí Minh (2005), Tài liệu tham khảo Luật Quốc tế về quyền con người, NXB Lý

luận chính trị, Hà Nội

202. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018), Thực hiện tinh giản biên chế trong ngành

kiểm sát nhân dân từ năm 201 -2021, số 111/KH-VKSTC ngày 19 tháng 09 năm

2018

203. Kiều Anh V , (2019), Dự thảo hướng dẫn xử lý các tội về tình dục: Thiếu và chưa

rõ!, tại trang https://tuoitre.vn, [truy cập ngày 14/ /2020]

204. Trịnh Thị Xuyến (Chủ biên) (2014), Cơ chế tham gia của người dân trong phòng,

chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

179

205. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa - thông

tin, Hà Nội.

206. Bảo Yến, Cần hoàn thiện các quy định của pháp luật trong hoạt động tố tụng

nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh ph ng, chống tội phạm xâm hại tình dục trẻ

em, tại trang http://quochoi.vn, [truy cập ngày 12/4/2019]

207. Mai Thảo Yên, Trước vấn nạn xâm hại tình dục: Những định kiến tai hại, tại trang

https://cuoituan.tuoitre.vn, [truy cập ngày 13/04/2019]

II. Tài liệu tiếng nước ngoài

208. Abraham H.Maslow (1954), Motivation and Personality, Published by Harper &

Row Publishers. Inc.

209. Amartya Sen (2009), The Idea of Justice, Harvard University Press.

210. Bryant G.Garth and Mauro Cappelletti (1978), Access to Justice: The Newest

Wave in the Worldwide Movement to Make Rights Effective, Articles by Maurer

Faculty, https://www.repository.law.indiana.edu, [truy cập ngày 24/3/2020]

211. Bryan Strong, Chiristime De Vault, Barbara W.Sayad, Wiliam L.Yarber (2005),

Human Sexuallity, Published by Diversity in Contemporary America.

212. Cambridge Dictionary, tại trang https://dictionary.cambridge.org, [truy cập ngày

12/9/2019]

213. Charles E.F. Rickett and Thomas G.W. Telfer (2003), International Perspectives

on Consumers’ Access to Justice, Cambrigde University Press.

214. Charles W. Eliot (1901), Blaise Pascal Thoughts (translated by W. F. Trotter, M.

L. Booth and O. W, Wight), Published by P. F. Collier & Son Corporation, New

York.

215. China (People’s Republic of)'s Constitution of 1982 with Amendments through

1998, 1999, 2004, 2018, tại trang constituteproject.org, [truy cập ngày 11/102019]

216. Committee on the Elimination of Discrimination against Women (2015), General

recommendation on women’s access to justice, tại trang

https://tbinternet.ohchr.org/Treaties/CEDAW, [truy cập ngày 14/3/2019]

217. David Johnston (2011), A brief History of Justice, Published by John Wiley &

Sons Ltd.

218. Deborah L. Rhode (2004), Access to Justice, Oxford University Press

219. Dictionnaire Larousse (1964), Éditions Larousse.

220. Donna Vandiver, Jermy Braithwaite, Mark Stafford, (2017), Sex Crimes and sex

Offenders research and realities, Published by Routledge, New York.

180

221. Evalyn G. Ursua (2014), Access to Justice for Women in Plural Legal Systems in

South East Asia, tại trang https://www.aidsdatahub.org, [truy cập ngày

11/10/2018].

222. Francesco Francioni (2007), Access to Justice as a Human Right, Oxford

University Press.

223. Gabriela Bernal, South Korea Telegram Case & Gaps in the Legal System, tại

trang http://novasiagsis.com, [truy cập ngày 8/4/2020]

224. Grace Yang , China Sexual Harassment Protections and Employer Obligations, tại

trang https://www.chinalawblog.com, [truy cập ngày 15/11/2018]

225. Ineke van de Meene and Benjamin van Rooij (2008), Access to Justice and Legal

Empowerment - Making the Poor Central in Legal Development Co-operation,

Leiden University Press.

226. International Covenant on Civil and Political Rights 1966, tại trang

https://treaties.un.org/doc/publication/unts/volume%20999/volume-999-i-14668-

english.pdf, [truy cập ngày 01/10/2019]

227. James Bernard Murphy (2005), The Philosophy of Positive Law: Foundations of

Jurisprudence, Yale University Press.

228. Japan's Constitution of 1946, tại trang constituteproject.org, [truy cập ngày

10/10/2019]

229. Japanese Law Translation Database System, Child Welfare Act ịn Japan, tại trang

http://www.japaneselawtranslation.go.jp/law, [truy cập ngày 14/5/2019]

230. John Peysner (2014), Access to Justice: A Critical Analysis of Recoverable

Conditional Fees and No-Win No-Fee Funding, Published by Palgrave Macmilan.

231. John Rawls (1999), A theory of Justice, Belknap Press of Harvard University

Press.

232. Jung Eun-ju, Sexual crimes occur at rate of 3.4 per hour in South Korea, tại trang

http://english.hani.co.kr/arti/english_edition, [ truy cập ngày 20/3/2019]

233. Kim Da-sol, Government seeks to expand chemical castration, tại trang

http://www.koreaherald.com/view.php?ud=20170718000955, [truy cập ngày

15/3/2019]

234. Knoema, https://knoema.com [truy cập 2/4/2020]

235. Korea (Republic of)'s Constitution of 1948 with Amendments through 1987, tại

trang constituteproject.org, [truy cập ngày 10/10/2019]

236. Korea Legislation Research Institute, Criminal Act, tại trang

https://elaw.klri.re.kr/eng_service/lawView, [truy cập ngày 12/01/2020]

181

237. Law info China, Law of the People's Republic of China on the Protection of

Women's Rights and Interests (2005 Amendment), tại trang

http://www.lawinfochina.com/display.aspx?lib=law&id=4492&CGid=, [truy cập

ngày 29/5/2020]

238. Lennard Jbavis (2017), The disability studies reader, 711 third Avenue, New

York, NY 10017.

239. Lewis Silkin, Employment law in the Republic of Korea – an overview, tại trang

https://www.lexology.com/, [truy cập ngày 10/9/2020]

240. María José Falcón y Tella (2014), Justice and Law, Published by Brill Nijhoff.

241. Marjorie Mayo, Gerald Koessl, Matthew Scott and Imogen Slater (2014), Access

to justice for disadvantaged communities, Policy Press.

242. Michael Harris and Martin Partington (1999), Administrative Justice in the

21st Century, Published by Hart Publishing.

243. Michael Sandel (2009), Justice: What’s the right thing to do?, Published by Farrar,

Straus and Giroux.

244. Nathan Roscoe Pound (1951), Justice according to law, Yale University Press.

245. Raymond Wacks (2006), Philosophy of Law: A Very Short Introduction, Oxford

University Press.

246. Rebecca L. Sandefur (2009), Access to Justice, Published by Emerald Group

Publishing Limited.

247. Ronald L.Conhen (1986), Justice - Views from the Social Sciences, Published by

Plenum Press

248. Rudolf Stammler (1925), The theory of justice, Published by Macmilan.

249. Sayuri Umeda, Japan: Sex Crime Law to Be Amended, tại trang https://www.loc.gov/law/,

[truy cập ngày 11/12/2020]

250. Sahar Maranlou (2015), Access to Justice in Iran - Women, Perceptions, and

Reality, Cambridge University Press.

251. Sophie Richardson, China’s Victims of Sexual Harassment Denied Justice, tại

trang https://www.hrw.org/news/2018/07/31/chinas-victims-sexual-harassment-

denied-justice#, [truy cập ngày 17/4/2019]

252. Statista, tại trang https://www.statista.com/statistics/629302/south-korea-number-

of-arrests-for-sexual-assault/, [truy cập ngày 20/5/2020]

253. Stefan Wrbka, Steven Van Uytsel and Mathias Siems (2012), Collective Actions

Enhancing access to justice and reconciling multilayer interests?, Cambridge

University Press.

182

254. Stefan Wrbka (2015), European consumer access to justice revisited, Cambridge

University Press.

255. Sutatip Yuthayotin (2015), Access to Justice in Transnational B2C E-Commerce -

A Multidimensional Analysis of Consumer Protection Mechanisms, Published by

Springer.

256. The Magna Carta (The Great Charter), tại trang https://www.constitution.org/,

[truy cập ngày 5/92019]

257. The National Law Information Center, Act on the Protection of Children and

Youth against Sex Offenses, tại trang http://law.go.kr, [truy cập ngày 1/7/2019]

258. The House of Representative, Japan, Law to partially revise the criminal law, tại trang

http://www.shugiin.go.jp/internet/itdb_housei.nsf/html/housei/19320170623072.htm,

[truy cập ngày 11/12/2020]

259. Timothy S. Rich, Understanding perceptions of harassment in South Korea, tại trang

https://theasiadialogue.com/2019/04/04/understanding-perceptions-of-harassment-in-

south-korea/, [ truy cập ngày 12/3/2020]

260. UNDP (2004), Access to Justice: Practice Note, tại trang https://www.undp.org/,

[truy cập ngày 7/10/2019]

261. UNDP (2005), Programming for Justice: Access for All A Practitioner’s - Guide

to a Human Rights-Based Approach to Access to Justice, (UNDP Regional Centre

in Bangkok, 2005), tại trang https://www.un.org/ruleoflaw, [truy cập ngày

15/9/2019]

262. UNICEF Vietnam, (2019), Child sexual abuse recommended reforms, tại trang

https://www.unicef.org/vietnam, [truy cập ngày 22/8/2019]

263. United Nations Universal Declaration of Human Rights 1948, tại trang

https://www.ohchr.org/en/udhr/documents/, [truy cập ngày 10/10/2019]

264. William Penn (1905), Some Fruits of Solitude, Published by Headley.

265. World Justice Project, tại trang http://data.worldjusticeproject.org/, [truy cập ngày

22/1/2020]

266. Zoe Osborne, 'Shame and pain': Vietnam starts to grapple with child abuse

epidemic, tại trang https://www.theguardian.com, [truy cập ngày 19/7/2019]

267. Wikia, tại trang https://psychology.wikia.org/wiki/Stigma [truy cập ngày

15/8/2019]

183

PHỤ LỤC

600.0

30000

511.2

495.4

457.2

500.0

25000

424.3

416.6

415.9

373.2

361.6

400.0

20000

300.0

15000

25609

25363

23272

21553

20918

20873

200.0

10000

18585

17936

100.0

5000

0.0

0

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Số vụ

Tỷ lệ/100.000 dân

Phụ lục 1

Biểu đồ 2. 1: Số vụ tấn công tình dục ở Hàn Quốc bị bắt

Nguồn: Dân số (2020) [22] và Statista (2020) [252]

Bảng 2. 1: Số vụ tấn công tình dục và hiếp dâm ở Nhật Bản

Tấn công tình dục Năm

Số vụ - - 60299 64989 62952 60126 26574 26647 25928 28058 27864 26653 25183 24365 Tỷ lệ/100.000 dân - - 47 50.6 49 46.8 20.7 20.7 20.2 21.9 21.7 20.8 19.7 19.1 Số vụ 2472 2176 2076 1948 1766 1592 1417 1293 1193 1265 1409 1250 - - Hiếp dâm Tỷ lệ/100.000 dân 2 1.7 1.6 1.5 1.4 1.3 1.1 1 0.9 1 1.1 1 - - 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016

Nguồn: Knoema (2020) [234]

184

Phụ lục 2

Bảng 3. 1: Số ụ án liên quan đến HT PNTEG giai đoạn 2 14-2019)

Năm Tổng số ụ Tổng số nạn nhân

Tỷ lệ ụ XHTD trẻ em gái (%) 70,8% 86,1% 68,1% 75,0% 81,4% 83,2% 77,227% 76,207% Nạn nhân là trẻ em gái 1.544 1.687 1.373 1.421 1.269 1.799 9.093 7.500 2.174 1.951 2.012 1.893 1.555 2.157 11.742 9.759 2.181 1.961 2.016 1.895 1.558 2.163 11.774 9.837 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2014-2019 2008-2013

Tỷ lệ số Số ụ nạn nh n là XHTD trẻ em gái trẻ em (%) gái 70,8% 1.539 86,1% 1.679 68,1% 1.370 75,0% 1.420 81,4% 1.266 83,2% 1.794 77,232% 9.068 76,239% 7.437 Nguồn: Tổng hợp của NCS từ báo cáo của TAND tối cao (2020) [161;162;168]

Bảng 3. 2: Số ụ án à nạn nh n theo tội anh cả nước được t sơ th m

liên quan đến HT PNTEG trong giai đoạn 2 14-2019

Hiếp m

Hiếp m trẻ em

Cưỡng dâm

Giao cấu ới trẻ em

m ô trẻ em

Cưỡng m trẻ em

Năm

Số ụ 624 258 637 469 286 358

Nạn nhân 626 259 638 469 287 359

Số ụ 571 536 514 580 513 626

Nạn nhân 573 539 515 581 514 628

Số ụ 11 14 5 4 3 5

Nạn nhân 11 14 5 4 3 5

Nạn nhân 4 4 1 9 6 8

Số ụ 671 832 609 590 512 783

Nạn nhân 673 836 610 591 513 785

Số ụ 293 307 246 241 235 377

Nạn nhân 294 309 246 241 235 378

Số ụ 4 4 1 9 6 8

32

2.632 2.639 3.340 3.349

42

42

32

3.997 4.008 1.699 1.704

2.291 2.306 3.424 3.454

31

31

25

25

2.824 2.847 1.164 1.173

2014 2015 2016 2017 2018 2019 2014- 2019 2008- 2013

Nguồn: Tổng hợp của NCS từ báo cáo của TAND tối cao (2020) [161;162;168]

Bảng 3. 3: Hệ thống thể chế liên quan đến đảm ảo QTCCL của NNN bị

XHTD ở Việt Nam

Văn ản pháp luật

Các qu định liên quan đến đảm ảo QTCCL của NNN ị HT Đưa ra huôn hổ pháp lý rộng rãi về các quyền con Hiến pháp năm 201 người trong đó có quyền PNTEG

Luật Trẻ em 2016 Quy định các quyền của trẻ em và biện pháp bảo đảm; quy định trách nhiệm của các bên có liên quan trong việc thực hiện các quyền của trẻ em

Nghị định số 5 /2017/NĐ- Quy định về chính sách trợ giúp xã hội cho trẻ em bị xâm

185

CP của chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em

hại và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đang được bảo vệ khẩn cấp theo quy định tại khoản 1 Điều 31 Nghị định này; quy định về việc hỗ trợ, can thiệp đối với trường hợp trẻ em bị xâm hại, quy định việc tiếp nhận, xử lý thông tin, thông báo, tố giác hành vi xâm hại trẻ em

Đưa ra các quy định, định nghĩa về tội liên quan đến xâm phạm tình dục, hung hình phạt và các quy định tố tụng

Quy định về thủ tục tố tụng quy định trong x t xử Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) Bộ luật Tố Tụng hình sự 2015

Nghị quyết số 06/2019/NQ- HĐTP ngày 20/9/2019 Đưa ra các hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của BLHS, hướng dẫn giải quyết các vướng mắc trong thực tiễn xét xử và việc tổ chức xét xử vụ án XHTD người dưới 18 tuổi.

tịch số tư liên

Quy định về bảo mật thông tin, bí mật riêng tư của trẻ em; hỗ trợ, bảo vệ PNTEG là nạn nhân của các vụ XHTD.

Thông 06/2018/TTLT- VKSNDTC-TANDTC- BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018

Luật Phòng chống bạo lực gia đình 2007

Xác định và xử phạt tất cả các hình thức bạo lực gia đình đối bao gồm bạo lực tình dục với thành viên trong gia đình, trong đó có PNTEG. Luật bao phủ tất cả các khía cạnh về phòng ngừa và ứng phó với bạo lực gia đình, trong đó có các dịch vụ bảo vệ và hỗ trợ cho các nạn nhân

Quy định về Quấy rối tình dục tại nơi làm việc Bộ luật Lao động năm 2012 và 2019

Luật Tổ chức tòa án nhân dân 2014

Quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân; về Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác trong Tòa án nhân dân; về bảo đảm hoạt động của TAND - cơ quan có chức năng x t xử vụ án liên quan đến XHTD.

Luật Tổ chức Viện kiểm sát năm 2014

Quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của VKSND; về Kiểm sát viên và các chức danh khác trong VKSND; về bảo đảm hoạt động của VKSND- cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

tịch số tư liên

Thông số 01/2017/TTLT-BCA- BQP-BTC-BNN&PTNT- VKSNDTC ngày 29 /12/2017 Quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong đó có tiếp nhận, giải quyết tin báo về các vụ việc liên quan XHTD PNTEG.

