HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐẶNG VIẾT ĐẠT
CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ
CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
HÀ NỘI – 2020
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐẶNG VIẾT ĐẠT
CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ
CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mã số: 938 01 06
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. TRƯƠNG HỒ HẢI
2. TS. LÊ ĐINH MÙI
HÀ NỘI – 2020
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án
Đặng Viết Đạt
ii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................................. i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................................... iv
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU ................................................................................ vi
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG
LÝ CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC .................................................. 9
1.1. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài luận án ................ 9
1.2. Đánh giá và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án ........................ 26
1.3. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết khoa học và khung phân tích lý thuyết ............... 27
CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP
CẬN CÔNG LÝ CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC ........................ 30
2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công
lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ..................................................................... 30
2.2. Các yếu tố cấu thành, tiêu chí đánh giá và yếu tố ảnh hưởng đến cơ chế
pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục .......... 48
2.3. Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm
hại tình dục ở một số quốc gia trên thế giới và giá trị tham khảo cho Việt Nam ........ 59
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN
TIẾP CẬN CÔNG LÝ CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở
VIỆT NAM .......................................................................................................................... 80
3.1. Những ưu điểm trong cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của
nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam giai đoạn 2014-2019 ........................... 80
3.2. Những nhược điểm trong cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý
của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam giai đoạn 2014-2019 ................... 109
3.3. Nguyên nhân những ưu, nhược điểm trong cơ chế pháp lý bảo đảm quyền
tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam giai đoạn
2014-2019 .............................................................................................................. 129
iii
CHƯƠNG 4: NHỮNG YÊU CẦU MỚI, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN C NG
LÝ CỦA NẠN NH N NỮ Ị XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM.................... 136
4.1. Những yêu cầu mới và quan điểm về hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm
quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam hiện
nay .......................................................................................................................... 136
4.2. Giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của
nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam .......................................................... 140
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 161
DANH MỤC CÁC C NG TRÌNH ĐÃ C NG Ố CỦA TÁC GIẢ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................................ 163
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 164
PHỤ LỤC .......................................................................................................................... 183
iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS BLHS BLHS năm 1999 BLHS năm 2015 BLTTHS CCPL CCTP CEDAW
CECODES CRC ECHR ĐBQH ĐTNCS HĐND HLHPL HTPL HVVP ICCPR
LĐTBXH KT-XH LHQ MOLISA NCS NNN NNPQ Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP
Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP
NSNN Bộ luật Dân sự Bộ luật hình sự Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Bộ luật Tố tụng hình sự Cơ chế pháp lý Cải cách tư pháp Công ước xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979 Trung tâm nghiên cứu hỗ trợ cộng đồng Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989 Công ước châu Âu về Nhân quyền Đại biểu Quốc hội Đoàn thanh niên cộng sản Hội đồng nhân dân Hội liên hiệp Phụ nữ Hệ thống pháp luật Hành vi vi phạm Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 Lao động, Thương binh và Xã hội Kinh tế - xã hội Liên hợp quốc Bộ lao động, Thương binh và Xã hội Nghiên cứu sinh Nạn nhân nữ Nhà nước pháp quyền Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành một số biểu mẫu trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của BLTTHS Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của BLHS và việc xét xử vụ án XHTD người dưới 18 tuổi Ngân sách nhà nước
v
NXB PLHS PNTEG QCN QH QTCCL Nghị quyết số 49-NQ/TW Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
Nhà xuất bản Pháp luật hình sự Phụ nữ và trẻ em gái Quyền con người Quốc hội Quyền tiếp cận công lý
NCS TAND TANDTC TCCL TCN TNHS TTHS Thông tư số 01/2017/TT- TANDTC Thông tư số 02/2018/TT- TANDTC
liên tư
Thông tư số 06/2018/TTLT- VKSNDTC-TANDTC- BCA-BTP-BLĐTBXH
trị về Chiến lược CCTP đến năm 2020 Nghiên cứu sinh Toà án nhân dân Toà án nhân dân tối cao Tiếp cận công lý Trước công nguyên Trách nhiệm hình sự Tố tụng hình sự Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 cả Chánh án TANDTC quy định về phòng xử án Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/9/2018 cả Chánh án TANDTC quy định chi tiết việc xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Toà Gia đình và người chưa thành niên Thông tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC- TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 giữa VLSNDTC, TANDTC, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ LĐTBXH về phối hợp thực hiện một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi Uỷ ban thường vụ Uỷ ban nhân dân Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 Chương trình phát triển của Liên hợp quốc Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Xâm hại tình dục Viện kiểm sát nhân dân Viện kiểm sát nhân dân tối cao
UBTV UBND UDHR UNDP UNICEF VCCI XHTD VKSND VKSNDTC
vi
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU
Trang
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1. 1: Khung phân tích lý thuyết CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD ở Việt Nam ............................................................................................................... 28
Sơ đồ 2. 1: Sơ đồ biểu diễn CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ...................... 43
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2. 1: Số vụ tấn công tình dục ở Hàn Quốc bị bắt ............................................... 183
Biểu đồ 3. 1: Số lượng luật sư Việt Nam giai đoạn 201-2019.................................. 192 Biểu đồ . 2: Lựa chọn cách thức giải quyết vụ việc của người dân hi họ hay người thân của họ bị XHTD ..................................................................................... 192 Biểu đồ 3. 3: Thu nhập bình quân, số năm đi học và chỉ số phát triển con người ở Việt Nam ..................................................................................................... 192
BẢNG
Bảng 2. 1: Số vụ tấn công tình dục và hiếp dâm ở Nhật Bản .......................................... 183
Bảng 3. 1: Số vụ án liên quan đến XHTD PNT G giai đoạn (2014-2019) ................... 184
Bảng 3. 2: Số vụ án và nạn nhân theo tội danh cả nước được x t xử sơ thẩm liên
quan đến XHTD PNT G trong giai đoạn 2014-2019 ..................................................... 184
Bảng 3. 3: Hệ thống thể chế liên quan đến đảm bảo QTCCL của NNN bị XHTD
ở Việt Nam .......................................................................................................................... 184
Bảng . 4: Đánh giá của người dân và cán bộ thuộc các thiết chế tư pháp về một
số nhận định liên quan đến năng lực thực thi nhiệm vụ cán bộ tư pháp ......................... 187
Bảng . 5: Xâm hại tình dục theo quan điểm của cán bộ các thiết chế tư pháp ............. 187
Bảng 3. 6: Đánh giá của người dân và của cán bộ tư pháp về tính hiệu quả của các
thiết chế tư pháp trong bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ....................................... 188
Bảng 3. 7: Đánh giá của cán bộ tư pháp về số lượng và cơ cấu của đội ng cán bộ
tại các bộ phận xử lý vụ án XHTD tại cơ quan đơn vị nơi họ đang công tác ................. 188
Bảng . 8: Đánh giá của cán bộ tư pháp về năng lực của đội ng cán bộ làm
nhiệm vụ xử lý vụ án XHTD tại cơ quan đơn vị nơi họ đang công tác .......................... 189
Bảng . 9: Đánh giá của cán bộ tư pháp về nguồn lực vật chất phục vụ cho việc
giải quyết các vụ XHTD tại cơ quan công tác .................................................................. 189
Bảng 3. 10: Số bị cáo và số vụ án liên quan đến XHTD đã thụ l và giải quyết
trên địa bàn cả nước trong giai đoạn 2014-2019 .............................................................. 189
Bảng 3. 11: Xét xử phúc thẩm các vụ án XHTD trên địa bàn cả nước trong giai
đoạn 2014-2019 .................................................................................................................. 190
vii
Bảng 3. 12: Đánh giá của người dân và của cán bộ tư pháp về tính hiệu quả trong
hoạt động bảo vệ QTCCL của NNN bị XHTD của các thiết chế tư pháp ..................... 190
Bảng . 1 : Nhận thức của người dân về các hành vi được xác định là vi phạm
pháp luật theo BLHS .......................................................................................................... 191
Bảng . 14: Lựa chọn hành động của người dân nếu bị XHTD ..................................... 193
Bảng 3. 15: Tỷ lệ phụ nữ từ 20-24 tuổi kết hôn lần đầu trước 15 tuổi và trước 18
tuổi ....................................................................................................................................... 194
Bảng . 1 : ức độ hiểu biết của người dân về các thủ tục để bảo vệ quyền lợi
của mình thông qua con đường tư pháp hình sự .............................................................. 194
Bảng 3. 17: Đánh giá của cán bộ tư pháp (CB) và người dân (ND) về chi phí mà
NNN bị XHTD phải chi trả trong quá trình xử lý vụ án .................................................. 195
Bảng . 18: Quan điểm của người dân về tác động của yếu tố văn hóa đến XHTD ..... 195
Bảng . 19: Vai trò ảnh hưởng của các nhóm nhân tố tác động đến lựa chọn giải
quyết vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự ....................................................... 196
Bảng 4. 1: ức độ tham gia các hóa đào tạo bồi dư ng của cán bộ thuộc các
thiết chế tư pháp.................................................................................................................. 199
Bảng 4. 2: Các nhân tố tác động đến lựa chọn giải quyết vụ việc thông qua con
đường tư pháp hình sự của người dân nếu họ là nạn nhân bị XHTD ............................. 199
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Quyền tiếp cận công lý (QTCCL) là một trong những quyền cơ bản của con người,
đã được pháp luật quốc tế hiện đại ghi nhận, đây là hả năng của mỗi người yêu cầu nhà
nước và xã hội tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để tìm kiếm và đạt được sự khắc phục
và đền bù thoả đáng cho những bất công hay tổn thương mà họ gặp phải do chủ thể khác
tranh chấp về quyền hoặc xâm phạm bất hợp pháp về quyền và lợi ích. Hiện nay, theo
Luật nhân quyền quốc tế, bảo đảm QTCCL cho mọi người được thực hiện “thông qua
bất cứ một cơ chế nào, thay vì chỉ thông qua những thiết chế tư pháp truyền thống” [108,
tr. 25], trong đó cơ chế pháp (CCPL) bảo đảm QTCCL là cơ chế quan trọng nhất, hữu
hiệu nhất và phổ biến nhất. Chính vì thế, xây dựng và hoàn thiện CCPL bảo đảm
QTCCL là nhiệm vụ của mỗi quốc gia, là nghĩa vụ của nhà nước và xã hội, trong đó bao
gồm: hoàn thiện HTPL, các cơ quan tư pháp, các cơ quan hỗ trợ và TGPL, v.v.. nhằm
bảo đảm tốt quyền con người (QCN), đặc biệt quyền của nhóm người dễ bị tổn thương.
Phụ nữ và trẻ em gái (PNTEG) là nhóm dễ bị tổn thương được pháp luật ghi nhận
và bảo vệ, tuy nhiên trong thực tế họ vẫn đang phải đối mặt với nhiều rủi ro, trong đó có
nạn xâm hại tình dục (XHTD), vì thế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là nghĩa vụ
của nhiều chủ thể trong xã hội, đặc biệt là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Để bảo
đảm QTCCL của nạn nhân nữ (NNN) bị XHTD cần phải một CCPL hoàn chỉnh, trong
đó nâng cao năng lực tiếp cận công lý (TCCL) của NNN bị XHTD, bảo đảm tốt khả
năng tìm iếm và đạt được sự khắc phục, sự bù đắp thoả đáng cho những tổn thương mà
họ gặp phải và trừng phạt thích đáng đối với người có hành vi XHTD.
Xâm hại tình dục PNTEG đang là vấn đề báo động ở nhiều quốc gia trên thế giới
và Việt Nam, mặc dù, các quốc gia đã quy định hành vi này trong pháp luật và áp dụng
các biện pháp hác nhau để phòng ngừa, nhưng “các quy định này vẫn chưa đầy đủ và
toàn diện; nạn nhân còn e ngại, không dám khai báo về vụ việc; thiếu cơ chế trợ giúp
hiệu quả để bảo vệ QCTCCL của NNN bị XHTD” [81, tr. 23], do đó họ vẫn gặp những
trở ngại trên con đường tìm kiếm công lý cho bản thân. Việt Nam trong 75 năm qua xây
dựng và phát triển đất nước, đặc biệt gần 35 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước đã dành
nhiều sự quan tâm đến việc bảo đảm và thúc đẩy phát triển QCN, trong đó có quyền của
PNTEG. Trên phương diện quốc tế, nước ta đã tham gia nhiều Công ước quốc tế về bảo
đảm quyền PNTEG bị XHTD, như Công ước CEDAW, CRC, Tuyên bố năm 2013 về
2
xoá bỏ bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em ở ASEAN, v.v..; ở trong nước, Việt Nam đã ban
hành Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị (năm 2005) về Chiến lược cải cách tư
pháp (CCTP) đến năm 2020, trong đó xác định “các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ
dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, QCN (…). Đổi mới thủ tục hành chính
trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân TCCL” [14]; cùng
với đó, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về bảo đảm QCN nói chung và
quyền của PNTEG nói riêng, như: Luật Bình đẳng giới năm 200 ; Luật Phòng chống
bạo lực gia đình năm 2007; BLHS năm 1999, 2015; BLTTHS năm 200 , 2015; Luật Xử
lý vi phạm hành chính năm 2012; v.v.. Đặc biệt, Hiến pháp năm 201 , lần đầu tiên hiến
định quyền con người (QCN), trong đó quy định “các QCN, quyền công dân (...) được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật (Khoản 1, Điều 14);
Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ,
(...). Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới (Điều 26)” [128]. Trên cơ sở đó, các cơ quan
danh dự và nhân phẩm (...) (khoản 1, Điều 20); Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt.
tư pháp phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các tổ chức xã hội thực
hiện nhiều biện pháp nhằm bảo đảm quyền PNT G, trong đó đã phát hiện và đưa ra xử
lý kịp thời nhiều vụ án XHTD, người phạm pháp đã bị trừng trị thích đáng. Điều này
cho thấy, CCPL bảo đảm QTCCL của PNTEG nói chung và PNTEG bị XHTD nói
“các vụ XHTD PNT G đã xảy ra với tính chất nghiêm trọng và có xu hướng tăng lên”
riêng đã được hình thành và từng bước được hoàn thiện. Tuy nhiên, những năm gần đây,
[50], nhưng các nạn nhân này vẫn đang phải đối mặt với nhiều hó hăn và thách thức
trong TCCL, một phần là do thái độ và hành vi phân biệt đối xử, mặt khác do “không
được hỗ trợ đầy đủ ở mọi giai đoạn của quá trình xét xử, từ khâu trình báo ban đầu cho
đến phiên tòa xét xử” [41, tr. 35-36].
Điều này dẫn đến, phần lớn các vụ việc được trình báo cảnh sát đã hông dẫn
đến buộc tội nghi phạm. Bỏ cuộc có tỷ lệ cao nhất ở các hâu đầu tiên của quá
trình tư pháp hình sự, với 34% phụ nữ được phỏng vấn cho biết cảnh sát đề nghị
họ giải quyết vấn đề trong nội bộ gia đình và chỉ có 12% số vụ việc có đưa ra cáo
buộc hình sự [41, tr. 34].
Thực tế trên cho thấy CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam
vẫn chưa hoàn thiện, còn bộ lộ những hạn chế, trong đó:
Các quy định pháp luật ở Việt Nam vẫn thiếu các quy định đặc thù đảm bảo
quyền QTCCL của NNN bị XHTD, đặc biệt nạn nhân là người nghèo, người
khuyết tật, người dân tộc thiểu số, vì thế họ có ít điều kiện tiếp cận hệ thống tư
3
pháp chính thức [72, tr. 17-21]; thời gian thụ lý còn kéo dài; việc giải quyết, xử l
các vụ việc còn nhiều bất hợp l , chưa đảm bảo tính công bằng trong x t xử đặc
biệt quyền được x t xử đúng đắn công bằng và bình đẳng của người ngh o chưa
được đảm bảo; (...) chưa thật sự tạo niềm tin cho dân chúng [108, tr. 28].
Do vậy, hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam là
một trong những nội dung quan trọng trong xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt
Nam hiện này, trong đó tập trung vào: hoàn thiện HTPL bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD; hoàn thiện các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; tăng cường
nguồn lực để đáp ứng tốt yêu cầu vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD; đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng và hiệu quả giữa các yếu tố trong CCPL bảo
đảm QTCCL của NNN bị XHTD, từ đó nâng cao năng lực TCCL của NNN bị XHTD ở
Việt Nam.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết về mặt lý luận, thực tiễn pháp lý trên, nghiên cứu
sinh (NCS) lựa chọn vấn đề “Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn
nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành L
luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là phân tích và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về
CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD và đánh giá đúng thực trạng CCPL bảo
đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam trong thời gian qua, từ đó đề xuất các giải
pháp nhằm hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam hiện
nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án phải thực hiện các nội dung
sau:
- Phân tích, đánh giá các công trình nghiên cứu trong nước và thế giới liên quan
đến CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, để từ đó chỉ rõ những khoảng trống
cần được giải quyết trong luận án;
- Phân tích và chỉ ra được khái niệm, các yếu tố cấu thành của CCPL bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD; các tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến CCPL
bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.
4
- Nghiên cứu CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở một số nước trên thế
giới, qua đó rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện
CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD hiện nay;
- Đánh giá thực trạng CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam
trong thời gian qua, quá đó, luận án chỉ ra những ưu điểm, nhược điểm và nguyên nhân
ưu, nhược điểm trong thực hiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở nước
hiện nay.
- Chỉ rõ những yêu cầu mới và đề xuất quan điểm, các giải pháp nhằm hoàn thiện
CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn CCPL bảo
đảm QTCCL của NNN bị XHTD.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Về nội dung: nội dung nghiên cứu của luận án là CCPL bảo đảm QTCCL của
NNN (bao gồm phụ nữ và trẻ em gái) bị XHTD ở Việt Nam, trong đó luận án chủ yếu
tập trung phân tích các vụ án xâm phạm tình dục (theo quy định của BLHS) và chỉ rõ
nguyên nhận của những ưu, nhược điểm của CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD ở Việt Nam để đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế này. Vì thế, luận án hông đi
sâu vào phân tích nguyên nhận ưu, nhược điểm của từng yếu tố cấu thành CCPL bảo
đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam.
- Về không gian:
+ Đối với nghiên cứu thực tiễn CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở một
số nước trên thế giới và rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam, luận án nghiên
cứu Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc;
+ Đối với nghiên cứu thực tiễn vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD ở Việt Nam hiện nay, luận án phân tích và đánh giá cơ chế này trong phạm vi cả
nước. Để có thêm số liệu thực tiễn phong phú, toàn diện, đề tài sẽ tiến hành nghiên cứu,
khảo sát việc thực hiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở các địa phương
Việt Nam, trong đó bao gồm các địa phương sau: (1) Miền Bắc: Lạng Sơn, Lào Cai, Hà
Nội, Hải Phòng; (2) Miền Trung và Tây Nguyên: Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Đắk Nông,
Lâm Đồng; (3) Nam Bộ: Cần Thơ, Kiên Giang, Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh
(Phụ lục 6).
5
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở
Việt Nam giai đoạn từ năm 2014 (từ khi Hiến pháp năm 201 có hiệu lực ngày
01/01/2014) đến 2019; trong quá trình phân tích thực trạng, luận án so sánh CCPL bảo
đảm QTCCL của NNN bị XHTD với giai đoạn trước đó. Luận án thu thập, xử l các số
liệu thứ cấp được thống ê trong giai đoạn từ năm 2014 đến 2019 và các số liệu sơ cấp
được hảo sát điều tra trong hoảng thời gian từ năm 2019-2020; giải pháp đề xuất cho
những năm tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về CCPL bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD, trong đó bao gồm: hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về công lý, bảo vệ công lý và QCN; các quan điểm
chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay về bảo đảm QCN nói chung và bảo đảm
QTCCL nói riêng đối với phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là NNN bị XHTD. Bên cạnh đó,
luận án còn sử dụng lý thuyết tiếp cận dựa trên QCN, lý thuyết kỳ thị xã hội và lý thuyết
rào cản tâm lý để làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về CCPL bảo đảm QTCCL của
NNN bị XHTD:
- Lý thuyết tiếp cận dựa trên quyền con người: Luận án sử dụng lý thuyết này (Phụ
lục 10) để phân tích, làm rõ yêu cầu hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD nhằm nâng cao năng lực TCCL của NNN bị XHTD, từ đó giúp họ dễ dàng,
thuận lợi trong quá trình tìm kiếm và đạt được những biện pháp khắc phục và đền bù
thoả đáng trước những thiệt hại của bản thân.
- Lý thuyết kỳ thị xã hội và lý thuyết rào cản tâm lý: Luận án sử dụng các lý thuyết
này (Phụ lục 10) để nghiên cứu và làm rõ sự tác động của sự kỳ thị, định iến của xã hội
đối với bản thân NNN bị XHTD hay người thân và gia đình của họ. Trong đó, luận án
làm rõ sự kỳ thị, định kiến này tác động tới quá trình tiếp nhận, giải quyết vụ án hay hỗ
trợ NNN bị XHTD trong quá trình tìm kiếm và đạt được sự khắc phục và đền bù thoả
đáng trước những thiệt hại của bản thân.
4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Trên cơ sở phương pháp luận nói trên, luận án sẽ sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể, như:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được NCS sử dụng xuyên suốt trong việc phân
tích, tổng hợp: những kết quả của các công trình nghiên cứu liên quan đến CCPL bảo
6
đảm QTCCL của NNN bị XHTD, chỉ ra những nội dung đã được giải quyết và những
khoảng trống cần được luận án tiếp tục giải quyết; các lý thuyết và quan niệm để xây
dựng cơ sở lý luận về CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; thực tiễn CCPL bảo
đảm QTCCL của NNN bị XHTD của một số nước trên thế giới và rút ra bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam; thực trạng CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt
Nam trong thời gian qua và đề xuất giải pháp hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của
NNN bị XHTD ở Việt Nam trong thời gian tới.
- Phương pháp logic và lịch sử: được NCS sử dụng để phân tích, đánh giá thực trạng
CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam và đề xuất giải pháp hoàn
thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam trong thời gian tới phải
gắn liên với điều KT-XH ở Việt Nam và bối cảnh hội nhập quốc tế.
- Phương pháp phỏng vấn: NCS sử dụng phương pháp phỏng vấn (phỏng vấn bán
cấu trúc), nhằm thăm dò dư luận xã hội đánh giá thực trạng CCPL bảo đảm QTCCL của
NNN bị XHTD ở nước ta. Thông qua quá trình phòng vấn, NCS tìm hiểu thêm các quan
điểm của đối tượng được phỏng vấn (cán bộ cơ quan toà án và viện kiểm sát, cán bộ cơ
quan hành chính phụ trách các vấn đề về bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em) về thực tiễn
giải quyết các vụ án về XHTD. Thời gian tiến hành phỏng vấn là 2019-2020 (Phụ lục 9).
- Phương pháp điều tra xã hội học (điều tra bằng bảng hỏi): được NCS sử dụng để
thu thập thông tin sơ cấp liên quan đến CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở
nước ta trong thời gian hiện nay. Thời gian tiến hành điều tra là 2019 - 2020; với quy mô
phiếu là 800 phiếu đối người dân và 300 phiếu đối với cán bộ tư pháp (Phụ lục 5, 6).
- Phương pháp phân tích và xử lý dữ liệu: được NCS áp dụng để phân tích, xử lý cả
dữ liệu sơ cấp và thứ cấp liên quan đến đề tài CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD ở nước ta. Trong đó, dữ liệu thứ cấp bao gồm các văn bản pháp luật và văn kiện
của Đảng, các vụ án, các báo cáo số liệu thống kê chính thức của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và các nghiên cứu đã công bố về các vụ án XHTD, được NCS mô tả, thống
kê, phân tích, tổng hợp phục vụ cho việc nhận x t, đánh giá các nội dung về thực trạng
CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam; dữ liệu sơ cấp được NCS thu
thập, tổng hợp được từ việc phỏng vấn và điều tra bằng bảng hỏi đối với người dân và
cán bộ tư pháp về các vấn đề liên quan đến QTCCL của NNN bị XHTD ở nước ta. Đối
với dữ liệu sơ cấp thu thập được từ điều tra bằng bảng hỏi, NCS sử dụng phần mềm
SPSS phiên bản 20.0 để xử lý (Phụ lục 2, 4, 7).
- Phương pháp luật học so sánh: được NCS áp dụng để so sánh CCPL bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD ở một số nước trên thế giới có những đặc điểm tương đồng
7
với Việt Nam, qua đó rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam trong quá trình hoàn
thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD hiện nay. Bên cạnh đó, phương pháp
này còn so sánh thực tiễn các thiết chế và thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD trong giai đoạn 2014-2019 với giai đoạn 2008-2013, đặc biệt là so sánh các quy
định pháp luật liên quan đến XHTD giữa BLHS 1999 (sửa đổi bổ sung 2009) với BLHS
2015 (sửa đổi, bổ sung 2017); BLTTHS năm 200 với BLTTHS 2015.
- Phương pháp hệ thống: được NCS áp dụng để nghiên cứu các yếu tố cấu thành
CCPL bảo đảm NNN bị XHTD ở Việt Nam trong chỉnh thể thống nhất; đồng thời
phương pháp này được NCS sử dụng để phân tích, đánh giá thực tiễn CCPL bảo đảm
NNN bị XHTD ở Việt Nam trong quá trình xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt
Nam hiện nay.
- Phương pháp phân tích văn bản luật: được NCS áp dụng vào phân tích, đánh giá
các quy phạm pháp luật liên quan đến bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, từ đó chỉ ra
những hạn chế của nội dung các quy phạm này.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
So với các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, kết quả nghiên cứu
của luận án có những đóng góp mới sau:
Thứ nhất, về phương pháp, luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam dưới giác độ chuyên ngành lý
luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
Thứ hai, về nội dung, luận án trình bày tương đối toàn diện về khái niệm, đặc điểm,
nội dung bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD và khái niệm, các yếu tố cấu thành, tiêu
chí đánh giá, các yếu tố ảnh hưởng đến CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD;
phân tích, đánh giá CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở một số quốc gia trên
thế giới và rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam; phân tích các yếu tố cấu thành
CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam, làm rõ những ưu điểm, những
nhược điểm và nguyên nhân của những ưu, nhược điểm trong thực hiện CCPL bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam trong giai đoạn 2014-2019; luận giải những
yêu cầu mới đối với hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt
Nam trong thời gian tới; đề ra quan điểm và giải pháp hoàn thiện CCPL bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án này sẽ là công trình nghiên cứu chuyên sâu, tương
đối toàn diện về vấn đề này, vì vậy luận án có những ý nghĩa sau đây:
8
6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận
Luận án tiếp tục phát triển các kết quả nghiên cứu của các công trình liên quan đến
đề tài luận án trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở lý luận về CCPL bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD. Từ đó, luận án đánh giá, tổng kết thực tiễn CCPL bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam thời gian qua.
6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Kết quả của luận án là tài liệu tham khảo để Đảng và Nhà nước có thêm cơ sở
khoa học trong quá trình hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt
Nam hiện nay, từ đó góp phần nâng cao năng lực TCCL của NNN bị XHTD ở Việt
Nam hiện nay. Những kết quả nghiên cứu của luận án còn là tài liệu tham khảo hữu ích
trong công tác nghiên cứu, giảng dạy các vấn đề liên quan đến QTCCL, XHTD, CCPL.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm
04 chương, chia thành 11 tiết:
Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến CCPL bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD
Chương 2: L luận về CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD
Chương : Thực trạng CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam
Chương 4: Những yêu cầu mới, quan điểm và giải pháp hoàn thiện CCPL bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam
9
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN CƠ CHẾ
PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ CỦA NẠN NHÂN NỮ
BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về công lý, quyền tiếp cận công lý và bảo
đảm quyền tiếp cận công lý
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu về công lý
Thứ nhất, quan niệm về công lý qua các công trình nghiên cứu.
Ngày từ thời cổ đại, các triết gia nổi tiếng thời Hy Lạp cổ đại đã đưa ra quan niệm
của mình về công lý, Socrate (469-339 TCN), Plato (428-348 TCN), Aristotle (384-322
TCN), v.v.. cho rằng công l như là hát vọng cho cuộc sống có đạo đức, tốt đẹp để đạt
tới hạnh phúc. Đến thời kỳ trung cổ, bảo vệ công lý trở thành một tiêu chuẩn để xác định
tính chính đáng, chính nghĩa của một chính quyền, vì thế St. Augustine (354-420) cho
rằng, nếu hông có công l , nhà nước chỉ là một băng cướp có tổ chức mà thôi. Đến thời
kỳ thời kỳ cận hiện đại và hiện đại với nhiều nhà tư tưởng, triết gia vĩ đại trên thế giới
như Spinoza (1 2-1677), I.Kant (1724-1804), Montesquieu (1689–1755), Voltaire
(1691-1778), J.J.Rousseau (1712-1778), Thomas Jefferson (1743-1826), J.Bentham
(1748-1832), J.Rawls (1921-2002), Michael Sandel (1953-); v.v.. đã đưa ra các quan
niệm về công lý. Nếu như J.Bentham đưa ra quan niệm về công l dựa trên tối đa hóa
phúc lợi hay tìm iếm hạnh phúc lớn nhất cho nhiều người nhất, thì I.Kant nhấn mạnh
đến tự do và phẩm giá của con người, từ đó nỗ lực ết nối công l và đạo đức với tự do.
Trong hi đó, J.Rawls (1921-2002), trong tác phẩm “A Theory of Justice”, cho rằng cái
đúng (right) phải được xếp trước cái thiện (good) trong một trật tự xác định, vì thế,
J.Rawls đã xây dựng lý thuyết “Công l như là sự công bằng” (Justice as fairness) làm
nền tảng cho tự do và bình đẳng cá nhân (free and equal persons). Vì J. Rawls cho rằng,
người ta không thể theo đuổi cái tốt chung cho đa số bằng cách đặt ra những bất lợi hay
bất công cho một số người hác. Cái đúng phải được ưu tiên hơn cái thiện và cái đúng
sẽ khuyến hích hay tăng tối đa cái thiện.
Trên phương diện pháp lý, tác giả Rudolf Stammler làm rõ khái niệm công lý
trong pháp luật, trong tác phẩm “The Theory of Justice”, tác giả này đã luận giải những
khía cạnh, giá trị cơ bản của công l và phương thức bảo đảm công lý trong pháp luật,
10
theo ông, pháp luật công bằng (Just law) là cơ sở để hiện thực hoá công lý. C ng với
cách tiếp cận này, Nathan Roscoe Pound đã hệ thống hóa và luận giải các khía cạnh cơ
bản của công lý và pháp luật.
Ở Việt Nam, những tưởng và khát vọng về công l đã xuất hiện từ xa xưa, được
hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước. Trong thời hiện đại, Hồ Chí Minh
(1890-19 9) đã thể hiện rõ tư tưởng của mình về công l , đó là chân l mà các dân tộc
trên thế giới đều thừa nhận và những quyền năng mà mọi dân tộc đều được hưởng một
cách vô điều kiện, đó là quyền được sống, hưởng độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc.
Trong những năm gần đây, một số tác giả đưa ra các quan niệm về công l , như Nguyễn
Xuân Tùng, cho rằng: “Công lý chính là sự nhận thức đúng đắn và hành động đúng vì
chân lí, vì công bằng và lẽ phải, phù hợp với lợi ích chung, với đạo lí của nhân dân,
được xã hội và pháp luật thừa nhận” [179]; nội dung căn cốt nhất của công lý là “hoàn
lại, trả lại cho mọi người cái mà họ có quyền được hưởng và là mệnh lệnh để ngăn chặn
một người chiếm đoạt thứ thuộc về người khác hoặc ngăn chặn việc chiếm đoạt những
thức gì thuộc về mình” [182, tr. 37]. Ngoài ra, tác giả Nguyễn Hoàng Anh, lại cho rằng,
công lý cần được nhìn nhận trên hai phương diện: (1) trên phương diện là một thiết chế,
công l được hiểu là một thiết chế có chức năng áp dụng pháp luật – tức là cơ quan tư
pháp; (2) trên phương diện là một giá trị, công lý là giá trị mà người ta thường gán cho
khi một phán quyết được đưa ra [4, tr. 68-69].
Nhìn chung, các công trình trên cho thấy, công lý là khái niệm đa chiều cạnh, được
tiếp cận nhiều góc độ khác nhau và ở nhiều lĩnh vực hác nhau, do đó, nội hàm của khái
niệm công lý cần phải được đặt trong một hệ quy chiếu xác định, nhưng trong các quan
niệm đó đều cho thấy công lý là một giá trị nhân văn, được biểu hiện thành các chân giá
trị như: công bằng, bình đẳng, lẽ phải, chống cái ác, bảo vệ điều thiện, v.v.. vì cuộc sống
tốt đẹp của con người.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu về phân loại công lý.
Việc phân loại công l dựa vào nhiều cách thức hác nhau, ngay từ thờ cổ đại,
Aristotle cho rằng, công l được chia thành “công l cải tạo”- nơi mà toà án sửa chữa
một lỗi lầm do một bên phạm phải đối với bên hác và “công l phân phối”- cách thức,
nỗ lực cố gắng để công bằng với mỗi người, đúng theo những gì mà người đó xứng
đáng.