Luật Trợ giúp pháp l năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Luật này quy định về người được TGPL; tổ chức thực hiện trợ giúp pháp l ; người thực hiện trợ giúp pháp lý; hoạt động trợ giúp pháp lý; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với hoạt động trợ giúp pháp l trong đó có trợ giúp pháp l đối với NNN bị XHTD

Luật tổ chức cơ quan điều “Luật này quy định về nguyên tắc tổ chức Điều tra hình

186

tra hình sự 2015

sự; tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan Điều tra; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Điều tra viên và các chức danh hác trong Điều tra hình sự; quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát trong hoạt động Điều tra hình sự; bảo đảm Điều kiện cho hoạt động Điều tra hình sự và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.”

Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015

Luật này quy định về “hoạt động giám sát của QH, UBTV QH, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu QH, đại biểu QH và HĐND, Thường trực HĐN, Ban của HĐND, Tổ đại biểu HĐND, đại biểu HĐND; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát, cơ quan, tổ chức và cá nhân hác có liên quan đến hoạt động giám sát”, trong đó bao gồm cả hoạt động giám sát thực hiện chính sách, pháp luật về phòng chống XHTD.

Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản hướng dẫn

Luật này quy định về tổ chức, hoạt động thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân, nhằm “nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý HVVP pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản l nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”, trong đó bao gồm cả việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ về bảo vệ PNTEG không bị XHTD.

Luật này quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ trong quản lý và phát triển KT-XH, trong đó thực hiện các “biện pháp ngăn ngừa và chống mọi hành vi bạo lực, xúc phạm nhân phẩm đối với phụ nữ và trẻ em”.

Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), Nghị định số 12 /201 /NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ và các văn bản hướng dẫn.

Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2019)

Luật này quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của HĐND, UBND các cấp trong việc thực hiện các biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các HVVP pháp luật khác, phòng, chống quan liêu, tham nh ng trong phạm vi được phân quyền; biện pháp bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ chức, bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân trên địa bàn do mình quản l , trong đó bao gồm cả các biện pháp bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.

Nguồn: Tổng hợp của NCS cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật (2020)

187

Bảng 3. 4: Đánh giá của người n à cán ộ thuộc các thiết chế tư pháp ề

một số nhận định liên quan đến năng lực thực thi nhiệm ụ cán ộ tư pháp

Các nhận định Đồng Rất đồng Đơn vị: Số người và tỷ lệ 2 hông ình đồng thường Rất hông đồng

62 (5,6%) 209 (19%) 280 (25,45%) 264 (24%) 39 (3,54%)

51 (4,63%) 415 (37,72%) 206 (18,72%) 152 (13,81%) 30 (2,72%)

9 (3%) 174 (58%) 32 (10,7%) 78 (26%) 5 (2,3%)

5 (1,7%) 95 (31,7%) 49 (16,3%) 144 (48%) 7 (2,3%) 1. Các cán bộ tiếp nhận, giải quyết vụ việc liên quan đến XHTD thường ứng xử thiếu sự đồng cảm với nạn nhân 2. Các cán bộ tiếp nhận, giải quyết vụ việc liên quan đến XHTD thường không nhạy cảm với những trải nghiệm, thương trấn tâm lý mà nạn nhân bị XHTD phải chịu đựng . Khi tiếp nhận, xử l vụ việc liên quan đến XHTD, còn hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ của các cơ quan công quyền 4. Còn hiện tượng n tránh, đùn đẩy án giữa các cơ quan x t xử

Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)

Bảng 3. 5: m hại tình ục theo quan điểm của cán ộ các thiết chế tư pháp

Nhận định Đồng Đồng 1 phần hông đồng

14,7% 80% 5,3%

XHTD xảy ra một phần do lỗi của nạn nhân (ăn mặc quá hở hang, hông iên quyết chống lại hành vi xâm hại; tin theo lời dụ dỗ, nạn nhân hơi dậy sự ham muốn ở hung thủ).

Các vụ XHTD xảy ra là do nạn nhân thiếu cảnh giác 18,7% 55,7% 25,7% với những kẻ lạ/nguy hiểm

26% 10,7% 63,3% PNTEG hi đã bị xâm hại tình dục hông còn trinh tiết thì đã mất đi “giá trị”, hó có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc

2 Nhận định số 1 và 2 số người đánh giá là 1100 người (800 người dân và 00 cán bộ tư pháp); Nhận định số và 4 chỉ có 00 cán bộ tư pháp đánh giá

Việc công bố công hai vụ việc liên quan đến 54,3% 34,7% 11,0% XHTD chỉ làm nạn nhân tổn thương thêm

188

34% 20,7% 45,3%

Tố giác với các cơ quan chức năng về việc người thân trong gia đình như (ông, cha, anh chị em) có hành vi xâm hại, lạm dụng tình dục đối với mình hay với người hác sẽ làm ảnh hưởng đến thanh danh, hạnh phúc của gia đình

16% 43,3% 40,7% Nạn nhân bị XHTD hi ể lại câu chuyện của mình phải thể hiện sự sợ hãi, bất lực hoặc phải có những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ

Những người ể lại việc bị XHTD một cách bình 22,0% 18,0% 60,0% tĩnh, mạch lạc, rõ ràng thì hông đáng tin cậy

Khi đã ết hôn thì phải luôn sẵn sàng quan hệ tình 33,3% 25% 41,7% dục với người bạn đời của mình

Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)

Bảng 3. 6: Đánh giá của người n à của cán ộ tư pháp ề tính hiệu quả

của các thiết chế tư pháp trong ảo đảm QTCCL của NNN ị HT

Điểm người n đánh giá Điểm cán ộ tư pháp đánh giá

Cơ quan, tổ chức

Điểm trung bình 3 2,9 Độ lệch chuẩn 0,875 0,791 Điểm trung bình 3,5 3,5 Độ lệch chuẩn 0,834 0,921

3 0,957 3,5 0,844

3 0,933 3 0,834

3 0,823 3 0,921

3 0,827 2,5 0,844

3 0,872 2,3 0,944

TAND các cấp VKSND Các cơ quan điều tra, tiếp nhận tin báo, tin tố giác tội phạm Các cơ quan thi hành án Các cơ quan quản l nhà nước có chức năng bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em Các cơ quan tư vấn trợ giúp pháp l ngoài hệ thống tòa án Hội luật sư; các công ty luật… Các tổ chức phi chính thức có chức năng bảo vệ lợi ích nạn nhân bị XHTD như (tổ hòa giải; các hiệp hội, các công đoàn, các nhóm tương trợ, các hội nghề nghiệp, các tổ chức truyền thống tại cộng đồng)

Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)

Bảng 3. 7: Đánh giá của cán ộ tư pháp ề số lượng à cơ cấu của đội ng cán

ộ tại các ộ phận lý vụ án HT tại cơ quan đơn ị nơi họ đang công tác

Các nội ung đánh giá

Rất ph hợp 5,3% Ph hợp 17% ình thường 65,7% hông ph hợp 12%

5,7% 36% 57% 1,3% Số lượng cán bộ, công chức viên chức Cơ cấu về độ tuổi của đội ng cán bộ công chức, viên chức

189

6,7% 32% 49,3% 12%

6,0% 69,7% 17,7% 6,7%

Cơ cấu về giới tính của đội ng cán bộ công chức viên chức Cơ cấu về trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ của đội ng cán bộ công chức viên chức Cơ cấu về thành phần dân tộc của đội ng cán bộ công chức, viên chức

5,3% 41,3% 44,0% 9,3%

Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)

Bảng 3. 8: Đánh giá của cán ộ tư pháp ề năng lực của đội ng cán ộ làm

nhiệm ụ x lý vụ án HT tại cơ quan đơn ị nơi họ đang công tác

Các năng lực chính Rất tốt Tốt ình thường hông tốt

Khả năng hiểu biết, nắm rõ các quy định 19,3% 46,0% 7,3% 27,3% pháp luật

Khả năng áp dụng các quy định pháp luật 16,7% 45,0% 11,0% 27,3% vào giải quyết vụ việc cụ thể

Năng lực thực hiện các ỹ năng, nghiệp 11,0% 44,0% 15% 30% vụ của ngành

Khả năng nắm bắt diễn biến tâm l , cảm 6,3% 24% 34,0% xúc của nạn nhân và người phạm tội

7,0% 49,0% 35,7% 8,7% 35,3%

Sự nhiệt tình, trách nhiệm với công việc Sự trung thực, đúng đắn trong thực hiện 6,7% 44,3% 15% 34% nhiệm vụ

Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)

Bảng 3. 9: Đánh giá của cán ộ tư pháp ề nguồn lực ật chất phục ụ cho

iệc giải quyết các vụ HT tại cơ quan công tác

Nguồn lực vật chất

Đầ đủ hông đầ đủ 83.5% 89.3% 89.3% 16.7% 10.7% 10.7% Kinh phí cho thực thi nhiệm vụ chuyên môn Cơ sở vật chất (trụ sở làm việc) Trang thiết bị phục vụ cho việc thực thi nhiệm vụ chuyên môn

Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)

Bảng 3. 10: Số ị cáo à số ụ án liên quan đến HT đã thụ l à giải qu ết

trên địa àn cả nước trong giai đoạn 2014-2019

Thụ l

Đình chỉ

t sơ th m

Tỷ lệ t /thụ l (%)

Năm

Giải qu ết Điều tra ổ sung

Vụ

ị cáo Vụ ị cáo Vụ ị cáo

Vụ

ị cáo

Vụ

2402 2151 2228 2108

2734 2355 2386 2186

12 14 12 9

15 15 13 9

241 213 215 228

2174 1951 2012 1893

2478 2127 2158 1949

90,5 90,7 90,3 89,8

ị cáo 90,6 90,3 90,4 89,2

216 186 204 206

2014 2015 2016 2017

190

1741 2401

1810 2546

11 13

14 16

175 231

184 254

1555 2157

1612 2276

89,3 89,8

89,1 89,4

13.031 14.017

71

82

1.218 1.335 11.742 12.600

90,1

89,9

10.885 12.485

75

82

1.851 1.819

8.959 10.584

82,3

84,8

2018 2019 2014- 2019 2008- 2013

Nguồn: Xử lý từ báo cáo của TAND tối cao (2020) [161;162;168]

Bảng 3. 11: Xét x phúc th m các vụ án HT trên địa àn cả nước trong

giai đoạn 2014-2019

Thụ l Giải qu ết Tỷ lệ t phúc th m/sơ th m (%) Tỷ lệ giải qu ết/thụ l (%) Năm

Vụ ị cáo Vụ ị cáo Vụ ị cáo Vụ

689 587 633 563 500 663 790 652 682 577 516 705 600 496 566 525 405 591 690 551 601 538 424 623 87,1 84,5 89,4 93,3 81,0 89,1 ị cáo 87,3 84,5 88,1 93,2 82,2 88,4 27,6 25,4 28,1 27,7 26,0 27,4 27,8 25,9 27,8 27,6 26,3 27,4

3.635 3.922 3.183 3.427 87,6 87,4 27,1 27,2

2.649 3.141 2.430 2.849 91,7 90,7 24,9 25,5 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2014- 2019 2008- 2013

Nguồn: Xử lý từ báo cáo của TAND tối cao (2020) [161;162;168]

Bảng 3. 12: Đánh giá của người dân và của cán bộ tư pháp về tính hiệu quả trong hoạt

động bảo vệ QTCCL của NNN bị XHTD của các thiết chế tư pháp

Cơ quan, tổ chức Điểm Người n đánh giá

Điểm cán ộ tư pháp đánh giá Độ lệch chuẩn Độ lệch chuẩn

Điểm trung bình 3 2,9 0,875 0,791 Điểm trung bình 3,5 3,5 0,834 0,921

TAND các cấp VKSND các cấp Các cơ quan điều tra, tiếp nhận tin báo, 0,957 3,5 3 0,844 tin tố giác tội phạm

0,933 3 3 0,834

Các cơ quan thi hành án Các cơ quan quản l nhà nước có chức 0,823 3 3 0,921 năng bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em

0,827 2,5 0,844 3 Các cơ quan tư vấn trợ giúp pháp l ngoài hệ thống tòa án Hội luật sư; các công ty luật…

191

3 0,872 2,3 0,944

Các tổ chức phi chính thức có chức năng bảo vệ lợi ích nạn nhân bị xâm hại tình dục như (tổ hòa giải; các hiệp hội, các công đoàn, các nhóm tương trợ, các hội nghề nghiệp, các tổ chức truyền thống tại cộng đồng)

Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)

Bảng 3. 13: Nhận thức của người n ề các hành i được ác định là i phạm

pháp luật theo LHS

Hành i Vi phạm pháp luật hông i phạm pháp luật

97,5% 2,5%

Dùng v lực, đe dọa dùng v lực để cọ sát, đưa bộ phận sinh dục, hoặc bất cứ vật dụng nào hác tiếp xúc với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm hác trên cơ thể người hác

96,6% 3,4%

Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của ai đó nhằm cọ sát, đưa bộ phận sinh dục hay bất cứ vật dụng nào hác vào bộ phận sinh dục hay bộ phận nhạy cảm trên cơ thể người hác trái với ý muốn của họ

98% 2%

Lợi dụng tình trạng người dưới 1 tuổi đang ở trong tình trạng say xỉn, hôn mê để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của họ;

94,6% 5,4%

A Lợi dụng tình trạng quẫn bách về inh tế của B, dùng tiền để mua chuộc, p buộc B phải miễn cư ng giao cấu hoặc miễn cư ng thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với A

95,8% 4,3% A biết được thông tin bí mật nào đó của B, p buộc B phải miễn cư ng giao cấu hoặc miễn cư ng thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với A

95,4% 4,6% Sờ, bóp, hôn vào những bộ phận, vùng nhạy cảm (ví dụ: bộ phận sinh dục, ngực, vùng mặt, đầu, đùi, mông…) trên cơ thể người dưới 16 tuổi

97,1% 2,9%

Dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi sờ, bóp, hôn… vào những bộ phận, vùng nhạy cảm (ví dụ: bộ phận sinh dục, ngực, vùng mặt, đầu, đùi, mông…) trên cơ thể người dụ dỗ, p buộc hoặc người khác

Quan hệ tình dục, thực hiện hành vi tình dục hác 91,6% 8,4% với vợ, người yêu dưới 1 tuổi

Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)

192

13859

12821

11942

10914

120.25% 138.09%

9915

9064

105.15%

87.49%

70.33%

55.71%

16000 14000 12000 10000 8000 6000 4000 2000 0

160.00% 140.00% 120.00% 100.00% 80.00% 60.00% 40.00% 20.00% 0.00%

2014

2015

2016

2017

2018

2019

Số luật sư

Tỷ lệ gia tăng so với 2010 (%)

Biểu đồ 3. 1: Số lượng luật sư Việt Nam giai đoạn 201-2019

Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động của Liên đoàn Luật sư Việt Nam giai đoạn

2014-2019, dẫn theo Lê inh Đức (2020) [39, tr. 104]

100

84.1

84.1

78.5

72

80

60

28

40

21.5

15.9

15.6

20

0

Giữ bí mật

Giải quyết thông qua toà án

Giải quyết vụ việc thông qua thiết phi chính thức

Tìm cách thương lượng, hoà giải với kẻ phạm tội

Tỷ lệ người lựa chọn

Tỷ lệ người không lựa chọn

(Tỷ lệ )

Biểu đồ 3. 2: Lựa chọn cách thức giải qu ết ụ iệc của người n hi họ ha

người th n của họ ị HT

0.74

80

58.9

54.5

0.722

0.72

60

49.3

46.3

43.1

0.706

0.7

40

0.7

0.695

0.68

20

9

8.6

8.6

8.5

0.688 8.4

0.66

0

2015

2016

2017

2018

2019

Thu nhập trung bình đầu người (triệu đồng)

Số năm đi học bình quân (năm)

Chỉ số phát triển con người

Nguồn: Kết quả xử l số liệu tác giả điều tra xã hội học (2020)

Biểu đồ 3. 3: Thu nhập bình quân, số năm đi học và chỉ số phát triển con người ở Việt Nam

Nguồn: Tổng Cục thống kê (2020) [171, tr. 821]

193

Bảng 3. 14: Lựa chọn hành động của người n nếu bị XHTD

Các tình huống hác

Giữ ín chu ện nà

Tìm iếm sự tư ấn giúp đỡ của người thân Tìm cách thương lượng h a giải ới người đó để được đền Trình áo ụ iệc cho các cơ quan chức năng (công an)