Theo tác giả Bùi Tiến Đạt, công l được chia thành công lý nội dung và công lý
thủ tục. Kế thừa quan điểm của J.Rawls, tác giả này c ng cho rằng công lý thủ tục chia
là ba loại, đó là công l thủ tục hoàn hảo; công lý thủ tục không hoàn hảo và công lý thủ
11
tục thuần tuý [35, tr. 58]. Trong hi đó, dựa trên cơ sở các nguyên tắc thực hiện công l ,
tác giả Nguyễn Xuân Tùng, trong bài viết “Đi tìm định nghĩa khái niệm “công lý” tại
Việt Nam”, cho rằng công l có thể phân loại thành công l phân phối hay công l cải
tạo, công l thủ tục hay công l nội dung [183]; trong bài viết “Quan niệm và phân loại
công lý” còn bổ sung thêm các loại về công l hác như: công l tương giao; công l tự
nhiên. Theo các quan niệm hiện đại về công lý, trong bài viết “Công lý theo kết quả,
công lý theo thủ tục và liên hệ với nền tư pháp Việt Nam” tác giả Trần Quyết Thắng lại
cho rằng, công lý phải được chia thành công lý theo ết quả và công lý theo thủ tục,
trong đó, tác giả cho rằng công lý theo ết quả trong chừng mực nào đó theo đuổi quan
điểm xét xử tư pháp “thà bắt nhầm còn hơn bỏ sót”, trong khí đó, công lý theo thủ tục lại
rất chú trọng cách thức, trình tự tìm ra sự thật, nghĩa là công lý theo thủ tục theo đuổi
quan điểm xét xử tư pháp “thà bỏ sót còn hơn bắt nhầm”.
Như thế, từ các công trình nghiên cứu trên cho thấy công lý được phân chia thành
nhiều loại khác nhau, trong đó gắn với hoạt động tố tụng, các học giả chú trọng nhiều
đến công lý thủ tục.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu về bảo vệ công lý.
Trong bài viết “Toà án nhân dân và nhiệm vụ “bảo vệ công lý””, tác giả Nguyễn
Xuân Tùng cho rằng, toà án đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ công lý, tuy nhiên, để
toà án thể hiện tốt vai trò này cần phải bảo đảm “quyền được xét xử công bằng, công
khai bởi một toà án độc lập, khách quan; quyền được TCCL một cách có hiệu quả và
không có bất cứ cản trở pháp lý nào” [182, tr. 40]. Tác giả Nguyễn Thanh Tuấn, trong
bài viết “Bảo đảm công lý trong thể chế pháp quyền” đã hẳng định rằng “bảo đảm
công lý trong thể chế pháp quyền, là toàn bộ hoạt động iểm tra, giám sát, phán quyết,
trước hết và chủ yếu của các cơ quan nhà nước, nhằm bảo đảm vị trí, vai trò tối thượng
và tính bình đẳng của pháp luật trong thể chế pháp quyền, và bảo đảm các QCN được
ghi nhận trong pháp luật” [185]. Ngoài ra, các bài viết khác như: bài viết “Toà án thực
hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý, bảo vệ QCN, quyền công dân” của tác giả Nguyễn
Đăng Dung và Đặng Phương Hải (2015); bài viết “Vai trò bảo vệ công lý của Tòa án
trong Hiến pháp 2013” của tác giả Nguyễn Thế Anh (2016); bài viết “Nguyên tắc cơ
bản trong TTHS - nền tảng cho việc bảo vệ công lý của toà án khi thực hiện quyền tư
pháp” của tác giả Nguyễn Hải Ninh (2017); bài viết “Nhiệm vụ bảo vệ công lý và trách
nhiệm chứng minh của toà án trong hoạt động tố tụng” của tác giả Phí Thành Chung
(2018); v.v.. đều khẳng định toà án có vai trò quan trọng trong bảo vệ công lý.
12
Các công trình nghiên cứu trên đã cho thấy bảo vệ công lý là nhiệm vụ của mọi xã
hội với những phương thức khác nhau, trong xã hội hiện đại, toà án vẫn là chủ thể trung
tâm, quan trọng nhất trong bảo vệ công l vì đây là chức năng chính của toà án.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về quyền tiếp cận công lý và bảo đảm quyền
tiếp cận công lý
Thứ nhất, quan niệm về QTCCL qua các công trình nghiên cứu.
Trong bài viết “Access to Justice: The Newest Wave in the Worldwide Movement
to Make Rights Effective” (1978), tác giả Bryant G.Garth và Mauro Cappelletti cho rằng,
QTCCL là quyền tự nhiên của con người và khái niệm QTCCL nhằm chỉ hai mục tiêu
cơ bản của HTPL mà người dân có thể xác định quyền lợi của mình hay giải quyết các
tranh chấp theo phương thức phân giải của nhà nước, đó là: (1) hệ thống này phải thực
sự bình đẳng cho mọi người; (2) hệ thống này phải đem lại kết quả công bằng [210, tr.
182-183]. Nối tiếp quan điểm đó, trong cuốn sách “Access to Justice: A Critical
Analysis of Recoverable Conditional Fees and No-Win No-Fee Funding” (2014) tác giả
John Peysner (2014) tiếp tục dẫn lại quan điểm của Mauro Cappelletti (1978) về
QTCCL [230, tr. 13-14]. Để làm rõ hơn về QTCCL, tác giả Deborah L. Rhode, trong
cuốn sách “Access to Justice” (2004), cho rằng, nó có nghĩa hông chỉ đối với người
yếu thế trong xã hội (người ngh o, người già, trẻ em, v.v..) mà ngay cả đối với những
người bình thường khi xảy ra tranh chấp c ng cần phải có luật sư hay các dịch vụ TGPL
để hướng dẫn và đứng ra bảo vệ quyền lợi cho họ. Trong hi đó, UNDP xem QTCCL
như là quyền cơ bản của con người, vì thế trong báo cáo “Access to Justice: Practice
Note” (2004) của UNDP, đã xem TCCL là một phần quan trọng trong nhiệm vụ của
UNDP để giảm ngh o và tăng cường quản trị dân chủ [260, tr. 3] và trong sách
“Programming for Justice: Access for All A Practitioner’s - Guide to a Human Rights-
Based Approach to Access to Justice” (2005), UNDP cho rằng, QTCCL là “quyền của
người dân được tìm iếm và đạt được sự đền bù hoặc hắc phục thông qua cơ chế chính
thức và hông chính thức, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về QCN” [261, tr. 5].
Quan niệm này hiện nay được rất nhiều nhà nghiên trong nước và nước ngoài thừa nhận
và sử dụng trong các nghiên cứu cụ thể, như: cuốn sách “Access to Justice as a Human
Right” của do tác giả Francesco Francioni biên tập (2007), gồm 7 bài nghiên cứu về
QTCCL, tập trung về các vấn đề ở trung tâm của việc đảm bảo QTCCL trong pháp luật
quốc tế, gồm các chủ đề công lý về môi trường, công lý trong tình huống xung đột v
trang, TCCL cho nạn nhân bị tra tấn, nghi phạm khủng bố và so sánh việc các nước
châu Âu trong việc bảo vệ QTCCL. Trong bài viết “The Rights of Access to Justice
13
under Customary International Law” của tác giả Francesco Francioni cho rằng, QTCCL
đóng vai trò quan trọng cho những người bị tổn thương và là thành tố không thể thiếu
của hệ thống bảo vệ và thúc đẩy QCN. Tác giả này cho rằng thuật ngữ QTCCL được
hiểu là khả năng của mỗi cá nhân đệ trình yêu cầu của bản thân trước toà án và được toà
án chấp thuận giải quyết, đó hông chỉ là quyền được yêu cầu thành lập một phiên toà
đúng luật mà còn được xét xử theo đúng tiêu chuẩn của công bằng và công lý. Thuật
ngữ này thường được dùng để chỉ quyền của người yếu thế được hưởng những TGPL và
tài chính để theo đuổi vụ việc [222, tr. 64-65]. Các tác giả Marjorie Mayo, Gerald
Koessl, Matthew Scott và Imogen Slater trong quyển sách “Access to justice for
disadvantaged communities” (2014), c ng cho rằng, QTCCL được công nhận là một
quyền cơ bản, song hành với các quyền đối với giáo dục, y tế và an sinh xã hội, thông
qua việc thành lập nhà nước phúc lợi, đó là nền tảng quan trọng trong chính sách của
nhà nước phúc lợi, nhằm mục đích giải quyết các nguyên nhân của ngh o đói và các yếu
kém trong xã hội [241, tr. 22-23]. Nhấn mạnh thêm các quan điểm trên, trong bài nghiên
cứu “Access to Justice for Women in Plural Legal Systems in South East Asia”, tác giả
Evalyn G. Ursua (2014) đã cho rằng, QTCCL là một thành phần thiết yếu của hệ thống
bảo vệ và thực thi QCN, đây là khả năng người dân yêu cầu toà án giải quyết vụ việc
nào đó của bản thân, nó bao gồm cả các TGPL khi bản thân không thể tự lo liệu, vì thế
nó còn là khả năng người dân đạt được yêu cầu theo những tiêu chuẩn của công bằng và
công lý [221, tr. 5].
Ở Việt Nam, với cách tiếp cận tổng thể, tác giả Phạm Hồng Hải, trong bài viết
“QTCCL ở Việt Nam” (2009) đã hẳng định, TCCL là một trong các quyền cơ bản của
công dân, đây chính là quyền của công dân, tổ chức được biết về quá trình giải quyết các
tranh chấp kinh tế, dân sự, hành chính, lao động và các vụ án hình sự của các cơ quan có
thẩm quyền [57, tr. 11]. Sau đó, tác giả V Công Giao cùng với cộng sự của mình đã
công bố một số công trình nghiên cứu về QTCCL, như các bài viết: “TCCL và các
nguyên lý của NNPQ” (2009); “QTCCL và vai trò của toà án trong việc bảo đảm quyền
này” (2018); “TCCL theo quan điểm của LHQ” (2018); “Tăng cường TCCL qua hệ
thống TGPL: kinh nghiệm từ một số mô hình TGPL quốc tế và hàm ý chính sách cho
Việt Nam” (2018); “Các cơ chế TCCL không chính thức (ngoài toà án)” (2018); v.v..
Dựa trên quan niệm của UNDP về QTCCL, tác giả V Công Giao cho rằng có hai cách
hiểu về QTCCL: “(1) quyền được xét xử công bằng; (2) hả năng tìm iếm sự đền bù
(hoặc sự hắc phục - remedy) cho những bất công hay thiệt hại mà một cá nhân hay một
nhóm cá nhân, đặc biệt là cho những nhóm xã hội dễ bị tổn thương, phải gánh chịu” [45,
14
tr. 188]. Qua đó, tác giả V Công Giao c ng chỉ rõ sự khác biệt giữa các tiếp cận truyền
thống và quan điểm mới về QTCCL, đó là: “nếu như trong quan niệm truyền thống,
QTCCL là quyền của mọi người có thể sử dụng các dịch vụ pháp lý công và tư để được
xét xử công bằng, thì quan niệm mới, QTCCL là quyền của mọi người có thể tìm iếm
và đạt được một sự đền bù hoặc hắc phục cho những bất công, thiệt hại thông qua cơ
chế tư pháp chính thức và phi chính thức phù hợp với nguyên tắc, tiêu chuẩn quốc tế về
QCN” [109, tr. 128-133]. Quan niệm này về QTCCL được chấp nhận tương đối rộng rãi
hiện nay, vì thế, tác giả Đinh Thế Hưng, trong bài viết “Thực hiện quyền tư pháp nhằm
đảm bảo QTCCL trong NNPQ” (2018), cho rằng, nếu QTCCL là quyền được biết quá
trình giải quyết các vụ việc hoặc vụ án của cơ quan nhà nước thì đây chỉ là quyền tiếp
cận thông tin trong lĩnh vực tư pháp và chưa cho thấy mục đích của QTCCL; nếu là sự
tiếp cận các quy trình tố tụng thì QTCCL đồng nhất với quyền tham gia tố tụng của
công dân, cơ quan, tổ chức. Do đó, tác giả này quan niệm rằng, QTCCL là “ hả năng
của chủ thể yêu cầu nhà nước tạo mọi điều iện thuận lợi nhất để sử dụng pháp luật
nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của mình tại cơ quan nhà nước khi có tranh chấp hoặc
xử lý vi phạm pháp luật, thể hiện ở những mặt sau: quyền tiếp cận thông tin pháp luật;
quyền TGPL, quyền tiếp cận giáo dục đào tạo pháp luật các quyền này được thực hiện
bởi một hệ thống tư pháp công bằng và hiệu quả” [78, tr. 202].
Bên cạnh đó, một số học giả khác nghiên cứu QTCCL trong phạm vi hẹp hơn,
như: (1) trong lĩnh vực dân sự: có các bài viết trong Hội thảo khoa học QTCCL trong
pháp luật dân sự do Khoa Luật Dân sự Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh tổ chức
tháng 5/2017: bài viết “Quyền khởi kiện tại toà án là QTCCL” của tác giả Nguyễn Thị
Hoài Phương; “QTCCL của đương sự trong thi hành án dân sự” của Lê Vĩnh Châu;
“Quyền tiếp cận thông tin của đương sự dưới góc độ Luật Tiếp cận thông tin” của tác
giả Nguyễn Văn Tiến; “QTCCL qua quy định về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
dân sự khác của Toà án nhân dân trong tố tụng dân sự” của tác giả Đặng Thanh Hoa và
Huỳnh Quang Thuận; v.v.. Các bài viết khai thác khía cạnh QTCCL của các chủ thể
pháp luật dân sự thông qua các quyền như: quyền hởi iện tại toà; quyền tiếp cận thông
tin; quyền bảo vệ về đời sống riêng tư; v.v.. Ngoài ra, trong bài viết “Công lý và TCCL
trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Bích Thảo (2018) cho rằng, QTCCL trong tố
tụng dân sự có sự phát triển từ quan niệm truyền thống (TCCL tại toà án) đến quan niệm
hiện đại (không chỉ là TCCL tại toà án mà còn áp dụng các cơ chế thay thế khác), như ở
ỹ là trào lưu ba làn sóng; ở Canada là chuyển từ phương pháp tiếp cận lấy toà án làm
trung tâm sang lấy người dân làm trung tâm; ở Châu Âu là “nâng cao chất lượng TGPL
15
dân sự, nâng cao chất lượng hệ thống tư pháp dân sự, sử dụng biện pháp hoà giải, trọng
tài và thực hiện cơ chế thi hành án hiệu quả” [150, tr. 239-245]; (2) trong lĩnh vực hình
sự: bài viết“QTCCL trong TTHS” của tác giả Đinh Thế Hưng (2011); bài viết “Công
lý và TCCL trong TTHS” của tác giả Nguyễn Ngọc Chí (2018) cho rằng, công lý và
TCCL trong TTHS nhằm hướng tới: hả năng tìm ra sự thật và tính chính xác của quyết
định của toà án; thời gian TCCL phải đảm bảo, công lý bị trị hoàn là công lý bị từ chối;
chi phí tài chính cho quy trình TCCL phải đảm bảo tính hợp lý, không mang tính chất
rào cản đối với quá trình tìm iếm công lý của các tổ chức và cá nhân [18, tr. 176-179];
(3) trong lĩnh vực hành chính: bài viết “TCCL trong tố tụng hành chính” của tác
Nguyễn Thị Minh Hà (2018) cho rằng, QTCCL trong tố tụng hành chính là: sự bình
đẳng trước pháp luật, hả năng tìm ra sự thật khách quan, tính công khai, minh bạch, ịp
thời, sự công minh của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, tính chính xác
các các quyết định, bản án của Toà án [48, tr. 223-232]; “QTCCL trong hoạt động công
vụ Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Phương và V Thị Thu Hằng (2018), trong đó,
các tác giả cho rằng trong hoạt động công vụ, QTCCL là hả năng tìm iếm và đạt được
những yêu cầu về sự bình đẳng trong hoạt động công vụ của các chủ thể trong quan hệ
công vụ [113, tr. 268-269]. Các quan niệm này cho thấy, QTCCL là hả năng của chủ
thể (cá nhân hoặc pháp nhân) và những bảo đảm của nhà nước và xã hội để họ tìm iếm
và đạt được những đền bù thoả đáng khi quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị vi phạm.
Ngoài ra, một số học giả còn nghiên cứu QTCCL ở một số đối tượng cụ thể, như
người nghèo, phụ nữ, người huyết tật, v.v.., cụ thể là: bài viết “Vai trò của hoạt động
luật sự và TGPL trong việc tăng cường tiếp cận pháp luật và TCCL cho nhóm công dân
nghèo và yếu thế” của tác giả Tạ Thị Minh Lý (2018); “QTCCL cho phụ nữ qua công
ước CEDAW” của tác giả V Ngọc Bình (2018); “Bảo đảm QTCCL của người khuyết
tật ở Việt Nam hiện nay: lý luận, pháp luật và thực tiễn” của tác giả Trần Thái Dương
(2018); v.v.. Theo các tác giả này, để những người thuộc nhóm người dễ bị tổn thương
dễ dàng trong TCCL thì hoạt động TGPL phải được coi trọng [100, tr. 333-334]; hệ
thống tư pháp phải sẵn sàng, dễ tiếp cận, chất lượng tốt, trách nhiệm giải trình và nhà
nước cung cấp những biện pháp đền bù, hắc phục hậu quả cho nạn nhân nữ [12, tr.
363]; người huyết tật có quyền được cung cấp hay hỗ trợ dịch vụ tư vấn, giải đáp về
chính sách, pháp luật và có quyền được hỗ trợ hay trợ giúp, tạo điều kiện thuận lợi trong
việc tham gia tố tụng, thủ tục hành chính, thủ tục giải quyết giải quyết hiếu nại, tố cáo
và các hoạt động khác liên quan đến thực thi pháp luật về QTCCL nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình [32, tr. 380]. Các công trình nghiên cứu trên,
16
mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau, tuy nhiên nội dung cốt lõi của QTCCL là
quyền năng của con người trong việc tìm iếm, đạt được những hắc phục và đền bù
thoả đáng trước những thiệt hại về quyền và lợi ích do chủ thể khác gây ra.
Thứ hai, quan niệm về bảo đảm QTCCL qua các công trình nghiên cứu.
QTCCL với tư cách là quyền cơ bản của con người, vì thế theo tác giả Lê Thị
Hồng Nhung trong sách “Cơ chế giám sát Hiến pháp với việc bảo đảm QCN” của tác
giả Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2009), cho rằng đảm bảo quyền chính là tạo ra các điều
kiện để những quyền này được vận hành trong thực tiễn hoặc bảo vệ nó chống lại những
hành vi xâm phạm quyền [198, tr. 179-206]. Tiếp nối cách tiếp cận này, tác giả Trần Thị
Hoè trong Luận án Tiến sĩ Triết học “Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm QCN trong
điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay” (2015), cho rằng đây là hoạt động của các chủ thể
có nghĩa vụ sử dụng các biện pháp, cách thức để thực hiện hoá các nguyên tắc, tiêu
chuẩn về quyền nhằm thực thi và bảo vệ hiệu quả trong thực tế, ngăn ngừa sự lạm dụng,
vi phạm quyền từ phía các chủ thể khác [69, tr. 39]. C ng theo hướng tiếp cận đó, tập
thể tác giả của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong “Giáo trình Cao cấp lý
luận chính trị (Khối kiến thức thứ tư), tập 14, Các chuyên đề bổ trợ” (2015) c ng cho
rằng, bảo đảm quyền chính là việc “các chủ thể có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp về
lập pháp, hành pháp, tư pháp, inh tế, thể chế, v.v.. để hiện thực hoá các nguyên tắc và
tiêu chuẩn về quyền của chủ thể trong hoạt động quản l nhà nước, trong chương trình
phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia, dân tộc” [69, tr. 384].
Theo UNDP, trong sách “Programming for Justice: Access for All A Practitioner’s-
Guide to a Human Rights-Based Approach to Access to Justice” (2005), để bảo đảm
QTCCL cho mọi người cần phải có các điều kiện sau: (1) sự bảo vệ của pháp luật; (2)
Sự hiểu biết về pháp luật; (3) Sự tư vấn và TGPL; (4) Sự phân xử (bằng thiết chế tư
pháp chính thức và phi chính thức); (5) Sự tuân thủ; (6) Sự giám sát của cơ quan dân cử
và các thiết chế xã hội [261, tr. 7]. Trong bài viết “Bảo đảm QTCCL - một yêu cầu trong
việc bảo đảm QCN của tòa án” (2017) tác giả Chu Thị Ngọc cho rằng, bảo đảm
QTCCL là một yêu cầu đối với tòa án trong việc bảo đảm QCN. Mục đích quan trọng
nhất của tố tụng tư pháp là bảo đảm cho mọi đối tượng trong xã hội có QTCCL, tiếp cận
tòa án một cách không hạn chế và được xét xử công bằng, trong thời gian hợp lý [108,
tr. 25-26]. C ng đồng tình với quan điểm này, tác giả Hoàng Thị Bích Ngọc và V Công
Giao, trong bài viết “TCCL theo quan điểm của LHQ” (2018) cho rằng, các điều iện và
biện pháp bảo đảm QTCCL bao gồm: pháp luật, toà án và năng lực, nhận thức của
người dân [109, tr. 133-139]. Trong thực tế, toà án luôn đóng vai trò quan trọng trong
17
bảo đảm QTCCL, nên trong bài viết “QTCCL và vai trò của toà án trong việc bảo đảm
quyền này” (2018), tác giả V Công Giao hẳng định rằng, toà án là trụ cột của khuôn
hổ thể chế, là một trong ba yếu tố nền tảng để bảo đảm QTCCL, bởi vì, xét cho đến
cùng, “bản chất của TCCL là tiếp cận với toà án” [43, tr. 120]. Ngoài ra còn có một số
công trình nghiên cứu khác như các bài viết: “Áp dụng mô hình “Một cửa” trong cải
cách thủ tục hành chính tại tòa án để nâng cao khả năng TCCL” của tác giả Nguyễn
Quang Hưng (2013); “Tăng cường khả năng TCCL cho người dân từ việc mở thẩm
quyền giải quyết vụ việc dân sự của tòa án trong Bộ luật tố tụng dân sự” của tác giả Lê
Thu Hà (2015); v.v.. c ng cho thấy, vai trò quan trọng của toà án trong bảo đảm
QTCCL, vì thế cải cách thủ tục tố tụng, đảm bảo các nguyên tắc trong thụ lý và xét xử
vụ án của toà án là một trong những biện pháp quan trọng để bảo đảm tốt QTCCL.
Như vậy, các công trình nghiên cứu trên cho thấy bảo đảm QTCCL là nghĩa vụ
của các chủ thể trong xã hội bằng các biện pháp hác nhau để ghi nhận, bảo vệ và hiện
thực hoá quyền này trong thực tế, trong đó, toà án có vai trò đặc biệt quan trọng bảo đảm
QTCCL của người dân trong quá trình tố tụng.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn
nhân nữ bị xâm hại tình dục
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về hành vi xâm hại tình dục và nạn nhân nữ
bị xâm hại tình dục ở Việt Nam
Trong cuốn sách “Các tội xâm phạm tình dục trong luật hình sự Việt Nam” (2019),
với cách tiếp cận dưới phương diện tội phạm học, tác giả Nguyễn Thị Ngọc Linh (2019)
đã chỉ rõ “Các tội XPTD là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền
bất khả xâm phạm và tự do tình dục của con người, do người có năng lực TNHS thực
hiện một cách cố ý, trái PLHS và phải chịu hình phạt tương ứng” [96, tr. 18]. Ngoài ra
còn có các công trình sau: “Các tội XHTD trẻ em trong luật hình sự Việt Nam” của tác
giả Nguyễn inh Hương (2014); “Các tội hiếp dâm theo quy định của bộ luật hình sự
Việt Nam” của tác giả Cao Hữu Sáng (2015); “Các tội XHTD trẻ em – quy định của
PLHS Việt Nam và nghiên cứu so sánh với một số nước” của tác giả Hồ Thị Nhung
(2015); “Các tội phạm tình dục trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn
tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk)”, của tác giả Trịnh Văn Toàn (2015); “Các tội xâm phạm tình
dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành
phố Hà Nội)” của tác giả Nguyễn Tuấn Thiện (2015); “Tội giao cấu với trẻ em trong
luật hình sự Việt Nam” của tác giả Lê Thị Bích Hạnh (2015); “Điều tra vụ án XHTD trẻ
em” của tác giả Hà Minh Tân (2016); “Hoạt động phòng ngừa tội phạm hiếp dâm theo
18
chức năng của lực lượng Cảnh sát hình sự” của tác giả Chu Thị Tú (2016); “Tình hình
các tội xâm phạm tình dục trẻ em ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Cao Thị Thu Trang
(2017); “Quấy rối tình dục tại nơi làm việc theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Thị Phượng (2017); “Điều tra vụ án hiếp dâm theo chức năng của lực lượng Cảnh sát
điều tra tội phạm về trật tự xã hội” của tác giả Nguyễn Long Thành (2017); “Hoạt động
của lực lượng Cảnh hình sự trong phòng ngừa tội phạm XHTD trẻ em ở các tỉnh, thành
phố khu vực Tây Nam Bộ” của tác giả Nguyễn Ngọc Trai (2017); “Hoạt động của lực
lượng Cảnh hình sự trong phòng ngừa tội phạm XHTD trẻ em ở các tỉnh, thành phố khu
vực Tây Nam Bộ” của tác giả Nguyễn Ngọc Trai (2017); “Tội giao cấu hoặc thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi từ thực tiễn tỉnh
Vĩnh Phúc” của tác giả Hà Quang inh (2018); “Lấy lời khai người bị hại trong điều
tra vụ án XHTD trẻ em của lực lượng Cảnh sát hình sự Công an các tỉnh, thành phố
miền Đông Nam bộ” của tác giả Nguyễn Thị Thuý Hằng (2019); “Lấy lời khai người bị
hại trong điều tra vụ án XHTD trẻ em của lực lượng Cảnh sát hình sự Công an các tỉnh,
thành phố miền Đông Nam bộ” của tác giả Nguyễn Thị Thuý Hằng (2019); “Công tác xã
hội nhóm đối với nữ sinh viên trong phòng ngừa quấy rối tình dục” của tác giả Lê Thị
Lâm (2020); v.v.. Các công trình này tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn về các
hành vi XHTD theo quy định của PLHS Việt Nam, như: hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em,
cư ng dâm, cư ng dâm trẻ em, dâm ô, giao cấu với trẻ em. Do đó, nội hàm của hành vi
XHTD được các công trình nghiên cứu trên căn cứ theo quy định của PLHS Việt Nam;
NNN bị XHTD được xác định là người bị hại của các hành vi trên.
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu trên đã chỉ rõ, trong những năm gần đây, số vụ
án và số bị cáo phạm tội xâm phạm tình dục diễn biến khá phức tạp và có xu hướng gia
tăng; hầu hết số vụ năm sau đều tăng so với năm trước. Tuy nhiên, “tỷ lệ tổng số vụ và
bị cáo xâm phạm tình dục đã bị TAND đưa ra x t xử trong giai đoạn này chiểm tỷ lệ
hông cao; trong đó, các tội XHTD bị xét xử nhiều là: tội hiếp dâm trẻ em; tội giao cấu
với trẻ em; tội hiếp dâm; tội dâm ô đối với trẻ em” [96, tr. 109-113]. Từ giác độ chuyên
ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, các tác giả đã chỉ rõ các hành vi XHTD:
(1) có biến động tăng, giảm thất thường qua từng năm nhưng có xu hướng gia tăng cả
giai đoạn; (2) tỷ lệ tội hiếp dâm trẻ em và giao cấu với trẻ em luôn chiếm tỷ lệ cao nhất;
( ) người bị hại là trẻ em gái; (4) đa số đối tượng phạm tội là người quen biết với nạn
nhân. Bên cạnh đó, tác giả còn cho rằng, tỷ lệ tội phạm ẩn chiếm tương đối cao, vì nạn
nhân và gia đình nạn nhân thường có tâm lý e ngại dư luận và muốn che giấu vụ việc.
19
1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu về thực tiễn bảo đảm quyền tiếp cận công lý
của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam
Năm 201 , Hội Luật gia Việt Nam, C COD S và UNDP đã công bố báo
cáo “Chỉ số công lý - Thực trạng về Công bằng và Bình đẳng dựa trên ý kiến của người
dân năm 2012”, trong đó Chỉ số công l năm 2012 được thực hiện trên 21 tỉnh, thành
phố, dựa trên 5 trục nội dung về thực thi pháp luật và bảo đảm công lý, bao gồm: Khả
năng tiếp cận, Công bằng, Liêm chính, Tin cậy và hiệu quả, Bảo đảm các quyền cơ bản,
từ đó báo cáo đã chỉ rõ, bên cạnh những kết quả đạt được trong bảo đảm QTCCL của
người dân thì vẫn còn những hạn chế, đó là: (1) Bất bình đăng về tiếp cân thông tin và
các dịch vu pháp l đang là rào cản trong việc bảo đảm các quyền cơ bản của ngươi dân
trên thực tế; (2) Hạn chế việc hiện thực hoá một số quyền cơ bản có ảnh hưởng tiêu cực
tới niềm tin của ngươi dân vào các thiết chế công quyền; (3) Hiệu quả thấp trong đáp
ứng các yêu cầu pháp l cơ bản, hỗ trợ giải quyết tranh chấp dân sự và xử lý khiếu nại
hành chính của các cơ quan nhà nước là một trong các nguyên nhân giải thích cho ưu
tiên tự giải quyết hoặc sử dung các cơ chế không chính thức của ngươi dân; v.v..[72, tr.
15-1 ]. Đến năm 201 , các tổ chức này tiếp tục công bố báo cáo “Chỉ số công lý 2015 –
Hướng tới một nền tư pháp vì dân”, trong đó Chỉ số công l năm 2015 được thực hiện
trên 21 tỉnh, thành phố, dựa trên 4 trục nội dung, bao gồm: TCCL; Công bằng, bình
đẳng; Thi hành pháp luật; Quyền cơ bản. Trong đó, trục TCCL bao gồm: tiếp cận thông
tin pháp luật; tiếp cận dịch vụ pháp lý; khả năng chi trả cho dịch vụ pháp lý. Báo cáo
này tiếp tục chỉ rõ những hạn chế trong bảo đảm QTCCL, đó là:
(1) Các cơ quan nhà nước ở địa phương giữ vai trò quan trọng trong việc tiếp
nhận và giải quyết các yêu cầu và vướng mắc pháp lý của người dân. Thủ tục giải
quyết tranh chấp không ro ràng, thời gian thụ lý kéo dài và hiệu quả giải quyết còn
thấp là các lý do chủ yếu làm người dân có tâm lý tự giải quyết hoặc chọn các
phương pháp hông chính thức để giải quyết tranh chấp, thay vì tiếp xúc với các
thiết chế tư pháp cơ sở; (2) Hiệu quả trợ giúp của cơ quan nhà nước địa phương về
giải quyết vướng mắc pháp lý và khiếu nại của người dân còn thấp. Trợ giúp của
luật sư và TGPL được đánh giá cao hơn về hiệu quả so với trợ giúp của các cơ
quan tư pháp địa phương; ( ) Việc tiếp cận tòa án còn nhiều hạn chế mà lý do
chính là các quan ngại về chi phí, về thủ tục, và niềm tin vào sự công tâm của thẩm
phán và cán bộ tòa án; (4) Thực tế còn tồn tại bất bình đẳng giữa các nhóm xã hội.
Người ngh o, người có học vấn thấp và người không có vị trí xã hội chịu nhiều rào
20
cản xuất phát từ nguồn lực cá nhân và nguồn lực xã hội, vì vậy gặp nhiều hạn chế
về tiếp cận thông tin, tiếp cận các thiết chế tư pháp cơ sở; v.v.. [73, tr. 12-13].
Trong báo cáo nghiên cứu “TCCL trong hệ thống pháp lý đa kênh: Nghiên cứu
điển hình về bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam”(2015) nhóm tác giả Lê Thị
Thục và các cộng sự đã chỉ rõ, những NNN bị bạo lực về bạo lực tình dục gặp nhiều rào
cản trong TCCL vì những bất cập trong khuôn hổ pháp lý, thủ tục pháp lý, rào cản về
xã hội (Tập quán và quan niệm xã hội truyền thống) và rào cản về kinh tế [154, tr. 66-
69]. Tác giả Phan Thị Lan Hương, trong bài viết “Khắc phục rào cản nhằm bảo đảm
TCCL cho phụ nữ bị bạo lực tình dục ở Việt Nam” (201 ), c ng cho rằng bạo lực tình
dục mặc dù đã được pháp luật quy định nhưng việc TCCL của nạn nhân bị bạo lực tình
dục ở Việt Nam vẫn còn gặp phải những rào cản trong thực tế, như: pháp luật chưa quy
định đầy đủ và toàn diện về các hành vi bạo lực tình dục (như quấy rối tình dục); nạn
nhân bị bạo lực tình dục còn e ngại, không dám khai báo về vụ việc; thiếu cơ chế trợ
giúp hiệu quả để bảo vệ quyền của nạn nhân bị bạo lực tình dục [81, tr. 23]. Những hạn
chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, theo các tác giả có nguyên nhân từ định kiến
giới đối với việc giải thích và áp dụng các quy định PLHS của nhà làm luật, người thực
thi pháp luật và cán bộ tư pháp. Trong báo cáo “Xét xử tội hiếp dâm: hiểu cách ứng phó
của hệ thống tư pháp hình sự đối với bạo lực tình dục ở Thái Lan và Việt Nam” (2017),
tác giả Eileen Skinnider và các cộng sự cho rằng thủ tục tòa án thường lâu và kéo dài,
tập trung vào bằng chứng về thể xác hoặc bằng chứng pháp y hay độ in cậy đối với nạn
nhân hơn là độ tin cậy của sự việc hoặc việc không có sự đồng thuận của nạn nhân [41,
tr. xi]. Ngoài ra, thực tiễn HTPL ở Việt Nam còn có những hạn chế như: cần có đơn tố
cáo chính thức mới có thể tiến hành các thủ tục đưa ra tòa; định nghĩa về hiếp dâm và
cư ng dâm còn hẹp, không có tội danh tấn công tình dục phụ nữ; hỗ trợ dành cho nạn
nhân của bạo lực tình dục do người không phải là chồng/bạn tình gây ra còn hạn chế
(dịch vụ dành cho nạn nhân còn hạn chế, chủ yếu là phục vụ nạn nhân của bạo lực gia
đình); chú trọng vào bằng chứng chứng thực [41, tr. 33]; v.v.. đây là những yếu tố góp
phần gây ra tình trạng bỏ cuộc và tạo thành rào cản đối với NNN bị XHTD trong TCCL.
Ngoài ra, một số công trình hác như: “Bảo đảm quyền TCCL của nạn nhân bị bạo lực
giới” của tác giả Hoàng Thư (2017); “QTCCL ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn
Thế Anh (2015), “Hoàn thiện pháp luật về QTCCL ở Việt Nam hiện nay” của tác giả
Nguyễn Thuỳ Linh (2015), “TCCL trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam” của tác giả
Hoàng ai Dung (2018); v.v.. c ng chỉ rõ, bên cạnh những kết quả đạt được, QTCCL ở
21
Việt Nam, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em, người nghèo, v.v..)
vẫn chưa được đảm bảo.
Các công trình nghiên cứu trên cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được,
PNTEG bị XHTD ở Việt Nam hiện nay vẫn gặp phải những rào cản, những hó hăn
trên con đường tìm kiếm và đạt được công lý của mình.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về cơ chế pháp lý
1.1.3.1. Các công trình nghiên cứu về khái niệm cơ chế pháp lý
Trên phương diện khoa học pháp lý, trong quyển sách “Giám sát và cơ chế giám
sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay” do các tác giả Đào Trí Úc và
Võ Khánh Vinh (200 ) đồng chủ biên, tác giả Võ Khánh Vinh cho rằng cơ chế là “tổng
thể các bảo đảm về vật chất, chính trị, tư tưởng, pháp lý, tổ chức, nghiệp vụ cho việc
thực hiện một quyền nào đó hoặc một việc nào đó” [190, tr. 25], theo đó, CCPL là hệ
thống các phương tiện (biện pháp) và nhân tố bảo đảm các điều kiện cần thiết để chủ thể
thực hiện chức năng hoạt động của mình [190, tr. 25]. Với cách tiếp cận này, tác giả
Nguyễn Quốc Hoàn trong Luận án tiến sĩ luật học “Cơ chế điều chỉnh pháp luật” (2001)
cho rằng cơ chế được “cấu trúc bởi một chỉnh thể bao gồm nhiều bộ phận khác nhau
hợp thành, có mối liên hệ mật thiết với nhau và phương thức vận hành hay hoạt động
của chính thể đó, tức là sự tương tác giữa các bộ phận tổng cấu trúc của chỉnh thể, theo
những nguyên tắc và quá trình xác định nhằm đạt được một kết quả nhất định [67, tr.
24]. C ng theo hướng đó, trong quyển sách “Cơ chế bảo vệ hiến pháp trong NNPQ
XHCN Việt Nam” (2012), tác giả Tào Thị Quyên cho rằng cơ chế là “tổng thể các yếu tố
có quan hệ mật thiết, tương tác lẫn nhau, hình thành một hệ thống và sự vận hành của hệ
thống đó” [141, tr. 47]; trong quyển sách “Các CCPL kiểm soát quyền lực nhà nước trên
thế giới và ở Việt Nam” của các tác giả Đặng Minh Tuấn và các cộng sự đồng chủ biên
(2019), tác giả V Công Giao c ng cho rằng cơ chế là “cơ cấu tổ chức bộ máy và quy
trình, thủ tục pháp l ” [42, tr. 117] được thiết lập ra để giải quyết một công việc trong
thực tiễn. Với cách tiếp cận trực diện nội hàm khái niệm cơ chế, một số tác giả khác cho
rằng cơ chế là cách thức tiến hành một hoạt động hoặc sự vận hành của một hệ thống,
như: tác giả Trịnh Thị Xuyến và các cộng sự, trong cuốn sách “Cơ chế tham gia của
người dân trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” (2014), cho rằng cơ
chế là “một cách thức để tiến hành một hoạt động nhằm đạt các mục đích nhất định.
Cách thức đó bao gồm các quy định, thủ tục theo một trật tự nhất định với những luật lệ,
quy định cụ thể” [204, tr. 47-48] hoặc tác giả Phan Nhật Thanh, trong bài viết “Hoàn
thiện CCPL bảo đảm QCN ở Việt Nam” (2014) c ng chỉ rõ cơ chế là “cách thức hoạt
22
động của một hệ thống mà theo đó quá trình được thực hiện” [146, tr. 2]. Như thế, khái
niệm cơ chế chủ yếu được tiếp cận theo cấu trúc hình thành của nó.
Từ các quan niệm về cơ chế, tác giả Trương Thị Hồng Hà (2009), trong quyển
sách “Hoàn thiện CCPL bảo đảm chức năng giám sát của QH” cho rằng, CCPL là
“tổng thể các hình thức, công cụ, phương tiện pháp lý có mối liên hệ chặt chẽ với nhau,
vận hành trong một chỉnh thể đồng bộ, thống nhất để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
chủ thể theo pháp luật quy định” [51, tr. 117]. Cùng hướng tiếp cận này, tác giả Nguyễn
Mạnh Bình trong quyển sách “Hoàn thiện CCPL giám sát xã hội đối với việc thực thi
quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay” (2012), chi rõ CCPL là “Tổng thể các bộ
phận thể chế, thiết chế, hình thức; phương pháp, trình tự; thủ tục, hậu quả pháp lý gắn
kết, hợp thành trong một hệ thống, do pháp luật quy định, nếu thiếu một trong các bộ
phận, thì hệ thống đó hông thể vận hành được” [11, tr. 31]. Bên cạnh đó, một số tác giả
khác chú trọng CCPL ở HTPL, như: tác giả Nguyễn Tuấn Khanh trong quyển sách
“CCPL bảo đảm thực hiện quyền khiếu nại hành chính của công dân” (2014), cho rằng
“CCPL là hệ thống các công cụ pháp l ” [83, tr. 31] hoặc tác giả Nguyễn Thị Tố Uyên
trong Luận án Tiến sĩ Luật học “CCPL về sự tham gia của các tổ chức xã hội trong bảo
vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay” (2017) cho rằng CCPL là “hệ thống các yếu tố
pháp lý, quy phạm pháp luật và các phương tiện pháp lý khác hợp thành, có quan hệ tác
động qua lại mật thiết với nhau theo một trật tự xác định nhằm điều chỉnh, tác động đến
một đối tượng hay quan hệ xã hội để đạt được hiệu quả pháp lý nhất định” [194, tr. 40].
Kế thừa quan niệm này tác giả Nguyễn Tiến Thành trong Luận án Tiến sĩ Luật học
“Hoàn thiện CCPL thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay” (201 ) còn chỉ rõ,
“các yếu tố này gắn kết với nhau, hợp thành hệ thống, do pháp luật quy định, nếu thiếu
một trong các bộ phận đó thì hệ thống không thể vận hành một cách bình thường” [148,
tr. 42]; tác giả Phan Thanh Hà trong Luận án Tiến sĩ luật học “CCPL về bảo hộ công
dân ở Việt Nam” (201 ), c ng chỉ rõ, CCPL là “một hệ thống tổng thể bao gồm các thể
chế, thiết chế, nguyên tắc vận hành gắn kết với nhau, hợp thành hệ thống, do pháp luật
quy định, tạo thành bảo đảm pháp l đối với quá trình thực hiện” [55, tr. 40]; tác giả
Nguyễn inh Đoan trong quyển sách chuyên khảo “CCPL kiểm soát quyền lực nhà
nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay” (201 ) chỉ ra rằng CCPL là một
chỉnh thể gồm các thể chế pháp lý và các thiết chế của nhà nước có liên quan, gắn kết
chặt chẽ với nhau [37, tr. 42-43], tuy nhiên thực tế cho thấy, ngoài thiết chế nhà nước,
các thiết chế trong chỉnh thể CCPL còn nhiều thiết chế khác trong xã hội như: của Đảng
cầm quyền, của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, v.v.. vì thế, trong quyển sách
chuyên khảo “CCPL kiểm soát quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng NNPQ
23
XHCN Việt Nam” (2018), tác giả Nguyễn inh Đoan đã bổ sung thêm: “các thiết chế
của nhà nước và xã hội” [38, tr. 55] vào trong khái niệm CCPL ở quyển sách trước đó.
C ng theo cách tiếp cận này, tác giả Trịnh Đức Thảo trong Báo cáo khoa học Đề tài
khoa học cấp Bộ “Giải pháp đột phá xác định cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp ở nước ta hiện nay” (2017) làm rõ hơn, CCPL là “một chỉnh thể gồm các thể chế
pháp lý, các thiết chế liên quan, có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất; được vận hành theo
nội dung và các phương thức do pháp luật quy định” [149, tr. 30]; cùng với cách tiếp cận
đó, trong các bài viết “CCPL về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính ở
Việt Nam hiện nay – thực trạng và giải pháp” (201 ) và “CCPL kiểm soát việc thực hiện
quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa phương: Thực trạng và giải pháp” (2019),
tác giả Hoàng Minh Hội cho rằng, CCPL là “quá trình vận động của các phương diện
pháp l , chúng tác động lên các quan hệ xã hội nhằm đạt được hiệu quả của điều chỉnh
pháp luật” [74, tr. 11]; tác giả Nguyễn Thị Hoài An, trong Luận án “CCPL kiểm soát
quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam” (2019), c ng
cho rằng CCPL là “các quy định của Hiến pháp, pháp luật và các thiết chế liên quan
(…), gắn bó chặt chẽ với nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất và vận hành trong
một điều kiện phù hợp” [1, tr. 47]; v.v.. Như thế, các quan niệm này chú trọng đến các
yếu tố cấu thành của CCPL mà chưa đề cập đến các nguồn lực bảo đảm cho các yếu tố
này vận hành.
Vì vậy, c ng với hướng tiếp cận đó nhưng toàn diện hơn, một số tác giả khác cho
rằng CCPL phải là một chỉnh thể gồm nhiều yếu tố, như thể chế, thiết chế và các bảo
đảm để các yếu tố vận hành, như: tác giả Nguyễn Quang Anh trong Luận án Tiến sĩ luật
học “Hoàn thiện CCPL nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam” (2015) cho
rằng CCPL là “tổng thể của nhiều yếu tố có quan hệ tác động qua lại mật thiết với nhau,
bao gồm các yếu tố thể chế, thiết chế và các bảo đảm để thực hiện một chức năng hoặc
một nhiệm vụ nào đó trong quản lý xã hội” [5, tr. 30]; tác giả Dương Hoán, trong Luận
án “CCPL bảo đảm pháp chế trong hoạt động hành chính nhà nước” (2019), đồng tình
với quan niệm về CCPL của tác giả Trần Ngọc Đường được đưa ra trong Báo cáo hoa
học Đề tài khoa học cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp ở nước ta” (2015), CCPL là “tổng thể của nhiều yếu tố có quan hệ tác động mật
thiết với nhau, gồm thể chế, thiết chế, các bảo đảm để thực hiện một chức năng nào đó
trong quản trị nhà nước và xã hội do Hiến pháp và pháp luật quy định” [40, tr. 6];
24
Như thế các công trình trên tiếp cận khái niệm CCPL theo các cách khác nhau và
trong từng lĩnh vực cụ thể, CCPL được các tác giả chú trọng vào các nội dung khác
nhau và đã gợi mở được các thuộc tính cơ bản của CCPL.
1.1.3.2. Các công trình nghiên cứu về các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý
Trong các công trình nghiên cứu trên cho thấy, cơ chế thường được cấu thành bởi
nhiều yếu tố khác nhau, việc đưa ra bao nhiêu yếu tố trong cấu trúc CCPL tuỳ theo cách
tiếp cận của nhà nghiên cứu. Trong quyển sách “Giám sát và cơ chế giám sát việc thực
hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay”, tác giả Võ Khánh Vinh cho rằng cơ cấu
của cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước bao gồm: các quy phạm xã hội;
hoạt động hợp pháp của các chủ thể; tính công hai; dư luận xã hội; các bảo đảm chung
và chuyên ngành pháp lý, tổ chức, văn hoá, pháp luật, thủ tục, trách nhiệm. C ng theo
cách tiếp cận đó, tác giả Tào Thị Quyên trong quyền sách “Cơ chế bảo vệ hiến pháp
trong NNPQ XHCN Việt Nam” (2012) cho rằng, cơ chế bao gồm ba yếu tố, đó là thể
chế, thiết chế và phương thức vận hành [141, tr. 47]; còn tác giả V Công Giao trong
quyển sách “Các CCPL kiểm soát quyền lực nhà nước trên thế giới và ở Việt Nam”
c ng cho rằng cơ chế được cấu thành bởi hai yếu tố quan trọng đó là: “(i) Các yếu tố/chủ
thể cấu thành/tham gia hệ thống/quy trình, và (ii) Các quy tắc vận hành của hệ
thống/quy trình đó” [42, tr. 116]. Trong hi đó, tác giả Trương Thị Hồng Hà trong
quyển sách “Hoàn thiện CCPL bảo đảm chức năng giám sát của QH” (2009) cho rằng,
CCPL bao gồm: những quy định pháp luật; hình thức pháp l ; phương pháp và thủ tục
pháp lý; hậu quả pháp lý [51, tr. 117], đây chủ yếu là thể chế pháp lý. Bổ sung thêm
cách tiếp cận này, tác giả Nguyễn Mạnh Bình trong quyển sách “Hoàn thiện CCPL giám
sát xã hội đối với việc thực thi quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay” (2012) cho
rằng, CCPL bao gồm: hệ thống thiết chế; các thể chế pháp lý; hình thức và phương pháp
pháp lý; trình tự và thủ tục pháp lý; hậu quả pháp lý [11, tr. 35]. Tiếp tục bổ sung và phát
triển cách tiếp cận này, trong các quyển sách chuyên khảo “CCPL kiểm soát quyền lực
nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay” (201 ) và “CCPL kiểm soát
quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam” (2018) tác giả
Nguyễn inh Đoan cho rằng, CCPL bao gồm thể chế pháp lý, thiết chế của nhà nước và
sự tương tác giữa các yếu tố trong cơ chế (sự vận hành của cơ chế) [37, tr. 50-51], trong
đó tác giả chia nhỏ thiết chế thành chủ thể, đối tượng; nội dung, mục đích; phương thức;
quy trình, sự vận hành của các yếu tố trong cơ chế pháp lý; xử lý kết quả [38, tr. 62-74].
C ng theo cách tiếp cận này, tác giả Trịnh Đức Thảo trong Báo cáo khoa học Đề tài
khoa học cấp Bộ “Giải pháp đột phá xác định cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
25
pháp ở nước ta hiện nay” (2017) làm rõ hơn, CCPL gồm “các thể chế pháp lý, các thiết
chế liên quan, có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất; được vận hành theo nội dung và các
phương thức do pháp luật quy định” [149, tr. 30]. Ngoài ra, tác giả Phan Thanh Hà trong
Luận án Tiến sĩ luật học “CCPL về bảo hộ công dân ở Việt Nam” (201 ), c ng cho rằng
CCPL bao gồm “các thể chế, thiết chế, nguyên tắc vận hành gắn kết với nhau, hợp thành
hệ thống, do pháp luật quy định” [54, tr. 40]; tác giả Nguyễn Thị Tố Uyên trong Luận án
Tiến sĩ Luật học “CCPL về sự tham gia của các tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường
ở Việt Nam hiện nay” (2017) cho rằng CCPL bao gồm: “hệ thống các yếu tố pháp lý,
quy phạm pháp luật và các phương tiện pháp lý khác hợp thành, có quan hệ tác động
qua lại mật thiết với nhau theo một trật tự xác định” [194, tr. 40]; trong Luận án Tiến sĩ
luật học “CCPL kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hoài An (2019) c ng cho rằng, CCPL bao gồm: “các
quy định Hiến pháp, pháp luật; các thiết chế liên quan và mối quan hệ giữa các yếu tố
trong cơ chế” [1, tr. 47]. Để có sự phân định tương đối giữa cơ chế nói chung và CCPL
nói riêng, trong Luận án Tiến sĩ Luật học “CCPL giám sát thực hiện các quy định của
Hiến pháp về bảo đảm QCN ở Việt Nam” (2018), tác giả Chu Thị Thuý Hằng cho rằng
cơ chế bao gồm hai yếu tố, đó là: “(1) yếu tố tổ chức (cơ cấu), bao gồm các thành viên
(chủ thể) tham gia, các hình thức hình thành (cơ cấu) và tổ chức hệ thống nội tại; (2) yếu
tố hoạt động (vận hành), bao gồm mối quan hệ tác động qua lại giữa các thành viên (sự
phân công, hợp tác giữa các thành viên) trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của tổ chức và nguyên tắc vận hành của cơ chế, nội dung hoạt động của nó” [60, tr. 39].
Với quan niệm như vậy, tác giả Chu Thị Thuý Hằng cho rằng, CCPL được cấu thành
bởi bốn yếu tố cơ bản: “các quy định pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của chủ thể;
hình thức và phương pháp chủ thể tiến hành hoạt động của mình; trình tự, thủ tục pháp
lý và hậu quả pháp lý của chủ thể. Bốn yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
trong quá trình vận hành cơ chế” [60, tr. 42].
Tuy nhiên trong thực tế, ngoài thể chế, thiết chế, cơ chế còn có các nguồn lực bảo
đảm để nó vận hành trong thực tế. Vì thế, tác giả Trần Ngọc Đường trong Báo cáo khoa
học Đề tài khoa học cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp ở nước ta” (2015) cho rằng, CCPL gồm “thể chế, thiết chế, các bảo đảm để thực
hiện” [40, tr. 6]; c ng theo hướng này, tác giả Nguyễn Quang Anh trong Luận án Tiến sĩ
luật học “Hoàn thiện CCPL nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam” (2015)
cho rằng, CCPL bao gồm “các yếu tố thể chế, thiết chế và các bảo đảm” [5, tr. 30]; tác
giả Dương Hoán, trong Luận án “CCPL bảo đảm pháp chế trong hoạt động hành chính
26
nhà nước” (2019), c ng cho rằng CCPL gồm “thể chế, thiết chế, các bảo đảm” [68, tr.
47-48]; tác giả Hoàng Minh Hội trong bài viết “CCPL kiểm soát việc thực hiện quyền
lực nhà nước đối với chính quyền địa phương: Thực trạng và giải pháp” (2019) c ng
khẳng định CCPL bao gồm thể chế pháp lý, các thiết chế và các điều kiện bảo đảm thực
hiện, các yếu tố này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau [75, tr. 21]; v.v..
Như thế, các công trình nghiên cứu trên có cách xây dựng và đưa ra các yếu tố cấu
thành CCPL tuỳ theo nội dung của CCPL thực hiện, tuy nhiên, dù đưa ra bao nhiêu yếu
tố nhưng, CCPL được các công trình nghiên cứu trên “cố định” ở ba yếu tố cơ bản, đó
là: thể chế pháp lý, thiết chế và các nguồn lực để vận hành CCPL.
1.2. ĐÁNH GIÁ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
TRONG LUẬN ÁN
1.2.1. Đánh giá các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.2.1.1. Đánh giá về phương pháp, cách tiếp cận của các công trình nghiên cứu
Các nghiên cứu về công lý, QTCCL, bảo đảm QTCCL, CCPL trong thời gian gần
đây được nhiều học giả tiếp cận trên phương diện khoa học pháp lý; cùng với đó, thực
tiễn bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được nhiều học giả nghiên cứu, trong đó đã
có một số công trình nghiên cứu bằng phương pháp định lượng, tuy nhiên, nhiều công
trình nghiên cứu trong nước chủ yếu sử dụng phương pháp định tính. Điều đó cho thấy,
nghiên cứu vấn đề CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam bằng
phương pháp định tính kết hợp với định lượng vẫn còn bỏ ngỏ cần phải được nghiên
cứu. Hơn nữa, các công trình trên nghiên cứu về vấn đề bảo đảm quyền cho NNN bị
XHTD dưới phương diện luật chuyên ngành, trong hi đó, việc nghiên cứu vấn đề này
trên phương diện lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật hiện nay vẫn còn bỏ ngỏ, vì
thế đây là hoảng trống cần được tiếp tục nghiên cứu.
1.2.1.2. Đánh giá kết quả của các công trình nghiên cứu
Thứ nhất, về lý luận: các công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước ở trên đã
đạt được các kết quả sau: (1) hái quát các quan điểm về công lý từ thời cổ đại đến nay,
qua đó cho thấy khái niệm công lý thể hiện những n t riêng trong đời sống xã hội, tuy
nhiên, nội hàm của công lý vẫn xoay quanh các tiêu chí cơ bản đó là lẽ phải, công bằng,
hách quan và điều thiện; (2) hái quát tương đối toàn diện về nội hàm của QTCCL, nền
tảng QTCCL và nội dung của bảo đảm QTCCL; (3) khái quát về hành vi XHTD và
NNN bị XHTD; (4) khái quát về CCPL và các yếu tố cấu thành CCPL. Những kết quả
này được NCS sử dụng trong việc xây dựng cơ sở lý luận về CCPL bảo đảm QTCCL
của NNN bị XHTD.
27
Thứ hai, về thực tiễn: các công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước đã hái
quát thực trạng bảo đảm QTCCL ở Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt các học giả
trong nước đã hẳng định, QTCCL ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định,
đặc biệt là thành tựu về hoàn thiện HTPL và hệ thống tư pháp theo Hiến pháp năm
2013. Tuy vậy, các công trình c ng chỉ rõ, QTCCL ở Việt Nam vẫn còn những hạn chế,
gây ra những hó hăn cho cho người dân, đặc biệt những người dễ bị tổn thương (phụ
nữ, trẻ em, v.v..) trong việc TCCL. Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu trên đã hái
quát tình hình XHTD ở Việt Nam trong thời gian vừa qua, từ đó chỉ ra những hó hăn
đối với NNN bị XHTD trên con đường tìm kiếm và đạt được công lý.
Như vậy, cả phương diện lý luận và thực tiễn cho thấy vấn đề “CCPL bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam” chưa được công trình nào đã công bố tính đến
thời điểm hiện nay nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ, vì vậy đây là vấn đề
nghiên cứu không trùng lặp với bất cứ công trình nào đã được công bố.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án
1.2.2.1. Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu về mặt lý luận
Luận án cần phải tiếp tục nghiên cứu và làm rõ, các nội dung sau: (1) khái niệm,
đặc điểm QTCCL của NNN bị XHTD; (2) khái niệm, nội dung, vai trò bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD; (3) khái niệm, các yếu tố cấu thành, các yếu tố ảnh hưởng
đến CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.
1.2.2.2. Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu về mặt thực tiễn
Luận án cần phải tiếp tục nghiên cứu và làm rõ, các nội dung sau: (1) thực tiễn
CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam hiện nay; (2) kết quả vận hành
CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam hiện nay, để qua đó chỉ rõ
những ưu điểm và nhược điểm của cơ chế này; (3) các giải pháp nhằm hoàn thiện CCPL
bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam trong thời gian tới.
1.3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, GIẢ THUYẾT KHOA HỌC VÀ KHUNG
PHÂN TÍCH LÝ THUYẾT
1.3.1. Câu hỏi nghiên cứu
Toàn bộ luận án tập trung trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu chính như sau:
Câu hỏi 1: CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là gì? cơ chế này được cấu
thành bởi những yếu tố nào? Đâu là những yếu tố ảnh hưởng đến sự vận hành cơ chế
này trong thực tế? CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được đo lường bằng tiêu
chí nào?
Câu hỏi 2: CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam có những ưu
điểm, nhược điểm gì? đâu là nguyên nhân của những ưu, nhược điểm đó?
28
Câu hỏi 3: Việt Nam cần làm gì để hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN
bị XHTD ở Việt Nam trong thời gian tới?
1.3.2. Giả thuyết khoa học
Cơ chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam hiện nay đã
được hình thành và đang được vận hành, trong đó: thể chế pháp lý ở Việt Nam đang
được hoàn thiện; tổ chức và hoạt động của các thiết chế tư pháp và các thiết chế giám
sát, hỗ trợ và TGPL tiếp tục được xây dựng, hoàn thiện và phát triển; các nguồn lực tiếp
tục được bổ sung để bảo đảm cho CCPL bảo đảm QTCCL của NNN được vận hành.
Tuy nhiên, cơ chế này vẫn còn bộc lộ những nhược điểm cần phải tiếp tục hoàn thiện, đó
là: hiệu lực, hiệu quả chưa cao; năng lực TCCL của NNN bị XHTD chưa có sự cải thiện
rõ rệt; NNN bị XHTD vẫn còn gặp phải những rào cản về văn hoá, xã hội trong quá trình
tìm kiếm và đạt được sự đền bù thoả đáng. Vì thế, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện CCPL
bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.
1.3.3. Khung phân tích lý thuyết
CCPL đảm bảo QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam bao gồm: (1) Thể chế
pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; (2) Thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN
bị XHTD; (3) Các nguồn lực để vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.
ĐIỀU KIỆN KT-XH VIỆT NAM
CCPL BẢO ĐẢM QTCCL CỦA NNN BỊ XHTD Ở VIỆT NAM
Thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD
Thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD
Nguồn lực để vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD
Tôn trọng QTCCL của NNN bị XHTD
Hiện thực hoá QTCCL của NNN bị XHTD
Bảo vệ QTCCL của NNN bị XHTD
HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ CỦA CCPL BẢO ĐẢM QTCCL CỦA NNN BỊ XHTD Ở VIỆT NAM
BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Sơ đồ 1. 1: Khung phân tích lý thuyết CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD ở Việt Nam
29
Toàn bộ cơ chế này được đặt trong bối cảnh KT-XH Việt Nam và hội nhập quốc tế
nhằm bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam: tôn trọng QTCCL của NNN bị
XHTD; bảo vệ QTCCL của NNN bị XHTD; hiện thực hoá QTCCL của NNN bị
XHTD. Tất cả các thành tố này đều nhằm hướng đến đem lại hiệu lực, hiệu quả trong
vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam.
Kết luận chương 1
Các công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước tiếp cận ở nhiều phương diện
hác nhau, trong đó chủ yếu tiếp cận trên phương diện khoa học pháp lý, đã thống nhất
được các nội dung quan trọng sau: (1) công lý là một giá trị nhân văn, được biểu hiện
thành các chân giá trị như: công bằng, bình đẳng, lẽ phải, chống cái ác, bảo vệ điều
thiện, v.v.. vì cuộc sống tốt đẹp của con người; (2) QTCCL là quyền năng của con người
trong việc tìm iếm, đạt được những đền bù thoả đáng trước những thiệt hại về quyền và
lợi ích do chủ thể khác gây ra; (3) CCPL được gợi mở bởi các thành tố cơ bản đó là thể
chế pháp lý, thiết chế và các nguồn lực để vận hành CCPL. Các công trình nghiên cứu
c ng chỉ rõ, bên cạnh những kết quả đạt được, PNTEG bị XHTD ở Việt Nam hiện nay
vẫn gặp phải những rào cản, những khó hăn trên con đường tìm kiếm và đạt được công
lý. Kết quả nghiên cứu của các công trình này được NCS tiếp tục bổ sung và phát triển
trong luận án. Vấn đề “CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam” chưa
được các học giả nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ, vì thế đây là vấn để nghiên
cứu hoàn toàn không trùng lặp với bất cứ một trong trình nghiên cứu nào đã được công
bố. Để giải quyết vấn đề nghiên cứu này, NCS đặt ra các câu hỏi nghiên cứu: (1) CCPL
bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là gì? cơ chế này được cấu thành bởi những yếu
tố nào? CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được đo lường bởi tiêu chí nào?
Đâu là những yếu tố ảnh hưởng đến vận hành cơ chế này trong thực tế? (2) CCPL bảo
đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam có những ưu điểm, hạn chế gì? (3) Việt
Nam cần làm gì để hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam
trong thời gian tới? Các câu hỏi nghiên cứu này được NCS giải quyết trong các chương
tiếp theo của luận án.
30
CHƯƠNG 2
LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ
CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN
TIẾP CẬN CÔNG LÝ CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC
2.1.1. Một số khái niệm liên quan
2.1.1.1. Công lý
Từ buổi bình minh của văn minh nhân loại, công l (Justice) đã xuất hiện như một
khát vọng cháy bỏng của con người về tự do, công bằng, bình đẳng, chính nghĩa, lẽ phải,
lòng nhân ái. Đây là một trong những giá trị cơ bản, xuyên suốt, định hướng cho toàn bộ
quá trình hoàn thiện nhà nước, HTPL và cải cách tư pháp. Trong Từ điển Tiếng Việt, từ
“công lý” (公 理) được chiết tự gồm có: công (公) có nghĩa là thuộc về nhà nước, chung
cho mọi người, lý (理) có nghĩa là điều được coi là lẽ phải, theo đó “công lý” được hiểu
là “lẽ phù hợp với đạo lí và lợi ích chung của xã hội” [117, tr. 336]; còn theo Viện Khoa
học pháp l , công l được hiểu là “sự công bằng hay chính nghĩa, sự đúng đắn, lẽ phải.
Thuật ngữ “công l ” thường được dùng trong đời sống pháp l và đặc biệt là trong hoạt
động tư pháp” [200, tr. 178].
Trong xã hội hiện nay, công l chính là “đại lượng công bằng” để dàn xếp những
mâu thuẫn, xung đột xã hội trên cơ sở nguyên tắc “trao cho mọi người những gì họ xứng
đáng, trao cho mỗi người cái họ đáng hưởng”, hay đó là nghĩa vụ “hoàn lại, trả lại cho
mọi người cái mà họ có quyền được hưởng” [183, tr. 5 ], vì thế “công l phải dựa trên
QCN” [122, tr. 42], là “các chuẩn mực đạo đức xã hội mà pháp luật có nhiệm vụ duy trì
và bảo vệ” [24, tr. 85], biểu hiện của công l chính là “sự công bằng, hách quan, vô tư
và tình người” [24, tr. 85]. Cho nên, tác giả John Rawls (1921-2002) đã đưa ra luận
điểm “Công lý như là sự công bằng” (Justice as fairness) và ông cho rằng “Công lý là
đức hạnh đầu tiên cho các định chế xã hội, cũng như chân lý là của các hệ thống tư
tưởng” [231, tr. 3], vì công lý là tiêu chí cơ bản của xã hội, trong đó, nội dung và quy
trình bảo vệ công lý tuỳ thuộc vào phương thức mà các quyền cơ bản và trách nhiệm
công dân được phân định song song với cơ hội tiếp cận kinh tế và quyền lực được chia
sẻ công bằng và hợp l . Trên phương diện khoa học pháp l , công l được quan niệm là
lẽ phải, sự công bằng, khách quan và nghiêm minh theo pháp luật, “nó gắn liền với cơ
quan tư pháp và chức năng đưa ra phán quyết của toà án” [4, tr. 68-69], vì “xã hội cần
pháp luật trị vì thay vì bạo lực; rằng nếu có những xử sự xấu thì sự trừng phạt (bằng
pháp luật) phải được thay thế cho sự trả thù đơn thuần” [4, tr. 69], do đó, công lý và
31
pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, theo Blaise Pascal (1623-1 2) “công l
không dựa vào quyền lực thì bất lực, quyền lực hông đi đôi với công lý thì tàn bạo
(…). Vì thế chúng ta phải gắn kết giữa công lý và sức mạnh” [214, tr. 106], và ở những
khía cạnh nhất định “pháp luật nên phục vụ cho công lý và vì công lý” [227, tr. 3], bởi vì
“luật pháp và định chế dù có hiệu năng hay hoàn chỉnh đến đâu cũng cần phải được cải
tổ hay dẹp bỏ nếu chúng là bất công” [231, tr. 3]. Pháp luật không dựa trên các chuẩn
mực của công lý, trái với bản tính của con người thì sẽ trở thành một thứ mệnh lệnh tàn
bạo, hà khắc, do đó, pháp luật “thường được xếp ngang hàng với công l ” và công lý trở
thành một trong những tiêu chí đặc biệt quan trọng trong hoàn thiện pháp luật và thực
hiện pháp luật, nhưng pháp luật và công l hông phải lúc nào c ng là một vì pháp luật
“đôi hi đi chệch hướng công l ” [245, tr. 58-59], bởi vì x t cho cùng, pháp luật mang
chí chủ quan của giai cấp cầm quyền (cho dù chí đó được phổ quát trong xã hội và
được đông đảo người dân thừa nhận), cho nên “sẽ là sai lầm nếu xếp cả hai, luật pháp và
công l , vào cùng một loại” [245, tr. 58-59]. Cơ sở của công lý phải được đặt trên nền
tảng của QCN, vì thế John Rawls khẳng định: “Mỗi người đều có quyền bất khả xâm
phạm trên nền tảng công lý và không thể bị phủ quyết cho dù vì quyền lợi của cả xã hội.
(…). Trong những đức hạnh hàng đầu của sinh hoạt con người, chân lý và công lý là
hai điều không thể bị nhân nhượng” [231, tr. 3-4]. Mặc dù, nội hàm của khái niệm công
l được tiếp cận theo nghĩa rộng, hẹp hác nhau, nhưng trung tâm của khái niệm công lý
phải được định vị bởi những “hằng số”, đó là: lẽ phải, công bằng, bình đẳng, tự do,
chính trực, nghiêm minh, không thiện vị, chính nghĩa, lòng nhân ái.