1,6% 19,9% 3,5% 75% 0

2,6% 30,4% 8% 57% 2,1%

2,1% 20% 6,8% 70,8% 0,4%

3,4% 25,8% 12,8% 56,9% 1,3%

2% 15% 8,4% 73,8% 0,9%

Bị người lạ dùng v lực, đe dọa dùng v lực để cọ sát, đưa bộ phận sinh dục của họ, hay bất cư vật dụng nào hác tiếp xúc với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm hác trên cơ thể mình, người thân của mình Bị người thân trong gia đình, hoặc người mình có quen biết dùng v lực đe dọa dùng v lực đưa, bộ phận sinh dục hay bất cứ vật dụng nào hác vào bộ phận sinh dục hay bộ phận nhạy cảm hác trên cơ thể mình Bị người lạ, người mình quen biết lợi dụng tình trạng lệ thuộc của mình hoặc lợi dụng tình trạng quẫn bách của mình buộc mình phải miễn cư ng giao cấu hoặc miễn cư ng thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với họ Bị người thân trong gia đình hoặc người yêu mình lợi dụng tình trạng lệ thuộc của mình hoặc lợi dụng tình trạng quẫn bách của mình buộc mình phải miễn cư ng giao cấu hoặc miễn cư ng thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với họ Bị người lạ sờ, bóp, hôn vào bộ phận sinh dục hay dùng tay, chân, miệng, lư i hoặc các bộ phận hác trên cơ thể để tiếp xúc (trực tiếp hoặc qua lớp quần áo) vào bộ phận sinh dục, hậu môn, háng, đùi, mông, ngực, miệng của mình trái với muốn của mình Bị người lạ dụ dỗ, p buộc sờ, bóp, 14,9% 6,9% 75,6% 1%

1,6%

194

hôn... vào những bộ phận, vùng nhạy cảm ( bộ phận sinh dục, ngực, vùng mặt, đầu, đùi, mông...) trên cơ thể họ Bị người thân, người mình biết dụ dỗ, ép buộc sờ, bóp, hôn... vào những bộ phận, vùng nhạy cảm (ví dụ: bộ phận sinh dục, ngực, vùng mặt, đầu, đùi, mông...) trên cơ thể họ

3,1% 25,6% 10,8% 59,5% 1%

Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)

Bảng 3. 15: Tỷ lệ phụ nữ từ 20-24 tuổi kết hôn lần đầu trước 15 tuổi và trước

18 tuổi

Trước 15 tuổi Trước 18 tuổi

Các vùng Tổng Thành thị Nông thôn Tổng

0,4 0,5 0,1 Thành thị 3,7 9,1 Nông thôn 12,5

1,3 1,5 0,3 6,3 21,5 24,4

0,1 0,1 0,0 3,0 6,0 7,9

0,3 0,3 0,1 3,5 7,7 9,5

Cả nước Trung du MTPB ĐBSH BTB và DHMT Tây nguyên ĐNB ĐBSH 0,9 0,1 0,3 0,3 0,1 0,2 18,1 4,0 9,7 1,2 0,2 0,3 21,8 7,2 11,0

7,4 2,7 6,5 Nguổn: Tổng Cục thống kê (2020) [9, tr. 69]

Bảng 3. 16: Mức độ hiểu iết của người n ề các thủ tục để ảo ệ qu ền

lợi của mình thông qua con đường tư pháp hình sự

Các nội ung

iết rất r 10,3% iết sơ qua 39% hông iết 50,8%

6,8% 34,9% 58,4%

10,3% 50,6% 39,1%

6,8% 41,5% 51,8%

Các thủ tục phải làm để nạn nhân bị XHTD có thể trình báo vụ việc của mình cho cơ quan chức năng Các thủ tục phải làm để nạn nhân bị XHTD được cơ quan chức năng đưa đi giám định phám y Những việc cần phải làm để lưu giữ bằng chứng, dấu vết trong trường hợp chúng ta là nạn nhân bị XHTD Các thủ tục phải làm để nạn nhân bị XHTD bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình thông qua cơ chế phi chính thức như (tổ hòa giải, các tổ chức do người dân lập ra) Những việc nạn nhân bị XHTD phải làm để được hỗ trợ, tư vấn pháp l Các thủ tục nạn nhân bị XHTD cần phải tiếp cận hoặc áp dụng hi tham gia tố tụng hình sự ( hi xử 8,1% 3,8% 48,9% 37,1% 43% 59,1%

195

l vụ việc thông qua tòa án)

Các quy định pháp luật liên quan đến XHTD 9,8% 47,9% 42,4%

Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)

Bảng 3. 17: Đánh giá của cán ộ tư pháp C à người n N ề chi phí

mà NNN ị HT phải chi trả trong quá trình x lý vụ án

Đơn vị: %

Mức độ đánh giá Chi phí chính thức để thực hiện thủ tục tố tụng Chi phí nạn nh n, gia đình nạn nh n ị mất o nghỉ làm để có thời gian theo đuổi ụ iệc Chi phí cho iệc đi lại, ăn nghỉ để theo đuổi ụ iệc

Cao

Bình thường Thấp

Không mất phí Rất cao CB ND CB ND CB ND CB ND Rất thấp CB ND CB ND 1,3 6,3 5,3 37,2 24,3 39,7 2,7 6,9 1,3 2,0 65 7,9 3,0 8,8 15 42,4 50,7 37,9 18 7,4 12,7 2,2 0,7 1,3

Chi phí phi chính thức để ụ iệc của mình được quan t m, t thỏa đáng 8,3 1,7 15,5 10,8 8,0 4,5 41,3 40,3 5,3 23,7 33,9 38,6 19,3 2,7 6,7 5,4 10 1,3 2 1,3 0,7 25,7 0,5 3,6 Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)

Bảng 3. 18: Quan điểm của người dân về tác động của yếu tố ăn hóa đến

XHTD

Nhận định

Đồng Đồng 1 phần hông đồng

27,9% 48,4% 23,5%

43,4% 40,9% 15,8%

22,9% 30% 46,9%

33,1% 46,4% 20,3% XHTD xảy ra một phần do lỗi của nạn nhân (ăn mặc quá hở hang, hông iên quyết chống lại hành vi xâm hại; tin theo lời dụ dỗ, nạn nhân hơi dậy sự ham muốn ở hung thủ ) Các vụ XHTD xảy ra là do nạn nhân thiếu cảnh giác với những kẻ lạ/nguy hiểm Phụ nữ, trẻ em gái hi đã bị XHTD hông còn trinh tiết thì đã mất đi “giá trị”, hó có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc Việc công bố công hai vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục chỉ làm nạn nhân tổn thương thêm

196

31,8% 38% 30,3%

Tố giác với các cơ quan chức năng về việc người thân trong gia đình như (ông, cha, anh chị em) có hành vi xâm hại, lạm dụng tình dục đối với mình hay với người hác sẽ làm ảnh hưởng đến thanh danh, hạnh phúc của gia đình Rất hó để có thể nói với người hác hay trình báo với cơ quan chức năng về việc chồng hay người yêu của mình bắt mình quan hệ, thực hiện hành vi tình dục trái với muốn của mình

34% 42,1% 23,9%

Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)

Bảng 3. 19: Vai tr ảnh hưởng của các nhóm nh n tố tác động đến lựa chọn

giải qu ết ụ iệc thông qua con đường tư pháp hình sự

ST T

iến

B

EXP(B)

Vị trí ảnh hưởng

Tốc độ tăng giảm %

ác suất an đầu p0=21,5% P1 22,37%

0,87%

Tuổi

0,032

1,033

6

X1 X2

-0,151

0,860

19,06%

2,44%

5

1 2 Mức độ tin tưởng sự đúng đắn của pháp luật hình sự

3 Mức độ hiểu biết pháp

X3

-0,728

0,483

11,68%

9,82%

2

4

X4

-0,710

0,492

11,87%

9,63%

3

luật hình sự Định iến văn hóa, tâm l

X5

0,539

1,714

43,53%

22,03%

1

6

X6

0,181

1,198

26,9%

5,5%

4

5 ức độ hiểu biết về thủ tục tố tụng hình sự Tin tưởng vào thực thi pháp luật hình sự

Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)

197

Phụ lục 3

Hộp 3. 1: Vụ án XHTD bé gái 4 tuổi ở phường 14, quận Tân Bình thành phố

Hồ Chí Minh năm 2 19

Ngày 14/4/2019, tại phường 14 Quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh xảy ra vụ XHTD. Nạn nhân là bé gái N 5 tuổi.

Lợi dụng lúc chị T - mẹ cháu N vắng nhà, Ổng C làm nghề xe ôm ở gần nhà đã có hành vi xâm hại cháu N, khiến vùng kín của cháu bị sưng đỏ. Về thấy con như vậy, chị T uất ức đi trình báo và quyết đi tìm công l cho con, đưa ẻ có hành vi xấu ra trước pháp luật.

Khi mẹ cháu b đưa con đến công an phường 14 (Q.Tân Bình) để trình báo vụ việc thì công an phường đã hông hướng dẫn đầy đủ các quy trình thủ tục giúp nạn nhân trình báo và giải quyết vụ việc. Sau hi gia đình nạn nhân quyết tâm xử l thì lại huyên gia đình nạn nhân giải quyết bằng con đường tự thỏa thuận thương lượng bồi thường.

Trong vụ việc này mẹ cháu b đã phải ôm con đi lòng vòng suốt từ 4 giờ chiều đến 12 giờ đêm chỉ để tìm nơi giám định. Khi chị đem con đến bệnh viện theo hướng dẫn của công an phường thì bệnh viện nói phải đến Trung tâm pháp y vì bệnh viện hông có chức năng thu thập chứng cứ pháp y. Khi đến Trung tâm pháp y thì cán bộ Trung tâm pháp y nói chị phải có công an quận dẫn đi thì mới làm giám định được. Hai mẹ con tiếp tục về công an quận, được anh công an gác cổng hướng dẫn phải có hồ sơ từ phường lên. Cả hai lại chở nhau về lại công an phường và công an phường lại cần chờ triệu tập hội phụ nữ rồi mới lấy lời hai.

Nguồn: Nguyễn Trà (2019) [172]

Hộp 3. 2: Vụ án dâm ô nữ sinh lớp 5 ở huyện Trần Văn Thời, Cà Mau

Tháng 8-2016, bà Hữu Thị Lợi (mẹ cháu K.) và cháu K. nhiều lần có đơn tố giác ông Hữu Bê (hàng xóm) có hành vi xâm hại tình dục cháu.

Ngày 30-9-2016, bà Lợi nhận thông báo kết luận giám định, màng trinh cháu bé rách nhưng Cơ quan CSĐT quyết định không khởi tố vụ án vì "chỉ có lời khai của K., không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh ông Bê có hành vi hiếp dâm trẻ em và dâm ô đối với trẻ em".

Đến ngày 10-2-2017, cháu K. uống thuốc tự tử để lại bức thư tuyệt mệnh. Bà Lợi cầm đơn đi êu cứu khắp các cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh Cà Mau và TP.HCM.

Tháng 3-2017, Cơ quan CSĐT thông báo đã hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự và ra quyết định khởi tố vụ án để điều tra ông Hữu Bê về hai tội danh hiếp dâm trẻ em và dâm ô đối với trẻ em. Tháng 9-2017, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phê chuẩn khởi tố bị can, tạm giam Hữu Bê để điều tra hành vi dâm ô đối với trẻ em.

Tháng 11-2017, Bộ Công an đã quyết định cách chức phó thủ trưởng cơ quan điều tra đối với thượng tá Trần Hồng Lộc - người ký vào quyết định không khởi tố vụ án hình sự hồi tháng 9-2016 và cách chức đội trưởng, điều tra viên trung cấp đối với trung tá Đỗ Tấn Đạt. Hai cán bộ điều tra này còn bị cảnh cáo về mặt Đảng, bị điều chuyển công tác khác. Trước đó, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ c ng văn bản truyền đạt ý kiến

198

chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Công an, UBND tỉnh Cà Mau chỉ đạo các lực lượng chức năng hẩn trương điều tra để xử l nghiêm minh theo quy định của pháp luật vụ việc này.

Đồng thời xem xét trách nhiệm của Công an tỉnh Cà au trong quá trình điều tra và quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

Nguồn: Uyên Trinh (2018) [174]

Hộp 3. 3: Vụ án hiếp dâm bé gái 10 tuổi ở Chương Mỹ, Hà Nội

Sáng 24/2/2019, đối tượng Trình điều khiển xe máy đi từ Thanh Xuân về thị trấn Chúc Sơn để về nhà. Trên đường đi, Trình gặp cháu Q đang đi một mình. Thấy đoạn đường vắng Trình tiếp cận và nói mình là bạn của cha bé gái, ngỏ ý muốn đ o về nhà. Do tin tưởng, cháu Q lên xe thì bị Trình chở tới một vườn chuối ở xã Hoàng Diệu.Tại đây, Trình sờ và bóp ngực Q, khi nạn nhân phản kháng, gã trai này bóp miệng và bóp cổ để Q không thể kêu la.Tiếp đó, Trình bẻ tay nạn nhân khiến gãy 1/ dưới xương quay phải để thực hiện hành vi đồi bại. Hậu quả của hành vi bóp mồm cháu Q của Trình khiến cháu bị gãy răng hàm, chảy máu bên trong miệng. Thấy cháu Q bị chảy nhiều máu, la h t và giãy đạp, Trình sợ bị mọi người phát hiện nên đã bỏ mặc cháu tại vườn chuối rồi chạy xe về nhà mình.

Về phần nạn nhân, sau khi bị xâm hại, Q gắng sức đi bộ ra đường và nhờ người đưa về nhà. Gia đình Q đã trình báo sự việc tới nhà chức trách ngay sau đó. Kết luận giám định xác định, cháu Q bị thương tích gãy răng số , gãy 1/ xương tay quay phải, tổn thương ở nhiều vị trí vùng kín; tỉ lệ tổn hại sức khỏe là 9%. Ngoài bị thương về cơ thể, hành vi của Trình đã hiến nạn nhân tổn thương nghiêm trọng về mặt tinh thần.

Tuy nhiên ban đầu Cơ quan điều tra Công an huyện Chương ỹ đã hởi tố bị can đối với Trình về hành vi Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, đồng thời áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi hỏi nơi cư trú.Quyết định này đã vấp phải sự phản ứng của dư luận, cho rằng hành vi của Trình đã cấu thành tội hiếp dâm. Việc cơ quan công an cho Trình tại ngoại có thể ảnh hưởng tới quá trình điều tra vụ án nếu Trình bỏ trốn.

Trước sự việc, Công an TP.Hà Nội đã rút hồ sơ vụ án để điều tra, đổi tội danh từ tội Dâm ô với người dưới 16 tuổi sang tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi đối với Nguyễn Trọng Trình, đồng thời tạm giam ngay đối tượng này. Sáng 10/9/2019, tại TAND TP Hà Nội diễn ra phiên xét xử đối với bị cáo Nguyễn Trọng Trình (SN 1989, trú tại xã Hoà Chính, huyện Chương ỹ, Hà Nội) về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” với an tù chung thân.