Do vậy, trên phương diện khoa học pháp lý, công lý là giá trị pháp lý được xây
dựng trên nền tảng của lẽ phải, công bằng, khách quan, chống cái ác, bảo vệ điều thiện,
sự hợp pháp, nghiêm minh theo pháp luật, vì sự phát triển tốt đẹp của con người và tiến
bộ xã hội.
Bảo đảm công lý chính là bảo vệ QCN vì “bất kể họ sống ở đâu hay mức độ chúng
ta quen biết họ như thế nào vì đơn giản, họ là con người, có lý trí và phải được tôn trọng” [183, tr. 56]. Nhà nước có trách nhiệm chính trong việc tổ chức, thực hiện pháp luật, tạo điều kiện cho các chủ thể pháp luật, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương sử dụng biện pháp pháp l để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, c ng như được bù đắp thoả đáng những tổn thất do hành vi phạm pháp luật của chủ thể khác gây ra và xử lý nghiêm minh những hành vi xâm phạm bất hợp pháp đến QCN.
2.1.1.2. Xâm hại tình dục và nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục Tình dục là hoạt động có ý thức của con người, gắn liền với sự tồn tại, phát triển nhân loại, theo Abraham Maslow (1908 -1970), đây là một trong những nhu cầu cơ bản, cấp thiết, không thể thiếu của một con người [208, tr. 35-38], thể hiện khả năng sinh tồn,
32
tiến hoá của con người. Theo Bryan Strong và các cộng sự (2005), tình dục còn là một
mặt của nhân cách, biểu hiện tất cả những cảm xúc và hành vi giới tính của một người [211, tr. 326], đây vừa là hành vi tự nhiên, bản năng của con người, vừa là hành vi xã
hội, vì thế các hành vi tình dục của con người bị điều chỉnh bởi yếu tố văn hoá, đạo đức
và pháp luật. Ở Việt Nam, theo Từ điển Tiếng Việt, tình dục là “nhu cầu tự nhiên của
con người” [117, tr. 524], mang tính bản năng của con người thông qua việc quan hệ tính giao (gồm hành vi giao cấu và hành vi tình dục nhưng hông phải là giao cấu) giữa
con người với nhau (có thể dị tính về giới hoặc đồng tính về giới). Nó gắn liền với sự
tồn tại của nhân loại, vừa thể hiện bản năng tự nhiên (sinh học) của con người, vừa
mang tính xã hội (được điều chỉnh bởi các quy phạm xã hội), đem lại hạnh phúc cho con
người và giúp con người duy trì nòi giống và tiến hóa xã hội. Do đó, tình dục trở thành quyền cơ bản của con người, gọi là quyền tình dục.
Trên phương diện khoa học pháp lý, quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục là
một trong những quyền dân sự của con người, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong
thực tế, quyền này không phải lúc nào c ng được bảo đảm, mỗi cá nhân có thể bị bạo
lực hoặc buộc phải thực hành hành vi tình dục trái với ý muốn, c ng như đi ngược lại
với chuẩn mực văn hoá, đạo đức và pháp luật, đây chính là những hành vi xâm hại đến
danh dự, nhân phẩm và sức khoẻ của con người. Theo Từ điển Tiếng Việt, xâm hại là
“hành vi tác động đến quyền lợi của chủ thể khác khiến cho chủ thể đó bị tổn hại” [117,
tr. 1758], nên hành vi xâm hại chính là hành vi lệch chuẩn, nghĩa là “sự vi phạm các
chuẩn mực và mong đợi của cộng đồng xã hội” [29, tr. 12]. Trên phương diện khoa học
pháp lý, xâm hại phải là những hành vi trái pháp luật, tác động đến quyền và lợi ích hợp
pháp của chủ thể khác khiến cho chủ thể đó bị thiệt hại (vật chất, thể chất, tinh thần) và
vi phạm trật tự pháp luật, đây là hành vi bị pháp luật cấm.
Với cách tiếp cận đó, XHTD phải là những hành vi tình dục trái pháp luật của
người này đối với người khác. Theo bác sĩ Peter Cameron và đồng nghiệp, biểu hiện của
XHTD có thể là hành vi tình dục mà “không có sự đồng thuận của người đó, hoặc ép
buộc tinh thần hoặc dùng sức mạnh ép một người tham gia vào hành vi tình dục trái
ngược với nguyện vọng” [207], hoặc “nạn nhân có thể hông đưa ra sự đồng thuận, vì sợ
hãi mà đồng thuận hoặc hông đủ tuổi pháp lý hoặc khả năng nhận thức để đồng thuận”
[207] tham gia vào hành vi tình dục. Những hành vi này sẽ gây ra những tổn hại về thể
chất, tinh thần cho nạn nhân trước mắt hoặc lâu dài. Ngoài ra, nó còn gây ra những tổn
hại cho xã hội vì trong trường hợp thực hiện hành vi tình dục với người hông đủ tuổi
pháp lý hoặc khả năng nhận thức để đồng thuận (như người chưa thành niên, người mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình) và nạn nhân hoàn toàn
33
đồng thuận, nhưng hành vi này đã gây ra những tổn hại lâu dài đối với sự phát triển của
người này, qua đó gây ra sự thiệt hại cho sự ổn định và phát triển xã hội.
Vì thế, trên phương diện pháp l , XHTD được hiểu là những hành vi tình dục trái
pháp luật của người này đối với người khác, vi phạm đến quyền bất khả xâm phạm và tự
do tình dục của con người.
Ở Việt Nam, theo Khoản 1, Điều 2 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày
01/10/2019 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
tại các điều 141,142,143,144,145, 146, 147 của BLHS và việc xét xử vụ án XHTD
người dưới 18 tuổi, quy định:
XHTD người dưới 16 tuổi là việc dùng v lực, đe dọa dùng v lực, ép buộc,
lôi kéo, dụ dỗ người dưới 16 tuổi tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục,
bao gồm hiếp dâm, cư ng dâm, giao cấu, dâm ô với người dưới 16 tuổi và sử dụng
người dưới 16 tuổi vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức (ví dụ:
hoạt động XHTD được thực hiện do đồng thuận với người dưới 13 tuổi); do cư ng
bức, do hứa hẹn các lợi ích vật chất (tiền, tài sản) hay các lợi ích phi vật chất (ví
dụ: cho điểm cao, đánh giá tốt, tạo cơ hội tiến bộ...) [71].
Những quy định này về hành vi XHTD mới chỉ bao gồm các hành vi tình dục trái
với quy định của PLHS, đây thực chất là các hành vi xâm phạm tình dục, nhưng trên
“những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm và tự do
thực tế, XHTD có nội hàm rộng hơn xâm phạm tình dục vì xâm phạm tình dục là
tình dục của con người, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố
ý, trái PLHS và phải chịu hình phạt tương xứng” [96, tr. 18], nghĩa là xâm phạm tình dục
là những hành vi được quy định trong PLHS. Ngoài ra, so với hành vi lạm dụng tình
dục, XHTD có nội hàm rộng hơn, vì lạm dụng tình dục chỉ là một quá trình trong đó một
người lợi dụng vị thế của mình nhằm dụ dỗ hay cư ng p người khác tham gia vào hoạt
động tình dục. Vì thế, XHTD là hành vi tình dục lệch chuẩn, trái pháp luật, bao gồm cả
hành vi xâm phạm tình dục và các hành vi XHTD khác, chưa được quy định trong
PLHS, nhưng được quy định trong các luật chuyên ngành khác, gồm các hành vi sau:
(1) Hiếp dâm: là hành vi giao cấu hoặc “quan hệ tình dục khác trái ý muốn”, “có sử
dụng v lực, đe doạ sử dụng v lực hay lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn
nhân hoặc thủ đoạn hác đối với nạn nhân (khoản 1, Điều 141 BLSH năm 2015)” [138];
trong đó bao gồm cả hành vi hiếp dâm người lớn và hiếp dâm trẻ em. Về bản chất, hành
vi này tương đồng với hành vi tấn công tình dục ở một số quốc gia trên thế giới.
(2) Cưỡng dâm: là hành vi buộc nạn nhân phải miễn cư ng giao cấu hoặc “quan
hệ tình dục khác” trái ý muốn do bị lệ thuộc (về vật chất hoặc tinh thần) (khoản 1, Điều
34
14 BLSH năm 2015)” [138]; trong đó bao gồm cả hành vi cư ng dâm người lớn và
cư ng dâm trẻ em. Về bản chất, hành vi này tương đồng với hành vi ép buộc người khác
tham gia hoạt động tình dục ở một quốc gia trên thế giới.
(3) Dâm ô: là “hành vi tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo
vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm hay bộ phận hác trên cơ thể của người dưới
16 tuổi có tính chất tình dục nhưng hông nhằm quan hệ tình dục (khoản Điều 3 Nghị
quyết số 06/2019/NQ-HĐTP)” [71].
(4) Giao cấu và thực hiện các hoạt động tình dục khác đối với trẻ em: là “hành vi
xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất cứ mức độ xâm
nhập nào (Khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP)” [71]. Ở Trung Quốc,
Điều 236 BLHS Trung Quốc hiện hành quy định “Giao cấu với trẻ em gái chưa đủ 14
tuổi coi như phạm tội hiếp dâm” [47, tr. 157], trong hi đó, ở Việt Nam, BLSH năm
2015 quy định giao cấu với người dưới 13 tuổi mặc dù người đó tự nguyện thì hành vi
giao cấu này đã đủ để cấu thành hành vi hiếp dâm trẻ em: “Giao cấu hoặc thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi” (điểm b Khoản 1 Điều 142)
[138]. Ngoài ra, theo Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP quy định “Giao cấu với người
dưới 10 tuổi được xác định là đã thực hiện không phụ thuộc vào việc đã xâm nhập hay
chưa ( hoản 1, Điều )” [71], quy định này được hiểu là hành vi dâm ô và giao cấu đối
với người dưới 10 tuổi được xác định là hành vi hiếp dâm trẻ em.
(5) Sử dụng trẻ em vào mục đích khiêu dâm: là “hành vi dùng cử chỉ, hành động,
lời nói, chữ viết, ký hiệu, hình ảnh, âm thanh nhằm kích thích tình dục trẻ em; phô bày
bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, khoả thân, thoát y hoặc thực hiện các động tác mô
phỏng hoặt động tình dục (khoản 4, 5, Điều 3 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP)”
[71], trừ trường hợp người được cơ quan có thẩm quyền giao thực hiện hành vi “mô tả
bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của con người để phục vụ công tác giáo dục, khám
chữa bệnh, chăm sóc y tế” ( hoản 2, Điều 5 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP) [71].
(6) Quấy rối tình dục: là những hành vi tình dục trái pháp luật, không thuộc những
hành vi XHTD trên (không phải là hành vi hiếp dâm, cư ng dâm, dâm ô, giao cấu và
thực hiện các hoạt động tình dục hác đối với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích
khiêu dâm), thông qua cử chỉ, lời nói hoặc phi lời nói có liên quan đến tình dục nhằm
gây tổn thương danh dự và nhân phẩm con người.
Trong vụ án XHTD, người bị thiệt hại về thể chất và tinh thần bởi người khác vi
phạm đến quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục gây ra gọi là nạn nhân bị XHTD.
Theo Từ điển tiếng Việt, nạn nhân là “Người bị nạn hoặc người phải chịu hậu quả của
một tại họa xã hội hay một chế độ bất công” [116, tr. 5]; trong Đại từ điển tiếng Việt,
35
nạn nhân được định nghĩa là: “1. Người bị tai nạn; 2. Người, tổ chức gánh chịu hậu quả
từ bên ngoài đưa đến” [205, tr. 11 5]. Trên phương diện khoa học pháp lý, nạn nhân
được hiểu là những cá nhân, tổ chức bị HVVP pháp luật của chủ thể khác gây ra những
thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp hác. Đối với
các vụ án phạm tội trong PLHS, nạn nhân là “các cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức, cộng
đồng bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác do
hậu quả trực tiếp của hành vi phạm tội” [17, tr. 26]. Theo khoản 1, Điều 62, BLTTHS
hiện hành của Việt Nam, nạn nhân của tội phạm chính là bị hại, đó là “cá nhân trực tiếp
bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản,
uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra” [134]. Nạn nhân bị XHTD chịu thiệt hại
về sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của bản thân trước mắt hoặc lâu dài, đặc biệt nạn nhân
là PNTEG thì sự thiệt hại càng nghiêm trọng hơn. Thông thường, PNTEG bị XHTD
không chỉ bị tổn thương về sức khỏe, tinh thần mà còn chịu ảnh hưởng, tác động tiêu
cực, thậm chí rất nghiêm trọng tới đời sống bình thường của họ, gia đình họ. Đời sống
thể chất c ng như tinh thần của các NNN bị XHTD đều có nhiều trở ngại, bất ổn, đặc
biệt thời gian đầu, sau khi bị XHTD (đặc biệt là bị hiếp dâm, cư ng dâm), nhiều nạn
nhân đã hông muốn hoặc không thể sống tại địa phương, họ gặp rất nhiều hó hăn
trong cuộc sống riêng, đời sống của NNN và gia đình họ bị ảnh hưởng, xáo trộn, đặc
biệt là đời sống tâm lý, tình cảm của họ, trong đó, “những hậu quả tâm lý mà nạn nhân
của tội hiếp dâm phải gánh chịu vô cùng nặng nề trong khi nạn nhân của đa số các tội
phạm khác không phải hoặc ít hi rơi vào tình trạng tương tự” [103, tr. 36].
Như thế, NNN bị XHTD là phụ nữ và trẻ em gái bị người khác vi phạm đến quyền
bất khả xâm phạm và tự do tình dục, gây ra những thiệt hại về sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của bản thân trước mắt hoặc lâu dài.
PNTEG chỉ tất cả những người có giới tính nữ, trong đó phụ nữ chỉ những người
thành niên có giới tính nữ. Ở Việt Nam, khoản 1 Điều 20 BLDS năm 2015 quy định
“Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên” [133]; trẻ em gái được xác định
những người có giới tính nữ dưới 18 tuổi hoặc dưới 16 tuổi, tuỳ theo quy định pháp luật
của mỗi quốc gia. Điều 1 CRC quy định: “trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18
tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành
niên sớm hơn” [97], theo đó, nhiều quốc gia trên thế giới quy định trẻ em là người dưới
18 tuổi, như ở Nhật Bản, Luật Phúc lợi trẻ em năm 1947 (sửa đổi năm 200 , 2004,
2007) c ng quy định: “trẻ em là người dưới 18 tuổi” [229], trong hi đó ở Việt Nam,
Điều 1 Luật Trẻ em năm 201 quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”[135] và khoản
36
1 Điều 21 BLDS năm 2015 quy định “Người chưa thành niên là người chưa đủ mười
tám tuổi” [133], nên người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là người chưa thành niên.
2.1.1.3. Quyền tiếp cận công lý và quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị
xâm hại tình dục
Quyền tiếp cận công lý (Right of Access to Justice) hay gọi tắt là tiếp cận công lý
(Access to Justice) là khái niệm bắt nguồn từ HTPL Anh – Mỹ (Anglo-American law)
[218, tr. 47]. Ngay từ năm 1215, Đại hiến chương agna Carta của Anh đã cam ết:
“không ai bị bán cho người khác; quyền hay công lý của bất kỳ ai cũng đều không bị
chối bỏ” [256, tr. 12], điều này thể hiện tinh thần “công lý bị trì hoãn là công lý bị từ
chối” [264, tr. 8 ]. Ngày nay, “QTCCL là một trong những quyền cơ bản của con
người” [260, tr. ], được nhiều tổ chức quốc tế để cập trong các chương trình, dự án của
mình, đặc biệt là UNDP.
Theo quan điểm truyền thống, QTCCL được xem x t trên phương diện là quyền
được xét xử công bằng (right to a fair trial), quan điểm này không chỉ được sử dụng rộng
rãi tại nhiều quốc gia mà nó đã được pháp điển hoá trong luật quốc tế. Trong đó, UDHR
quy định “Ai c ng có quyền yêu cầu tòa án quốc gia có thẩm quyền can thiệp chống lại
những hành động vi phạm những quyền căn bản được hiến pháp và luật pháp thừa nhận
(Điều 8)” [263] và “ ọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công minh và công
khai bởi một tòa án độc lập và hách quan, để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ,
c ng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ (Điều 10)” [263], quy định này tiếp tục
được cụ thể hoá tại Điều 14 (1) của ICCPR: “Mọi người đều bình đẳng trước các toà án
và cơ quan tài phán. ọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi
một toà án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để
quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự, hoặc để xác định quyền và
nghĩa vụ của người đó trong các vụ kiện dân sự” [226, tr. 176]. Theo cách tiếp cận này,
QTCCL được nhìn nhận trên bốn nội dung: (i) Mục tiêu là được xét xử công bằng thông
qua việc sử dụng hệ thống tư pháp; (ii) Đối tượng hướng tới là tất cả mọi người; (iii)
Phạm vi tác động chủ yếu là các thiết chế tư pháp, nhằm bảo đảm được quyền xét xử
công bằng; (iv) Tập trung phát triển năng lực, thể chế, đặc biệt là về quản l và cơ sở hạ
tầng của toà án, kỹ năng xây dựng pháp luật và nghiệp vụ tư pháp. Tuy nhiên, hướng
tiếp cận này khá hẹp vì QTCCL đâu chỉ thực hiện trong lĩnh vực tố tụng mà còn được
thực hiện trong nhiều lĩnh vực khác, vì thế Điều 2 (3) của ICCPR: “a) Bảo đảm rằng bất
cứ người nào bị xâm phạm các quyền và tự do như được công nhận trong Công ước này
đều nhận được các biện pháp khắc phục hiệu quả, cho dù sự xâm phạm này là do hành
vi của những người thừa hành công vụ gây ra” [226, tr. 174]; “b) Bảo đảm rằng bất kỳ
37
người nào có yêu cầu về các biện pháp khắc phục sẽ được các cơ quan tư pháp, hành
pháp hoặc lập pháp có thẩm quyền hoặc bất kỳ cơ quan nào hác có thẩm quyền do
HTPL của quốc gia quy định, xác định quyền lợi cho họ và sẽ mở rộng khả năng áp
dụng các biện pháp khắc phục mang tính tư pháp” [226, tr. 174]; “c) Đảm bảo rằng các
cơ quan có thẩm quyền sẽ thi hành các biện pháp khắc phục đã được đề ra” [226, tr.
174].
Trong thực tế, các vụ án hành chính, hình sự chủ yếu sử dụng biện pháp xét xử,
trong hi đó các vụ án dân sự, các bên có quyền lợi liên quan được phép lựa chọn nhiều
biện pháp hác nhau, như trọng tài, hoà giải, nên để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho các bên liên quan, các biện pháp tư pháp chính thức (chủ yếu là xét xử) và các biện
pháp phi chính thức (hoà giải, trọng tài) được sử dụng nhằm bổ sung cho nhau, qua đó
bảo đảm tốt nhất cho mọi người có quyền chọn lựa và đạt được sự đền bù thoả đáng
những quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm. Chính vì thế, hiện nay, UNDP đã xem
QTCCL là một phần quan trọng trong nhiệm vụ của UNDP để giảm nghèo và tăng
cường quản trị dân chủ [260, tr. 3], cho nên UNDP đã đưa ra cách tiếp cận mới về
QTCCL, đó là “Quyền của người dân tìm kiếm và đạt được sự đền b hoặc khắc phục
thông qua thể chế/thiết chế tư pháp chính thức và không chính thức, ph hợp với các
tiêu chuẩn quốc tế về QCN” [261, tr. 5], từ đó “thúc đẩy sự phát triển của con người c ng
như các thiết chế của một xã hội dân chủ” [43, tr. 108]. Đây chính là hả năng, nhu cầu
và lợi ích của mỗi người sử dụng hệ thống tư pháp (Justice systems) chính thức hoặc phi
chính thức để “tìm kiếm sự đền bù hoặc sự khắc phục (Remedy) cho những bất công hay
thiệt hại mà một cá nhân hay một nhóm cá nhân, đặc biệt là cho những nhóm xã hội dễ
bị tổn thương phải gánh chịu” [43, tr. 107-108], trong đó những bất công/thiệt hại này có
thể do cá nhân hay pháp nhân gây ra, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội chứ
không giới hạn ở trong tố tụng hành chính, hình sự. Hệ thống tư pháp bao gồm “hệ thống
tổ chức các cơ quan tư pháp và hệ thống thủ tục tư pháp” [188, tr. 19], đây là hệ thống
các cơ quan có thẩm quyền xét xử đối với các tranh chấp hay các HVVP pháp luật. Theo
UNDP, hệ thống này được thiết lập bởi các thể chế/thiết chế chính thức và phi chính
thức [261, tr. 5-7]: (1) các thể chế, bao gồm: thể chế chính thức (Formal law) là các quy
định pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục luật
định và thể chế phi chính thức (Informal law) là các luật tục được nhà nước thừa nhận,
phù hợp với quy chuẩn đạo đức, văn hoá và sự tiến bộ của nhân loại; (2) các thiết chế,
bao gồm: thiết chế tư pháp chính thức (Formal Institutions of Justice) bao gồm toà án,
cơ quan công tố, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các thiết chế tư pháp phi chính
thức (Informal Institutions of Justice) bao gồm hệ thống hoà giải và trọng tài hoặc đánh
38
giá trung lập [43, tr. 114]; (3) các thiết chế giám sát và hỗ trợ, tư vấn pháp l trong đó
gồm: “Hệ thống giám sát (Oversee system) là các cơ quan dân cử và các tổ chức chính
trị - xã hội, các tổ chức xã hội; hệ thống hỗ trợ và tư vấn pháp lý (Legal Aid and counsel
system) là các cơ quan trợ giúp, tư vấn pháp l do nhà nước và các tổ chức xã hội thành
lập” [261, tr. 5-7].
Vì vậy, QTCCL được hiểu là khả năng của mỗi người tìm kiếm và đạt được sự đền
bù, khắc phục thoả đáng và hợp pháp cho những bất công và thiệt hại mà họ phải gánh
chịu, cũng như truy cứu trách nhiệm thích đáng đối với chủ thể gây ra những tổn hại đó
thông qua hệ thống tư pháp, hệ thống giám sát và hỗ trợ, tư vấn pháp lý.
Trong vụ án xâm hại bất hợp pháp đến quyền và lợi ích của con người, QTCCL
chính là khả năng của nạn nhân yêu cầu cơ quan chức năng giải quyết vụ án kịp thời,
đúng đắn, công bằng, khách quan, nghiêm minh theo pháp luật, bảo vệ kịp thời, đầy đủ
quyền và lợi ích của nạn nhân, trừng trị thích đáng chủ thể có hành vi xâm hại quyền.
Đối với vụ án XHTD, NNN bị XHTD thường “gặp nhiều rào cản trong TCCL vì
những bất cập trong khuôn hổ pháp lý, thủ tục pháp lý, rào cản về xã hội (Tập quán và
quan niệm xã hội truyền thống) và rào cản về kinh tế” [154, tr. 69], những rào cản này
góp phần gây ra tình trạng bỏ cuộc đối với NNN bị XHTD trong TCCL. Vì thế, để tìm
kiếm và đạt được sự đền bù và khắc phục thoả đáng những thiệt hại cho bản thân và xã
hội, NNN bị XHTD không chỉ có quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực tư pháp và
quyền tham gia tố tụng, mà họ còn quyền tiếp cận thông tin pháp lý, quyền được TGPL,
quyền được tiếp cận các cơ quan tư pháp, đặc biệt là toà án, quyền được bảo đảm tố tụng
trong xét xử (quyền được bào chữa, cung cấp chứng cứ, nhân chứng, quyền kháng cao,
được tiến hành theo thủ tục đặc biệt và thân thiện, v.v..).
Từ những phân tích trên, QTCCL của NNN bị XHTD được hiểu là khả năng của
PNTEG bị XHTD tìm kiếm và đạt được sự đền bù, khắc phục thoả đáng, hợp pháp cho
những bất công, thiệt hại của bản thân và xã hội, cũng như buộc người XHTD phải chịu
trách nhiệm pháp lý tương xứng với tính chất, mức độ của HVVP gây ra thông qua hệ
thống tư pháp chính thức, hệ thống giám sát và hệ thống hỗ trợ, tư vấn pháp lý.
QTCCL của NNN bị XHTD được phát sinh khi PNTEG bị người khác vi phạm
đến quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục của con người; quyền này đã được pháp
luật quốc gia và quốc tế ghi nhận và bảo vệ.
2.1.1.4. Bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục
Bảo đảm QCN nói chung, quyền của PNTEG nói riêng là nghĩa vụ của các chủ thể
trong xã hội. Theo Từ điển Tiếng Việt, bảo đảm được hiểu là “làm cho chắc chắn thực
hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết để thực hiện được” [117, tr.
39
8], theo nghĩa đó, tác giả Nguyễn Đăng Dung cho rằng, bảo đảm quyền của chủ thể
này là nghĩa vụ của các chủ thể hác, đặc biệt là nhà nước, bao gồm: “(i) Nghĩa vụ tôn
trọng quyền (các chủ thể phải kiềm chế không can thiệp bất hợp pháp vào việc thụ
hưởng các quyền đã được ghi trong pháp luật); (ii) Nghĩa vụ bảo vệ quyền (các chủ thể
phải ngăn chặn sự vi phạm quyền); (iii) Nghĩa vụ hiện thực hoá quyền (các chủ thể có
biện pháp hỗ trợ, triển khai việc thực hiện quyền trong thực tế))” [27, tr. 7]. Như vậy,
trong bảo đảm quyền đã bao hàm cả bảo vệ quyền, do đó, bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD là nghĩa vụ của các chủ thể trong xã hội, bao gồm các cá nhân, nhà nước, các tổ
chức chính trị, tổ chức xã hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình để tôn trọng, bảo
vệ, hiện thực hoá QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế một cách hiệu quả.
Để thực hiện được các nghĩa vụ này, các chủ thể bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD phải thực hiện các hoạt động cụ thể của mình nhằm hiện thực hoá khả năng tìm
kiếm và đạt được sự đền bù, khắc phục thoả đáng, hợp pháp những bất công, thiệt hại
của NNN và buộc người XHTD phải chịu trách nhiệm pháp l thích đáng thông qua hệ
thống tư pháp chính thức, hệ thống giám sát và hệ thống hỗ trợ, TGPL. Trong đó, nhà
nước đóng vai trò trung tâm, quan trọng nhất trong việc bảm đảm QTCCL của NNN bị
XHTD vì chỉ có nhà nước có đủ thẩm quyền, với đầy đủ công cụ, phương tiện và nguồn
lực để ghi nhận trong pháp luật, ngăn chặn sự vi phạm, hỗ trợ, thực hiện các biện pháp
để hiện thực hoá QTCCL của NNN bị XHTD trên thực tế một cách hiệu quả, trong đó,
nhà nước ban hành hệ thống luật để ghi nhận đầy đủ QTCCL của NNN bị XHTD (hoạt
động lập pháp); nhà nước triển khai, thực thi pháp luật để hiện thực hoá QTCCL của
NNN bị XHTD vào trong thực tiễn (hoạt động hành pháp) và nhà nước bảo vệ QTCCL
của NNN bị XHTD bằng hoạt động tố tụng (hoạt động tư pháp). Ngoài ra, nhà nước còn
phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, cá nhân, tổ chức khác trong xã hội để thực hiện tốt
nghĩa vụ của mình trong bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.
Như vậy, bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là các hoạt động do nhà nước và
xã hội thực hiện để QTCCL của PNTEG bị XHTD được thực hiện tốt trong thực tế.
Để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, nhà nước và xã hội phải thực hiện
những nội dung sau, đó là:
Thứ nhất, tôn trọng QTCCL của NNN bị XHTD.
Tôn trọng QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế là việc các cơ quan nhà nước
và xã hội không can thiệp bất hợp pháp vào việc thụ hưởng QTCCL của NNN bị XHTD
đã được ghi trong pháp luật, đó là quyền được Toà án xét xử công bằng, kịp thời và
đúng pháp luật; quyền được thông tin về pháp luật; quyền được giáo dục pháp luật;
quyền được hỗ trợ và TGPL; v.v.. Trong đó, cá nhân, cơ quan nhà nước và xã hội phải:
40
tôn trọng quyền lợi của NNN bị XHTD và người có quyền lợi liên quan; tuân thủ các
chế tài đối với hành vi XHTD; tôn trọng quyền của NNN bị XHTD được trợ giúp cần
thiết để tiếp cận các cơ quan chức năng ịp thời giải quyết, theo đuổi vụ án đến cùng và
những bù đắp đối với thiệt hại mà họ và xã hội phải gánh chịu từ hành vi XHTD.
Thứ hai, bảo vệ QTCCL của NNN bị XHTD.
Bảo vệ QTCCL của NNN bị XHXTD trong thực tế là các biện pháp do nhà nước
và xã hội thực hiện nhằm phòng ngừa, ngăn chặn các HVVP QTCCL của NNN bị
XHTD, trong đó xây dựng quy trình, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án vụ án XHTD rõ ràng, chặt chẽ; thực hiện các biện pháp kiểm tra, giám sát quá trình
thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
vụ án XHTD; xử lý nghiêm minh những HVVP đến việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án vụ án XHTD.
Các vi phạm QTCCL của NNN bị XHXTD đó là các hành vi của cá nhân, tổ chức
can thiệp việc thụ hưởng QTCCL của NNN bị XHTD, bao gồm cản trở việc thụ hưởng
các quyền được Toà án xét xử công bằng, kịp thời và đúng pháp luật; quyền được thông
tin về pháp luật; quyền được giáo dục pháp luật; quyền được tư vấn và TGPL; v.v.. Đặc
biệt, các cá nhân, tổ chức có hành vi cản trở, trì hoãn hoặc thực hiện sai các quy định
pháp luật về quy trình, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án vụ án
XHTD, từ đó gây ra những hó hăn, cản trở việc tìm kiếm và đạt được sự bù đắp và
khắc phục thoả đáng những thiệt hại của NNN bị XHTD. Nhà nước và xã hội thực hiện
các hoạt động can thiệp của nhà nước và xã hội để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án đối với người có các HVVP đến QTCCL của NNN bị XHTD, trong đó xây
dựng và vận hành hệ thống các thiết chế (các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền) thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định pháp luật để bảo vệ quyền của NNN bị
XHTD, đặc biệt là hệ thống tư pháp chính thức, như toà án, cơ quan công tố, cơ quan
điều tra, cơ quan thi hành án, v.v.., trong đó, “quan trọng nhất là toà án phải bảo đảm
yêu cầu: công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kịp thời, không bị trì hoãn; độc
lập, hách quan, vô tư và áp dụng pháp luật chính xác” [43, tr. 121].
Thứ ba, hiện thực hoá QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế.
Nhà nước và xã hội phải thực hiện các biện pháp để NNN bị XHTD thực hiện
được QTCCL của bản thân họ, đặc biệt nhà nước và xã hội thực hiện các biện pháp để
PNTEG bị XHTD nâng cao năng lực TCCL. Để PNTEG bị XHTD có khả năngTCCL,
các chủ thể này phải tuyên truyền, phố biến, giáo dục pháp luật, qua đó bản thân nạn
nhân hiểu rõ quyền lợi của bản thân, hiểu rõ những hành vi tình dục trái pháp luật và
hiểu rõ nghĩa vụ của các chủ thể khác phải bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình; đồng
41
thời hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chức năng trong việc thụ lý, xử lý vụ
án, c ng như trình tự, thủ tục giải quyết vụ án lên quan đến XHTD. Ngoài ra, các cơ
quan này thực hiện các biện pháp hỗ trợ (hỗ trợ pháp lý; hỗ trợ nguồn lực tài chính và
các biện pháp hỗ trợ hác) để trấn an tinh thần cho nạn nhân, đồng thời giúp cho nạn
nhân theo đuổi vụ việc đến cùng nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bản thân và được
bù đắp thoả đáng những thiệt hại của PNTEG bị XHTD.
2.1.2. Khái niệm cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân
nữ bị xâm hại tình dục
“Cơ chế” là hái niệm được nhiều học giả tiếp cận từ nhiều giác độ khác nhau,
trong lĩnh vực kinh tế (cơ chế thị trường), trong lĩnh vực hành chính (cơ chế quản lý),
trong lĩnh vực pháp luật (cơ chế pháp lý), v.v.. Từ điển Larousse, cho rằng, cơ chế
(mécanisme) được hiểu theo hai nghĩa: “(1) sự phối hợp các bộ phận, các cơ quan nhằm
đảm bảo sự hoạt động, vận hành và chính bản thân sự vận hành đó; (2) phương thức
hoạt động, vận hành của một cái gì đó được so sánh như một bộ máy, đó là tập hợp
những hiện tượng liên tiếp tạo thành một chuỗi tuần tự” [219, tr. 626]; trong Từ điển
Cambridge (Cambridge Dictionary), c ng cho rằng cơ chế (mechanism) là “cách thức
mà hệ thống có thể vận hành, hoạt động được, nhưng nó còn được hiểu là một bộ phận
hoặc là một tập hợp các bộ phận cùng hoạt động với nhau của một cỗ máy” [212]. Theo
cách tiếp cận này, nếu nhìn nhận ở trạng thái động, cơ chế là cách thức vận hành của
một hệ thống), nếu nhìn nhận ở trạng thái tĩnh, cơ chế là các bộ phận cấu thành của hệ
thống. Ở Việt Nam, theo Từ điển Tiếng Việt, cơ chế được chiết tự từ từ Hán – Việt (機
製), có nghĩa là “cách thức tổ chức nội bộ và quy luật vận hành, biến hoá của một hiện
tượng” [117, tr. 4 ]; theo hướng tiếp cận này, tác giả Lương Xuân Quỳ (1994) cho
rằng khái niệm cơ chế “dùng để chỉ sự tương tác giữa các yếu tố kết thành một hệ thống,
mà nhờ đó hệ thống đó có thể hoạt động được” [140, tr. 6], đây là “sự vận hành của một
hệ thống bao gồm toàn bộ các bộ phận tác động qua lại lẫn nhau trong suốt quá trình
hoạt động của chúng” [51, tr. 107], nó biểu hiện của những mối quan hệ biện chứng bên
trong của một hệ thống. Vì thế tác giả Tào Thị Quyên (2012) chỉ rõ, cơ chế là “tổng thể
các yếu tố có mối quan hệ mật thiết, tương tác lẫn nhau, hình thành một hệ thống và sự
vận hành của hệ thống đó” [141, tr. 47]. Trong lĩnh vực nhân quyền, tác giả V Công
Giao và cộng sự (2015) cho rằng “cơ chế nhân quyền thường được dùng để chỉ hệ thống
các cơ quan (chuyên trách) và các quy tắc, thủ tục có liên quan được thiết lập với mục
tiêu thúc đẩy và bảo vệ QCN” [46, tr. 15]. Điều đó cho thấy, dù tiếp cận theo khía cạnh
nào thì cơ chế là một chỉnh thể, gồm các cơ quan (thiết chế), các quy tắc, thủ tục (thể
chế) và các nguồn lực để vận hành chỉnh thể đó, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, được
42
sắp xếp và vận hành theo những nguyên tắc thống nhất, khách quan và khoa học để thực
hiện mục đích xác định.
Từ các quan niệm đó cho thấy, cơ chế không là khái niệm tự thân mà luôn gắn liền
với một chỉnh thể các yếu tố bộ phận bên trong có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo
nên sự hoạt động của sự vật, hiện tượng và được biểu hiện ra bên ngoài bằng những
hình thức nhất định, nghĩa là “sự tương tác giữa các bộ phận trong cấu trúc của chỉnh thể
theo những nguyên tắc và quá trình xác định nhằm đạt được một kết quả nhất định” [67,
tr. 24]; cơ chế phải gắn với phương tiện nhất định của nó và nếu “phương tiện đó là pháp
luật thì gọi đó là CCPL” [68, tr. 47]. Theo đó, tác giả Trương Thị Hồng Hà (2009) cho
rằng, CCPL là biểu hiện của “tổng hợp các hình thức, công cụ, phương tiện pháp lý có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau, vận hành trong một chỉnh thể đồng bộ, thông nhất” [51,
tr. 117], nó bao gồm các “thể chế (các quy định pháp luật), thiết chế (các cơ quan, tổ
chức), nguyên tắc vận hành, gắn kết với nhau, hợp thành hệ thống, do pháp luật quy
định, tạo thành bảo đảm pháp l đối với quá trình thực hiện” [54, tr. 42]. Theo hướng
tiếp cận này, tác giả Hoàng Minh Hội (2016), nhấn mạnh, CCPL là “quá trình vận động
của các phương diện pháp l , chúng tác động lên các quan hệ xã hội nhằm đạt được hiệu
quả của điều chỉnh pháp luật” [74, tr. 11]; sau đó, tác giả Trịnh Đức Thảo (2017) chỉ rõ,
CCPL được cấu thành bởi “một chỉnh thể gồm các thể chế pháp lý, các thiết chế liên
quan, có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất; được vận hành theo nội dung và các phương
thức do pháp luật quy định” [149, tr. 30]. Như thế, nếu nhìn nhận ở trạng thái tĩnh,
CCPL là chỉnh thể pháp lý bao gồm thể chế pháp lý, thiết chế và các nguồn lực, chúng
có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau trên cơ sở các quy định pháp luật; còn nếu
nhìn nhận ở trạng thái động, CCPL là biểu hiện của sự vận hành một chỉnh thể pháp lý
theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của chỉnh thể
đó do pháp luật quy định.
Các hoạt động bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được vận hành bởi chỉnh thể
pháp l , do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện, phối hợp với các chủ thể
khác trong xã hội và bản thân NNN bị XHTD theo trình tự, thủ tục chặt chẽ của pháp
luật nhằm đưa ra các biện pháp khắc phục, đền bù thoả đáng với những thiệt hại của
NNN bị XHTD và xã hội, đồng thời xử l thích đáng người có hành vi XHTD. Sự vận
hành của chỉnh thể này trong thực tiễn chính là biểu hiện ra bên ngoài của CCPL bảo
đảm QTCCL của NNN bị XHTD, nó thể hiện mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành bên
trong của CCPL, đó là: thể chế pháp lý, thiết chế (thiết chế tư pháp chính thức, thiết chế
giám sát và hỗ trợ, TGPL) và các nguồn lực để CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD vận hành trong thực tế.
43
Do đó, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là chỉnh thể pháp lý thống
nhất của thể chế pháp lý, thiết chế và các nguồn lực, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau,
được sắp xếp và vận hành trong thực tiễn theo quy định pháp luật nhằm tôn trọng, bảo
vệ và hiện thực hoá QTCCL của phụ nữ và trẻ em gái bị XHTD.
Để vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, các thiết chế này phối
hợp nhau và với NNN bị XHTD trên cơ sở thể chế pháp lý và các nguồn lực nhằm thực
hiện các nội dung bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD (Sơ đồ 2.1), cụ thể như sau:
NNN bị XHTD
Thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD
Phối hợp
Giám sát
Thiết chế tư pháp chính thức bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD Thiết chế giám sát và hỗ trợ, TGPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD
Sơ đồ 2. 1: Sơ đồ biểu diễn CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD
Nguồn: NCS tự xây dựng (2020)
2.1.3. Đặc điểm cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân
nữ bị xâm hại tình dục
Từ khái niệm trên, cho thấy CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD có những
đặc điểm sau:
Thứ nhất, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là một chỉnh thể pháp lý
thống nhất, được hình thành, tồn tại và vận hành theo quy định pháp luật.
CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được cấu thành bởi thể chế pháp lý,
các thiết chế và các nguồn lực để CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD vận hành
trong thực tế. Trong đó, thể chế pháp lý bao gồm: Hiến pháp, luật, bộ luật và các văn
bản hướng dẫn quy định quyền bất khả XHTD của con người trong đó bao gồm cả
44
PNTEG; quy định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các
tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền bất khả XHTD của PNT G; quy định trình tự, thủ tục
và sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong quá trình thụ lý và giải quyết các vụ án
XHTD PNTEG; quy định những hành vi và biện pháp xử l đối với những HVVP
QTCCL của NNN bị XHTD.
Thiết chế bao gồm: thiết chế tư pháp, thiết chế giám sát và hỗ trợ, tư vấn pháp lý
cho các NNN bị XHTD. Trên phương diện khoa học pháp lý, hành vi XHTD là HVVP
đến quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục của con người, gây ra những hậu quả
nặng nề cho bản thân nạn nhân và xã hội. Chính vì thế, xử lý các vụ án XHTD phải
được thực hiện theo thủ tục TTHS, do đó nạn nhân bị XHTD sử dụng hệ thống tư pháp
chính thức (toà án, cơ quan công tố, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và hệ thống
thủ tục tố tụng do luật định) thay vì sử dụng cả hệ thống tư pháp chính thức và phi chính
thức như các trường hợp vi pháp dân sự, thương mại. Trong thực tế, nếu áp dụng các
biện pháp thay thế (như hoà giải, trọng tài hay đánh gia trung lập) đối với các vụ án
XHTD sẽ dẫn đến những thoả hiệp hay sự đền bù không thoả đáng cho nạn nhân bị
XHTD, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Hơn nữa, việc thực hành các biện pháp thay thế
này hó có điều kiện để đưa ra những bằng chứng, chứng cứ đầy đủ, xác đáng đối với
hành vi XHTD và không thể đánh giá hết những tổn thất cho nạn nhân và xã hội, vì thế
không thể truy cứu trách nhiệm pháp lý một cách thoả đáng đối người có hành vi
XHTD. Do đó, sử dụng hệ thống tư pháp chính thức là biện pháp tối ưu nhất để bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD. Bên cạnh đó, hệ thống giám sát bao gồm các cơ quan dân
cử, các tổ chức chính trị - xã hội và xã hội theo dõi, xem x t, đánh giá hoạt động của hệ
thống tư pháp chính thức trong việc thực hiện các chính sách và pháp luật về bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế. Qua đó, tổng kết, đánh giá thực tiễn thực
hiện các chính sách và pháp luật này nhằm chỉ ra những tồn tại, bất cấp để từ đó iến
nghị đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoàn thiện; bên cạnh đó, ịp thời phát
hiện ra những sai phạm trong thực hiện các chính sách và pháp luật về bảo đảm QTCCL
của NNN bị XHTD, kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời xử lý sai phạm.
Ngoài ra, hệ thống cơ quan hỗ trợ và tư vấn pháp l giúp đ NNN bị XHTD hiểu rõ
quyền lợi, nghĩa vụ, thủ tục pháp l để tiến hành xử lý vụ án XHTD, c ng như trách
nhiệm pháp l mà người XHTD phải chịu. Thêm vào đó, hệ thống cơ quan hỗ trợ và tư
vấn pháp lý còn thực hiện các trợ giúp và tư vấn hác để NNN bị XHTD theo đuổi vụ
án XHTD và được khắc phục, bù đắp thoả đáng những tổn thất mà họ gặp phải do bị
XHTD gây ra.
45
Thứ hai, kết quả vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD nhằm
nâng cao khả năng của NNN bị XHTD tìm kiếm sự đền bù và khắc phục thoả đáng
những thiệt hại của bản thân và trừng trị thích đáng đối với người có hành vi xâm hại
đến quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục của con người.
QTCCL của NNN bị XHTD là quyền đặc biệt của PNTEG, tính đặc biệt của
QTCCL của NNN bị XHTD thể hiện ở chỗ, quyền này vừa mang những tính chất chung
và tính chất riêng của quyền phụ nữ và quyền trẻ em gái.
Tính chất chung đó là quyền này mang đầy đủ tính chất của QCN, bao gồm:
tính phổ biến (được áp dụng cho mọi NNN bị XHTD, không có sự phân biệt, đối
xử), tính không thể chuyển nhượng (quyền này thuộc sở hữu vỗn có của mỗi NNN
bị XHTD, không thể chuyên giao cho người khác), tính không thể phân chia
(quyền này là một chỉnh thể thống nhất, được cấu thành bởi các quyền cụ thể), tính
liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (các quyền cụ thể trong chỉnh thể QTCCL có mỗi
liên hệ chặt chẽ, phụ thuộc lẫn nhau, quyền này vừa là tiền đề, điều kiện của quyền
ia và ngược lại, quyền kia bổ sung và cụ thể hoá quyền này) [26, tr. 41-43].
Bên cạnh đó, QTCCL của NNN bị XHTD có tính chất riêng, đó là quyền của
nhóm người dễ bị tổn thương. Đây là quyền của PNTEG bị XHTD, bản thân quyền của
PNTEG thuộc nhóm quyền dễ bị tổn thương được luật nhân quyền quốc tế thừa nhận,
đặc biệt trong công ước C DAW và CRC; thêm vào đó, quyền này lại là quyền của
nhóm người dễ bị tổn thương bị người khác xâm hại quyền. Nghĩa là, quyền này được
“ ích hoạt” hi PNTEG bị XHTD, nó thể hiện sự chủ động, trực tiếp sử dụng các biện
pháp pháp lý và xã hội để tìm kiếm và đạt được sự khắc phục và đền bù thoả đáng trước
những tổn thất của bản thân do hành vi XHTD của người khác gây ra và trừng phạt thích
đáng đối với người XHTD. Sự đền bù, khắc phục thoả đáng đối với những tổn thất của
NNN bị XHTD là những sự bù đắp về vật chất và tinh thần tương ứng với những thiệt
hại mà bản thân phải gánh chịu. Trách nhiệm bù đắp này thuộc về các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền và người XHTD, trong đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người
XHTD phải bồi thường thoả đáng về vật chất đối với NNN bị XHTD và chịu trách
nhiệm pháp l đối với hành vi của mình. Các biện pháp tìm kiếm và đạt được sự đền bù,
khắc phục thoả đáng những thiệt hại của nạn nhân phải được thực hiện theo quy định
pháp luật.
Thứ ba, vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD nhằm hiện thực
hoá các quyền cụ thể của NNN bị XHTD.
Để tìm kiếm sự đền bù, khắc phục thoả đáng cho những thiệt hại mà PNTEG phải
gánh chịu, c ng như để buộc người XHTD phải chịu trách nhiệm pháp l thích đáng,
46
bản thân PNTEG phải được thông tin về pháp luật; được giáo dục pháp luật; được tư
vấn và TGPL; được toà án xét xử công bằng, kịp thời và đúng pháp luật. Theo đó,
PNTEG bị XHTD có quyền được thông tin đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của bản thân
và trách nhiệm của nhà nước trong bảo vệ quyền của mình. Trong đó, họ có quyền biết
rõ quyền lợi của mình bị vi phạm; biết rõ quy trình, thủ tục bảo vệ hoặc được trợ giúp để
tiếp cận các cơ quan chức năng ịp thời giải quyết và theo đuổi vụ án đến cùng và được
“đòi” lại công l , nghĩa là đòi lại lẽ phải, quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân một
cách hợp pháp, khách quan, công bằng thể hiện được sự nghiêm minh của pháp luật và
được bù đắp thoả đáng những thiệt hại mà họ gặp phải.
Như thế, QTCCL của NNN bị XHTD bao gồm nhiều quyền cụ thể, trong đó chủ
yếu những quyền cụ thể sau: quyền được Toà án xét xử công bằng, kịp thời và đúng
pháp luật; quyền được thông tin về pháp luật; quyền được giáo dục pháp luật; quyền
được tư vấn và TGPL; v.v..
Thứ tư, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD phải thực hiện quy trình tố
tụng đặc biệt trong xử lý các vụ án XHTD.
Trên phương diện lý luận và thực tiễn cho thấy, QTCCL, trước hết, đó là quyền
được toà án xét xử và xét xử kịp thời, bình đẳng trước pháp luật và Toà án, mặc dù trong
tiến trình bảo đảm QTCCL cho công dân, có nhiều chủ thể cùng tham gia, nhưng toà án
đóng vai trò quan trọng nhất, bởi vì x t đến cùng, bản chất của TCCL là tiếp cận với toà
án, nghĩa là tiếp cận với tiến trình và thủ tục phán xử của cơ quan tài phán. Đảm bảo
QTCCL vừa là mục tiêu của hoạt động tư pháp, vừa là điều kiện bảo đảm tăng cường
trách nhiệm tư pháp và mức độ liêm chính của nó. Trong đó, công hai, minh bạch trong
hoạt động tư pháp là yêu cầu quan trọng hàng đầu để bảo đảm người dân có thể tiếp cận
toà án, chính là tiến trình cuối cùng TCCL; hơn nữa, việc giải quyết các vụ án một cách
kịp thời, không chậm trễ vừa là kết quả, vừa là tiền đề của bảo đảm QTCCL. Sự chậm
trễ, trì hoãn vô cớ thường dẫn đến những tiêu cực trong việc giải quyết các vụ án, đồng
thời gây thiệt hại to lớn cho quyền lợi của các bên. Do đó, việc giải quyết vụ án một
cách kịp thời, không chậm trễ còn góp phần làm tăng niềm tin của công chúng vào công
lý, bảo vệ nguyên tắc pháp quyền và các giá trị đạo đức trong xã hội. Ngoài ra, “ hách
quan, vô tư và áp dụng pháp luật chính xác trong hoạt động xét xử của toà án là những
yếu tố có liên hệ mật thiết với nhau và là những yếu tố then chốt quyết định hiệu quả
hoạt động xét xử c ng nhưng ết của QTCCL” [43, tr. 1212-122].
Những hệ luỵ từ hành vi XHTD đến NNN rất nghiêm trọng cả về thể chất và tinh
thần trong thời gian dài, chính vì thế, QTCCL của NNN bị XHTD chỉ có thể thực hiện
được bởi một hệ thống tư pháp liêm chính và hiệu quả. Để thực hiện được yêu cầu này,
47
quy trình xử lý các vụ án này cần phải được thực hiện theo trình tự đặc biệt, khác với
quy trình xử lý các vụ vi phạm pháp luật thông thường hác, đặc biệt trong đó phải chú
trọng đến các yếu tố sau: phải được tiến hành ngay, hông được trì hoãn vì vất cứ lý do
gì; giữ bí mật thông tin cho nạn nhân; xét xử kín; áp dụng những biện pháp đặc biệt đối
với người có hành vi XHTD; NNN được đền bù thoả đáng cả về vật chất lẫn tinh thần;
được áp dụng các biện pháp TGPL đặc biệt và những biện pháp chăm sóc y tế, tâm lý
đặc biệt nhằm khắc phục những sang chấn tâm lý.
2.1.4. Vai trò cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ
bị xâm hại tình dục
CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD có vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy và bảo vệ QCN nói chung và quyền của PNTEG nói riêng, cụ thể là:
Thứ nhất, đối với nhà nước trong thực hiện các cam kết quốc tế về bảo đảm QCN.
Bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là một nội dung cốt lõi của pháp luật nhân
quyền quốc tế, qua đó đây là “nhân tố bảo đảm phát triển bền vững ở mỗi quốc gia, mỗi
khu vực và toàn thế giới” [147, tr. 37]. CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD
nhằm tạo ra các điều kiện, yếu tố cần và đủ nhằm hiện thực hóa các hả năng tìm iếm
và đạt được sự bù đắp và khắc phục thoả đáng những thiệt hại của PNTEG bị XHTD
phải được ghi nhận trong hệ thống pháp luật của quốc gia; đây còn là trách nhiệm pháp
lý của nhà nước trong việc giữ gìn, thúc đẩy, tạo điều kiện để PNTEG bị XHTD thực
hiện các quyền của mình một cách tốt nhất. Đó là nghĩa vụ của các quốc gia thành viên
trong việc thực hiện pháp luật quốc tế về QCN, đặc biệt là công ước CEDAW và CRC,
theo đó bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD trở thành động lực để nhà nước hoàn
thiện thể chế pháp lý và thiết chế (nhà nước và xã hội) để ghi nhận, bảo vệ và hiện thực
hoá quyền của phụ nữ và trẻ em trong thực tế.
Thứ hai, đối với bản thân PNTEG nói chung và PNTEG bị XHTD.
Bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD không chỉ thuần túy là mong ước của
PNTEG bị XHTD mà còn là một tiêu chuẩn quan trọng trong đánh giá đối với sự phát
triển của một quốc gia, sự tiến bộ và hoàn thiện của nhà nước và pháp luật trong thúc
đẩy và bảo đảm QCN, đặc biệt là quyền của PNTEG trong thực tiễn. XHTD là hành vi
nguyên hiểm cho xã hội, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền bất khả xâm phạm và tự do
tình dục của con người; hậu quả của hành vi này khiến cho nạn nhân bị tổn thương rất
nghiêm trọng cả về thể chất và tình thần trong thời gian dài, đặc biệt đối với PNTEG. Vì
thế, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD nhằm, một mặt ngăn chặn các hành vi
XHTD, mặt khác phải đưa ra các biện pháp chế tài đủ sức răn đe nhằm phòng ngừa
48
những hành vi tương tự xảy ra trong tương lại, cũng như, đưa ra các biện pháp nhằm
khắc phục kịp thời, hiệu quả, thoả đáng cho PNTEG bị XHTD.
Thứ ba, đối với bảo đảm trật tự, an toàn và phát triển xã hội lành mạnh.
Trên thực tế, bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được thực hiện dựa trên các yêu
cầu và nhận thức đầy đủ về quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục, nhằm tạo điều
kiện thực hiện, thúc đẩy thực thi quyền của PNTEG, trong đó, CCPL bảo đảm QTCCL
của NNN bị XHTD sử dụng tổng thể nhiều biện pháp, do cả cơ quan nhà nước và xã hội
thực hiên theo quy định pháp luật để đáp ứng kịp thời nhu cầu sử dụng các biện pháp
pháp lý và xã hội của NNN bị XHTD tìm kiếm được những biện pháp và sự đền bù thoả
đáng những thiệt hại mà họ gặp phải; khắc phục được những rào cản đối với NNN bị
XHTD trên con đường theo đuổi vụ án đến cùng; kịp thời xử lý các vụ XHTD, trừng trị
thích đáng đối với người có hành vi XHTD, từ đó góp phần tích cực vào đấu tranh,
phòng chống tội phạm XHTD; góp phần nâng cao năng lực TCCL của NNN bị XHTD,
từ đó nâng cao chất lượng bảo đảm QTCCL của nhóm người yếu thế nói chung và NNN
bị XHTD nói riêng. Từ những hoạt động đó, mọi người dân trong xã hội nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật, nâng cao năng lực TCCL, qua đó góp phần tích cực vào
phòng, chống các HVVP pháp luật, đặc biệt là các hành vi XHTD nhằm xây dựng môi
trường xã hội an toàn, lành mạnh và thân thiện.
2.2. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ VÀ YẾU TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ CỦA
NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC
2.2.1. Các yếu tố cấu thành và mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ chế
pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục
Sự vận hành của chỉnh thể pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được
pháp luật quy định chặt chẽ về nguyên tắc, phương pháp, sự phối hợp, các biện pháp chế
tài, v.v.. để các chủ thể tham gia vào chỉnh thể này thực hiện đúng, đủ quyền hạn, trách
nhiệm của mình trong bảo đảm QTCCL của PNTEG bị XHTD, trong đó chỉnh thể pháp
l này được cấu thành bởi nhiều yếu tố pháp lý khác nhau, có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau nhằm, được sắp xếp và vận hành theo quy định pháp luật, gồm: thể chế pháp lý,
thiết chế của nhà nước và xã hội, các nguồn lực nhằm bảo đảm QTCCL của NNN hiệu
lực, hiệu quả trong thực tế (mục 2.1.1.4). Theo đó, cấu trúc của CCPL bảo đảm QTCCL
của NNN bị XHTD gồm các yếu tố sau: (i) Thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN
bị XHTD; (ii) Thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; (iii) Các nguồn lực để
vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD. Các yếu tố này phải có mối quan
49
hệ chặt chẽ với nhau để CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được vận hành tốt
trong thực tế.
2.2.1.1. Các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của
nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục
Thứ nhất, thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.
Ở Việt Nam hiện nay, thể chế được hiểu là “những quy định, luật lệ của một chế
độ xã hội buộc mọi người phải tuân theo” [200, tr. 70 ], theo đó, thể chế pháp lý là hệ
thống các văn bản pháp luật. Trên cơ sở đó, thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN
bị XHTD là hệ thống các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành theo trình tự, thủ tục luật định nhằm xác lập cơ sở pháp lý quan trọng để xác lập
QTCCL của PNTEG bị XHTD mà các chủ thể khác trong xã hội phải có nghĩa vụ tôn
trọng, bảo vệ và hiện thực hoá trong thực tế; đồng thời quy định rõ chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn, c ng như trình tự, thủ tục cần thiết để xử lý vụ án XHTD PNTEG, c ng
như những trường hợp vi phạm QTCCL của PNTEG bị XHTD. Trong đó, thể chế pháp
lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD quy định:
Một là, quyền bất khả XHTD của con người trong đó bao gồm cả PNTEG. Quy
định những hành vi tình dục nào là hành vi tình dục trái pháp luật; những hình thức và
biện pháp chế tài đối với cá nhân thực hiện những hành vi XHTD đối với PNTEG; đồng
thời quy định các biện pháp khắc phục kịp thời những tổn thất mà nạn nhân gặp phải;
những biện pháp hỗ trợ trong suốt quá trình tham gia và theo đuổi vụ án và hỗ trợ để nạn
nhân trở lại cuộc sống bình thường. Ngoài ra, thể chế pháp lý còn quy định các biện
pháp để phòng ngừa, ngặn chặn những HVVP QTCCL của NNN bị XHTD.
Hai là, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các tổ
chức xã hội trong bảo vệ quyền bất khả XHTD của PNTEG, như ở Việt Nam là: QH,
Chính phủ, TAND, VKSND, HĐND và UBND các cấp. Ngoài ra, còn quy định sự
tham gia của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hôi, tổ chức xã hội tham gia vào
bảo vệ quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục của PNTEG, như: Hội Liên hiệp phụ
nữ, Đoàn thanh niên, Hội Luật gia, Liên đoàn Luật gia, Hội bảo vệ quyền trẻ em, v.v..
Ba là, trình tự, thủ tục và sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong quá trình
thụ lý và giải quyết các vụ án XHTD PNTEG. Trong đó quy định rõ trình tự, thủ tục và
sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng (công an, toà án, viện kiểm sát và các cơ quan
TGPL) trong việc tiếp nhận tin tố giác, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vụ
XHTD PNTEG.
Bốn là, những hành vi và biện pháp xử l đối với những HVVP QTCCL của NNN
bị XHTD. Trong đó quy định rõ những hành vi và các biện pháp xử l đối với hành vi
50
cản trở việc thụ hưởng các quyền được Toà án xét xử công bằng, kịp thời và đúng pháp
luật; quyền được thông tin về pháp luật; quyền được giáo dục pháp luật; quyền được tư
vấn và TGPL; v.v.. của NNN bị XHTD, đặc biệt là các hành vi cản trở, trì hoãn hoặc
thực hiện sai các quy định pháp luật về quy trình, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án vụ án XHTD.
Thứ hai, thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD. Đây là các cơ quan, tổ
chức thực hiện những chức năng, nhiệm vụ cụ thể, do đó thiết chế bảo đảm QTCCL của
NNN bị XHTD là các cơ quan chuyên trách thực hiện các nhiệm vụ bảo đảm QTCCL
của NNN bị XHTD. Theo UNDP, bảo đảm QTCCL là trách nhiệm chính của hệ thống
thiết chế tư pháp, gồm thiết chế tư pháp (chính thức, phi chính thức), các thiết chế giám
sát, hỗ trợ và tư vấn pháp lý. Từ phân tích đặc điểm của QTCCL của NNN bị XHTD
(mục 2.1.3), các thiết chế nhà nước và xã hội bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là
các cơ quan, tổ chức nhà nước và xã hội có trách nhiệm thực hiện các nội dung đảm bảo
QTCCL của NNN bị XHTD, tập hợp các cơ quan, tổ chức này chia ra thành: các thiết
chế tư pháp chính thức, các thiết chế giám sát và các thiết chế hỗ trợ và tư vấn pháp lý.
Một là, các thiết chế tư pháp chính thức.
Bảo vệ QTCCL là nghĩa vụ của mọi chủ thể trong xã hội, trong đó trươc hết là cơ
quan tư pháp, vì “bản chất của tư pháp là công l ” [187, tr. 43], do vậy “các cơ quan tư
pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, QCN” [14], thông
qua đó c ng góp phần vào nâng cao ý thức pháp luật, củng cố niềm tin của NNN bị
XHTD vào cơ quan chức năng, đặc biệt là cơ quan tư pháp. Các cơ quan tư pháp (trung
tâm là toà án) thụ lý và xét xử các hành vi XHTD để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho PNTEG bị XHTD; phán quyết nghiêm minh của toà án về các hành vi XHTD sẽ
góp phần vào ngăn chặn những hành vi XHTD xảy ra trong tương lại. Hoạt động xét xử
là “hoạt động trực tiếp bảo vệ công lý; toà án không chỉ phán xét tính hợp pháp mà còn
cả tính đúng đắn của hành vi, vì vậy, ngoài căn cứ vào pháp luật, khi xét xử, Toà án còn
căn cứ vào công l ” [24, tr. 85]. Vì thế, các cơ quan tư pháp chính thức có nghĩa vụ
chính trong việc giữ gìn, thúc đẩy, tạo điều kiện để nạn nhân nữ bị XHTD thực hiện
QTCCL của mình một cách tốt nhất.
Hệ thống thiết chế tư pháp chính thức bao gồm: (i) tòa án, thực hiện chức năng x t
xử, thông qua đó, toà án đưa ra phán quyết về hành vi XHTD, truy cứu trách nhiệm
pháp l đối với người có hành vi XHTD và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho NNN bị
XHTD; (ii) cơ quan công tố, ở Việt Nam là VKSND, thực hiện việc buộc tội của Nhà
nước đối với người có hành vi XHTD và kiểm sát hoạt động tư pháp ngay từ khi giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm XHTD, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi
51
tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án XHTD; (iii) cơ quan điều tra thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ cần thiết theo luật định để khởi tố và truy tố tội phạm XHTD, như: tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm XHTD và kiến nghị khởi tố; tiếp nhận hồ sơ vụ án
XHTD do cơ quan chức năng chuyển giao; tiến hành điều tra và áp dụng mọi biện pháp
do luật định để thu thập chứng cứ vụ án XHTD; lập hồ sơ, đề nghị truy tố người có hành
vi XHTD; v.v..
Hai là, các thiết chế giám sát, hỗ trợ và tư vấn pháp lý.
Các cơ quan này thực hiện nhiệm vụ hiện thực hoá QTCCL của NNN bị XHTD
trong thực tế; đồng thời phối hợp với các cơ quan tư pháp chính thức và bản thân nạn
nhân hay gia đình hoặc người đại diện nạn nhân để thực hiện tốt nhiệm vụ tiếp nhận, thụ
lý tin báo tố giác; thu thập chứng cứ; khởi tố, điều tra, truy tố, thi hành án. Việc thực
hiện các hoạt động này kịp thời, chính xác nhằm truy bắt kịp thời người có hành vi
XHTD, buộc kẻ vi phạm thực hiện trách nhiệm pháp l đối với HVVP của mình, đồng
thời khắc phục những tổn hại mà NNN gánh chịu từ HVVP đó.
Để ban hành thể chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành các văn bản luật và văn bản hướng dẫn luật nhằm quy định cụ
thể QTCCL của NNN bị XHTD. Ở Việt Nam, QH thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn “Làm
Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật” (Khoản 1, Điều 69 Hiến pháp
201 ), theo đó QH thực hiện nhiệm vụ ban hành, sửa đổi các quy định luật về bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD. Ngoài ra, trên cơ sở của Hiến pháp, Luật, các cơ quan
hác như Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, TAND tối cao, VKSND tối cao ban
hành các văn bản hướng để triển khai thực hiện các quy định luật về bảo đảm QTCCL
của NNN bị XHTD trong thực tế.
Việc hiện thực hoá QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế do nhiều cơ quan, tổ
chức nhà nước và xã hội thực hiện. Trong đó, cơ quan hành chính tổ chức triển khai các
quy định pháp luật về QTCCL của PNTEG bị XHTD vào thực tiễn, thông qua việc ban
hành các văn bản hướng dẫn; tổ chức bộ máy; ban hành và thực thi các chính sách về
bảo vệ QTCCL của PNTEG bị XHTD (tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về QTCCL của PNTEG bị XHTD). Trong đó, các cơ quan hành chính thực hiện các
biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật nâng cao năng lực TCCPL cho NNN bị XHTD.
Đây là những hiểu biết các quy định pháp luật về quyền lơi hợp pháp của bản thân,
những hành vi tình dục trái pháp luật và các biện pháp pháp l được thực hiện để đền bù
thoả đáng những thiệt hại phải gánh chịu do hành vi XHTD gây ra. Ngoài ra, năng lực
TCCL của nạn nhân nữ bị XHTD còn bị chi phối bởi khả năng tài chính để theo đuổi vụ
52
án đến cùng (trong đó bao gồm các chi phí đi lại, chi phí chăm sóc sức khoẻ, chi phí
thuê luật sư, chi phí sử dụng các dịch vụ TGPL, v.v..).
Bên cạnh đó, các cơ quan dân cử, các cơ quan hành chính chuyên trách và các tổ
chức chính trị, xã hội thực hiện kiểm tra, giám sát đối với các cá nhân, tổ chức thực hiện
các chính sách, pháp luật về bảo vệ QTCCL của PNTEG bị XHTD. Trong thực tế, việc
kiểm tra, giám sát việc thực hiện QTCCL của NNN bị XHTD do nhiều cơ quan hác
nhau trong xã hội thực hiện, bao gồm cả cơ quan nhà nước và cơ quan phi nhà nước
thực hiện, như: (i) cơ quan nhà nước, bao gồm: cơ quan dân cử (ở Việt Nam, Trung
Quốc có QH và HĐND các cấp thực hiên chức năng giám sát). Việc thực hiện các chức
năng này tuỳ thuộc vào quy định pháp luật của mỗi quốc gia, ở Việt Nam, cơ quan dân
cử có QH và HĐND các cấp, trong đó QH thực hiện giám sát tối cao đối với hoạt động
của Nhà nước; HĐND các cấp “giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân” (Khoản 2, Điều 113 Hiến
pháp 201 ). Theo đó, QH và HĐND các cấp thực hiên chức năng giám sát việc thực
hiện pháp luật về bảo đảm QTCCL cho PNTEG bị XHTD; cơ quan hành chính chuyên
trách thực hiện chức năng iểm tra, giám sát (ở Việt Nam có thanh tra nhà nước, thanh
tra ngành); cơ quan chuyên trách iểm sát hoạt động tố tụng (ở Việt Nam, Trung Quốc
có VKSND); (ii) cơ quan phi nhà nước, gồm: các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức
xã hội, các cơ quan thông tấn báo chí.