Nguồn: Tiến Nguyên (2019) [111]

199

Phụ lục 4

Bảng 4. 1: Mức độ tham gia các hóa đào tạo ồi ưỡng của cán ộ thuộc các

thiết chế tư pháp

(Số người và tỷ lệ )

Các hóa học, tập huấn

Cập nhập, iến thức, văn bản pháp luật

Thường xuyên 161 (53,7%) 120 (40%) 8 (2,7%) Thỉnh thoảng 134 (44,7%) 162 (54,0%) 96 (32%) Rất hiếm 4 (1,3%) 17 (5,7%) 115 (38,3%) Chưa đào tạo, tập huấn 1 (0,3%) 1 (0,3%) 81 (27%) Đào tạo, tập huấn các, iến thức, ỹ năng chuyên môn Đào tạo ỹ năng, hiểu biết nắm bắt tâm l nạn nhân và người phạm tội

7 (2,3%) 75 (25%) 135 (45%) 83 (27,7%) Đào tạo iến thức ỹ năng giao tiếp, tiếp xúc với nạn nhân, người phạm tội

Đào tạo hác (ghi rõ 4 (1,3%) 25 (8,3%) 28 (9,3%) 243 (81%)

Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)

Bảng 4. 2: Các nh n tố tác động đến lựa chọn giải qu ết ụ iệc thông qua

con đường tư pháp hình sự của người n nếu họ là nạn nh n ị HT

(*p<0.05)

Ph n tích đơn iến ảng ch o Đặc điểm

Tỷ lệ

Chung

Ph n tích đa iến ới mô hình hồi qu nhị ph n Hệ số hồi qu của iến độc lập -417* Giới*

-823*

216* Thành phần dân tộc* Địa bàn sinh sống*

-247 Trình độ học vấn* Số người 172 66 106 160 12 114 58 6 8 66 76 8 21,5 16,9 25,9 22,0 16,2 21,0 22,5 23,1 22,2 29,2 18,9 17,4

12,5 8

Nam Nữ Kinh Dân tộc thiểu số Nông thôn Đô thị Chưa tốt nghiệp tiểu học Tốt nghiệp tiểu học Tốt nghiệp THCS Tốt nghiệp THPT Tốt nghiệp TC, CĐ Tốt nghiệp đại học và trên đại học Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)

200

Phụ lục 5

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

ã số

(Dành cho người dân)

Kính thưa Ông/Bà! Để có căn cứ khoa học cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp l đảm bảo quyền tiếp cận công l của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam. Tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Cơ chế pháp lý đảm bảo quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam”. Ý iến đóng góp của ông bà sẽ giúp ích cho tôi trong việc hoàn thiện đề tài nghiên cứu của mình. ong ông (bà) vui lòng trả lời một số thông tin cơ bản trong bảng hỏi đã chuẩn bị sẵn. Thông tin mà Ông/Bà cung cấp chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học ngoài ra không sử dụng vào mục đích nào hác. Các thông tin hoàn toàn được lưu giữ dưới dạng huyết danh.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của ông/bà! A. MỘT SỐ THÔNG TIN CÁ NHÂN A1. Giới tính: 1. Nam 2. Nữ A2. Năm sinh:………… A3. Trình độ học ấn cao nhất ở thời điểm hiện tại

1. Chưa tốt nghiệp tiểu học

4. Tốt nghiệp THPT

2. Tốt nghiệp tiểu học 3. Tốt nghiệp THCS

5. Tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng . Tốt nghiệp đại học hoặc trên đại học

A4. Thành phần n tộc

1. Kinh

2. Các dân tộc thiểu số hác

A5.Tỉnh/thành phố đang sinh sống hiện nay: ......... A . hu ực/địa àn ông/ à đang sinh sống 1. Nông thôn

2. Đô thị

. ĐÁNH GIÁ VỀ N NG LỰC TIẾP CẬN C NG LÝ 1. Theo ông/ à những hành i nào sau đ được em là i phạm pháp luật Ông/

bà đánh dấu vào ô tương ứng

Hành i

Vi phạm pháp luật

hông i phạm pháp luật

Dùng v lực, đe dọa dùng v lực để cọ sát, đưa bộ phận sinh dục, hoặc bất cứ vật dụng nào hác tiếp xúc với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm hác trên cơ thể người hác Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của ai đó nhằm cọ sát, đưa bộ phận sinh dục hay bất cứ vật dụng nào hác vào bộ phận sinh dục hay bộ phận nhạy cảm trên cơ thể người hác trái với ý muốn của họ Lợi dụng tình trạng người dưới 1 tuổi đang ở trong tình trạng say xỉn, hôn mê để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của họ; A Lợi dụng tình trạng quẫn bách về inh tế của B, dùng tiền để mua chuộc, p buộc B phải miễn cư ng giao cấu

201

hoặc miễn cư ng thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với A A biết được thông tin bí mật nào đó của B, p buộc B phải miễn cư ng giao cấu hoặc miễn cư ng thực hiện hành vi quan hệ tình dục hácvới A Sờ, bóp, hôn vào những bộ phận, vùng nhạy cảm (ví dụ: bộ phận sinh dục, ngực, vùng mặt, đầu, đùi, mông…) trên cơ thể người dưới 16 tuổi Dụ dỗ, ép buộc người dưới 1 tuổi sờ, bóp, hôn… vào những bộ phận, vùng nhạy cảm (ví dụ: bộ phận sinh dục, ngực, vùng mặt, đầu, đùi, mông…) trên cơ thể người dụ dỗ, p buộc hoặc người khác Quan hệ tình dục, thự hiện hành vi tình dục hác với vợ, người yêu dưới 1 tuổi 2. hi ông à ha người th n của ông à gặp phải những tình huống sau đ ông

à s lựa chọn hành động như thế nào ng bà đánh dấu X vào ô phù hợp)

Các tình huống

hác

Giữ ín chu ện

Tìm iếm sự tư ấn/ giúp đỡ của người thân

Trình áo ụ iệc cho các cơ quan chức năng

Tìm cách thương lượng h a giải ới người đó để được đền

Bị người lạ dùng v lực, đe dọa dùng v lực để cọ sát, đưa bộ phận sinh dục của họ, hay bất cư vật dụng nào hác tiếp xúc với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm hác trên cơ thể mình, người thân của mình Bị người thân trong gia đình, hoặc người mình có quen biết dùng v lực đe dọa dùng v lực đưa, bộ phận sinh dục hay bất cứ vật dụng nào hác vào bộ phận sinh dục hay bộ phận nhạy cảm hác trên cơ thể mình Bị người lạ, người mình quen biết lợi dụng tình trạng lệ thuộc của mình hoặc lợi dụng tình trạng quẫn bách của mình buộc mình phải miễn cư ng giao cấu hoặc miễn cư ng thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với họ Bị người thân trong gia đình hoặc người yêu mình lợi dụng tình trạng lệ thuộc của mình hoặc lợi dụng tình trạng quẫn bách của mình buộc mình phải miễn cư ng giao cấu hoặc miễn cư ng thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với

202

họ Bị người lạ sờ, bóp, hôn vào bộ phận sinh dục hay dùng tay, chân, miệng, lư i hoặc các bộ phận hác trên cơ thể để tiếp xúc (trực tiếp hoặc qua lớp quần áo) vào bộ phận sinh dục, hậu môn, háng, đùi, mông, ngực, miệng của mình trái với muốn của mình Bị người lạ dụ dỗ, p buộc sờ, bóp, hôn... vào những bộ phận, vùng nhạy cảm ( bộ phận sinh dục, ngực, vùng mặt, đầu, đùi, mông...) trên cơ thể họ Bị người thân, người mình biết dụ dỗ, p buộc sờ, bóp, hôn... vào những bộ phận, vùng nhạy cảm (ví dụ: bộ phận sinh dục, ngực, vùng mặt, đầu, đùi, mông...) trên cơ thể họ

3. Theo ng/ à nạn nh n ị m hại tình ục phải đến đ u để trình áo ụ iệc

ông/bà ghi các cơ quan ông bà biết nếu hông biết ghi hông biết

……………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

4. ng à iết ở mức độ nào ề một số nội ung sau

Các nội ung

iết rất r

iết sơ qua

hông iết

Các thủ tục phải làm để nạn nhân bị xâm hại tình dục có thể trình báo vụ việc của mình cho cơ quan chức năng

Các thủ tục phải làm để nạn nhân bị xâm hại tình dục được cơ quan chức năng đưa đi giám định phám y Những việc cần phải làm để lưu giữ bằng chứng, dấu vết trong trường hợp chúng ta là nạn nhân bị xâm hại tình dục Các thủ tục phải làm để nạn nhân bị xâm hại tình dục bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình thông qua cơ chế phi chính thức như (tổ hòa giải, các tổ chức do người dân lập ra) Những việc nạn nhân bị xâm hại tình dục phải làm để được hỗ trợ, tư vấn pháp l

Các thủ tục nạn nhân bị xâm hại tình dục cần phải tiếp cận hoặc áp dụng hi tham gia tố tụng hình sự. ( hi xử l vụ việc thông qua tòa án) Các quy định pháp luật liên quan đến xâm hại tình dục

5. Theo ông à có những cơ quan, tổ chức nào thực hiện chức năng trợ giúp à tư vấn pháp l cho nạn nh n ị ị m hại tình ục ông bà ghi các cơ quan tổ chức ông bà biết nếu hông biết ghi hông biết

203

……………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………

. ng à đánh giá như thế nào ề tính s n có của các cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng tư ấn trợ giúp pháp l cho nạn nh n ị m hại tình ục tại địa phương nơi ông à sinh sống

3. Có rất ít các cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng này 4. Không biết

1. Có nhiều cơ quan tổ chức thực hiện chức năng này 2. Không có cơ quan tổ chức nào thực hiện chức năng này tại địa phương

. ng à ự đoán/đánh giá như thế nào ề chi phí mà các nạn nh n ị m hại tình ục phải ỏ ra nếu s ụng ịch ụ tư ấn trợ giúp pháp l của cơ quan tổ chức thực hiện chức năng nà

Chi phí há cao Chi phí vừa phải có thể chấp nhận được với mức thu nhập trung bình của người

dân Việt Nam

Chi phí rất thấp Không phải mất phí cho dịch vụ này Khác (ghi rõ)…………………………..

8. ng à có quan điểm như thế nào ề các nhận định sau đ

Nhận định

Đồng

Đồng 1 phần

hông đồng

Xâm hại tình dục xảy ra một phần do lỗi của nạn nhân (ăn mặc quá hở hang, hông iên quyết chống lại hành vi xâm hại; tin theo lời dụ dỗ, nạn nhân hơi dậy sự ham muốn ở hung thủ ) Các vụ xâm hại tình dục xảy ra là do nạn nhân thiếu cảnh giác với những kẻ lạ/nguy hiểm Phụ nữ, trẻ em gái hi đã bị xâm hại tình dục hông còn trinh tiết thì đã mất đi “giá trị”, hó có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc Việc công bố công hai vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục chỉ làm nạn nhân tổn thương thêm Tố giác với các cơ quan chức năng về việc người thân trong gia đình như (ông, cha, anh chị em) có hành vi xâm hại, lạm dụng tình dục đối với mình hay với người hác sẽ làm ảnh hưởng đến thanh danh, hạnh phúc của gia đình Rất hó để có thể nói với người hác hay trình báo với cơ quan chức năng về việc chồng hay người yêu của mình bắt mình quan hệ, thực hiện hành vi tình dục trái với muốn của mình

C. ĐÁNH GIÁ VỀ CƠ CHẾ PHÁP LÝ ĐẢM ẢO QUYỀN TIẾP CẬN C NG LÝ

CỦA NẠN NH N Ị M HẠI TÌNH ỤC

C1. ng à đánh giá như thế nào ề mức độ hoàn thiện của các qu định pháp luật

liên quan đến m hại tình ục hiện nay?

204

Các qu định

Hoàn thiện

ình thường

hông iết

Chưa hoàn thiện

Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định thế nào là hiếp dâm Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định thế nào là cư ng dâm Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 1 đến dưới 16 tuổi Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định hành vi dâm ô Các quy định về hung hình phạt đối với các tội liên quan đến xâm hại tình dục Các quy định liên quan đến tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích hiêu dâm. Các quy định pháp luật về quấy rối tình dục Các quy định pháp luật về xử l thông tin tố giác, tin báo tội pham liên quan đến xâm hại tình dục Các quy định pháp luật liên quan đến thủ tục pháp l trong giải quyết vụ án xâm hại tình dục Các quy định pháp luật về bảo vệ nạn nhân trong quá trình thu thập chứng cứ liên quan đến vụ xâm hại tình dục Các quy định pháp luật hác liên quan đến xâm hại tình dục

C2. ng à đồng ới mức độ nào ề các nhận định sau đ

Các nhận định

Đồng

ình thường

hông đồng

Rất đồng

Rất hông đồng

Các cán bộ tiếp nhận, giải quyết vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục thường ứng xử thiếu sự đồng cảm với nạn nhân Các cán bộ tiếp nhận, giải quyết vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục thường không nhạy cảm với những trải nghiệm, thương trấn tâm lý mà nạn nhân bị xâm hại tình dục phải chịu đựng

C3. ng à đánh giá như thế nào ề tính hiệu quả trong hoạt động ảo ệ qu ền à lợi ích hợp pháp của nạn nh n nữ ị m hại tình ục của các cơ quan, tổ chức sau đ (Ông bà đánh giá th o thang điểm t 1 đến t ong đ : 1 là ất hông hiệu quả 2 là Không hiệu quả là Bình thường là iệu quả là ất hiệu quả

Cơ quan, tổ chức

Tòa án các cấp Viện Kiểm sát, cơ quan Kiểm sát các cấp

Điểm

205

Các cơ quan điều tra, tiếp nhận tin báo, tin tố giác tội phạm (công an, cảnh sát) Các cơ quan thi hành án Các cơ quan quản l nhà nước có chức năng bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em Các cơ quan tư vấn trợ giúp pháp l , Hội luật gia; các công ty luật… Các tổ chức phi chính thức có chức năng bảo vệ lợi ích nạn nhân bị xâm hại tình dục như (tổ hòa giải; các hiệp hội, các công đoàn, các nhóm tương trợ, các hội nghề nghiệp, các tổ chức truyền thống tại cộng đồng)

C4. ng à ự đoán hoặc đánh giá như thế nào ề hoạt động t các ụ án liên quan đến m hại tình ục của hệ thống t a án tại địa phương Ông bà đánh giá th o thang điểm t 1 đến t ong đ : 1. ất hông tốt 2. Không tốt . Bình thường . Tốt . ất tốt Hoạt động t các ụ án m hại tình ục của t a án tỉnh

X t xử đúng pháp luật X t xử thấu tình đạt l X t xử đảm bảo tính công bằng Các nạn nhân được đền bù một cách thỏa đáng Tính nghiêm minh, đúng đắn trong các phán quyết của tòa

Điểm

C5. ng à ự đoán hoặc đánh giá như thế nào ề các chi phí chính thức à chi phí hông chính thức mà các nạn nh n ị m hại tình ục phải ỏ ra để ụ iệc của mình được t ởi t a án

Các chi phí

Cao

Thấp

Rất cao

ình thường

Rất thấp

hông mất phí

Chi phí chính thức để thực hiện thủ tục tố tụng Chi phí phi chính thức để vụ việc của mình được quan tâm, x t xử thỏa đáng Chi phí phải bỏ ra cho việc đi lại, ăn nghỉ để theo đuổi vụ việc Chi phí nạn nhân, gia đình nạn nhân bị mất do nghỉ làm để có thời gian theo đuổi vụ việc

C . ng à ự đoán hoặc đánh giá như thế nào ề thời gian l ụ iệc liên quan

đến m hại tình ục của các thiết chế sau

Lâu

Nhanh

Thời gian l ụ iệc ằng các cơ chế

Rất lâu

Rất nhanh

ình thường có thể chấp nhận được

Giải quyết vụ việc thông qua cơ chế chính thức của nhà nước (tòa án) Giải quyết vụ việc thông qua cơ chế phi chính thức (tổ hòa giải, công đoàn, tổ chức truyền thống tại cộng đồng) Tự thương lượng hòa giải giữa hai bên (nạn nhân và người phạm tội)

206

C . ng/ à ự đoán hoặc đánh giá như thế nào ề thời gian thực thi các phán qu ết của t a trong giải qu ết ụ án liên quan đến m hại tình ục ông bà đánh dấu hoặc hoanh t n vào 1 đáp án ph hợp

Nhanh chóng

Bình thường

Chậm chạp

Rất chậm chạp

Rất nhanh chóng

C8. Giả s ông/ à ha người th n của ông à hông ma trở thành nạn nh n của ụ án liên quan đến m hại tình ục ông/ à lựa chọn giải qu ết ụ iệc theo hướng nào sau đ Ông bà được lựa chọn nhiều phương án bằng cách hoanh t n hoặc đánh dấu vào đáp án ph hợp

Giữ bí mật chuyện này nhằm bảo vệ thanh danh gia đình, hạnh phúc về sau cho nạn nhân Tìm cách thương lượng, hòa giải với ẻ phạm tội để được đền bù thỏa đáng và để giữ ín việc này nhằm đảm bảo hạnh phúc, yên ổn cho nạn nhân đồng thời chấm dứt nỗi đau một cách nhanh chóng Trình báo vụ việc cho các cơ quan công quyền, giải quyết thông qua tòa án

Giải quyết vụ việc thông qua thiết chế phi chính thức như tổ hòa giải, công đoàn, các tổ chức truyền thống tại cộng đồng Khác( ghi rõ)

Trân trọng cảm ơn qu ông/ à!