Thông quan hoạt động kiểm tra, giám sát việc bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD trong thực tế, các cơ quan chức năng ịp thời phát hiện những hành vi của các cá
nhân, cơ quan có trách nhiệm thụ lý, giải quyết vụ án cản trở hoặc thực hiện hông đầy
đủ, hông đúng quy định pháp luật về bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD trong thực
tế, từ đó có biện pháp ngăn chặn kịp thời, khắc phục, giải quyết để bảo đảm QTCCL của
NNN bị XHTD được thực hiện tốt trong thực tế; đồng thời thông qua đó, các cơ quan
này phát hiện ra những hạn chế, bất cập trong chính sách, pháp luật về bảo đảm QTCCL
của NNN bị XHTD kiến nghị với cơ quan chức năng có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung
hoặc bãi bỏ.
Thứ ba, các nguồn lực để vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.
Để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, nhà nước và xã hội phải đáp ứng đủ
nhân lực, vật lực phục vụ cho việc thực hiện được những hoạt động bảo đảm QTCCL
của NNN bị XHTD trong thực tiễn, cụ thể là: Một là, nguồn nhân lực. Để bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD, đội ng cán bộ, công chức, viên chức nhà nước làm việc
trong các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD phải có đủ năng lực, phẩm chất
và cơ cấu, số lượng phù hợp sẽ đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
53
mình (ở các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và các cơ quan hỗ trợ khác) trong việc
bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; ngoài ra phải cung cấp đầy đủ cơ sở vật chất, kỹ
thuật và nguồn lực tài chính để các chủ thể này thực hiện chức năng, nhiệm vụ để bảo
đảm QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế. Hai là, các nguồn lực khác. Nhà nước
và xã hội phải trợ giúp các nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính và các trợ giúp hác) đáp
ứng yêu cầu nâng cao năng lực tiếp cận công lý cho PNTEG bị XHTD, thông qua đó,
giúp họ theo đuổi vụ án đến cùng và trừng trị thích đáng đối với người đã có hành vi
XHTD. Trên thực tế, năng lực TCCL của NNN bị XHTD phụ thuộc vào trình độ dân trí
(bao gồm cả trình độ hiểu biết pháp luật) và nguồn lực tài chính của PNTEG bị XHTD,
vì thế để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, nhà nước và xã hội phải thực hiện các
biện pháp nhằm nâng cao trình độ dân trí (đặc biệt trình độ hiểu biết pháp luật), nâng
cao đời sống cho người dân, đặc biệt bảo đảm nguồn lực tài chính cho PNTEG bị
XHTD và các trợ giúp hác để họ theo đuổi vụ án đến cùng.
2.2.1.2. Mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý bảo đảm quyền
tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục
Các yếu tố cấu thành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD có mối quan hệ
giữa chặt chẽ với nhau. Trong đó, thể chế pháp lý và thiết chế bảo đảm QTCCL của
NNN bị XHTD có mối quan hệ hữu cơ mật thiết với nhau. Theo từ điển Cambridge,
thiết chế và thể chế đều được sử dụng một thuật ngữ (Institution), có nguồn gốc từ tiếng
La – tinh (Institutio), vừa có nghĩa là các quy tắc, luật lệ, vừa có nghĩa là cơ quan, tổ
chức [212], điều đó có nghĩa là hi nói đến thể chế là nói đến thiết chế và ngược lại. Vì
thực tế, thể chế - các quy tắc, luật lệ đều gắn liền với cơ quan, tổ chức ban hành và quy
định chức năng, nhiệm của cơ quan, tổ chức đó; ngược lại, mỗi cơ quan, tổ chức được
thành lập ra đều phải có quy tắc, quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể. Ở Việt Nam, hai
khái niệm này có sự phân biệt tương đối, tuy nhiên, giữa chúng có mối quan hệ rất chặt
chẽ với nhau, vì thế, thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được ban
hành ra nhằm phục vụ cho các thiết chế thực hiện chức năng, nhiệm vụ bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD và ngược lại các thiết chế này phải hoạt động theo đúng thể
chế pháp l đã được ban hành.
Các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD phối hợp, phối hợp chặt chẽ
với nhau để thực hiện các hoạt động bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, như: cơ
quan điều tra hoặc cơ quan được giao trách nhiệm điều tra tiếp nhận tin tố giác người đã
có hành vi XHTD, sau đó các thiết chế tư pháp chính thức khác sẽ tiến hành các trình tự
thủ tục theo luật định để tiếp nhận tin báo tố giác tội phạm XHTD; lấy lời khai của NNN
bị XHTD; thu thập chứng cứ (mẫu tinh dịch, hình ảnh, âm thanh, dấu vết trên cơ thể,
54
v.v..); lập hồ sơ và khởi tố vụ án, khởi tố bị can; xét xử; thi hành án. Trong quá trình
này, các cơ quan nhà nước và các cơ quan phi nhà nước có các biên pháp hỗ trợ, tư vấn
(TGPL; hỗ trợ tài chính; trợ giúp y tế) để trấn an tinh thần cho nạn nhân, đồng thời giúp
cho nạn nhân theo đuổi vụ án đến cùng nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bản thân và
được bù đắp thoả đáng những thiệt hại của PNTEG gái bị XHTD.
Ngoài ra, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phải phối hợp với các tổ chức phi nhà nước, như: hội phụ nữ, hội luật gia,
hội bảo trợ trẻ em, v.v.. thực hiện việc tư vấn, TGPL; hỗ trợ về nguồn lực; y tế; v.v.. cho
PNTEG bị XHTD. Xây dựng và vận hành hệ thống hỗ trợ, tư vấn (pháp lý, y tế, xã hội)
cần thiết để NNN bị XHTD có khả năng đòi hỏi và theo đuổi vụ án đến cùng, trong đó
bao gồm các biện pháp để nâng cao ý thức pháp luật của PNTEG (đó là nhận thức, thái
độ, tình cảm của PNTEG đối với pháp luật) và “tính sẵn sàng, hiệu quả của hệ thống trợ
giúp, tư vấn pháp lý cho họ” [43, tr. 116]. Hệ thống này sẽ được cải thiện nếu KT-XH
ngày một phát triển, ngược lại thì những hỗ trợ sẽ hông được bảo đảm, điều này tác
động lớn đến CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế; tính hiệu quả
của hệ thống tư vấn, trợ giúp, trong đó bao gồm tư vấn, TGPL; hỗ trợ tài chính; trợ giúp
y tế.
2.2.2. Tiêu chí đánh giá cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của
nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục
Việc đánh giá CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được nhìn nhận trên
hai trạng thái: (i) trạng thái tĩnh, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được nhìn
nhận ở các yếu tố cấu thành của CCPL; (ii) trạng thái động, CCPL bảo đảm QTCCL của
NNN bị XHTD được nhìn nhận ở kết quả vận hành của cơ chế. Nên việc đánh giá
CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được xem xét ở các tiêu chí sau:
2.2.2.1. Tiêu chí đánh giá cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của
nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở trạng thái tĩnh
Trong trạng thái tĩnh, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được phân tích,
đánh giá thông việc đánh giá các yếu tố cấu thành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD, đó là đánh giá: thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; thiết chế
bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; nguồn lực để vận hành CCPL bảo đảm QTCCL
của NNN bị XHTD.
Thứ nhất, tiêu chí đánh giá thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.
Hiện nay, nhiều nhà khoá học Việt Nam khá thống nhất các tiêu chí đánh giá thể
chế pháp lý, đó là “tính toàn diện và đồng bộ, tính thống nhất, tính phù hợp, tính khả thi
và có trình độ kỹ thuật pháp lý cao” [36, tr. 63; 145, tr. 159]. Tuy nhiên, trong thực tế
55
việc lựa chọn tiêu chí nào để đánh giá thể chế pháp lý phải căn cứ vào đặc điểm nội
dung điều chỉnh của thể chế pháp l đó và mục đích muốn hoàn thiện thể chế pháp lý
đó. Với nội dung điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến bảo đảm QTCCL của
NNN bị XHTD, thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD cần xem xét nội
dung các quy phạm điều chỉnh đến vấn đề này, do vậy thể chế pháp lý này cần được
đánh giá trên các tiêu chí: mức độ toàn diện, đồng bộ, thống nhất và phù hợp với thực
tiễn, thông lệ quốc tế, cụ thể là:
Một là, mức độ toàn diện, đồng bộ và thống nhất của thể chế pháp lý bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD. Thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD do
nhà nước ban hành phải có khả năng bao phủ hết các HVVP đến quyền bất khả xâm
phạm và tự do tình dục của con người; các chế tài đưa ra đủ sức răn đe đối với người có
hành vi XHTD; các biện pháp đền bù và khắc phục cho NNN bị XHTD phải thoả đáng
tương xứng với những thiệt hại về thể chế và tinh thần của họ; các biện pháp xử l đủ
sức răn đe đối với những hành vi cản trở, trì hoãn hoặc thực hiện sai quy định pháp luật
về bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD. Ngoài ra, thể chế pháp lý về thủ tục khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án phải quy định rõ ràng, chặt chẽ, dễ thực hiện; đặc
biệt thủ tục tố tụng phải thân thiện, giảm thiểu tối đa những sang chấn tâm l đối với
NNN bị XHTD, đặc biệt đối với nạn nhân là trẻ em gái, như: điều tra viên phải mặc
thường phục; phòng xử án được trang trí đảm bảo tính thân thiện; xét xử kín; thực hiện
thủ tục đặc biệt; v.v..
Hai là, mức độ phù hợp của thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD
với thực tiễn và thông lệ quốc tế. Thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD
phải phù hợp với điều kiện KT-XH và thông lệ quốc tế, đặc biệt là các công ước quốc tế
mà quốc gia đó đã gia nhập như: Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị
năm 19 (ICCPR), Công ước loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm
1979 (C DAW), Công ước LHQ về Quyền trẻ em năm 1989 (CRC), Công ước số 190
của ILO về Chấm dứt Bạo lực và Quấy rối tại nơi làm việc năm 2019, v.v..
Thứ hai, tiêu chí đánh giá thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.
Theo Khuyến nghị chung số 33 của Uỷ ban về xoá bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ
của LHQ về QTCCL của phụ nữ, mức độ hoàn thiện của thiết chế bảo đảm QTCCL của
NNN bị XHTD được đo lường bởi 06 yếu tố sau: khả năng thực thi công lý
(Justiciability); khả năng sẵn có (Availability); khả năng tiếp cận (Accessibility); đảm
bảo chất lượng tốt (Good quality); cung cấp các biện pháp khắc phục (Provision of
remedies); khả năng chịu trách nhiệm (Accountability) [216, tr. 5], cụ thể là:
56
(1) Khả năng thực thi công lý yêu cầu các thiết chế tư pháp hông có bất cứ cản
trở nào để phụ nữ thực hiện QTCCL theo đúng pháp luật.
(2) Khả năng sẵn có yêu cầu thành lập hệ thống toà án, các cơ quan tư pháp hác
và các cơ quan hỗ trợ, cơ quan giám sát phù hợp, thuận lợi để bảo đảm QTCCL của phụ
nữ (ở đô thị, nông thôn và vùng sâu, vùng xa), đặc biệt đối với trường hợp phụ nữ bị
xâm hại, cần phải có những hỗ tài chính, y tế, pháp lý.
(3) Khả năng tiếp cận yêu cầu các thiết chế đảm bảo và tạo điều kiện thuận lợi cho
phụ nữ được dễ dàng tiếp cận (xoá bỏ rào cản về kinh tế, về ngôn ngữ, đảm bảo quyền
truy cập công nghệ thông tin và truyền thông, các dịch vụ hỗ trợ khác).
(4) Đảm bảo chất lượng tốt yêu cầu các cơ quan tư pháp phải đáp ứng tiêu chuẩn
quốc tế về tính hiệu lực, hiệu quả, độc lập, khách quan và cung cấp các biện pháp đền
bù, khắc phục hậu quả phù hợp với đặc thù nhạy cảm về giới cho tất cả phụ nữ.
(5) Cung cấp các biện pháp khắc phục yêu cầu các thiết chế cung cấp các thủ tục
và các biện pháp hỗ trợ để PNTEG nhận được sự bảo vệ hữu hiệu và khắc phục thoả
đáng đối với những thiệt hại mà họ gặp phải (như cung cấp và thi hành các biện pháp
phù hợp, kịp thời để chống lại những phân biệt đối xử đối với PNT G và đảm bảo rằng
PNTEG có quyền tiếp cận các phương thức khắc phục hiệu quả, kịp thời, toàn diện và tỷ
lệ thuận với những thiệt hại mà họ phải gánh chịu).
(6) Khả năng chịu trách nhiệm thông qua hoạt động kiểm soát, hệ thống tư pháp
chính thức đảm bảo thực hiện đúng theo các yêu cầu, đó là: khả năng thực thi công lý,
khả năng sẵn có, khả năng tiếp cận, đảm bảo chất lượng tốt, cung cấp các biện pháp
khắc phục hiệu quả. Ngoài ra, tính chịu trách nhiệm còn yêu cầu giám sát hoạt động của
cán bộ tư pháp và việc phải chịu trách nhiệm pháp lý khi họ vi phạm pháp luật (như phát
triển cơ chế độc lập và hiệu quả trong việc quan sát và giám sát việc thực hiện QTCCL
của PNTEG).
Thứ ba, tiêu chí đánh giá các nguồn lực để vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của
NNN bị XHTD.
Để CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được vận hành trong thực tế, các
nguồn lực phải đáp ứng các tiêu chí sau: Một là, đối với nhân lực (đội ng cán bộ, công
chức, viên chức) làm việc trong các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD phải
đảm bảo đủ về số lượng, cơ cấu hợp l , năng lực chuyên mộn nghiệp vững vàng, có đạo
đức nghề nghiệp tốt; Hai là, đối với vật lực phải được bảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất, kỹ
thuật và nguồn lực tài chính để các các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD
vận hành tốt trong thực tế.
57
2.2.2.2. Tiêu chí đánh giá cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của
nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở trạng thái động
Ở trạng thái động, việc đánh giá CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD
được căn cứ theo kết quả vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD trong
thực tế, trong đó căn cứ vào tiêu chí: (1) hiệu lực; (2) hiệu quả.
Thứ nhất, mức độ hiệu lực của CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.
Hiệu lực của CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD được hiểu là sự thực
hiện đúng, đủ nhiệm vụ, quyền hạn và hoạt động có kết quả phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ quản lý của cơ quan mình theo sự phân công, phối hợp giữa các thiết chế bảo
đảm QTCCL của NNN bị XHTD. Mức độ hiệu lực của CCPL bảo đảm QTCCL của
NNN bị XHTD thể hiện việc các thiết chế này thực hiện đúng, đủ chức năng, nhiệm vụ
của mình trong quá trình bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, đặc biệt là thiết chế tư
pháp chính thức (cơ quan điều tra, cơ quan công tố, toà án, cơ quan thi hành án); thể chế
pháp lý, thiết chế và các nguồn lực tương thích và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trong
quá trình bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.
Thứ hai, mức độ hiệu quả của CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.
Hiệu quả là mục tiêu của hoạt động quản lý, đó chính là sự so sánh giữa các chi phí
– đầu vào. Nên mức độ hiệu quả phản ánh tương quan giữa kết quả đạt được so với mục
đầu vào với giá trị của đầu ra, là mối tương quan giữa sử dụng nguồn lực và tỷ lệ đầu ra
tiêu đã đề ra trong phạm vi các nguồn lực đã chi dùng. Việc đánh giá hiệu quả của
CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD thể hiện thông qua sự so sánh, đối chiếu
các kết quả đạt được với mục tiêu đã đề ra trong phạm vi nguồn lực đã sử dụng, theo đó,
cơ chế này có hiệu quả khi kết quả thực hiện các nội dung bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD đạt được bằng hoặc cao hơn so với mục tiêu đã đề ra với chi phí thấp nhất. Biểu
hiện nổi lên hàng đầu của tiêu chí này là mức độ gia tăng năng lực TCCL của NNN bị
XHTD trong thực tế, trong đó thể hiện mức độ gia tăng sự hiểu biết pháp luật về
QTCCL của NNN bị XHTD, c ng như hả năng theo đuổi vụ án đến cùng và mức độ
đền đền bù, khắc phục thoả đáng đối với những thiệt hại mà NNN phải gánh chịu. Trong
đó, việc đánh giá năng lực TCCL của NNN bị XHTD được đo lường bởi các tiêu chí: (i)
Mức độ biết pháp luật của NNN bị XHTD. Mức độ hiểu biết pháp luật của NNN bị
XHTD thể hiện ở bản thân nạn nhân hiểu rõ quyền lợi của bản thân, hiểu rõ những hành
vi tình dục trái pháp luật và hiểu rõ nghĩa vụ của các chủ thể khác phải bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của mình; đồng thời hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chức năng
trong việc thụ lý, xử lý vụ án, c ng như trình tự, thủ tục giải quyết vụ án lên quan đến
XHTD; (ii) Khả năng theo đuổi vụ án của NNN bị XHTD. Khả năng theo đuổi vụ án
58
đến cùng của NNN bị XHTD thể hiện ở khả năng tài chính của NNN bị XHTD để chi
trả cho việc thuê luật sư, thuê các dịch vụ pháp lý, di chuyển, ăn ở trong quá trình giải
quyết vụ án.
2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công
lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục
Trong quá trình vận hành, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD chịu tác
động nhiều yếu tố, đó là: chính trị, pháp lý, kinh tế và văn hoá - xã hội.
Thứ nhất, chính trị là yêu tố chi phối đến sự vận hành của cả hệ thống chính trị,
đặc biệt là nhà nước, mối quan hệ giữa nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội. Đặc
biệt thể chế chính trị là yếu tố rất quan trọng của một quốc gia, chi phối lớn đến tổ chức
và vận hành thông qua hệ thống tư pháp chính thức, hệ thống giám sát và hệ thống hỗ
trợ, tư vấn pháp lý trong bảo đảm QCN nói chung và QTCCL của NNN bị XHTD nói
riêng.
Thứ hai, pháp lý là yếu tố đặc biệt quan trọng của CCPL bảo đảm QTCCL của
NNN bị XHTD, vì thế chất lượng của thể chế pháp lý sẽ ảnh hưởng to lớn đến hiệu lực
và hiệu quả hoạt động của CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế.
Nếu thể chế pháp lý có chất lượng tốt sẽ nâng cao hiệu lực, hiệu quả vận hành của
CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, ngược lại sẽ cản trở sự vận hành CCPL
bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, từ đó làm suy giảm hiệu lực, hiệu quả của cơ chế
này trong thực tế.
Thứ ba, yếu tố kinh tế có tác động mạnh đối với CCPL bảo đảm QTCCL của
NNN bị XHTD, nếu kinh tế phát triển, nguồn NSNN dồi dào, nhà nước sẽ tăng ngân
sách đầu tư cho các dự án để nâng cao năng lực TCCL cho người dân, bao gồm
PNTEG, từ đó góp phần nâng cao năng lực TCCL của NNN bị XHTD, thêm vào đó,
kinh tế phát triển sẽ thúc đẩy nâng cao mức sống và nâng cao trình độ dân trí cho người
dân, bao gồm cả PNTEG, qua đó góp phần nâng cao ý thức pháp luật và khả năng theo
đuổi vụ án XHTD của NNN bị XHTD, từ đó, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD sẽ vận hành thuận lợi trong thực tế. Ngược lại, nếu nền kinh tế kém phát triển,
NSNN thâm hụt, nhà nước sẽ hông ưu tiên đầu tư ngân sách cho các dự án nâng cao
năng lực TCCL cho người dân, theo đó, năng lực TCCL của NNN bị XHTD sẽ bị suy
giảm, khả năng bỏ cuộc của NNN bị XHTD có nguy cơ tăng cao. Từ đó, CCPL bảo
đảm QTCCL của NNN bị XHTD sẽ vận hành hó hăn trong thực tế.
Thứ tư, yếu tố văn hoá- xã hội tác động đến nhận thức, tâm lý, thói quen, tập quán,
lối sống, v.v.. của người dân. Đối với các vụ án XHTD, yếu tố văn hoá - xã hội tác động
lớn đến việc thụ lý và xử lý các vụ án XHTD.
59
Trong xã hội, nếu trình độ dân trí thấp, c ng như sự hiểu biết pháp luật của người
dân chưa đầy đủ dẫn đến bản thân họ không nhận thức rõ những hậu quả nguy hiểm của
các hành vi XHTD và phân biệt rõ đâu là hành vi XHTD, đâu hông phải là hành vi
XHTD; ngoài ra, nếu người dân không hiểu rõ quy trình, thủ tục giải quyết vụ án XHTD
và quyền, nghĩa vụ của bản thân, trách nhiệm người có hành vi XHTD, c ng như trách
nhiệm của các cơ quan chức năng trong thụ lý và giải quyết vụ án XHTD sẽ gây khó
hăn cho các cơ quan chức năng trong quá trình tiếp nhận, thụ lý và xử lý vụ án XHTD.
Đồng thời, với sự thiếu hiểu biết đó dẫn đến bản thân họ không chủ động, tích cực trong
quá trình tìm kiếm công lý cho bản thân, vì thế, việc bảo đảm QTCCL cho đối tượng
này sẽ gặp những hó hăn trong thực tế.
Bên cạnh đó, những rào cản về văn hoá- xã hội của NNN bị XHTD như mặc cảm
với gia đình và cộng đồng; không dám tố cáo người XHTD, đặc biệt đó lại là người thân
của NNN, v.v.. dẫn đến việc giải quyết các vụ án XHTD thêm hó hăn. Ngoài ra, một
số nơi còn có tư tưởng đổ lỗi (Victim-blaming), khi NNN khi bị XHTD, bản thân họ tự
đổ lỗi cho mình hoặc gia đình, xã hội đổ lỗi cho họ như: đi chơi vào buổi tối; chụp hình
khỏa thân; mặc quần áo bó, váy ngắn; thích gần g i; say xỉn; v.v.. Những yếu tố văn
hoá, xã hội trên là những rào cản rất lớn đối bản thân nạn nhân c ng như đối với các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và xã hội trong việc thực hiện những biện pháp cần thiết
để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, vì thế nó sẽ tác động tiêu cực đến việc vận
hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế. Ngược lại, nếu “cởi bỏ”
được những yếu tố tiêu cực trên, các yếu tố văn hoá-xã hội thực sự trở thành những yếu
tố thân thiện, khuyến khích, hỗ trợ, thúc đẩy NNN bị XHTD TCCL, tìm kiếm và đạt
được sự đền bù và khác phục thoả đáng những thiệt hại của bản thân và trừng trị nghiêm
minh những người XHTD, từ đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả vận hành thực tế của
CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.
2.3. CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ CỦA NẠN
NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ
GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM
2.3.1. Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị
xâm hại tình dục ở một số quốc gia trên thế giới
XHTD diễn ra ở mọi quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ có CCPL bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD cụ thể, phù hợp với điều kiện KT-XH của quốc gia mình.
Mỗi CCPL sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có lịch sử, truyền thống, văn hoá và
HTPL của quốc gia mình, vì thế để rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam trong
quá trình hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, luận án này nghiên
60
cứu thực tiễn của Trung Quốc (đại diện cho chính thể cộng hoà XHCN), Hàn Quốc (đại
diện cho chính thể cộng hoà hỗn hợp), Nhật Bản (đại diện cho chính thể quân chủ đại
nghị). Đây là các quốc gia có những nét tương đồng về văn hoá so với Việt Nam, thông
qua những cải cách mạnh mẽ, các quốc gia này đã trở thành những “con rồng, con hổ” ở
châu Á. Khảo nghiệm thực tiễn CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở các quốc
gia này sẽ đem lại những giá trị tham khảo cho Việt Nam hiện nay.
2.3.1.1. Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm
hại tình dục ở Hàn Quốc
Thứ nhất, khái quát CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Hàn Quốc.
Hàn Quốc là quốc gia theo mô hình cộng hoà tổng thống, mặc dù nước này có thủ
tướng nhưng “Tổng thống có tất cả các quyền hành pháp quan trọng và thủ tướng được
xem là tương đương với phó Tổng thống” [95, tr. 407]. Với chính thế này, CCPL bảo
đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Hàn Quốc được tổ chức như sau:
Một là, thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Hàn Quốc.
Để bảo đảm QTCCL của người dân Hàn Quốc nói chung và NNN bị XHTD nói
riêng, Hiến pháp Hàn Quốc năm 1948 (sửa đổi, bổ sung năm 1987) đã hiến định các
quyền và nghĩa vụ của công dân (từ Điều 10 đến Điều 9), trong đó, quy định rõ “ ọi
công dân đều được bảo đảm về giá trị và phẩm giá con người và có quyền mưu cầu hạnh
phúc. Nhà nước có trách nhiệm xác nhận và đảm bảo các quyền con người cơ bản và bất
khả xâm phạm của cá nhân (Điều 10)” [235, tr. 4]. Trên cơ sở đó, Hàn Quốc ban hành
HTPL bảo vệ NNN bị XHTD tương đối đa dạng và phong phú, trong đó quy định các
hành vi XHTD, các biện pháp chế tài đối với những hành vi này, như: BLHS các năm
1953 (sửa đổi, bổ sung các năm 1975, 1988, 1995, 1997, 2001, 2004, 2005, 2010, 2012,
201 ) quy định: tội tấn công tình dục (Điều 107, 108); tội hiếp dâm (Điều 297, 297-2,
299, 301, 301-2); tội cư ng dâm (298, 299); tội quan hệ tình dục với người chưa thành
niên (Điều 302, 305); tội lạm dụng tình dục (Điều 0 ): “Người nào lừa dối hoặc lợi
dụng quyền hành của mình để quan hệ tình dục với nhân viên dưới quyền hay người do
mình bảo trợ thì bị phạt tù đến 05 năm hay bị phạt tiền đến 15 triệu won; nếu quan hệ
với người do mình chăm sóc thì bị phạt tù đến 07 năm” [236]. Để cụ thể hoá các biện
pháp bảo vệ quyền cho nạn nhân bị XHTD, Hàn Quốc còn ban hành Luật phòng, chống
XHTD trẻ em và thanh, thiếu niên năm 2009, sửa đổi bổ sung năm 2010, 2012, 201 ,
2014, 2018) (Act on the Protection of Children and Youth against Sex Offenses), quy
định các trường hợp đặc biệt liên quan đến hình phạt các tội XHTD đối với trẻ em và
thanh, thiếu niên (người dưới 19 tuổi) và các thủ tục đặc biệt và những hỗ trợ cần thiết
để làm giảm thiệt hại cho nạn nhân và hỗ trợ họ trở lại với cộng đồng (Điều 1, 2) [257].
61
Trong đó quy định rõ hành vi, khung hình phạt đối với các hành vi XHTD đối với trẻ
em và thanh thiếu niên, đó là: hiếp dâm (Điều 7); cư ng dâm với trẻ em và thanh thiếu
niên khuyết tật (Điều 8); mua bán dâm với trẻ em và thanh thiếu niên (Điều 13); v.v..
Để phòng, chống vấn nạn quấy rối tình dục nơi làm việc, Luật bình đẳng việc làm
và hỗ trợ hoà hợp gia đình người lao động Hàn Quốc năm 1987 (sửa đổi, bổ sung các
năm 1989, 1995, 1991, 2001, 2005, 2007, 2009, 2010) đã đưa ra định nghĩa về hành
vi quấy rối tình dục nơi làm việc: “Quấy rối tình dục nơi làm việc dùng chỉ tình huống
xảy ra hi người sử dụng lao động, quản đốc hay người lao động dùng lời lẽ, hành
động hay bất cứ yêu cầu nào có yếu tố tình dục đối với người lao động do mình quản
lý tại nơi làm việc hoặc nơi có liên quan đến việc làm hoặc đưa ra những bất lợi
trong làm việc … làm cho họ cảm thấy xấu hổ, nhục nhã hay bị xúc phạm” (Khoản 2
Điều 2). Tại chương 2 của Luật này quy định các biện pháp phòng chống hành vi
quấy rối tình dục tại nơi làm việc; cấm các hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc
(Điều 12); tuyên truyền, phổ biến, giáo dục để ngăn chặn các hành vi quấy rối tình
dục nơi làm việc (Điều 13, 13-2); kiểm soát các trường hợp quấy rối tình dục nơi làm
việc (Điều 14, 14-2).
Theo Luật Tiêu chuẩn lao động, người sử dụng lao động có nghĩa vụ bảo
vệ nhân viên của mình khỏi bị quấy rối tình dục ở nơi làm việc; hông được
phép sa thải hoặc gây tổn hại cho nạn nhân bị quấy rối tình dục hoặc người khác
(nhân viên) đã tố cáo hành vi quấy rối tình dục. Nạn nhân có thể yêu cầu tòa án
và Ủy ban Quan hệ Lao động - cơ quan tư pháp bán chuyên trách, c ng như Ủy
ban Nhân quyền Quốc gia bảo vệ quyền lợi cho mình [239, tr. 2].
Năm 2019, Hàn Quốc đã sửa đổi, bổ sung Luật Tiêu chuẩn lao động và Luật
bảo hiểm tai nạn lao động có hiệu lực từ ngày 16/7/2019 nhằm tăng cường các biện
pháp phòng chống các hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Trong đó, các luật
này đã quy định rõ hành vi quấy rối tình dục, đồng thời cho ph p người lao động tố
giác hành vi quấy rối tình dục nơi làm việc; người sử dụng lao động phải có trách
nhiệm thực hiện các biện pháp đền bù, khắc phục thoả đáng cho nạn nhân. Người có
hành vi quấy rối tình dục nơi làm việc có thể bị phạt tiền đến 30 triệu won hoặc bị
phạt tù đến năm.
Ngoài ra, Hàn Quốc đã áp dụng hình phạt thiến hóa học đối với các tội phạm ấu
dâm. Vào tháng 7/2011, Hàn Quốc là quốc gia đầu tiên ở Châu Á áp dụng “thiến hóa
học” như một hình phạt đối với tội phạm tình dục [233]. Theo đó, tất cả tội phạm xâm
hại tình dục trẻ em dưới 16 tuổi có thể bị áp dụng hình phạt này. Tuy nhiên, người dân
tiếp tục kêu gọi gia tăng các hình phạt đối với những loại tội phạm này. Năm 201 , Hàn
62
Quốc mở rộng thiến hóa học đối với những kẻ bị kết án xâm hại tình dục trẻ vị thành
niên dưới 19 tuổi [90].
Bên cạnh đó, Hiến pháp Hàn Quốc quy định quyền hạn và nghĩa vụ của cơ quan tư
pháp trong bảo vệ công lý và bảo vệ QCN: “Quyền lực tư pháp được trao cho tòa án bao
gồm các thẩm phán. Các tòa án bao gồm Tòa án Tối cao, là tòa án cao nhất trong bộ
máy nhà nước, và các tòa án khác ở các cấp” (Điều 101 (1) (2)); “Việc xét xử và các
phán quyết của toà án phải được công khai. Tuy nhiên, trong trường hợp phiên tòa có
thể ảnh hưởng đến an ninh quốc gia hay tổn hại đến an toàn và trật tự công cộng, hoặc
có thể tổn hại đến đạo đức công chúng, các phiên tòa có thể được xử kín theo quyết định
của tòa án (Điều 109)”. BLTTHS Hàn Quốc năm 1954 (sửa đổi, bổ sung năm 2007) quy
định chặt chẽ việc thực hiện quyền bảo chữa, tăng cường bảo vệ quyền của nạn nhân,
tăng cường vai trò của toà án, gia tăng tính hợp pháp của các thủ tục tố tụng [95, tr. 413],
trong trường hợp công tố viên quyết định không buộc tội, toà án có thẩm quyền yêu cầu
thực hiện việc xét xử quyết định của công tố viên có đúng hông, nếu xét thấy có cơ sở,
toà án sẽ quyết định truy tố gửi văn bản đến Trưởng Công tố của văn phòng công tố
quận để phân công một công tố viên khác phụ trách vụ án và công tố viên đó sẽ tiến
hành truy tố (gọi là thủ tục buộc tội theo lệnh toà) (Điều 260, 262). Ngoài ra, theo Luật
Văn phòng Công tố năm 2009, nếu công tố viên ra quyết định không buộc tội, người bị
hại có quyền háng cáo lên văn phòng công tố cấp trên trong thời hạn 30 ngày kể từ
ngày được thông báo, nếu tiếp tục bị từ tối, nạn nhân có thêm 0 ngày để kháng cáo lên
Văn phòng Công tố tối cao (Điều 10), nếu tiếp tục bị bác đơn, nạn nhân có thể nộp đơn
khiếu nại đến Toà hiến pháp (theo Điều 67, 68 Luật Toà án Hiến pháp).
Những quy định này đặt nền móng cho việc vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của
NNN bị XHTD ở Hàn Quốc. Ngoài ra, Luật phòng, chống XHTD trẻ em và thanh, thiếu
niên năm 2009, sửa đổi bổ sung năm 2010, 2012, 201 , 2014, 2018) quy định rõ trách
nhiệm và nghĩa vụ đối với các cấp chính quyền và xã hội trong việc bảo vệ quyền cho
nạn nhân bị XHTD, đó là: hảo sát và nghiên cứu và cung cấp các dịch vụ phổ biến,
giáo dục, hoàn thiện khung pháp lý và thiết chế, để ngăn chặn các hành vi XHTD đối
với trẻ em, thanh thiếu niên và bảo vệ họ khỏi bị XHTD. Để tăng cường nhận diện các
hành vi XHTD, Nhà nước nỗ lực hợp tác quốc tế thông qua chia sẻ thông tin tội phạm,
điều tra và nghiên cứu tội phạm, hợp tác theo luật hình sự quốc tế, dẫn độ tội phạm, v.v
(Điều 4). Mọi người dân phải nỗ lực cải thiện môi trường xã hội và bảo vệ, hướng dẫn
và giáo dục trẻ em và thanh thiếu niên để tránh trở thành nạn nhân hoặc trở thành phạm
nhân của các vụ XHTD (Điều 5) [257].