207

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

ã số

(Dành cho cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp)

Kính thưa Ông/Bà! Để có căn cứ khoa học cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp l đảm bảo quyền tiếp cận công l của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam. Tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Cơ chế pháp lý đảm bảo quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam”. Ý iến đóng góp của ông bà sẽ giúp ích cho tôi trong việc hoàn thiện đề tài nghiên cứu của mình. ong ông (bà) vui lòng trả lời một số thông tin cơ bản trong bảng hỏi đã chuẩn bị sẵn. Thông tin mà Ông/Bà cung cấp chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học ngoài ra không sử dụng vào mục đích nào hác. Các thông tin hoàn toàn được lưu giữ dưới dạng huyết danh.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của ông/bà! A. MỘT SỐ THÔNG TIN CÁ NHÂN A1. Giới tính: 1. Nam 2. Nữ A2. Năm sinh: ………… A3. Trình độ học ấn cao nhất ở thời điểm hiện tại

1. Tốt nghiệp THPT 2. Tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng

. Tốt nghiệp đại học hoặc trên đại học 4. Khác (ghi rõ)..

A4. Thành phần n tộc

1. Kinh

2. Các dân tộc thiểu số hác (ghi rõ)

A5.Tỉnh/thành phố đang sinh sống hiện nay: ......... A6. Khu ực/địa àn ông/ à đang sinh sống

1. Nông thôn

2. Đô thị

A . Cơ quan, đơn ị nơi ông à đang công tác

4. Tòa án các cấp

1. Công an 2. Cơ quan thi hành án

3. Viện iểm sát 5. Khác

. NHỮNG NHẬN ĐỊNH CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN M HẠI TÌNH ỤC 1. ng à có quan điểm như thế nào ề các nhận định sau đ

Nhận định

Đồng

Đồng 1 phần

hông đồng

Xâm hại tình dục xảy ra một phần do lỗi của nạn nhân (ăn mặc quá hở hang, hông iên quyết chống lại hành vi xâm hại; tin theo lời dụ dỗ, nạn nhân hơi dậy sự ham muốn ở hung thủ ) Các vụ xâm hại tình dục xảy ra là do nạn nhân thiếu cảnh giác với những kẻ lạ/nguy hiểm Phụ nữ, trẻ em gái hi đã bị xâm hại tình dục hông còn trinh tiết thì đã mất đi “giá trị”, hó có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc Việc công bố công hai vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục chỉ làm nạn nhân tổn thương thêm Tố giác với các cơ quan chức năng về việc người thân trong gia đình như (ông, cha, anh chị em) có hành vi xâm hại, lạm dụng tình dục đối với mình hay với người hác sẽ làm ảnh hưởng đến thanh danh, hạnh phúc của gia đình

208

Nạn nhân bị xâm hại tình dục hi ể lại câu chuyện của mình phải thể hiện sự sợ hãi, bất lực hoặc phải có những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ Những người ể lại việc bị xâm hại tình dục một cách bình tĩnh, mạch lạc, rõ ràng thì hông đáng tin cậy Khi đã ết hôn thì phải luôn sẵn sàng quan hệ tình dục với người bạn đời của mình

2. Theo ông à nạn nh n ị m hại tình ục nên lựa chọn giải qu ết ụ iệc theo hướng nào sau đ Ông bà được lựa chọn nhiều phương án bằng cách hoanh t n hoặc đánh dấu vào đáp án ph hợp

STT

1

2

3

4

5

Cách giải qu ết ụ iệc Giữ bí mật chuyện này nhằm bảo vệ thanh danh gia đình, hạnh phúc về sau cho nạn nhân Tìm cách thương lượng, hòa giải với ẻ phạm tội để được đền bù thỏa đáng và để giữ ín việc này nhằm đảm bảo hạnh phúc, yên ổn cho nạn nhân và chấm dứt nỗi đau một cách nhanh chóng Trình báo vụ việc cho các cơ quan công quyền, giải quyết thông qua con đường tư pháp hình sự Giải quyết vụ việc thông qua thiết chế phi chính thức như tổ hòa giải, công đoàn, các tổ chức truyền thống tại cộng đồng Khác( ghi rõ) ………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………..

C. ĐÁNH GIÁ VỀ HUNG PHÁP LÝ ĐẢM ẢO QUYỀN TIẾP CẬN C NG LÝ

CỦA NẠN NH N Ị M HẠI TÌNH ỤC

C1. ng à đánh giá như thế nào ề mức độ hoàn thiện của các qu định pháp luật liên quan đến m hại tình ục trước hi Nghị qu ết số /2 19/NQ-HĐTP của Hội đồng th m phán T a án nh n n tối cao được an hành ngày 01/10/2019 (có hiệu lực 5/11/2019)?

Các qu định

Hoàn thiện

ình thường

Chưa hoàn thiện

Không iết

Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định thế nào là hiếp dâm Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định thế nào là cư ng dâm Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định hành vi dâm ô Các quy định về hung hình phạt đối với các tội liên quan đến xâm hại tình dục Các quy định liên quan đến tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích hiêu dâm. Các quy định pháp luật về quấy rối tình dục Các quy định pháp luật về xử l thông tin tố

209

giác, tin báo tội pham liên quan đến xâm hại tình dục Các quy định pháp luật liên quan đến thủ tục pháp l trong giải quyết vụ án xâm hại tình dục Các quy định pháp luật về bảo vệ nạn nhân trong quá trình thu thập chứng cứ liên quan đến vụ xâm hại tình dục Các quy định pháp luật liên quan đến sự vận hành của bộ máy (tổ chức) thực hiện pháp luật đảm bảo quyền tiếp cận công l cho nạn nhân bị xâm hại tình dục Các quy định pháp luật hác liên quan đến xâm hại tình dục

. ĐÁNH GIÁ VỀ THIẾT CHẾ TỔ CHỨC Ộ MÁY ĐẢM ẢO QUYỀN TIẾP

CẬN C NG LÝ CHO NẠN NH N NỮ Ị M HẠI TÌNH ỤC

1. ng à đánh giá như thế nào ề các thiết chế, tổ chức ộ má trong iệc đảm

ảo qu ền của nạn nh n nữ ị m hại tình ục của nước ta hiện na

Các nội ung đánh giá

Ph hợp

ình thường

Rất ph hợp

hông ph hợp

Rất hông ph hợp

Tổ chức bộ máy liên quan đến đảm bảo quyền của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục Vị trí, chức năng của các cơ quan trong bộ máy đảm bảo quyền của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy đảm bảo quyền của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục Cơ chế vận hành các thiết chế đảm bảo quyền của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục Sự phối hợp hoạt động của các cơ quan trong bộ máy đảm bảo quyền tiếp cận công l của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục

2. ng à đánh giá như thế nào ề tính hiệu quả trong hoạt động ảo ệ qu ền à lợi ích hợp pháp của nạn nh n nữ ị m hại tình ục của các cơ quan, tổ chức sau đ (Ông bà đánh giá th o thang điểm t 1 đến t ong đ : 1 là ất hông hiệu quả 2 là Không hiệu quả là Bình thường là iệu quả là ất hiệu quả

Cơ quan, tổ chức

Điểm

Tòa án các cấp Viện Kiểm sát, cơ quan Kiểm sát các cấp Các cơ quan điều tra, tiếp nhận tin báo, tin tố giác tội phạm (công an, cảnh sát) Các cơ quan thi hành án Các cơ quan quản l nhà nước có chức năng bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em Các cơ quan tư vấn trợ giúp pháp l ngoài hệ thống tòa án Hội luật sư; các công ty luật…

210

Các tổ chức phi chính thức có chức năng bảo vệ lợi ích nạn nhân bị xâm hại tình dục như (tổ hòa giải; các hiệp hội, các công đoàn, các nhóm tương trợ, các hội nghề nghiệp, các tổ chức truyền thống tại cộng đồng)

3. ng à đánh giá như thế nào ề hoạt động phối hợp giữa các cơ quan tổ chức sau trong ảo đảm qu ền của nạn nh n nữ ị m hại tình ục Ông bà đánh giá th o thang điểm t 1 đến t ong đ : 1 là ất hông hiệu quả 2 là Không hiệu quả là Bình thường là iệu quả là ất hiệu quả

Phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức

Điểm

Phối hợp trong hệ thống Tòa án các cấp với nhau Phối hợp giữa tòa án với các cơ quan tư pháp hác Phối hợp trong hệ thống Viện iểm sát Sự phối hợp giữa viện iểm sát với các cơ quan tư pháp hác Sự phối hợp trong hệ thống các cơ quan điều tra, tiếp nhận tin báo, tin tố giác tội phạm (công an, cảnh sát) Sự phối hợp giữa các các cơ quan điều tra, tiếp nhận tin báo, tin tố giác tội phạm (công an, cảnh sát) với cơ quan tư pháp hác Sự phối hợp trong hệ thống các cơ quan thi hành án Sự phối hợp giữa cơ quan thi hành án với cơ quan tư pháp hác Sự phối hợp trong hệ thống các cơ quan quản l nhà nước có chức năng bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em Sự phối hợp giữa các cơ quan quản l nhà nước có chức năng bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em với các cơ quan tư pháp

4. ng à ự đoán hoặc đánh giá như thế nào ề hoạt động t các ụ án liên quan đến m hại tình ục của hệ thống t a án tại địa phương Ông bà đánh giá th o thang điểm t 1 đến t ong đ : 1. ất hông tốt 2. Không tốt . Bình thường . Tốt . ất tốt

Hoạt động t các ụ án m hại tình ục của t a án tỉnh

X t xử đúng pháp luật X t xử thấu tình đạt l X t xử đảm bảo tính công bằng Các nạn nhân được đền bù một cách thỏa đáng Tính nghiêm minh, đúng đắn trong các phán quyết của tòa

Điểm

D5. ng à ự đoán hoặc đánh giá như thế nào ề các chi phí chính thức à chi phí phi chính thức mà các nạn nh n ị m hại tình ục phải ỏ ra để ụ iệc của mình được t ởi t a án

Cao

Thấp

Các chi phí

Rất cao

ình thường

Rất thấp

hông mất phí

Chi phí chính thức để thực hiện thủ tục tố tụng Chi phí phi chính thức để vụ việc của mình được quan tâm, x t xử thỏa đáng Chi phí phải bỏ ra cho việc đi lại, ăn nghỉ để theo đuổi vụ việc Chi phí nạn nhân, gia đình nạn nhân bị

211

mất do nghỉ làm để có thời gian theo đuổi vụ việc

. ng à ự đoán hoặc đánh giá như thế nào ề thời gian l ụ iệc liên quan

đến m hại tình ục của các thiết chế sau

Thời gian l ụ iệc

Rất l u Lâu

Nhanh

ình thường

Rất nhanh

Giải quyết vụ việc thông qua cơ chế chính thứccủa nhà nước ( tòa án) Giải quyết vụ việc thông qua cơ chế phi chính thức (tổ hòa giải, công đoàn, tổ chức truyền thống tại cộng đồng) Tự thương lượng hòa giải giữa hai bên (nạn nhân và người phạm tội)

. ng/ à ự đoán hoặc đánh giá như thế nào ề thời gian thực thi các phán qu ết của t a trong giải qu ết ụ án liên quan đến m hại tình ục ông bà đánh dấu hoặc hoanh t n vào 1 đáp án ph hợp

Nhanh chóng Bình thường

Chậm chạp

Rất nhanh chóng

Rất chậm chạp

ĐÁNH GIÁ VỀ NGUỒN LỰC ĐẢM ẢO QUYỀN TIẾP CẬN C NG LÝ CHO

NẠN NH N Ị M HẠI TÌNH ỤC

.1 ng à đánh giá như thế nào ề số lượng à cơ cấu của đội ng cán ộ tại các ộ phận có chức năng nhiệm ụ đảm ảo qu ền cho nạn nh n nữ ị m hại tình ục tại cơ quan đơn ị nơi ông à đang công tác

Các nội ung đánh giá

Ph hợp

ình thường

Rất ph hợp

hông ph hợp

Rất hông ph hợp

Số lượng cán bộ, công chức viên chức Cơ cấu về độ tuổi của đội ng cán bộ công chức, viên chức Cơ cấu về giới tính của đội ng cán bộ công chức viên chức Cơ cấu về trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ của đội ng cán bộ công chức viên chức Cơ cấu về thành phần dân tộc của đội ng cán bộ công chức, viên chức

E2. ng à đánh giá như thế nào ề năng lực thực thi nhiệm ụ của đội ng cán ộ, công chức làm nhiệm ụ thực hiện pháp luật ảo ệ nạn nh n nữ ị m hại tình ục tại cơ quan đơn ị nơi ông à công tác trên các hía cạnh sau

Các năng lực chính

Tốt

Rất tốt

ình thường

hông tốt

Rất hông tốt

Khả năng hiểu biết, nắm rõ các quy định pháp luật Khả năng áp dụng các quy định pháp luật vào giải quyết vụ việc cụ thể Năng lực thực hiện các ỹ năng, nghiệp

212

vụ của ngành Khả năng nắm bắt diễn biến tâm l , cảm xúc của nạn nhân và người phạm tội Sự nhiệt tình, trách nhiệm với công việc Sự trung thực, đúng đắn trong thực hiện nhiệm vụ

E3. ng à đồng ới mức độ nào ề các nhận định sau đ

Các nhận định

Đồng

ình thường

hông đồng

Rất đồng

Rất hông đồng

Các cán bộ tiếp nhận, giải quyết vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục thường ứng xử thiếu sự đồng cảm với nạn nhân Các cán bộ tiếp nhận, giải quyết vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục thường không nhạy cảm với những trải nghiệm, thương trấn tâm lý mà nạn nhân bị xâm hại tình dục phải chịu đựng Khi tiếp nhận, xử l vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục, Còn hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ của các cơ quan công quyền Còn hiện tượng n tránh, đùn đẩy án giữa các cơ quan x t xử

4. Theo ông/ à đ u là những hó hăn trong giải qu ết ụ iệc liên quan đến m hại tình ục đối ới phụ nữ à trẻ em gái ở nước ta những năm qua ông/ à có thể lựa chọn nhiều đáp án 1Hệ thống quy phạm pháp luật về bảo vệ quyền của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục chưa hoàn thiện Cơ cấu tổ chức bộ máy thực hiện chức năng nhiệm vụ này còn chưa phù hợp Đội ng cán bộ trong các cơ quan công quyền có chức năng thực hiện nhiệm vụ này thiếu số lượng Cơ cấu của đội ng cán bộ trong các cơ quan công quyền có chức năng thực hiện nhiệm vụ này còn chưa hợp l Năng lực thực hiện nhiệm vụ của đội ng cán bộ trong các cơ quan công quyền có chức năng thực hiện nhiệm vụ này hạn chế Còn hiện tượng tiêu cực, tham nh ng trong tiếp nhận xử l vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục Thiếu các nguồn lực vật chất ( inh phí, trụ sở, trang thiết bị hác)phục vụ cho hoạt động chuyên môn của các cơ quan công quyền có chức năng thực thi nhiệm vụ này? Khác (ghi rõ):

5. ng/ à đánh giá ề mức độ thường u ên của iệc tham gia các hóa, đào tạo tập huấn n ng cao năng lực thực thi nhiệm ụ của đội ng cán ộ công chức, iên chức những người thực hiện pháp luật ảo ệ qu ền của nạn nh n nữ ị m hại tình ục tại cơ quan ông/ à Các hóa học, tập huấn

Thường xuyên

Thi thoảng

Rất hiếm

Cập nhập, iến thức, văn bản pháp luật Đào tạo, tập huấn các, iến thức, ỹ năng chuyên

Chưa đào tạo, tập huấn

213

môn Đào tạo ỹ năng, hiểu biết nắm bắt tâm l nạn nhân và người phạm tội Đào tạo iến thức ỹ năng giao tiếp, tiếp xúc với nạn nhân, người phạm tội Đào tạo hác (ghi rõ)……………… …………………………………………..

. ng/ à đánh giá ề hiệu quả của các hóa, đào tạo tập huấn n ng cao năng lực thực thi nhiệm ụ của đội ng cán ộ công chức, iên chức những người thực hiện pháp luật ảo ệ qu ền của nạn nh n nữ ị m hại tình ục tại cơ quan ông/ à

Các hóa học, tập huấn

Hiệu quả

ình thường

hông hiệu quả

Rất hiệu quả

Rất hông hiệu quả

Cập nhập, iến thức, văn bản pháp luật Đào tạo, tập huấn các, iến thức, ỹ năng chuyên môn Đào tạo ỹ năng, hiểu biết nắm bắt tâm l nạn nhân và người phạm tội Đào tạo iến thức ỹ năng giao tiếp, tiếp xúc với nạn nhân, người phạm tội Đào tạo hác (ghi rõ)……………… …………………………………………

. ng/ à đánh giá như thế nào ề nguồn lực ật chất phục ụ cho iệc thực thi nhiệm ụ của các đơn ị thực hiện chức năng ảo ệ qu ền của nạn nh n nữ ị m hại tình ục tại cơ quan ông/ à

Đầ đủ

hông đầ đủ

Kinh phí cho thực thi nhiệm vụ chuyên môn Cơ sở vật chất (trụ sở làm việc) Trang thiết bị phục vụ cho việc thực thi nhiệm vụ chuyên môn

Trận trọng cảm ơn qu ng/ à!

214

Phụ lục 6

1. Phương pháp ác định cỡ mẫu

Để thực hiện nghiên cứu định lượng, mẫu hảo sát sẽ được lựa chọn thông qua

phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, với dữ liệu ban đầu, NCS có được là tổng số người

cả nước năm 2019 là 9 .484.000 người [171, tr. 821].

“Lựa chọn mức nghĩa là 95% (r); tỷ lệ ước lượng trước 0,5 (p); chọn hoảng tin

cậy .5% (m), sử dụng công thức tính mẫu hi ước lượng tỷ lệ (%), chọn không lặp và

không biết trước p như sau:

Ký hiệu trong công thức:

: hệ số tin cậy ứng với mức tin cậy r định trước

nếu r = 0.95 thì  = 1.96; nếu r = 0.99 thì  = 2.58

c tổng thể N:

p: tỷ lệ cần ước lượng, ví dụ 0.34. Nếu không biết thì lấy 0.5

m: phạm vi sai số ước lượng (khoảng tin cậy = p  m).

n: c mẫu” [105, tr. 81-82]

Thay thế các số liệu vào công thức trên, c mẫu cần phải điều tra là:

NCS tiến hành điều tra chọn mẫu bằng phiếu hỏi với c mẫu là 784 người, thêm

16 người điều tra dự phòng, nên tổng mẫu thực tế điều tra là 800 người dân ở sáu vùng

KT-XH của cả nước. Đối với việc điều tra các bộ tư pháp, quy mô mẫu được NCS chọn

ngẫu nhiên là 300 cán bộ làm việc tại toà án, viện iểm sát, cơ quan điều tra của công an

để tiến hành điều tra, vì quy mô tổng thể (N) hông thể xác định chính xác được nên

hông thể tính chính xác c mẫu cần điều tra. Các cán bộ này được điều tra tại các cơ

quan tư pháp đóng trên các địa bàn tiến hành điều tra người dân.

2. Phương pháp chọn mẫu

Địa bàn tiến hành khảo sát là: (1) Trung du và miền núi phía Bắc (gồm 14 tỉnh:

Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La,

Yên Bái, Hòa Bình, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ); (2) Đồng bằng sông

Hồng (gồm 11tỉnh/thành: Hà Nội, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hải

Phòng, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình); (3) Bắc Trung Bộ và

215

Duyên hải miền Trung (gồm 14 tỉnh/thành: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng

Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định,

Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận); (4) Tây Nguyên (gồm 05 tỉnh: Kon

Tum, Gia Lai, Đắk Lắ , Đắ Nông, Lâm Đồng); (5) Đông Nam Bộ (gồm 06 tỉnh/thành:

Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - V ng Tàu, TP Hồ Chí Minh);

( ) Đồng bằng sông Cửu Long (gồm 13 tỉnh thành: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà

Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng,

Bạc Liêu, Cà Mau).

ẫu hảo sát sẽ được lựa chọn thông qua phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân

tầng bốn giai đoạn:

- Giai đoạn 1: chọn các tỉnh thành. Từ vùng KT-XH nêu trên với phương pháp

chọn mẫu có chủ đích, NCS chọn mỗi vùng 2 tỉnh/ thành có tình trạng XHTD với phụ

nữ và trẻ em gái diễn ra nhiều nhất trong những năm qua. Theo đó các tỉnh thành được

chọn là:

+ Trung du và miền núi phía Bắc, chọn 2 tỉnh: Lạng Sơn, Lào Cai;

+ Đồng bằng sông Hồng, chọn 2 tỉnh/thành: Hà Nội và Hải Phòng

+ Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung chọn: Đà Nẵng và Thừa Thiên Huế

+ Tây Nguyên, chọn: Đắ Nông và Lâm Đồng

+ Đông Nam Bộ, chọn: Thành phố Hồ Chí inh và Bình Dương

+ Tây Nam Bộ, chọn: Cần Thơ và Kiên Giang.

- Giai đoạn 2: Chọn các điểm điều tra (các quận, huyện). Điểm điều tra được chọn

ra theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng với 1 địa bàn hu vực nông thôn

và một địa bàn ở hu vực đô thị.

- Giai đoạn : Chọn các phường và xã. Các phường và xã được lựa chọn theo

phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản, mỗi quận chọn ra một phường và mỗi

huyện chọn ra 1 xã.

- Giai đoạn 4: Chọn đơn vị điều tra. Từ các phường và xã được chọn, NCS tiếp tục

sử dụng phương pháp chọn mẫu định mức để xác định các đơn vị điều tra. Với phương

pháp chọn mẫu định mức, NCS phân các cá nhân tại các địa bàn nghiên cứu thành các

nhóm theo lứa tuổi sau đó dùng phương pháp chọn mẫu thuận tiện, mẫu có chủ đích để

chọn các đối tượng để tiến hành điều tra.

Cơ cấu mẫu sẽ phản ánh đúng cơ cấu của tổng thể theo đó bảng cơ cấu mẫu như

sau:

216

ảng 1: Mẫu điều tra đối tượng người n

Phân bổ mẫu điều tra

Số người

Tỷ lệ

V ng inh tế- ã hội

Các địa phương chọn mẫu

1. Trung du miền núi phía bắc Lạng Sơn

13%

2. Đồng bằng sông Hồng

23%

. Bắc Trung Bộ

21%

4. Tây Nguyên

6%

5. Đông Nam Bộ

19%

Lào Cai Hà Nội Hải Phòng Đà Nẵng Thừa Thiên Huế Đă Nông Lâm Đồng TP. Hồ Chí inh Bình Dương

6. Đồng bằng sông Cửu Long Cần Thơ

18%

Kiên Giang

Tổng Đặc điểm mẫu điều tra

1. Giới tính

2. Thành phần dân tộc

3. Địa bàn sinh sống

4. Trình độ học vấn

52 52 92 92 84 84 24 24 76 76 72 72 800 Số người 390 410 726 74 542 258 26 36 226 402 46 69

100% Tỷ lệ 48,8% 51,3% 90,8% 9,3% 67,8% 32,3% 3,3% 4,5% 28,3% 50,3% 5,8% 8,0%

Nam Nữ Kinh Dân tộc thiểu số Nông thôn Đô thị Chưa tốt nghiệp tiểu Học Tốt nghiệp tiểu học Tốt nghiệp trung học cơ sở Tốt nghiệp trung học phổ thông Tốt nghiệp Trung cấp, Cao đẳng Tốt nghiệp đại học, trên đại học Nguồn: Tổng hợp của tác giả (2020)

217

Phụ lục 7

Một số kết quả ph n tích iểm định các nh n tố tác động đến qu ết định lựa

chọn giải quyết vụ án bằng con đường tư pháp hình sự của NNN bị XHTD ở Việt

Nam

1. iểm định chất lượng thang đo ằng hệ số Cron ach Alpha

Dựa trên nền tảng l thuyết, tác giả xác định các nhóm nhân tố chính tác động đến

việc lựa chọn cách giải quyết vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục thông qua con

đường tư pháp hình sự, mỗi nhóm nhân tố sẽ được đo lường bằng các chỉ báo cấp độ

nhỏ hơn. Tác giả iểm định độ tin cậy của các biến quan sát thông qua hệ số Cronbach

Alpha (Bảng 1).

ảng 1: Tổng hợp ết quả ph n tích thang đo ằng hệ số Cron ach Alpha

TT

Nhóm iến

Số iến

Cronbach Alpha 0.890 0.768

8 8

0.794

4

1 ức độ hiểu biết về các quyền và lợi ích hợp pháp 2 ức độ hiểu biết về cách thức tìm kiếm sự đền bù, khắc phục khi các quyền và lợi ích đó bị vi phạm 3 Khả năng chi trả cho các chi phí hi tham gia vào tố

tụng hay các chi phí hác

0.699 0.853

6 29

4 Định iến văn hóa, rào cản về tâm l 5 ức độ tin tưởng vào tính đúng đắn của luật pháp và việc thực thi pháp luật của các cơ quan công quyền

Nguồn: Kết quả xử l số liệu tác giả điều tra xã hội học (2020)

Kết quả iểm định chất lượng thang đo cho thấy các biến quan sát đều có hệ số

tương quan tổng biến phù hợp 0. ; hệ số Cronbach Alpha tại Bảng 1 đều 0. 99

điều đó cho thấy các biến quan sát đều đạt yêu cầu về độ tin cậy.

2. Ph n tích nh n tố hám phá

Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. Bartlett's Test of Sphericity

Approx. Chi-Square df Sig.

.891 21914.031 703 .000

ảng 2: iểm định MO à artlett s

Nguồn: Kết quả xử l số liệu tác giả điều tra xã hội học (2020)

Kết quả phân tích nhân tố cho thấy: Hệ số KMO = 0.891 điều này chứng tỏ dữ liệu

dùng để phân tích nhân tố là hoàn toàn thích hợp. Kết quả kiểm định Barlett’s là

21914.031 với mức nghĩa Sig. 0.000 0.05, điều đó cho thấy các biến quan sát

hông có tương quan với nhau trong tổng thể (Bảng 2).

218

Initial Eigenvalues

Extraction Sums of Squared Loadings

Component

Cumulative % Total

Cumulative %

Total

Total

% of Variance

Rotation Sums of Squared Loadings % of Variance

% of Variance

24.008 13.321 9.920 8.571 6.216 4.614

24.008 37.329 47.250 55.820 62.036 66.651

8.210 4.842 4.244 3.644 2.600 1.787

21.605 12.741 11.169 9.590 6.843 4.703

Cumulative % 21.605 34.346 45.515 55.105 61.948 66.651

9.123 5.062 3.770 3.257 2.362 1.753 .963 .878 .771 .740 .694 .647 .624 .582 .555 .503 .494 .430 .409 .377 .355 .346 .326 .304 .285 .273 .255 .245 .237 .214 .204 .189 .172 .154 .139 .114 .105 .090

24.008 13.321 9.920 8.571 6.216 4.614 2.535 2.311 2.028 1.947 1.827 1.703 1.643 1.531 1.461 1.323 1.300 1.130 1.076 .993 .933 .911 .858 .800 .749 .719 .670 .646 .624 .563 .538 .497 .453 .404 .365 .299 .276 .236

24.008 9.123 37.329 5.062 47.250 3.770 55.820 3.257 62.036 2.362 66.651 1.753 69.185 71.497 73.525 75.472 77.299 79.002 80.645 82.176 83.637 84.961 86.260 87.391 88.467 89.460 90.393 91.305 92.162 92.962 93.711 94.430 95.100 95.746 96.370 96.933 97.471 97.967 98.420 98.824 99.189 99.488 99.764 100.000

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38

Extraction Method: Principal Component Analysis.

ảng 3: Tổng phương sai được giải thích (Total Variance Explained)

Nguồn: Kết quả xử l số liệu tác giả điều tra xã hội học (2020)

Kết quả phân tích nhân tố khám phá (EFA) trong Bảng 3 cho thấy có 6 nhóm nhân

tố được trích rút với 38 biến quan sát. Phương sai trích của nhóm này đạt 66.651%, thể

hiện rằng nhân tố được trích rút giải thích được 66.651% sự biến thiên của dữ liệu.

219

Component

2

3

4

5

6

1 .913 .903

.891

.881

.878 .872

.871

.869

.869

.858

.537

.837 .827 .825 .761 .759 .749 .738

.674

.815

.777

.773

.753

.730

.719

.695

.889

.867 .839 .800 .772

.848

.839

.803

.652

.777

Các quy định pháp luật về bảo vệ nạn nhân Các quy định pháp luật về xử l thông tin tố giác Các quy định về hung hình phạt đối với các tội liên quan đến xâm hại tình dục Các quy định liên quan đến tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích hiêu dâm Các quy định pháp luật liên quan đến thủ tục pháp l Các quy định pháp luật về quấy rối tình dục Các quy định pháp luật hác liên quan đến xâm hại tình dục Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định tội Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định hành vi dâm ô Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định thế nào là hiếp dâm Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định thế nào là cư ng dâm Dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi Lợi dụng tình trạng người dưới 1 tuổi A biết được thông tin bí mật nào đó của B Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được A Lợi dụng tình trạng quẫn bách về inh tế của B Sờ, bóp, hôn vào những bộ phận nhạy cảm Dùng v lực, đe dọa dùng v lực để cọ sát Quan hệ tình dục, thự hiện hành vi tình dục hác với vợ, người yêu dưới 1 tuổi Các thủ tục phải làm để nạn nhân bị xâm hại tình dục bảo vệ quyền Các thủ tục nạn nhân bị xâm hại tình dục cần phải tiếp cận Các thủ tục phải làm để nạn nhân bị xâm hại tình dục được cơ quan chức năng đưa đi giám định pháp y Những việc nạn nhân bị xâm hại tình dục phải làm để được hỗ trợ, tư vấn pháp l Các quy định pháp luật liên quan đến xâm hại tình dục Những việc cần phải làm để lưu giữ bằng chứng Các thủ tục phải làm để nạn nhân bị xâm hại tình dục có thể trình báo vụ việc của mình cho cơ quan chức năng Tính nghiêm minh, đúng đắn trong các phán quyết của tòa X t xử đảm bảo tính công bằng Các nạn nhân được đền bù một cách thỏa đáng X t xử đúng pháp luật X t xử thấu tình đạt l Chi phí phải bỏ ra cho việc đi lại, ăn nghỉ để theo đuổi vụ việc Chi phí phi chính thức để vụ việc của mình được quan tâm, x t xử thỏa đáng Chi phí nạn nhân, gia đình nạn nhân bị mất do nghỉ làm để có thời gian theo đuổi vụ việc Chi phí chính thức để thực hiện thủ tục tố tụng Các vụ xâm hại tình dục xảy ra là do nạn nhân thiếu cảnh giác với những kẻ lạ/nguy hiểm Phụ nữ, trẻ em gái hi đã bị xâm hại tình dục

.743

ảng 4: Ma trận nhân tố với phương pháp oa Varima

220

.720

Xâm hại tình dục xảy ra một phần do lỗi của nạn Extraction Method: Principal Component Analysis. Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization. a. Rotation converged in 5 iterations.

Nguồn: Kết quả xử l số liệu tác giả điều tra xã hội học (2020)

Các hệ số tải nhân tố trong Bảng 4 đều lớn hơn 0.5 và hông có trường hợp biến

nào cùng lúc tải lên cả hai nhân tố với hệ số tải gần nhau điều đó cho thấy các nhân tố

đảm bảo được giá trị hội tụ và phân biệt khi phân tích EFA. Ngoài ra không có sự xáo

trộn các nhân tố, nghĩa là câu hỏi của nhân tố này không bị nằm lẫn lộn với câu hỏi của

nhân tố ia. Do vậy, sau hi phân tích nhân tố thì các nhân tố độc lập này được giữ

nguyên, không bị tăng thêm hoặc giảm đi nhân tố.

3. Ph n tích sự tác động của các nhóm nh n tố đến qu ết định lựa chọn giải

qu ết XHTD ằng mô hình hồi qu nhị ph n inar Logistic

Do biến phụ thuộc là biến nhị phân nhận 2 giá trị là: 0 nếu hông lựa chọn giải

quyết vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự và là 1 nếu lựa chọn giải quyết vụ

việc thông qua con đường tư pháp hình sự nên chúng tôi sử dụng mô hình hồi quy nhị

phân để phân tích sự tác động của các nhóm nhân tố đến biến phụ thuộc. Sau hi chạy

thử nhiều mô hình và loại bỏ các biến có mức nghĩa thống ê lớn hơn 0.05 chúng tôi

chọn được mô hình phù hợp nhất đánh giá sự tác động của các nhóm nhân tố đến việc

lựa chọn giải quyết vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự. ức độ dự báo chính

xác của toàn mô hình đạt 84.1%.

ảng 5: iểm định các nh n tố tác động đến lựa chọn giải qu ết ụ iệc thông qua con

B

S.E.

Wald

df

Sig.