Hai là, thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Hàn Quốc.
63
Hệ thống toà án Hàn Quốc gồm: Toà án tối cao, Toà án Hiến pháp và sáu Toà án
thượng thẩm có thẩm quyền phúc thẩm, 13 Toà án quận và các toà án chuyên trách
hác, như: Toà án phát minh sáng chế, Toà án gia đình và Toà án hành chính. Năm
2007, Uỷ ban Tuyên án được thành lập, trực thuộc Toà án tối cao nhằm đảm bảo việc
tuyên án công bằng, khách quan. Uỷ ban này đã xây dựng các hướng dẫn về tuyên án
cho các loại tội phạm, như: tội phạm tình dục, vu khống, giết người, hối lộ, biển thủ, bội
ước và cướp của.
Văn phòng Công tố tối cao tại Hàn Quốc là nơi duy nhất có thẩm quyền truy tố các
tội hình sự [95, tr. 409], đây là cơ quan trong Bộ Tư pháp. Văn phòng Công tố tối cao có
chi nhánh trên toàn quốc, gồm 05 văn phòng công tố cấp cao, 18 văn phòng công tố
quận và 0 văn phòng chi nhánh của Công tố quận.
Tổ chức luật sư được phân bổ theo tuyến đô thị với nhiều đoàn luật sư ở các thành
phố khác nhau và một cơ quan trung ương là Liên đoàn Luật sự Hàn Quốc. Khoảng gần
50% luật sự hành nghề tại Seoul và các khu vực lân cận, do đó “Đoàn Luật sư Seoul có
vai trò đặc biệt quan trọng trong giới luật sư c ng như trong hoạt động TGPL cho người
dân” [95, tr. 409].
Từ năm 1987, Hàn Quốc thành lập một số cơ quan giám sát độc lập có nhiệm vụ
bảo đảm các quyền công dân, bao gồm Thanh tra QH (Ombudsman), Uỷ ban Chống
tham nh ng và Quyền dân sự. Năm 2011, Hàn Quốc thành lập Uỷ ban Nhân quyền quốc
gia. Thông qua các thiết chế này, hoạt động của các cơ quan tư pháp được giám sát chặt
chẽ, QCN được bảo đảm ngày một tốt hơn.
Để nâng cao năng lực tiếp cận công lý của NNN bị XHTD, Hàn Quốc đã áp dụng
nhiều biện pháp, đặc biệt là phát triển hệ thống TGPL chuyên nghiệp. Hệ thống TGPL
của Hàn Quốc được cung cấp qua ba phương thức: Cơ quan TGPL Hàn Quốc (KLAC);
toà án cử luật sư miễn phí; các tổ chức phi chính phủ (Hiệp hội Luật sư Hàn Quốc
(KBA), tổ chức khu vực hoặc các tổ chức dân sự khác, như: Trung tâm TGPL về quan
hệ gia đình, Khối đoàn ết nhân dân vì chế độ dân chủ nhân dân, Liên đoàn Luật sư Hàn
Quốc và các nhóm bảo vệ quyền lợi người dân khác [114]. KLAC là một tổ chức công
cấp dịch vụ pháp l như tư vấn pháp luật và đại diện tố tụng cho những người không có
đủ khả năng thuê luật sư.
KLAC được tổ chức theo ngành dọc, hiên nay có 18 Văn phòng đại diện, 40
Chi nhánh và 63 tiểu Chi nhánh tại các địa phương có trụ sở cơ quan cảnh sát điều
tra. Chủ tịch KLAC được Nghị viện phê chuẩn trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng
Bộ Tư pháp và phải báo cáo, trả lời chất vấn tại Nghị viện về công tác TGPL [95,
tr. 462].
64
Nhà nước và các tổ chức xã hội Hàn Quốc đã thực hiện nhiều biện pháp để nâng
cao nhận thức của người dân về các hành vi XHTD ở Hàn Quốc. Trong bối cảnh đất
nước Hàn Quốc còn chịu nhiều rào cản từ xã hội gia trưởng, trọng nam khinh nữ, phong
trào MeToo (Phong trào chống quấy rối và bạo hành tình dục) ở Hàn Quốc đã phát động
mạnh mẽ từ sau vụ vận động viên trượt băng tốc độ ngắn Olympic Shim Suk-hee cáo
buộc huấn luyện viên của cô cư ng hiếp cô (tháng 1/2019), các chính sách về phòng,
chống quấy rối tình dục được cải cách mạnh mẽ hơn [259].
Ba là, nguồn lực đáp ứng yêu cầu vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD ở Hàn Quốc.
Nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD ở Hàn Quốc ngày càng tăng lên cả về chất và lượng. Đối với lực lượng cảnh sát
được đào tạo chính quy, bài bản tại Học biện Cảnh sát Trung ương, Trường Cao đẳng
Cảnh sát quốc gia và Trường Đào tạo Cảnh sát nâng cao. Đến nay, “số lượng cảnh sát
Hàn Quốc khoảng trên 100. 11 người” [95, tr. 423-424]. Ngân sách hàng năm phục vụ
cho các cơ quan tư pháp ngày một tăng, chỉ tính riêng “ngân sách cho cảnh sát ở Hàn
Quốc chiếm khoảng 4% ngân sách chính phủ hàng năm, mức tăng ngân sách hàng năm
cho lực lượng này là 5,6%” [95, tr. 424]. Đối với công tố viên, lực lượng này phải trải
qua kỳ thi tư pháp do Bộ Tư pháp tổ chức và sau đố hoàn tất hoá đào tạo hai năm tại
Viện Nghiên cứu và Đào tạo tư pháp do Toà án tối cao giám sát. Việc bổ nhiệm và phân
công tất cả các công tố viên do Tổng thống thực thiên theo đề xuất của Bộ Tư pháp, bao
gồm: Tổng công tố, Trưởng Công tố cấ cao, Trưởng Công tố và Công tố viên; trong đó,
Tổng công tố có nhiệm kỳ 02 năm, hông được tái bổ nhiệm, do Bộ Tư pháp chỉ đạo và
giám sát. Các công tố viên không là thành viên QH hoặc thành viên của Hội đồng địa
phương; hông tham gia bất kỳ phong trào chính trị nào; không tham gia hoạt động kinh
doanh có thu lợi nhuận; hông đảm nhận bất kỳ chức vụ nào có thù lao trừ trường hợp
được Bộ trưởng Bộ Tư pháp cho ph p (Điều 43 Luật Văn phòng Công tố).
Đối với lực lượng thẩm phán và người phục vụ trong ngành toà án ở Hàn Quốc
hiện nay trên 2. 00 người [95, tr. 435]. Chánh án Toà án tối cao được Tổng thống bổ
nhiệm với sự đồng ý của Nghị viện có nhiệm kỳ 0 năm; các Thẩm phán của Toà án tối
cao c ng được Tổng thống bộ nhiệm với sự đồng ý của Nghị viện và theo đề nghị của
Chánh án Toà án tối cao có nhiệm kỳ 0 năm; thẩm phán của toà án cấp dưới do Chánh
án Toà án tối cao bổ nhiệm với sự đồng ý của Hội đồng thẩm phán Toà án tối cao có
nhiệm kỳ 10 năm. Để trở thành thẩm phán, ứng viên phải vượt qua kỳ thi sát sạch tư
pháp và hoàn tất khoá học 02 năm tại Viện Nghiên cứu và Đào tạo tư pháp để được cấp
giấy hành nghề luật tại Hàn Quốc. Ngoài ra, Viện Đào tạo các viên chức toà án lập kế
65
hoạch và cung cấp các chương trình đào tạo và phát triển cho thư toà, cảnh sát viên
và các nhân viên khác thuộc ngành tư pháp. Thẩm phán và các viên chức toà án đều phải
giữ gìn và tu dư ng đạo đức. Năm 200 , Hàn Quốc thành lập văn phòng iểm tra đạo
đức tại Văn phòng Trị sự toà án; ngành tư pháp thực hiện các vụ kiểm tra đặc biệt tại các
khu vực có khả năng xảy ra vi phạm để ngăn chặn những vi phạm đạo đức.
Để đáp ứng yêu cầu thực tế, hàng năm ở Hàn Quốc có trên 1000 luật sư tốt nghiệp;
các luật sư tập hợp thành các đoàn luật sư cấp đô thị, có 14 đoàn luật sư trên toàn quốc,
trong đó đoàn luật sư Seoul là lớn nhất đặt dưới sự quản lý của Liên đoàn Luật sư Hàn
Quốc [95, tr. 471-472]. Hiện nay, tổng số nhân viên của Cơ quan TGPL Hàn Quốc
(KLAC) là 950 người, trong đó có hơn 250 luật sư công hưởng lương từ NSNN, mức
lương tương đương với mức lương của công tố viên. KLAC sử dụng kinh phí từ các
nguồn sau: kinh phí từ Chính phủ; tiền mặt và tài sản đóng góp của các cơ quan, tổ chức,
cá nhân khác; kinh phí triển khai các dự án; tiền thu được từ hoạt động kinh doanh của
KLAC và các nguồn thu hác. Hàng năm, ngân sách do Chính phủ cấp chiếm khoảng
45% tổng chi phí của KLAC, phần còn lại do huy động các nguồn lực khác (Bộ, tổ
chức, cá nhân) [175].
Thứ hai, thực tiễn vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Hàn
Quốc.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và vụ án XHTD nói riêng, các
cơ quan tư pháp phối hợp chặt chẽ với nhau. Việc điều tra hình sự do nhân viên cảnh sát
tư pháp (đây là những người được giao nhiệm vụ điều tra hình sự, gồm những viên chứ
hành chính thuộc lực lượng cảnh sát, giám thị, đại uý, trung uý và cảnh sát tuần tra),
công tố viên và trợ lý công tố viên tiến hành; cảnh sát tư pháp chịu sự kiểm sát và giám
sát của các công tố viên. Sau khi kết thúc điều tra ban đầu của cảnh sát, hồ sơ được
chuyển cho văn phòng công tố và công tố viên sẽ tiếp tục điều tra bằng cách thẩm vấn
nghi can và những người có liên quan, nghiên cứu hồ sơ và các bằng chứng. Công tố
viên có thể tiến hành điều tra bổ sung khi cần thiết. Kết thúc điều tra, công tố viên phụ
trách sẽ quyết định có khởi tố hay không. Theo BLTTHS Hàn Quốc năm 1954 (sửa đổi,
bổ sung năm 2007), quan hệ giữa công tố viên và nhân viên cảnh sát tư pháp hông phải
quan hệ hợp tác mà là mối quan hệ thức bậc (Điều 19 ), do đó, công tố viên chỉ đạo và
giám sát các nhân viên cảnh sát tư pháp liên quan đến việc điều tra hình sự và các nhân
viên cảnh sát phải tuân theo lệnh của công tố viên (Điều 53 Luật Văn phòng Công tố),
trong trường hợp một cảnh sát tư pháp hông tuân lệnh công tố viên, công tố viên có thể
thông qua Trưởng Công tố viên yêu cầu cảnh sát đó ngừng điều tra hoặc yêu cầu nhân
viên cấp trên thay thế nhân viên cảnh sát đó (Điều 54 Luật Văn phòng Công tố).
66
Sau hơn 2 năm ể từ khi áp dụng thiến hóa học lần đầu tiên được đưa vào thực
hiện (từ tháng 6/2011), Hàn Quốc đã có 4 trường hợp bị tòa tuyên án phạt áp dụng hình
thức này. Chi phí cho mỗi lần thiến hóa học ước tính khoảng 4.501 USD (94 triệu đồng)
[152]. Tòa án quận phía nam Seoul (Hàn Quốc) ngày 3/1/2013 lần đầu tiên ra lệnh thiến
bằng hóa chất với một tội phạm mang họ Pyo, đã cư ng hiếp 5 trẻ em vị thành niên
trong thời gian từ tháng 11-2011 đến tháng 5-2012. Sau hi được chẩn đoán mắc chứng
rối loạn ham muốn tình dục, Pyo đã bị xử 15 năm tù giam và bị tiêm thuốc giảm ham
muốn tình dục thái quá. Ngoài ra, Pyo còn trải qua 200 giờ điều trị bệnh lý. Hồ sơ phạm
tội của y sẽ bị công khai trong suốt 10 năm tới và phải đeo vòng điện tử theo dõi suốt 20
năm sau hi ra tù. Bản án này đánh dấu một mốc đáng chú trong lịch sử pháp luật Hàn
Quốc bởi đây là lần đầu tiên biện pháp thiến hóa học được áp dụng kể từ khi luật này có
hiệu lực từ tháng 7-2011 [115].
Tội phạm tình dục xảy ra ở Hàn Quốc với tốc độ trung bình 3,4 mỗi giờ và 80,4
mỗi ngày; từ năm 2015, số vụ hiếp dâm tăng trung bình 10% vụ/năm. Số vụ quấy rối
tình dục, trước đây đã giảm từ 240 xuống 205 trong khoảng thời gian 2013-201 , đã
nhảy vọt lên 294 trong năm 2017 trong bối cảnh phong trào MeToo [232]. Thực tế cho
thấy, số vụ tấn công tình dục ở Hàn Quốc đã tăng từ 17.936 vụ vào năm 2011 lên 25.
vụ vào năm 2018 (tăng 41,4%) (Biểu đồ 2.1, Phụ lục 1). Trong những năm gần đây, Hàn
Quốc xảy ra nhiều vụ bê bối liên quan đến XHTD, đặc biệt là vụ XHTD trực tuyến
thông qua các phòng chat trên Telegram-“phòng chat thứ n”, ít nhất 10 NNN trong đó
26 người chưa thành niên. Từ vụ án này, cho thấy Hàn Quốc thiếu quy định pháp luật
liên quan để trừng phạt các tội phạm liên quan đến các dịch vụ nhắn tin di động như
Telegram vì hông có điều khoản nào bao gồm chính xác một vụ án như vậy, hình phạt
sẽ được quyết định bởi tòa án, dựa trên các quy định trong Luật phòng, chống XHTD trẻ
em và thanh, thiếu niên năm 2009, sửa đổi bổ sung năm 2010, 2012, 201 , 2014, 2018)
[223]. Chính vì thế, sau vụ “phòng chat thứ n”, tháng 5/2020, QH Hàn Quốc đã thông
qua Luật phòng ngừa sự cố phòng chat thứ N trên Telegram, trong đó tăng nặng hình
phạt đối với các tội phạm tình dục, người có hành vi tàng trữ, mua bán hoặc xem ảnh,
video đồi trụy bất hợp pháp nếu bị bắt sẽ nhận án phạt dưới năm tù giam và phạt tiền
30 triệu won; người có hành vi đe dọa cư ng ép người khác quay, chụp các sản phẩm
tình dục sẽ bị phạt tù từ 1- năm [61].
Thực tế này cho thấy, Hàn Quốc đã có rất nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện
CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, đặc biệt là hoàn thiện thể chế pháp lý,
trong đó gia tăng hung hình phạt và áp dụng những biện pháp đặc biệt đối với người
XHTD, tuy nhiên, việc đấu tranh đối với tội phạm này gặp rất nhiều hó hăn, đặc biệt
67
các đối tượng này còn sử dụng các thành tựu khoa học, công nghệ để XHTD đối với
PNTEG.
2.3.1.2. Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm
hại tình dục ở Nhật Bản
Thứ nhất, khái quát CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Nhật Bản.
Nhật Bản là quốc gia theo chính thế quân chủ đại nghị, đảm bảo sự độc lập tương
đối của nhánh quyền tư pháp đối với nhánh quyền lập pháp và hành pháp. Từ năm 1999,
Hội đồng CCTP lầm thời (JRC) được thành lập đã đưa ra các huyến nghị về cải cách
hệ thống tư pháp hình sự, như:
Hoàn thiện hệ thống bào chữa; hoàn thiện và đẩy nhanh tiến độ xét xử các vụ
án; tăng cường vai trò của hoạt động công tố; bảo vệ người bị hại; hiện thực hoá về
một hệ thống tư pháp dễ hiểu; tăng cường giáo dục về HTPL; khuyến khích công
hai thông tin liên quan đến hệ thống tư pháp; v.v.. [95, tr. 291-292].
Trên cơ sở đó, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Nhật Bản được tổ
chức như sau:
Một là, thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Nhật Bản.
Hiến pháp Nhật Bản quy định các quyền và nghĩa vụ của nhân dân (từ Điều 10 đến
Điều 40), trong đó ghi rõ “ ọi người đều được hưởng các quyền cơ bản. Những quyền
đó là vĩnh viễn, bất khả xâm phạm dành cho công dân Nhật không chỉ ở thế hệ này mà
còn ở các thế hệ tương lai và được bảo đảm trong Hiến pháp này (Điều 11)” [228]. Với
quy định này, mọi người dân Nhật Bản đều bình đẳng trước pháp luật, tất cả mọi người
đều được đối xử công bằng, cơ quan tài phán đưa ra phán quyết một cách khách quan
trên cơ sở pháp luật và theo thục tục rõ ràng.
Hiến pháp đã thiết lập quyền lực tư pháp với tư cách là một nhánh quyền lực độc
lập với các nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp “Toàn bộ quyền tư pháp được trao
cho Toà án Tối cao và toà án các cấp được thành lập theo quy định của pháp luật. Không
được thành lập bất kỳ một Toà án đặc biệt nào c ng như không một cơ quan Hành pháp
được trao quyền tư pháp cuối cùng (Điều 77)” [228]. Quy định này được cho rằng, tư
pháp là “người gác cổng cuối cùng đối với quyền tự do của nhân dân, người duy trì trật
tự pháp lý với đỉnh cao là Hiến pháp” [95, tr. 294], vì thế, Hiến pháp Nhật Bản c ng quy
định rõ: “Các phiên tòa được xét xử công khai và các bản án phải được công bố. Nếu
các thẩm pháp thống nhất rằng việc xét xử công khai không có lợi cho trật tự công cộng
hoặc ảnh hưởng tới đạo đức, phiên tòa sẽ được xét xử ín (Điều 82)” [228]. Những quy
định này nhằm hướng đến nền tư pháp liêm chính, độc lập, khách quan, công khai, minh
bạch.Thêm vào đó, Hiến pháp còn quy định “Bị cáo được luật sư bào chữa. Nếu trong
68
các quy trình thủ tục, bị cáo không có tiền thuê luật sư thì toà án sẽ chỉ định một luật sư
để bào chữa cho bị cáo (Điều 7)” [228].
Để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, Nhật Bản đã ban hành sắc lệnh Chống
Quấy nhiễu riêng biệt tại tất cả 47 tỉnh thành toàn quốc và Mục 176 của BLHS quy định
về hình phạt đối với dâm ô. Tuy nhiên, mức hình phạt rất khác nhau giữa sắc lệnh và
Luật hình sự: “theo sắc lệnh, những người phạm tội như sờ soạng phụ nữ bị phạt đến 6
tháng tù hoặc đóng phạt 500.000 yen (4.500 USD). Tuy nhiên, BLHS quy định mức
phạt từ tháng đến 10 năm tù đối với các hành vi phạm tội nghiêm trọng” [155].
Hiện nay, pháp luật về tội phạm tình dục ở Nhật Bản tiếp tục được cải cách theo
hướng quy định rõ các hành vi XHTD và gia tăng hình phạt đối với các hành vi XHTD
so với trước đây. Ngày 16/3/2017, Nội các đã đệ trình một dự luật lên Nghị viện Nhật
Bản về việc sửa đổi một phần của BLHS năm 1907 [258], trong đó “Hình phạt tối thiểu
cho những kẻ hiếp dâm sẽ được nâng từ ba năm hiện tại lên năm năm (Điều 177)” [249].
Hai là, thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Nhật Bản.
Toà án là thiết chế trung tâm trong bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Nhật
Bản. Hiện nay ở Nhật Bản, hệ thống tòa án có ba cấp: tòa án tối cao (supreme court), tòa
án cấp cao (hight court), tòa án sơ thẩm (gồm: tòa án quận/huyện (district court), tòa án
gia đình (family court) và tòa án giản lược/rút gọn (summary court)); 8 tòa án cấp cao
nằm ở 8 thành phố chính, đó là: Sapporo, Sendai, To yo, Nagoya, Osa a, Hiroshima,
Takamatsu và Fukuoka; 50 tòa án quận/huyện (trong đó, 47 tỉnh mỗi tỉnh thiết lập 1 toà,
riêng tỉnh Ho aidō thiết lập thêm 3 toà ở 3 thành phố Hakodate, Asahikawa và Kushiro
(Cả nước Nhật Bản chia thành 47 đơn vị hành chính (tỉnh), mỗi đơn vị hành chính có
một toà án quận/huyện, riêng Đảo Ho aidō thành lập 4 toà)), 50 toà gia đình (được đặt
cùng địa điểm với toà quận/huyện) và 438 tòa án giản lược/rút gọn. Trong đó, Tòa án tối
cao là cơ quan tư pháp cao nhất, là cấp xét xử cuối cùng ở Nhật Bản, thực hiện chức
năng tái thẩm, giám đốc thẩm đối với những bản án, quyết định của tòa án cấp dưới; Tòa
án cấp cao là tòa án cấp trung thẩm, có thẩm quyền xét xử kháng cáo, kháng nghị đối
với bản án, quyết định của tòa án cấp dưới (riêng Toà án cấp cao ở Tokyo có thẩm
quyền duy nhất xét xử sơ thẩm đối với các vụ án yêu cầu huỷ bỏ quyết định của các cơ
quan tài phán hành chính như Uỷ ban Thương mại công bằng); Tòa án sơ thẩm, có thẩm
quyền xét xử sơ thẩm các vụ án, bao gồm: tòa án quận/huyện là toà án thẩm quyền
chung, có thẩm quyền xét xử các vụ án dân sự, hình sự và hành chính; tòa án gia đình là
toà chuyên trách, có thẩm quyền thụ lý và xét xử các vụ án liên quan đến hôn nhân, gia
đình và người chưa thành niên; tòa án giản lược/rút gọn là toà án có thẩm quyền hạn
chế, thụ lý và xét xử các vụ kiện dân sự nhỏ (tranh chấp tài sản không vượt quá
69
1.400.000 yên) và các tội hình sự nhỏ (kháng cáo, kháng nghị bản án dân sự của toà này
do toà án quận/huyện xét xử phúc thẩm; kháng cáo, kháng nghị bản án hình sự của toà
này do Toà án cấp cao xét xử phúc thẩm ).
Tham gia vào bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD còn có cơ quan điều tra thuộc
cơ quan công tố và cơ quan cảnh sát. Ở Nhật Bản, cơ quan công tố trực thuộc Bộ Tư
pháp; Văn phòng công tố tối cao là cơ quan cao nhất của hệ thống công tố, dưới là 8
Văn phòng cấp cao, 50 văn phòng cấp quận và 20 văn phòng địa phương [95, tr. 313].
Trong giai đoạn điều tra, nhiệm vụ trọng tâm của các công tố viên là làm rõ sự thật và
củng cố chứng cứ về hành vi bị buộc tội; trong giai đoạn xét xử, công tố viên Nhật Bản
thực hiện các chức năng tương tự như công tố viên ở các nước khác. Nhật Bản có tổng
số 47 Cơ quan cảnh sát cấp tỉnh; mỗi Cơ quan Cảnh sát tỉnh đều thuộc quyền giám sát
của Cơ quan Cảnh sát khu vực; toàn bộ nước Nhật Bản chia làm 7 khu vực. Ngoài ra, ở
Nhật Bản có truyền thống về “cảnh sát cộng đồng”, một phương thức giữ gìn trật tự
trong phố phường. Mỗi đơn vị cảnh sát tại một thị trấn địa phương có nhiều điểm trực
của cảnh sát tại từng khu phố (gọi là kokan), có 3-4 sỹ quan trực [95, tr. 07]. Đây là
điểm tiền tiêu thực hiện việc tuần tra hàng ngày nhằm ngăn ngừa tội phạm và là nơi để
người dân tố giác tội phạm nói chung và tội phạm tình dục nói riêng.
Nghị viện và Nội các Nhật Bản là cơ quan trực tiếp giám sát hoạt động của các
thiết chế tư pháp, trong đó Nghị viện có quyền bãi nhiệm thẩm phán, như năm 2008,
Nghị viện đã bãi miễn một thẩm phán có hành vi quấy rối tình dục đối với nhân viên nữ
dưới quyền [95, tr. 352].
Ngoài ra, hệ thống cơ quan TGPL Nhật Bản đã góp phần lớn vào việc TGPL cho
NNN bị XHTD. Hiện nay, hệ thống cơ quan TGPL do Chính phủ cấp kinh phí hoạt
động thông qua Bộ Tư pháp, mặc dù cơ quan này hông phải là cơ quan trực thuộc Bộ
Tư pháp nhưng Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm đối với hoạt động của cơ quan này thông
qua việc phê duyệt Kế hoạch hoạt động bốn năm một lần. Hiện nay, có 50 Trung tâm
TGPL được thành lập tại 50 địa phương có trụ sở của tòa án quận; chi nhánh của các
Trung tâm TGPL được thành lập tại 11 thành phố có dân số đông hoặc có nhiều vụ án
phải tham gia tố tụng mà Trung tâm TGPL tại quận không thể đáp ứng hết nhu cầu; các
tiểu chi nhánh và Văn phòng luật ( 7 Văn phòng) tại các khu vực nông thôn nơi hông
có hoặc có rất ít luật sư. Văn phòng luật trực thuộc Trung tâm TGPL [175].
Ba là, nguồn lực phục vụ cho yêu cầu vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN
bị XHTD ở Nhật Bản.
Nhân viên cảnh sát muốn trở thành điều tra viên hình sự trước hết phải được người
giám viên cảnh sát đó tại đơn vị giới thiệu; sau đó ứng viên phải vượt qua kỳ thi sát hạch
70
sau khi tốt nghiệp khoá huấn luận tại Học viện cảnh sát hình sự. Công tố viên ở Nhật
Bản được bổ nhiệm từ những người đỗ kỳ thi luật sư đoàn và sau hi tốt nghiệp khoa
học tại Viện Nghiên cứu và Đào tạo. Sau đó công tố viên mới vào nghề được cử đến làm
việc các văn phòng công tố cấp quận của các đô thị lớn, sau đó 1-2 năm họ sẽ được
thuyên chuyển. Việc chỉ định Chánh án và bổ nhiệm thẩm phán của Toà án tối cao và
thẩm phán của toà án cấp dưới thuộc thẩm quyền của Nội các. Hiện nay, Nhật Bản có
“hơn .500 thẩm phán và hơn 22.000 công chức, viên chức làm việc trong hệ thống toà
án, trong đó thư toà hơn 9.400 người, viên chức giám sát của Toà án gia đình hơn
1 00 người, v.v..” [95, tr. 352-353]. Ngân sách dành cho hoạt động của Toà án tiếp tục
tăng, “chiếm gần 0,4% ngân sách của quốc gia” [95, tr. 350].
Hiện nay, tổng số cán bộ của hệ thống cơ quan TGPL Nhật Bản là trên 1.600
người, bao gồm “hơn 240 luật sư nhân viên được trả lương hàng tháng và ký hợp đồng
với khoảng hơn 22.000 luật sư tư. Các luật sư tư được nhận thù lao khi vụ án kết thúc”
[175]. Cơ quan TGPL Nhật Bản tự quyết định số lượng nhân viên của mình dựa trên yêu
cầu công việc. Với yêu cầu đó, Nhật Bản hiện có 52 đoàn luật sự địa phương, hợp thành
Liên đoàn Luật sư Nhật Bản,với “tổng số luật sư đủ tiêu chuẩn tại Nhật Bản khoảng hơn
0.000 người” [95, tr. 363]. Họ là những người bào chữa và tư vấn, TGPL cho bị can/bị
cáo và người bị hại trong quá trình tố tụng. Kinh phí hoạt động hàng năm của cơ quan
TGPL do Chính phủ cấp, đóng góp của người được TGPL và tiền thu được từ các hoạt
động khác của cơ quan TGPL Nhật Bản.
Thứ hai, thực tiễn vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Nhật
Bản.
Ngành tư pháp ở Nhật Bản độc lập tương đối với ngành hành pháp và lập pháp,
tuy nhiên, toà án thực hiện chức năng giám sát các hoạt động điều tra của cơ quan cảnh
sát và cơ quan công tố [95, tr. 2 ]. Trong điều tra tội phạm nói chung, các tội XHTD
nói riêng, cơ quan cảnh sát địa phương có nhiệm vụ bắt nghi can và thu thập chứng cứ.
Các vụ án XHTD đều do cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành, đồng thời cơ quan công tố
c ng có thẩm quyền điều tra. Việc văn phòng công tố viên trực tiếp điều tra các vụ án
XHTD là một trong những đặc thù của hệ thống tư pháp hình sự ở Nhật Bản. Theo quy
định này, công tố viên chịu trách nhiệm hỏi cung người bị tình nghi; sau khi cảnh sát
chuyển hồ sơ vụ án cho văn phòng công tố, văn phòng này có toàn quyền quyết định có
khởi tố nghi can hay hông (Điều 248 BLTTHS). Các công tố viên ở Nhật bản được độc
quyền về thảm quyền kết tội bị can nên họ ít gặp phải sự cạnh tranh khi ra quyết định
buộc tội [95, tr. 318]. Tuy nhiên, có sự trùng lặp giữa nhiệm vụ của cảnh sát với nghĩa
71
vụ của công tố, đặc biệt liên quan đến điều tra c ng như “làm rõ và chứng minh sự thật
vụ án”.
Số vụ tấn công tình dục có xu hướng giảm, trong giai đoạn 2005-2016, giảm
59, %, trong đó số vụ hiếp dâm c ng giảm đáng ể, so với năm 200 , số vụ hiếp dâm
năm 2014 đãm giảm xuống 49,4% (Bảng 2.1, Phụ lục 1). Mặc dù phong trào eToo đã
lan khắp từ Hollywood tới Hong Kong, nhưng tại Nhật Bản, số người hưởng ứng phong
trào này vẫn còn há ít, vì “Rất hó để nói về vấn đề này ở Nhật Bản. Việc kỳ thị hiếp
dâm rất khủng khiếp. Người ta thường có xu hướng giấu kín mọi chuyện” [2].
Theo thống kê của Bộ tư pháp Nhật Bản, trong số các vụ án hiếp dâm, chỉ có
4% nạn nhân bị hiếp dâm tố cáo vụ án tới cảnh sát và chỉ có 1/ được đưa ra tòa.
Trong năm 2017, chỉ có 285 trong tổng số 1.678 người bị khởi tố vì tội hiếp dâm ở
nước này bị kết án trên năm tù giam; hơn 1.750 trường hợp quấy rối và cư ng
dâm, có 51,3% trong số đó xảy ra trên xe lửa và tàu điện, trong đó có đến 20% xảy
ra ở trạm chờ [2].
Thực tế này cho thấy, tính hiệu lực, hiệu quả của CCPL bảo đảm QTCCL của
NNN bị XHTD ở Nhật Bản chịu tác động rất lớn từ truyền thống, văn hoá của nước này.
Cho nên, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, chính quyền Nhật Bản đang nỗ
lực thay đổi nhận thức, từng bước vượt qua những “rào cản” truyền thống, văn hoá và
nâng cao năng lực TCCL của người dân.
2.3.1.3. Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm
hại tình dục ở Trung Quốc
Thứ nhất, khái quát CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Trung Quốc.
Trung Quốc là quốc gia theo chính thể cộng hoà XHCN, theo đó CCPL bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD ở Trung Quốc được tổ chức như sau:
Một là, thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Trung Quốc.
Hiến pháp Trung Quốc năm 1982 (sửa đổi, bổ sung năm 1998, 1999, 2004, 2018)
đã quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân (từ Điều đến Điều 5 ), trong đó có
những quy định cụ thể như sau: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm nhân quyền (Điều 33)”
[215, tr. 11]. Trên cơ sở đó, Trung Quốc đã quy định quyền của NNN bị XHTD và trách
nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc bảo vệ QTCCL của NNN bị XHTD trong
các văn bản pháp luật chuyên ngành. Đặc biệt BLHS Trung Quốc năm 1979 (sửa đổi
năm 1997, 1999, 2002, 2005, 200 , 2009, 2011) quy định các hành vi XHTD tại Điều
2 và Điều 2 7, như: cư ng dâm, hiếp dâm, giao cấu với trẻ em gái chưa đủ 14 tuổi
[47, tr. 157-158]. Để phòng chống quấy rối tình dục, Trung Quốc đã ban hành Luật bảo
vệ quyền lợi ích của phụ nữ năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2005) (Law on the
72
Protection of Women's Rights and Interests of the People's Republic of China), trong đó
quy định “Quấy rối tình dục đối với người phụ nữ bị cấm. Các nạn nhân có quyền khiếu
nại đến đơn vị hoặc cơ quan liên quan (Điều 40)” [237], tuy nhiên trong luật này chưa
định nghĩa rõ hành vi quấy rối tình dục. Để quy định rõ những hành vi XHTD, BLDS
Trung Quốc năm 2020 (có hiệu lực ngày 01/01/2021), đã đưa ra định nghĩa về quấy rối
tình dục: “quấy rối tình dục là hành vi không mong muốn đối với người khác bằng ngôn
ngữ hoặc hành động tình dục hoặc bằng những tiến bộ tình dục chống lại cấp dưới
(Điều 790)”. Đây là lần đầu tiên trong pháp luật Trung Quốc đưa ra định nghĩa về quấy
rối tình dục, mặc dù một số địa phương Trung Quốc trước đó đã xác định các hành vi
quấy rối tình dục trong các văn bản pháp quy của địa phương của họ, như: các quy định
của tỉnh Giang Tô về bảo vệ quyền phụ nữ định nghĩa quấy rối tình dục là quấy rối đối
với phụ nữ dưới bất kỳ hình thức nội dung tình dục hoặc ngôn ngữ, lời nói, hình ảnh
nào, âm thanh và chuyển động cơ thể [224].