Exp(B)

.032

.009

11.995

1

.001

1.033

-.151

.101

2.267

1

.032

.860

-.728 -.710

.765 .206

.905 11.817

1 1

.042 .001

.483 .492

Step 1a

.539

.226

5.695

1

.017

1.714

Tuổi Không tin tưởng sự đúng đắn của pháp luật hình sự Không hiểu biết pháp luật hình sự Định iến văn hóa, tâm l ức độ hiểu biết về thủ tục tố tụng hình sự Tin tưởng vào thực thi pháp luật hình sự Constant

.181 -1.939

.169 1.224

1.136 2.510

1 1

.027 .113

1.198 .144

a. Variable(s) entered on step 1: Tuổi, Không tin tưởng sự đúng đắn của pháp luật, hông hiểu biết pháp luật, Định iến văn ho a và tâm l , mức độ hiểu biết về thủ tục tố tụng, Tin tưởng vào thực thi pháp luật

đường tư pháp hình sự ằng mô hình hồi qu nhị ph n Binary Logistic)

Nguồn: Kết quả xử l số liệu tác giả điều tra xã hội học (2020)

Như vậy mô hình hồi quy tổng quát có dạng:

Ln(odds)= -1.939+ 0.32*X1 -0.151*X2 -0.728*X3 -0.710*X4 +0.0539*X5 +

0.18*X6

221

ảng 6: Vai tr ảnh hưởng của các nhóm nh n tố tác động đến lựa chọn giải qu ết

ụ iệc thông qua con đường tư pháp hình sự

STT

iến

B

EXP(B) ác suất an

Vị trí ảnh hưởng

Tốc độ tăng giảm %

đầu p0=21,5% P1 22.37%

0.87%

6

.032

1.033

X1

1 2

19.06%

2.44%

5

-.151

.860

X2

11.68% 11.87%

9.82% 9.63%

2 3

-.728 -.710

.483 .492

X3 X4

3 4 5

1

.539

1.714

43.53%

22.03%

X5

6

4

.181

1.198

26.9%

5.5%

X6

Tuổi Không tin tưởng sự đúng đắn của pháp luật hình sự Không hiểu biết pháp luật hình sự Định iến văn hóa, tâm l ức độ hiểu biết về thủ tục tố tụng hình sự Tin tưởng vào thực thi pháp luật hình sự

Nguồn: Kết quả xử l số liệu tác giả điều tra xã hội học (2020)

Từ mô hình này chúng ta xác định được vai trò ảnh hưởng của các nhân tố đến lựa

chọn giải quyết vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự của NNN bị XHTD như

sau: mức độ hiểu biết về thủ tục TTHS (X5) có vị trí ảnh hướng cao nhất (nếu nạn nhân hay người thân của nạn nhân bị XHTD có thêm sức độ hiểu biết về thủ tục tố tụng hình

sự thì xác suất lựa chọn con đường tư pháp hình sự để giải quyết vụ án của họ tăng lên

22.03%) và yếu tố tuổi (X1) có vị trí ảnh hưởng thấp nhất (Bảng 6). Vì thế, để gia tăng xác suất lựa chọn giải quyết vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự của của NNN

bị XHTD cần phải năng cao mức độ hiệu biết về PLHS và pháp luật về TTHS.

222

Phụ lục 8

IÊN ẢN PHỎNG VẤN BÁN CẤU TRÚC (Dành cho cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp, cơ quan hành chính)

Kính thưa Ông/Bà! Để có căn cứ khoa học cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp l đảm

bảo quyền tiếp cận công l của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam. Tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Cơ chế pháp lý đảm bảo quyền tiếp cận công lý của nạn nhân

nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam”. Ý iến đóng góp của ông bà sẽ giúp ích cho tôi trong việc hoàn thiện đề tài nghiên cứu của mình. Mong ông (bà) vui lòng trao đổi về những vấn đề cơ bản liên quan đến quyền tiếp cận công l của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục. Thông tin mà ng/Bà cung cấp chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học ngoài ra không sử dụng vào mục đích nào hác. Các thông tin hoàn toàn được lưu giữ

dưới dạng huyết danh.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của ông/bà!

A. MỘT SỐ TH NG TIN CÁ NH N NGƯỜI THAM GIA PHỎNG VẤN A1. Giới tính: 1. Nam 2. Nữ A2. Năm sinh: …………

A3. Trình độ học ấn cao nhất ở thời điểm hiện tại

. Tốt nghiệp đại học hoặc trên đại học

1. Tốt nghiệp THPT 2. Tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng 4. Khác (ghi rõ)..

A4. Thành phần n tộc

1. Kinh 2. Các dân tộc thiểu số hác (ghi rõ)

A5.Tỉnh/thành phố đang sinh sống hiện nay: .........

A . hu ực/địa àn ông/ à đang sinh sống

1. Nông thôn 2. Đô thị

A . Cơ quan, đơn ị nơi ông/ à đang công tác 1. Cơ quan điều tra 2. Viện iểm sát 3. Tòa án các cấp

3. Cơ quan thi hành án 4. Khác

. NHỮNG NHẬN ĐỊNH CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN M HẠI TÌNH

ỤC

1. ng à đánh giá như thế nào ề quan điểm sau: 1. Xâm hại tình dục xảy ra một phần do lỗi của nạn nhân (ăn mặc quá hở hang, hông iên quyết chống lại hành vi xâm hại; tin theo lời dụ dỗ, nạn nhân hơi dậy sự

ham muốn ở hung thủ).

2. Phụ nữ, trẻ em gái hi đã bị xâm hại tình dục hông còn trinh tiết thì đã mất đi

“giá trị”, hó có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc.

223

. Việc công bố công hai vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục chỉ làm nạn

nhân tổn thương thêm.

4. Tố giác với các cơ quan chức năng về việc người thân trong gia đình như (ông,

cha, anh chị em) có hành vi xâm hại, lạm dụng tình dục đối với mình hay với người

hác sẽ làm ảnh hưởng đến thanh danh, hạnh phúc của gia đình.

5. Nạn nhân bị xâm hại tình dục hi ể lại câu chuyện của mình phải thể hiện sự sợ

hãi, bất lực hoặc phải có những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ.

. Những người ể lại việc bị xâm hại tình dục một cách bình tĩnh, mạch lạc, rõ

ràng thì hông đáng tin cậy.

7. Khi đã ết hôn thì phải luôn sẵn sàng quan hệ tình dục với người bạn đời của

mình.

2. Một số nạn nh n hi ị m hại tình ục thường lựa chọn giữ í mật

nhằm ảo ệ thanh anh gia đình, hạnh phúc ề sau cho ản th n, ông/ à đánh giá như thế nào ề sự lựa chọn nà

3 Theo ông/ à nạn nh n có nên tìm cách thương lượng, h a giải ới ẻ

phạm tội để được đền thỏa đáng à để giữ ín iệc nà nhằm đảm ảo hạnh phúc, ên ổn à chấm ứt nỗi đau một cách nhanh chóng

B4. Theo ông/ à nạn nh n ị m hại tình ục nên làm gì để giải qu ết ụ

iệc

C. ĐÁNH GIÁ VỀ HUNG PHÁP LÝ ĐẢM ẢO QUYỀN TIẾP CẬN

C NG LÝ CỦA NẠN NH N Ị M HẠI TÌNH ỤC

C1. ng à đánh giá như thế nào ề mức độ hoàn thiện của các qu định

pháp luật liên quan đến m hại tình ục trước hi Nghị qu ết số 06/2019/NQ-

HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng th m phán T a án nh n n tối cao được

an hành?

1. Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định thế nào là hiếp dâm.

2. Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định thế nào là cư ng dâm.

. Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định tội giao cấu hoặc thực hiện

hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 1 đến dưới 16 tuổi.

4. Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định hành vi dâm ô. 5. Các quy định về hung hình phạt đối với các tội liên quan đến xâm hại tình dục. . Các quy định liên quan đến tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích hiêu

dâm.

7. Các quy định pháp luật về quấy rối tình dục. 8. Các quy định pháp luật về xử l thông tin tố giác, tin báo tội pham liên quan đến

xâm hại tình dục.

224

9. Các quy định pháp luật liên quan đến thủ tục pháp l trong giải quyết vụ án xâm

hại tình dục.

10. Các quy định pháp luật về bảo vệ nạn nhân trong quá trình thu thập chứng cứ

liên quan đến vụ xâm hại tình dục.

11. Các quy định pháp luật liên quan đến sự vận hành của bộ máy (tổ chức) thực

hiện pháp luật đảm bảo quyền tiếp cận công l cho nạn nhân bị xâm hại tình dục.

12. Các quy định pháp luật hác liên quan đến xâm hại tình dục.

. ĐÁNH GIÁ VỀ THIẾT CHẾ TỔ CHỨC Ộ MÁY ĐẢM ẢO QUYỀN

TIẾP CẬN C NG LÝ CHO NẠN NH N NỮ Ị M HẠI TÌNH ỤC

Hiện tại các thiết chế đảm bảo quyền của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở nước

ta bao gồm: (1) Các thiết chế tư pháp như: t a án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án; (2) Các thiết chế giám sát (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp,

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân); (3) Các thiết chế hỗ trợ và trợ giúp pháp

lý.

D1. ng à đánh giá như thế nào ề các thiết chế trong iệc đảm ảo qu ền

của nạn nh n nữ ị m hại tình ục của nước ta hiện na

1. Đánh giá về tổ chức bộ máy liên quan đến đảm bảo quyền của nạn nhân nữ bị

xâm hại tình dục.

2. Đánh giá về vị trí, chức năng của các cơ quan trong bộ máy đảm bảo quyền của

nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục.

. Đánh giá về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy đảm bảo quyền

của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục.

4. Đánh giá về cơ chế vận hành các thiết chế đảm bảo quyền của nạn nhân nữ bị

xâm hại tình dục.

5. Đánh giá về sự phối hợp hoạt động của các cơ quan trong bộ máy đảm bảo

quyền tiếp cận công l của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục.

D2. Ông/ à đánh giá như thế nào ề tính hiệu quả trong hoạt động ảo ệ

qu ền à lợi ích hợp pháp của nạn nh n nữ ị m hại tình ục của các cơ quan, tổ chức sau đ

1. Tính hiệu quả trong hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp. 2. Tính hiệu quả trong hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân các cấp. . Tính hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan điều tra. 4. Tính hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan thi hành án.

5. Tính hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan quản l nhà nước có chức năng

bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em.

. Tính hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan tư vấn trợ giúp pháp l

225

7. Tính hiệu quả trong hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

8. Tính hiệu quả trong hoạt động của ặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

3. ng à đánh giá như thế nào ề hoạt động phối hợp giữa các thiết chế

sau trong ảo đảm qu ền tiếp cận công lý của nạn nh n nữ ị m hại tình ục

1. Sự phối hợp trong hệ thống Tòa án các cấp với nhau.

2. Sự phối hợp trong hệ thống Viện iểm sát với nhau. 3. Sự phối hợp trong hệ thống cơ quan điều tra với nhau.

3. Sự phối hợp giữa Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra và cơ quan thi hành

án.

4. Sự phối hợp trong hệ thống các cơ quan quản l nhà nước có chức năng bảo vệ

quyền của phụ nữ, trẻ em.

5. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản l nhà nước có chức năng bảo vệ quyền của

phụ nữ, trẻ em với các cơ quan tư pháp.

6. Sự phối hợp giữa cơ quan tư pháp với Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp.

D4. Ông/ à đánh giá như thế nào ề hoạt động t các ụ án liên quan đến

m hại tình ục của hệ thống t a án tại địa phương

1. X t xử đúng pháp luật.

2. X t xử thấu tình đạt l .

. X t xử đảm bảo tính công bằng.

4. Các nạn nhân được đền bù một cách thỏa đáng những thiệt hại mà họ phải gánh

chịu đựng.

5. Tính nghiêm minh, đúng đắn trong các phán quyết của tòa.

D5. Ông/ à đánh giá như thế nào ề các chi phí chính thức à chi phí phi

chính thức mà các nạn nh n nữ ị m hại tình ục phải ỏ ra để ụ iệc của mình

được t ởi t a án

1. Chi phí chính thức để thực hiện thủ tục tố tụng.

2. Chi phí phi chính thức để vụ việc của mình được quan tâm, x t xử thỏa đáng.

3. Chi phí phải bỏ ra cho việc đi lại, ăn nghỉ để theo đuổi vụ việc. 4. Chi phí nạn nhân, gia đình nạn nhân bị mất do nghỉ làm để có thời gian theo

đuổi vụ việc.

D6. ng/ à đánh giá như thế nào ề thủ tục và thời gian giải quyết ụ iệc

liên quan đến m hại tình ục của các thiết chế tư pháp chính thức (Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nh n n, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án ?

1. Tính đơn giản dễ thực hiện của thủ tục 2. Tính rõ ràng của thủ tục

226

3. Sự phù hợp về thời gian giải quyết thủ tục của từng công đoạn (tiếp nhận và giải

quyết tin tố giác tội phạm; khởi tố; điều tra; truy tố; xét xử; thi hành án)

. ng/ à đánh giá như thế nào ề thời gian thực thi các phán qu ết của t a

trong giải qu ết ụ án liên quan đến m hại tình ục

E. ĐÁNH GIÁ VỀ NGUỒN LỰC ĐẢM ẢO QUYỀN TIẾP CẬN C NG

LÝ CHO NẠN NH N NỮ Ị M HẠI TÌNH ỤC

E1. Ông/ à đánh giá như thế nào ề số lượng à cơ cấu của đội ng cán ộ tại

các ộ phận có chức năng nhiệm ụ đảm ảo qu ền cho nạn nh n nữ ị m hại tình ục tại cơ quan đơn ị nơi ông à đang công tác

1. Số lượng cán bộ, công chức viên chức.

2. Cơ cấu về độ tuổi của đội ng cán bộ, công chức, viên chức. . Cơ cấu về giới tính của đội ng cán bộ, công chức, viên chức.

4. Cơ cấu về trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ của đội ng cán bộ, công

chức, viên chức.

5. Cơ cấu về thành phần dân tộc của đội ng cán bộ công chức, viên chức.

E2. Ông/ à cho iến đánh giá ề năng lực thực thi nhiệm ụ của đội ng cán ộ,

công chức làm nhiệm ụ thực hiện pháp luật ảo ệ nạn nh n nữ ị m hại tình ục

tại cơ quan đơn ị nơi ông à công tác trên các hía cạnh sau 1. Khả năng hiểu biết, nắm rõ các quy định pháp luật.

2. Khả năng áp dụng các quy định pháp luật vào giải quyết vụ việc cụ thể.

. Năng lực thực hiện các ỹ năng, nghiệp vụ của ngành.

4. Khả năng nắm bắt diễn biến tâm l , cảm xúc của nạn nhân và người phạm tội.

5. Sự nhiệt tình, trách nhiệm với công việc.

. Sự trung thực, đúng đắn trong thực hiện nhiệm vụ.

E3. Ông/ à đánh giá như thế nào ề các nhận định sau đ 1. Các cán bộ tiếp nhận, giải quyết vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục thường

ứng xử thiếu sự đồng cảm với nạn nhân.

2. Các cán bộ tiếp nhận, giải quyết vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục thường không nhạy cảm với những trải nghiệm, sang chấn tâm lý mà nạn nhân bị xâm hại tình dục phải chịu đựng.

. Khi tiếp nhận, xử l vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục, còn hiện tượng đùn

đẩy trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ của các cơ quan công quyền.

4. Còn hiện tượng n tránh, đùn đẩy án giữa các cơ quan và cấp xét xử.

E4. Ông/ à cho iến đánh giá ề các hóa, đào tạo tập huấn n ng cao năng lực thực thi nhiệm ụ cho những người thực hiện bảo đảm qu ền tiếp cận công lý

của nạn nh n nữ ị m hại tình ục mà ông/ à đã tham gia?

227

1. Cập nhập, iến thức, văn bản pháp luật.

2. Đào tạo, tập huấn các, iến thức, ỹ năng chuyên môn. . Đào tạo ỹ năng, hiểu biết nắm bắt tâm l nạn nhân và người phạm tội.

4. Đào tạo iến thức ỹ năng giao tiếp, tiếp xúc với nạn nhân, người phạm tội.

5. Đào tạo hác (ghi rõ).

E5. Ông/ à đánh giá như thế nào ề nguồn lực ật chất phục ụ cho iệc thực

thi nhiệm ụ của các đơn ị có chức năng bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn

nh n nữ ị m hại tình ục

1. Kinh phí cho thực thi nhiệm vụ chuyên môn.

2. Cơ sở vật chất (trụ sở làm việc).

. Trang thiết bị phục vụ cho việc thực thi nhiệm vụ chuyên môn.

Trận trọng cảm ơn qu ng/ à!

228

Phụ lục 9

DANH SÁCH CÁN BỘ TRẢ LỜI PHỎNG VẤN BÁN CẤU TRÚC

STT ĐƠN VỊ CÔNG TÁC

Kiểm sát viên VKSND huyện Phú Tân, Cà Mau Kiểm sát viên trung cấp VKSND thành phố Cần Thơ Cán bộ Sở LĐTBXH tỉnh Kiên Giang Thẩm phán TAND TP Rạch Giá, Kiên Giang Thẩm phán trung cấp TAND tỉnh Cà Mau Cán bộ cơ quan điều tra hình sự Cần Thơ Thẩm phán trung cấp TAND tỉnh Hải Dương 1 2 3 4 5 6 7 THỜI GIAN PHỎNG VẤN 7/03/2019 21/4/2019 4/5/2019 6/7/2019 20/9/2019 12/11/2019 05/01/2020

229

Phụ lục 10

1. Lý thuyết tiếp cận dựa trên quyền con người Lý thuyết tiếp cận dựa trên quyền con người lấy các tiêu chuẩn về quyền con

người làm cơ sở để xác định kết quả mong đợi và lấy các nguyên tắc về quyền con

người làm điều kiện, khuôn khổ cho quá trình đạt được kết quả đó.

Sử dụng các tiêu chuẩn và nguyên tắc về quyền con người làm cơ sở và mục tiêu

cho hoạt động là đích mà cách tiếp cận dựa trên quyền con người hướng tới. Khác với

cách tiếp cận khác, tiếp cận dựa trên quyền con người không chỉ quan tâm tới việc đạt

được mục tiêu mà còn quan tâm thích đáng tới quy trình, cách thức được lựa chọn để đạt

được những mục tiêu đó với mục đích hỗ trợ người dân tham gia tích cực vào phát triển, chứ không phải chỉ là người hưởng lợi thụ động từ các chính sách của nhà nước. Tiếp

cận dựa trên quyền con người có nội dung cơ bản sau:

- Sử dụng những tiêu chuẩn và nguyên tắc cơ bản về quyền con người làm tiêu chí

hướng dẫn quá trình hoạch định và thực thi chính sách c ng như các chương trình và dự

án phát triển. Bởi lẽ, các tiêu chuẩn và nguyên tắc về quyền con người phản ánh những giá trị chung nhất được thừa nhận trong các điều ước quốc tế cơ bản về quyền con

người. Do đó, các tiêu chuẩn và nguyên tắc về quyền con người sẽ là cơ sở pháp lý cho

việc xây dựng các mục tiêu phát triển, c ng như cho hoạt động để đạt được các mục tiêu

đó.

- Làm rõ mối quan hệ tương ứng giữa chủ thể của quyền và chủ thể có nghĩa vụ

thực hiện quyền. Về nguyên tắc, nhà nước có nghĩa vụ chính trong việc đảm bảo quyền

con người cho tất cả mọi người. Tuy nhiên trên thực tế, vì nhiều lý do khác nhau, vẫn có

những quyền của cá nhân hay nhóm xã hội nào đó chưa thể được thực hiện. Do đó, tiếp

cận dựa trên quyền nhấn mạnh đến việc xác định các quan hệ quyền và trách nhiệm giữa

các chủ thể, xác định vai trò của các cá nhân, nhóm xã hội trong việc đòi hỏi được đáp

ứng các quyền của họ; đồng thời nhấn mạnh vai trò của bên có trách nhiệm trong việc

thực hiện các quyền của cá nhân, nhóm xã hội một cách công khai, minh bạch mà không có sự phân biệt đối xử...

- Phân tích và đánh giá năng lực của chủ thể quyền và chủ thể có nghĩa vụ thực hiện quyền. Đối với chủ thể quyền, các năng lực quan trọng nhất gồm: năng lực nhận thức, năng lực hành vi và năng lực về vị thế xã hội, nếu thiếu một trong các năng lực trên sẽ là trở ngại để họ thực hiện các quyền của mình. Đối với chủ thể có nghĩa vụ thực

hiện quyền, các năng lực quan trọng nhất gồm: năng lực nhận thức, năng lực tổ chức, năng lực con người (lãnh đạo, quản lý, công chức, nhân viên), năng lực về tài chính... Phân tích, đánh giá năng lực của các chủ thể là khâu quan trọng then chốt để xác định

230

năng lực nào mà chủ thể quyền đang thiếu hụt; năng lực nào mà chủ thể có nghĩa vụ

thực hiện quyền đang thiếu hụt, từ đó xây dựng các chiến lược hành động cụ thể, đề xuất các biện pháp sửa đổi, bổ sung hoàn thiện sự thiếu hụt đó để hỗ trợ họ hoàn thành tốt

quyền và nghĩa vụ của mình.

- Chú quan tâm đến nhóm dễ bị tổn thương, đặc biệt nhóm người bị thiệt thòi

nhất và bị loại ra khỏi quá trình phát triển. Mục tiêu của phương pháp tiếp cận dựa trên quyền là bảo đảm các quyền nhiều hơn cho mọi người. Đó c ng là yêu cầu của tiến bộ

và công bằng xã hội. Vì vậy, lẽ tự nhiên nó phải hướng đến nhóm người dễ bị tổn

thương và bị thiệt thòi nhiều nhất trong đời sống xã hội, như người nghèo, phụ nữ, trẻ

em, người khuyết tật, người nhiễm HIV/AIDS, v.v.. Do vậy, trách nhiệm của các nhà

hoạch định chính sách phải “làm hết sức mình để đảm bảo các quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa cho những người bị thiệt thòi nhất và đảm bảo sự tham gia của họ trong quá

trình ra quyết định” [201].

2. Lý thuyết kỳ thị xã hội và lý thuyết rào cản tâm lý L thuyết ỳ thị xã hội (Stigma theory) của rving Goffman đã cho thấy rằng:

“các cá nhân với sự ỳ thị hay bị ỳ thị bởi các quy chuẩn, chuẩn mực chung sẽ hông hành động giống người bình thường. Sự ỳ thị, phân biệt đối xử sẽ hạn chế cơ hội sống

của người bị ỳ thị bởi những người này sẽ tự ti do lỗi sợ hãi vì mình hác biệt so với số

đông, hay rơi vào tình trạng bị thù hận” [238, tr. 133]. Cùng quan điểm với E. Goffman,

l thuyết rào cản tâm l của Gerhard Falk chỉ ra rằng “chúng ta và tất cả các xã hội sẽ

luôn kỳ thị một số điều kiện và một số hành vi bởi vì làm như vậy tạo ra sự đoàn ết của

nhóm bằng cách phân định người ngoài cuộc với người trong cuộc” [267].

Các lý thuyết này là những chỉ dẫn về mặt lý luận nhằm l giải sự tác động của yếu tố tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội (yếu tố văn hoá) tác động đến việc thực hiện pháp luật, c ng như tính hiệu quả trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức.

231

Phụ lục 11 SO SÁNH VÀ ĐỐI CHIẾU LHS N M 1999 SỬA ĐỔI N M 2 9 VÀ LHS N M 2 15 SỬA ĐỔI N M 2 1

STT

LHS 1999 SĐ 2 9

LHS 2 15 SĐ 2 1

Điều 111. Tội hiếp m 1. Người nào dùng v lực, đe dọa dùng v lực hoặc lợi dụng tình trạng hông thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn hác giao cấu với nạn nhân trái với muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

Điều 141. Tội hiếp m 1. Người nào dùng v lực, đe dọa dùng v lực hoặc lợi dụng tình trạng hông thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn hác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác trái với muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức; b) Đối với người mà người phạm tội có trách

a) Có tổ chức; b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo

dục, chữa bệnh;

Tội hiếp m

nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; c) Nhiều người hiếp một người; d) Phạm tội nhiều lần; đ) Đối với nhiều người; e) Có tính chất loạn luân; g) Làm nạn nhân có thai; h) Gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà tỷ

c) Nhiều người hiếp một người; d) Phạm tội 02 lần trở lên; đ) Đối với 02 người trở lên; e) Có tính chất loạn luân; g) Làm nạn nhân có thai; h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức hỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 1% đến 0%;

i) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

lệ thương tật từ 1% đến 0%; i) Tái phạm nguy hiểm. . Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân4:

a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức hỏe hoặc gây rối loạn tâm

a) Gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà tỷ

thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 1 % trở lên;

lệ thương tật từ 1% trở lên;

b) Biết mình bị nhiễm H V mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 4. Phạm tội đối với người từ đủ 1 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt

tù từ 05 năm đến 10 năm.

b) Biết mình bị nhiễm H V mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 4. Phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 1 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ năm năm

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại hoản 2 hoặc

232

đến mười năm.

hoản Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các hoản đó.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại hoản 2 hoặc hoản Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các hoản đó.

nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Điều 142. Tội hiếp m người ưới 1 tuổi 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù

từ 07 năm đến 15 năm:

Điều 112. Tội hiếp m trẻ em 1. Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 1 tuổi đến dưới 1 tuổi, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau

đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:

a) Dùng v lực, đe dọa dùng v lực hoặc lợi dụng tình trạng hông thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn hác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với người từ đủ 1 tuổi đến dưới 1 tuổi trái với muốn của họ;

b) Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với người

a) Có tính chất loạn luân; b) Làm nạn nhân có thai; c) Gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà tỷ

dưới 1 tuổi.

lệ thương tật từ 1% đến 0%;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

d) Đối với người mà người phạm tội có trách

từ 12 năm đến 20 năm:

Tội hiếp m trẻ em

nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; đ) Tái phạm nguy hiểm. . Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Có tính chất loạn luân; b) Làm nạn nhân có thai; c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức hỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 1% đến 0%; d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo

dục, chữa bệnh;

a) Có tổ chức; b) Nhiều người hiếp một người; c) Phạm tội nhiều lần; d) Đối với nhiều người; đ) Gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà tỷ

đ) Phạm tội 02 lần trở lên; e) Đối với 02 người trở lên; g) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

lệ thương tật từ 1%trở lên;

20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

e) Biết mình bị nhiễm H V mà vẫn phạm tội; g) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 4. ọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 1 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội

a) Có tổ chức; b) Nhiều người hiếp một người; c) Đối với người dưới 10 tuổi; d) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức hỏe hoặc gây rối loạn tâm

233

thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 1% trở lên;

bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.

đ) Biết mình bị nhiễm H V mà vẫn phạm tội; e) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Điều 113. Tội cưỡng m 1. Người nào dùng mọi thủ đoạn hiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cư ng giao cấu, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

Điều 143. Tội cưỡng m 1. Người nào dùng mọi thủ đoạn hiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cư ng giao cấu hoặc miễn cư ng thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

từ 0 năm đến 10 năm:

đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm: a) Nhiều người cư ng dâm một người; b) Cư ng dâm nhiều lần; c) Cư ng dâm nhiều người; d) Có tính chất loạn luân; đ) Làm nạn nhân có thai; e) Gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà tỷ

a) Nhiều người cư ng dâm một người; b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) Đối với 02 người trở lên; d) Có tính chất loạn luân; đ) Làm nạn nhân có thai; e) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức hỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 1 % đến 60%;

Tội cưỡng dâm

lệ thương tật từ 1% đến 0%; g) Tái phạm nguy hiểm. . Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau

đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười tám năm:

g) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

a) Gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà tỷ

từ 10 năm đến 18 năm:

lệ thương tật từ 1% trở lên;

a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức hỏe hoặc gây rối loạn tâm

thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 1% trở lên;

b) Biết mình bị nhiễm H V mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 4. Cư ng dâm người từ đủ 1 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ

b) Biết mình bị nhiễm H V mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 4. Cư ng dâm người chưa thành niên từ đủ 1 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

02 năm đến 07 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại hoản 2 hoặc hoản Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các hoản đó.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại hoản 2 hoặc hoản Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các hoản đó.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành

234

nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Điều 114. Tội cưỡng m trẻ em 1. Người nào cư ng dâm trẻ em từ đủ 1 tuổi đến

dưới 1 tuổi, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau

đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

Điều 144. Tội cưỡng m người từ đủ 13 tuổi đến ưới 1 tuổi 1. Người nào dùng mọi thủ đoạn hiến người từ đủ 1 tuổi đến dưới 1 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cư ng giao cấu hoặc miễn cư ng thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tính chất loạn luân; b) Làm nạn nhân có thai; c) Gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà tỷ

a) Có tính chất loạn luân; b) Làm nạn nhân có thai; c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức hỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 1% đến 60%;

lệ thương tật từ 1% đến 0%; d) Tái phạm nguy hiểm. . Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

Tội cưỡng m trẻ em

d) Phạm tội 02 lần trở lên; đ) Đối với 02 người trở lên; e) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

a) Nhiều người cư ng dâm một người; b) Phạm tội nhiều lần; c) Đối với nhiều người; d) Gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà tỷ

từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

lệ thương tật từ 1% trở lên;

a) Nhiều người cư ng dâm một người; b) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức hỏe hoặc gây rối loạn tâm

thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 1% trở lên;

đ) Biết mình bị nhiễm H V mà vẫn phạm tội;. e) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

c) Biết mình bị nhiễm H V mà vẫn phạm tội; d) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành

nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Điều 145. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành i quan hệ tình ục

hác ới người từ đủ 13 tuổi đến ưới 1 tuổi

Điều 115. Tội giao cấu ới trẻ em 1. Người nào đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 1 tuổi đến dưới 1 tuổi, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

Tội giao cấu ới trẻ em

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau

đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với người từ đủ 1 tuổi đến dưới 1 tuổi, nếu hông thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a) Phạm tội nhiều lần;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

235

từ 0 năm đến 10 năm:

b) Đối với nhiều người; c) Có tính chất loạn luân; d) Làm nạn nhân có thai; đ) Gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà tỷ

lệ thương tật từ 1% đến 0%.

. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau

a) Phạm tội 02 lần trở lên; b) Đối với 02 người trở lên; c) Có tính chất loạn luân; d) Làm nạn nhân có thai; đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà

đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 1% đến 0%;

a) Gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà tỷ

e) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo

lệ thương tật từ 1% trở lên;

dục, chữa bệnh.

b) Biết mình bị nhiễm H V mà vẫn phạm tội.

. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

từ 07 năm đến 15 năm:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà

tỷ lệ tổn thương cơ thể 1% trở lên;

b) Biết mình bị nhiễm H V mà vẫn phạm tội. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành

nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Điều 11 . Tội m ô đối ới trẻ em 1. Người nào đã thành niên mà có hành vi dâm ô

đối với trẻ em, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau

Điều 14 . Tội m ô đối ới người ưới 1 tuổi 1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 1 tuổi hông nhằm mục đích giao cấu hoặc hông nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục hác, thì bị phạt tù từ 0 tháng đến 0 năm.

đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

từ 0 năm đến 07 năm:

a) Phạm tội nhiều lần; b) Đối với nhiều trẻ em; c) Đối với trẻ em mà người phạm tội có trách

nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;

Tội m ô đối ới trẻ em

a) Phạm tội có tổ chức; b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) Đối với 02 người trở lên; d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo

dục, chữa bệnh;

đ) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn

thương cơ thể từ 1% đến 0%;

d) Gây hậu quả nghiêm trọng; đ) Tái phạm nguy hiểm. . Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười hai năm.

e) Tái phạm nguy hiểm. . Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

từ 07 năm đến 12 năm:

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ

236

tổn thương cơ thể 1% trở lên; b) Làm nạn nhân tự sát. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành

nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Điều 14 . Tội s ụng người ưới 1 tuổi ào mục đích hiêu

dâm

1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà lôi o, dụ dỗ, p buộc người dưới 1 tuổi trình diễn hiêu dâm hoặc trực tiếp chứng iến việc trình diễn hiêu dâm dưới mọi hình thức, thì bị phạt tù từ 0 tháng đến 0 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

từ 0 năm đến 07 năm:

a) Phạm tội có tổ chức; b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) Đối với 02 người trở lên; d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo

dục, chữa bệnh;

đ) Có mục đích thương mại; e) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn

Tội s ụng người ưới 1 tuổi ào mục đích hiêu dâm

thương cơ thể từ 1% đến 0%;

g) Tái phạm nguy hiểm. . Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù

từ 07 năm đến 12 năm:

a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn

thương cơ thể 1% trở lên;

b) Làm nạn nhân tự sát. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành

nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Nguồn: Tổng hợp của NCS cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật (2020)