Hiến pháp Trung Quốc còn quy định quy định “TAND nước Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa là cơ quan xét xử của nhà nước (Điều 123)” [215] và “VKSND nước Cộng
hoà nhân dân Trung Hoa là cơ quan giám sát pháp luật của nhà nước (Điều 124) [215].
Theo quy định này, VKSND thực hiện quyền công tố, giám sát hoạt động xét xử và
giám sát pháp luật của nhà nước.
Để bảo đảm QTCCL cho mọi người dân nói chung, cho NNN bị XHTD nói riêng,
Hiến pháp Trung Quốc quy định “TAND có quyền xét xử độc lập theo quy định của
pháp luật, không chịu sự can thiệp của cơ quan hành chính, đoàn thể xã hội, cá nhân
(Điều 12 )” [215]; “Bị cáo có quyền biện hộ (Điều 125)” [215] và đảm bảo quyền sử
dụng ngôn ngữ của dân tộc mình: “Công dân các dân tộc thiểu số đều có quyền dùng
tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình để tham gia tố tụng. Người của TAND và VKSND
tham gia tố tụng nếu như không thông thạo ngôn ngữ địa phương phải có phiên dịch”
[215]; “Khu vực cư trú của dân tộc thiểu số hoặc khu vực cư trú của nhiều dân tộc thiểu
số thì dùng ngôn ngữ thông dụng của địa phương để xét xử; quyết định khởi tố, bản án
phán quyết, bố cáo hoặc các văn bản khác cần căn cứ vào nhu cầu trên thực tế để sử
dụng một ngôn ngữ địa phương hoặc mấy loại văn tự khác nhau (Điều 1 4)” [215].
Hai là, thiết chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Trung Quốc.
TAND và VKSND là các cơ quan tư pháp ở Trung Quốc, được thiết kế gồm 4 cấp,
gồm: tối cao; cấp cao ở Bắc Kinh, Thiên Tân, Thượng Hải, Trùng Khánh và các khu
vực tự trị (Tân Cương, Tây Tạng); cấp trung và cấp cơ sở. VKSND có chức năng iểm
sát việc thi hành pháp luật (bao gồm cả việc kiểm sát hoạt động xét xử của toà án), thực
hiện quyền công tố, điều tra một số vụ án hình sự nhất định (chủ yếu các vụ tham
73
nh ng) và các chức năng hác. VKSND có quyền kháng nghị và yêu cầu xét xử lại các
vụ án trong một số hoàn cảnh nhất định. Ngoài ra, Hiến pháp Trung Quốc còn quy định
“TAND tối cao chịu trách nhiệm trước Ủy ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân và
Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc. Toà án nhân dân các cấp địa phương chịu trách
nhiệm trước cơ quan quyền lực nhà nước thành lập ra (Điều 128)” [215] và “VKSND
tối cao chịu trách nhiệm trước Ủy ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân và Đại hội
Đại biểu nhân dân toàn quốc. VKSND địa phương chịu trách nhiệm trước cơ quan
quyền lực nhà nước lập ra và VKSND cấp trên (Điều 133)” [215].
Việc tiến hành điều tra các vụ án XHTD do cơ quan điều tra hình sự tiến hành. Cơ
quan điều tra hình sự là bộ phận thuộc Bộ Công an đặt dưới sự quản lý của Quốc vụ
viện. Các đồn cảnh sát cơ sở tại Trung Quốc có nhiệm vụ rất quan trọng của cảnh sát
cộng đồng, gắn bó mật thiết với nhân dân. Để đầu tranh tội phạm hiệu quả, trong đó bao
gồm cả các vụ XHTD, lực lượng này tăng cường tuần tra và thiết lập đường dây nóng
110. Trong quá trình điều tra, VKS thực hiện chức năng giám sát đối với hoạt động của
cảnh sát trong từng giai đoạn của quá trình điều tra (chi tiết đã được mô tả ở trên). Hình
thức giám sát này là nhằm bảo đảm rằng cơ quan cảnh sát tuân thủ pháp luật trong từng
giai đoạn của quá trình điều tra, bao gồm cả việc phòng ngừa hành vi trái pháp luật như
bắt người mà hông đủ chứng cứ.
Các cơ quan tư pháp tại Trung Quốc chịu sự giám sát bởi nhiều cơ quan khác
nhau, với thẩm quyền khác nhau và tập trung vào những khía cạnh khác nhau trong hoạt
động của cảnh sát, như Ủy ban Kiểm tra kỷ luật của Đảng Cộng sản Trung Quốc;
VKSND; Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và Đại hội Đại biểu nhân dân các cấp.
Ngoài ra, các cơ quan này còn chịu sự giám sát của Ủy ban Toàn quốc Chính Hiệp
Trung Quốc và các thiết chế truyền thông, báo chí và nhân dân Trung Quốc [95, tr. 52-
53].
Hệ thống TGPL của Trung Quốc gồm các tổ chức TGPL của Nhà nước và các tổ
chức TGPL của xã hội: (1) Hệ thống tổ chức TGPL của Nhà nước Trung Quốc thành
lập theo cấp xét xử của Toà án: ở Trung ương (ngang cấp xét xử của TANDTC), Bộ Tư
pháp thành lập Trung tâm TGPL thuộc Bộ; ở khu tự trị, các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương có Trung tâm TGPL/Phòng TGPL thuộc Sở Tư pháp; ở cấp huyện có Trung
tâm TGPL trực thuộc các Trung tâm TGPL/Phòng TGPL cấp tỉnh và Trung tâm TGPL
trực thuộc các Phòng Tư pháp cấp huyện; ngoài ra, có các Trạm/Điểm TGPL ở các xã,
thị trấn, khu phố, thôn, xóm; tại các cơ quan tiến hành tố tụng; (2) Hệ thống tổ chức
TGPL của xã hội Trung Quốc, gồm: Trung tâm TGPL của đoàn thể, xã hội: công đoàn,
Hội phụ nữ, Hội người tàn tật… để giúp đ cho các thành viên, hội viên của đoàn thể
74
đó. Hoạt động của các Trung tâm thông qua các hình thức: Tư vấn pháp luật cho đối
tượng đến trụ sở của Trung tâm hoặc qua đường dây điện thoại nóng; đại diện, bào chữa
cho đối tượng trợ giúp trong các vụ án. Một số trường Đại học có khoa luật hoặc trường
Đại học chuyên ngành về luật (Đại học Hoa Đông, Phúc Đán…) c ng thành lập Trung
tâm TGPL cho các đối tượng đủ điều kiện TGPL. Các trường đại học luật hoặc có khoa
luật thường kết hợp dạy đại học với công tác TGPL và thường xuyên cử sinh viên luật
có trình độ chuyên môn vững đến Trung tâm TGPL thuộc các tổ chức đoàn thể tham gia
công tác TGPL.
Ba là, nguồn lực đáp ứng yêu cầu vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD ở Trung Quốc.
Từ năm 1997, Trung Quốc đã thực hiện cải cách để hỗ trợ việc tăng cường chuyên
môn hóa công tác điều tra hình sự. Cuối năm 2007 đã có 5. 25 cơ quan điều tra hình sự
được thành lập, khoảng 50% công việc của cảnh sát hình sự do các đơn vị thuộc “các
phòng ban chức năng” thực hiện. Đến năm 2007, có .5 0 cơ sở điều tra kỹ thuật
chuyên trách được thành lập chịu trách nhiệm về các lĩnh vực giám định thuốc, kiểm tra
DNA, giám định tài liệu, phân tích hóa chất, kỹ thuật hình ảnh, kiểm tra tâm lý và phân
tích chứng cứ điện tử. Đến này, toàn Trung Quốc có trên 150.000 cảnh sát hình sự làm
việc ở các cơ quan cảnh sát thuộc 4 cấp từ cấp tỉnh đến cấp xã/phường [95, tr. 54].
Hiện nay, Trung Quốc có khoảng “trên 190.000 thẩm phán, trong đó 7.000 làm
việc tại các TAND cấp cao, 16.000 làm việc tại các TAND cấp trung và 146.000 tại các
TAND cấp cơ sở, trên 24,6% trong số các thẩm phán là phụ nữ” [95, tr. 74]. Nguồn
nhân lực toà án ở Trung Quốc tiếp tục được phát triển về chất, Luật về thẩm phán, được
ban hành lần đầu tiên vào năm 1995, đã được sửa đổi năm 2001 quy định người được đề
nghị bổ nhiệm vào địa vị thẩm phán phải là công dân Trung Quốc, đủ 23 tuổi, tôn trọng
Hiến pháp, có phẩm chất chính trị và chuyên môn tốt, có đạo đức và sức khỏe và đã làm
việc ít nhất 02 năm đối với người có bằng đại học về chuyên ngành luật hoặc người có
bằng đại học không phải ngành luật nhưng có hiểu biết chuyên môn về luật; 01 năm đối
với người có bằng cử nhân luật học hoặc có bằng thạc sỹ hoặc tiến sỹ luật học. Cán bộ
tư pháp chưa đáp ứng các yêu cầu trên phải qua hóa đào tạo chuyên môn. Công tác đào
tạo thẩm phán, cả ở bậc cơ bản và bồi dư ng nâng cao thường xuyên cho thẩm phán, do
Trường thẩm phán quốc gia - một cơ quan trực thuộc TANDTC - đảm trách (Điều 9).
Trung Quốc có hơn 90% iểm sát viên có trình độ đại học và cao đẳng, trong
đó hơn 0% có bằng cử nhân đại học và thêm hơn 2,4% có trình độ thạc sỹ trở lên.
Tuy nhiên, những người có trình độ đào tạo bậc cao chủ yếu tập trung ở các vùng
kinh tế phát triển và phía đông của Trung Quốc. Tổng số cán bộ làm việc trong các
75
cơ quan kiểm sát là khoảng hơn 22 .1 5 người. Trong số đó, . 2 người là viện
trưởng, 10.750 người là viện phó, 14.777 người là thành viên ủy ban kiểm sát,
91.906 là kiểm sát viên và 18.076 người là trợ lý kiểm sát, ngoài ra còn có 26.221
thư ký và 13.678 cảnh sát tư pháp. Tỷ lệ kiểm sát viên nữ tăng dần qua các năm,
hiện nay khoảng trên 25% [95, tr. 71].
Đại hội Đại biểu Nhân dân địa phương chịu trách nhiệm cấp kinh phí hoạt động
cho tòa án địa phương tại Trung Quốc. Từng tòa án chịu trách nhiệm về ngân sách của
mình, nhưng kinh phí của tòa án lại phụ thuộc rất lớn vào ngân sách do các cơ quan
chính quyền địa phương phân bổ và như vậy, phụ thuộc vào nguồn inh phí mà các địa
phương dành ra để cấp cho các tòa án. Nói chung, tòa án ở khu vực đô thị được bảo đảm
về kinh phí tốt hơn so với các tòa án ở nông thôn, nơi thường không thể cân đối được
ngân sách của mình và có thể thường xuyên phải nợ lương trả cho thẩm phán c ng như
các cán bộ khác của tòa án.
Người thực hiện TGPL ở Trung Quốc gồm những nhóm chủ yếu sau: cán bộ
TGPL làm việc tại các tổ chức TGPL (luật sư và cán bộ pháp lý); Luật sư hành nghề tư;
Cán bộ pháp lý ở cơ sở (cán bộ các Phòng Tư pháp, Văn phòng phục vụ pháp luật; thành
viên tổ chức xã hội (hiệp hội lao động, giáo viên), sinh viên khoa luật của các trường đại
học...). Các địa phương hác nhau có các mô hình cung cấp dịch vụ TGPL khác nhau:
một số Trung tâm TGPL như ở tỉnh Hà Nam, Cát Lâm, An Huy và thành phố tự trị
Trùng Khánh, sử dụng cán bộ TGPL; một số thành phố lớn hác như Bắc Kinh, Thượng
Hải sử dụng luật sư tư; một số trung tâm TGPL khác sử dụng hỗn hợp. Tuy nhiên, ở một
số huyện không có luật sư nên các Trung tâm TGPL phải sử dụng các cán bộ TGPL ở
cơ sở để TGPL trong giải quyết các vụ án. Các Trung tâm TGPL thuộc các tổ chức đoàn
thể không nhận được kinh phí từ nguồn ngân sách của Nhà nước mà chỉ nhận được kinh
phí hỗ trợ thông qua việc thực hiện TGPL cho các vụ án . Kinh phí hoạt động của các cơ
quan TGPL Trung Quốc tận dụng nguồn lực của bản thân, sự tài trợ của các tổ chức
quốc tế.
Thứ hai, thực tiễn vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Trung
Quốc.
Các cơ quan có liên quan đến hệ thống tòa án Trung Quốc bao gồm là hệ thống tư
pháp và bộ máy cán bộ tòa án, VKS, cơ quan công an và có thể cả cơ quan an ninh.
Thêm vào đó, các Ủy ban kiểm tra và kỷ luật của Đảng Cộng sản Trung Quốc c ng có
thể đóng vai trò điều tra và kỷ luật song song, có thể có ảnh hưởng lên quá trình xét xử
[95, tr. 81]. Theo Hiến pháp hiện hành của Trung Quốc, cơ quan x t xử, cơ quan iểm
sát do Đại hội Đại biểu nhân dân bầu ra, chịu trách nhiệm và chịu sự giám sát của cơ
76
quan này (Điều 3). Ở địa phương, toà án chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp – đây
c ng là cơ quan chịu trách nhiệm cấp inh phí đảm bảo hoạt động và trả lượng cho thẩm
phán, đồng thời chịu sự giám sát chung của TANDTC và toà án cấp trên. Viện kiểm sát
c ng chịu trách nhiệm và sự giám sát tương tự.
Cơ quan điều tra hình sự cấp trên thực hiện quyền lãnh đạo đối với cơ quan cấp
dưới; cơ quan điều tra hình sự còn chịu sự lãnh đạo của chính quyền địa phương cùng
cấp. Sau khi hoạt động điều tra vụ án XHTD kết thúc và cơ quan điều tra kết luận là
chứng cứ đã rõ ràng, đầy đủ và đáng tin cậy, cơ quan điều tra sẽ có văn bản đề nghị truy
tố. Văn bản này cùng với hồ sơ vụ án và chứng cứ chứng minh được chuyển cho VKS
cùng cấp (Điều 129 BLTTHS). Để quyết định có truy tố hay không, VKS phải xem xét
liệu các tình tiết phạm tội đã rõ hay chưa và chứng cứ đã đầy đủ và đáng tin cậy hay
chưa, lời buộc tội đã được đưa ra đúng đắn chưa, liệu còn có hành vi phạm tội nào bị bỏ
sót hoặc có người nào khác nữa phải được điều tra hay không, liệu trách nhiệm hình sự
cần được điều tra thêm và liệu hoạt động điều tra đã được tiến hành một cách hợp pháp
hay chưa (Điều 137 BLTTHS). VKS phải quyết định việc truy tố trong thời hạn 01
tháng kể từ thời điểm nhận được văn bản của cơ quan công an đề nghị truy tố và có thể
gia hạn nửa tháng trong trường hợp vụ án phức tạp hoặc quan trọng (Điều 138 Bộ luật
TTHS). VKS có thể trả lại hồ sơ nhiều nhất là hai lần cho cơ quan điều tra để điều tra bổ
sung. Hoạt động điều tra bổ sung phải được hoàn thành trong thời hạn 01 tháng (Điều
140 BLTTHS). Sau khi hoạt động điều tra bổ sung đã được tiến hành, nếu VKS quyết
định rằng kết quả điều tra không thỏa mãn các điều kiện để truy tố thì có thể từ chối truy
tố (Điều 140 BLTTHS). Cơ quan công an có thể yêu cầu xem xét lại quyết định này và
sau đó đề nghị VKS cấp trên xem xét lại quyết định xem xét lại đó (Điều 144 BLTTHS).
Với CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Trung Quốc hiện nay, nhiều vụ
án XHTD đã được xử lý nghiêm minh, những người có hành vi XHTD PNTEG ở Trung
Quốc đã được xử lý nghiêm minh. Tuy nhiên, những vụ án XHTD ở Trung Quốc được
phát hiện và đối mặt phán quyết của tòa án chỉ là phần nổi của núi băng trôi.
Hiện nay ở Trung Quốc có khoảng từ 8-12% trong tổng số 270 triệu trẻ em
trên toàn quốc là nạn nhân các hành vi tấn công tình dục, trong đó hoảng 2,7 triệu
trẻ em từng bị cư ng bức. Trong đoạn từ 2015-2018, Trung Quốc chỉ xét xử
11.519 vụ án liên quan tới XHTD trẻ em; trong số 317 vụ tấn công tình dục trẻ em
được truyền thông Trung Quốc đăng tải, thì có khoảng 30% vụ thủ phạm đã thực
hiện hành vi tội phạm với nhiều hơn một trẻ em; 70% thủ phạm có quen biết các
nạn nhân. Hầu hết vụ tấn công xảy ra trong trường học hoặc các địa điểm tổ chức
hoạt động của trẻ em [80].
77
Tuy vậy, khi bị lạm dụng tình dục, rất nhiều người lựa chọn phương án im lặng.
Ngay cả gia đình các em c ng thường chọn phương án im lặng để vượt qua, để nỗi đau
chìm xuống, bởi họ nghĩ đó là cách tốt nhất đối với tương lai của các em. Người ta ước
tính rằng cứ có “ hoảng 7 vụ lạm dụng tình dục trẻ em sẽ có 1 vụ người bị hại chọn cách
im lặng, không tố cáo” [80], chiềm tỷ lệ 14,3%. Tại các khu vực nông thôn, theo quan
niệm phong kiến và sự kỳ thị của người đời, số nạn nhân lựa chọn cách im lặng lại càng
nhiều hơn. Do đó trẻ em nông thôn c ng dễ bị tổn thương hơn.
Thực tế ở Trung Quốc, trong số hơn 50 triệu phán quyết của TAND từ năm
2010 đến 2017, chỉ có 34 tập trung vào quấy rối tình dục, trong đó, chỉ có hai
trường hợp được đưa ra bởi các nạn nhân nhưng cả hai trường hợp đó đều bị bác
bỏ vì thiếu bằng chứng. Gần 40% phụ nữ ở Trung Quốc cho biết họ đã trải qua các
vụ quấy rối tình dục tại nơi làm việc [251].
Tuy nhiên, phần lớn các trường hợp nạn nhân bị quấy rối tình dục gặp những
hó hăn trong việc đưa vụ án giải quyết vì thiếu chứng cứ xác thực để buộc tội đối
với người có hành xâm hại mình, đặc biệt trong trường hợp người quấy rối mình là
người sử dụng lao động (ông chủ) thì người lao động luôn phải đối mặt với những
bất lợi vì họ luôn ở vị trí yếu thế (so với người sử dụng lao động) do đó, họ luôn phải
đối mặt với tình trạng bị tuyên bố vi phạm hợp đồng sau khi họ bị chủ nhân sa thải vì
quấy rối tình dục. Nguyên nhân của thực tế trên là do pháp luật ở Trung Quốc còn
những hạn chế, mặc dù pháp luật Trung Quốc cấm quấy rối tình dục đối với phụ nữ tại
nơi làm việc, nhưng luật pháp thiếu một định nghĩa rõ ràng về quấy rối tình dục và các
điều khoản tạo ra một nguyên nhân cụ thể của hành động đối với quấy rối tình dục. Điều
này gây hó hăn cho nạn nhân tìm kiếm được những biện pháp và sự đền bù thoả đáng
đối vơi những tổn hại mà họ gặp phải.
2.3.2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam
Từ thực tiễn CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD của Trung Quốc, Nhật
Bản và Hàn Quốc, rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam như sau:
Một là, hệ thống thể chế pháp lý (HTPL) về QTCCL của NNN bị XHTD càng
được quy định rõ ràng, cụ thể thì sẽ giúp cho CCPL về bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD được vận hành tốt trong thực tế, từ đó bảo đảm tốt QTCCL của NNN bị XHTD
trong thực tế. Thực tế ở Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc cho thấy, các hành vi về
quấy rối tình dục chưa được quy định rõ ràng vì thế việc bảo đảm QTCCL của NNN bị
quấy rối tình dục gặp rất nhiều hó hăn trong thực tế. Bên cạnh đó, HTPL hình sự cần
bổ sung thêm những biện pháp chế tài nặng hơn, đủ sức răn đe đối với người có hành vi
XHTD, đặc biệt là XHTD đối với trẻ em gái, như thiến hoá học.
78
Hai là, đẩy mạnh cải cách hệ thống tư pháp là một trong những biện pháp để bảo
đảm tốt QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế. Thực tế ở các nước trên cho thấy,
việc cải cách hệ thống tư pháp nhằm hướng đến việc khắc phục tâm lý e ngại về sự công
tâm của thẩm phán và cán bộ tòa án và chi phí luật sư cao; phải tạo thiện cảm và niêm
tin thực sự của người dân vào sự liêm minh của toà án – với tư cách là cơ quan bảo vệ
công lý, bảo vệ QCN. Cùng với đó, thực hiện tốt việc công khai bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật của Tòa án; tăng cường sự giám sát của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối
với hoạt động xét xử của Tòa án. Trong mỗi bản án, từng quy phạm pháp luật đã được
Tòa án cụ thể hóa, áp dụng giải quyết trong từng vấn đề của vụ án, qua đó nâng cao
năng lực tiếp cận công lý của người dân.
Ba là, xây dựng và mở rộng mạng lưới các cơ quan, dịch vụ tư vấn và TGPL; phát
triển mạnh mẽ đội ng luật sư; đồng thời tăng cường khả năng tiếp cận với luật sư, các
cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có khả năng TGPL. Bên cạnh luật sư, các cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác có khả năng TGPL phải thông tin về các quy định của pháp luật, về
hoạt động tố tụng và các tin tức liên quan được các phương tiện truyền thông phổ biến
chính xác, kịp thời và đầy đủ, sẽ là kênh truyền tải có hiệu quả nhất để người dân tiếp
cận pháp luật, nâng cao dân trí; qua đó tạo sự chuyển biến cơ bản về ý thức tôn trọng và
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; đồng thời, người dân c ng biết thêm về tình hình
XHTD, các thủ đoạn mới của hành vi XHTD mới để nâng cao ý thức cảnh giác, tự bảo
vệ mình và phòng ngừa XHTD, đặc biệt trong bối cảnh các thủ phạm XHTD đang lợi
dụng sự tiến bộ khoa học công nghệ để xâm hại PNTEG.
Bốn là, phát huy tốt vai trò của các cơ quan dân cử và cơ quan thông tấn, báo chí
trong giám sát việc bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD. Các cơ quan dân cử phải thực
sự là cơ quan đại biểu của nhân dân, thực hiện tốt hoạt động kiểm tra, kiểm soát, chất
vấn hoặc thông qua hoạt động của các uỷ ban trực thuộc để CCPL bảo đảm QTCCL của
NNN bị XHTD vận hành tốt. Bên cạnh đó, các cơ quan thông tấn, báo chí phải đóng
góp tích cực vào việc kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan công quyền, trong đó có
hệ thống cơ quan tư pháp. Mối liên hệ chủ yếu của người dân với hoạt động tư pháp là
thông qua tin tức của các phương tiện thông tin đại chúng, vì thế, mặc dù cơ quan truyền
thông không phải là phương tiện duy nhất nhưng đóng vai trò quan trọng, là nguồn tin
tức và bình luận chủ yếu gây ảnh hưởng lớn nhất đối với các tầng lớp nhân dân.
Kết luận chương 2
Công lý cho NNN bị XHTD là lẽ phải họ cần được bảo vệ và sự công bằng, khách
quan trong quá trình thụ lý, giải quyết các vụ án XHTD của các cơ quan chức năng có
thẩm quyền; là các biện pháp chống các hành vi XHTD trái pháp luật của người khác,
79
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NNN bị XHTD và đưa ra các biện pháp chế tài
nghiêm minh theo pháp luật đối với người có hành vi XHTD, qua đó bảo vệ sự an toàn,
yên bình và tốt đẹp cho cộng đồng và xã hội. Trên cơ sở đó, QTCCL của NNN bị
XHTD được hiểu là khả năng của PNTEG bị XHTD tìm kiếm và đạt được sự đền bù,
khắc phục thoả đáng, hợp pháp những bất công, thiệt hại của bản thân và xã hội, c ng
như buộc người XHTD phải chịu trách nhiệm pháp l tương xứng với tính chất, mức độ
của HVVP gây ra thông qua hệ thống tư pháp chính thức, hệ thống giám sát và hệ thống
hỗ trợ, TGPL.
Để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD trong thực tế, nhà nước phải ban hành hệ
thống luật để ghi nhận đầy đủ QTCCL của NNN bị XHTD (hoạt động lập pháp); nhà
nước triển khai, thực thi pháp luật để hiện thực hoá QTCCL của NNN bị XHTD vào
trong thực tiễn (hoạt động hành pháp) và nhà nước bảo vệ QTCCL của NNN bị XHTD
bằng hoạt động tố tụng (hoạt động tư pháp). Ngoài ra, nhà nước còn phối hợp chặt chẽ
với các cơ quan, cá nhân, tổ chức khác trong xã hội để thực hiện tốt nghĩa vụ của mình
trong bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD. Theo đó, CCPL bảo đảm QTCCL của
NNN bị XHTD là chỉnh thể pháp lý bao gồm thể chế pháp lý, thiết chế và các nguồn lực
để vận hành cơ chế này trong thực tiễn theo quy định pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu
của PNTEG bị XHTD sử dụng các biện pháp pháp lý và xã hội để tìm kiếm sự khắc
phục, bồi thường thoả đáng những thiệt hại mà họ bị người có năng lực trách nhiệm
pháp lý thực hiện những hành vi xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm và tự do tình
dục của bản thân mình và trừng phạt thích đáng với người XHTD. Cơ chế này được cấu
thành bởi: hệ thống thể chế pháp lý về bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; hệ thống
thiết chế pháp lý về bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; hệ thống các nguồn lực để
vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.
Trên thực tế, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Trung Quốc, Hàn
Quốc và Nhật Bản đã cho chúng ta những bài học qu giá, đặc biệt là hoàn thiện HTPL,
cải cách hệ thống tư pháp, phát triển mạng lưới tư vấn, TGPL và phát huy vai trò của
các cơ quan giám sát. Kết quả đạt được trong chương này là cơ sở lý thuyết để NCS
phân tích, đánh giá thực trạng CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD trong thời
gian qua.
80
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ
CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM
3.1. NHỮNG ƯU ĐIỂM TRONG CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP
CẬN CÔNG LÝ CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2014-2019
3.1.1. Các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý
của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam đã được hình thành và từng bước
hoàn thiện
3.1.1.1. Thể chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị
xâm hại tình dục ở Việt Nam
Thể chế bảo đảm QTCCL cho NNN bị XHTD ở Việt Nam những năm qua có
những ưu điểm sau:
Thứ nhất, thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD từng bước được
hoàn thiện theo hướng ngày một toàn diện, đồng bộ và thống nhất hơn.
Một là, về các quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục của PNTEG.
Thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam từng bước
hoàn thiện các quy định về các hành vi XHTD và các hình phạt tương ứng. Nếu như,
trước hi có BLHS năm 1985, TAND x t xử các vụ án XHTD căn cứ theo “án lệ, theo
đường lối chính sách của Nhà nước” [102, tr. 44] và hướng dẫn của TAND tối cao, như
Chỉ thị số 1024 ngày 15/6/1960 của TAND tối cao hướng dẫn xử lý tội hiếp dâm nhằm
khắc phụ huynh hướng coi nhẹ tính chất nghiêm trọng của loại tội này, nhất là khuynh
hướng coi nhẹ tội hiếp dâm trẻ em [102, tr. 44]. Trong các năm từ 19 1 đến 1966,
TAND tối cao rút kinh nghiệm xử lý tội hiếp dâm, đồng thời hướng dẫn việc xử lý các
tội cư ng dâm, tội dâm ô. Từ cơ sở thực tiễn đó, ngày 11/5/19 7 của TAND tối cao đã
ban hành Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội phạm
khác về mặt tình dục số 29/HS2, trong đó đề cập đến bốn hình thức phạm tội XHTD,
đó là: hiếp dâm, cư ng dâm, giao cấu với người dưới 16 tuổi và dâm ô. Đến năm 19 8,
trong báo cáo tổng kết năm, TAND tối cao bổ sung thêm hình thức dâm ô mới xâm
phạm thuần phong mỹ tục và trật tự trị an, đó là đồng tình dâm ô, bao gồm cả giao cấu
nơi cộng cộng hoặc có đông người tham gia. Như vậy, trong thời gian này, thể chế pháp
lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD quy định 04 hành vi XHTD: hiếp dâm, cư ng
dâm, giao cấu với người dưới 16 tuổi và dâm ô. Đến năm 1985, BLHS đầu tiên của Việt
Nam được ban hành, sau đó được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và
81
1997 đã quy 05 hành vi XHTD và các hình phạt đối với các hành vi này: hiếp dâm
(Điều 112); cư ng dâm (Điều 113); giao cấu với người dưới 16 tuổi (Điều 114); hiếp
dâm trẻ em (Điều 112a); Tội cư ng dâm người chưa thành niên (Điều 113a). Tiếp đó,
BLHS năm 1999 được ban hành và sửa đổi, bổ sung năm 2009 và BLSH năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) tiếp tục quy định các quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục
của PNTEG, trong đó quy định 06 hành vi XHTD: hiếp dâm; cư ng dâm; hiếp dâm trẻ
em; cư ng dâm trẻ em; dâm ô đối với trẻ em; giao cấu với trẻ em. Đặc biệt BLSH năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có quy định cụ thể về các hành vi XHTD đối với
PNTEG, trong đó có 07 hành vi XHTD: hiếp dâm; hiếp dâm người dưới 16 tuổi (trước
đây quy định là hiếp dâm trẻ em); cư ng dâm; cư ng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi (trước đây quy định là cư ng dâm người chưa thành niên); giao cấu hoặc thực
hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (trước đây
quy định là giao cấu với người dưới 16 tuổi); dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (trước
đây quy định dâm ô đối với trẻ em); sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích hiêu
dâm (quy định hoàn toàn mới).
Để xác định hành vi XHTD, trong giai đoạn từ 2014 đến 10/2019, các cơ quan
chức năng vẫn tiếp tục căn cứ theo Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp
dâm và một số tội phạm khác về mặt tình dục số 329/HS2 ngày 11/5/1967 của TAND
tối cao và Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 02/01/1998
của TAND tối cáo, VKSND tối cao và Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) hướng dẫn áp
dụng một số quy định của luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS. Đến ngày
20/9/2019, để giải thích rõ hơn cho các quy định về các hành vi liên quan đến XHTD,
Hội đồng thẩm phán TANDTC ban hành Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp
dụng một số quy định về các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của BLHS và việc
xét xử vụ án XHTD người dưới 18 tuổi (có hiệu lực từ ngày 05/11/2019).
Ngoài ra, các hành vi XHTD đối với trẻ em còn được quy định trong Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 và Luật Trẻ em năm 201 ; các hành vi XHTD
còn được quy định trong Luật Bình đẳng giới năm 200 , Luật Phòng chống bạo lực gia
đình năm 2007, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2002 và 2014; Bộ luật Lao động năm
2012 và năm 2019 còn quy định cấm các hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc đối
với người lao động. Để phòng, chống các hành vi quấy rối tình dục, khoản 2, Điều 8 Bộ
luật Lao động năm 2012 đã quy định “cấm quấy rối tình dục tại nơi làm việc” [127] và
khoản 1 Điều 18 quy định cấm các hành vi quấy rối tình dục đối với lao động là người
giúp việc gia đình [127]. Ngoài ra, điểm c khoản 1 Điều 37 của Luật này còn quy định
người lao động có quyền đơn phương chấm đứt hợp đồng lao động nếu bị quấy rối tình
82
dục [127]; người lao động là người giúp việc gia đình có nghĩa vụ tố cáo với cơ quan có
thẩm quyền nếu người sử dụng lao động có hành vi quấy rối tình dục (khoản 4 Điều
182) [127]. Ngoài ra, Luật Trẻ em năm 201 c ng quy định, trẻ em có quyền bất khả
xâm phạm tình dục: “Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị xâm
hại tình dục (Điều 25)” [135], nghiêm cấm mọi hành vi xâm hại tình dục (Khoản Điều
6) [135]. Bên cạnh đó, Luật Bình đẳng giới năm 200 c ng quy định những hành vi bị
cấm, đó là “Bạo lực trên cơ sở giới (Khoản , Điều 10)” [124], trong đó bao gồm cả
hành vi bạo lực tình dục và Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định
những hành vi bạo lực gia đình, đó là “Cư ng ép quan hệ tình dục; Cư ng ép tảo hôn;
cư ng ép kết hôn .. (điểm đ, e hoản 1, Điều 2)” [126]; Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 quy định cấm “Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để … xâm
phạm tình dục (điểm i khoản 2 Điều 5)” [131]. Để phòng, chống các hành vi quấy rối
tình dục tại nơi làm việc, Bộ luật Lao động năm 2019 (có hiệu lực ngày 01/01/2021) đã
đưa ra hái niệm về hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc, đó là “hành vi có tính
chất tình dục của bất kỳ người nào đối với người khác tại nơi làm việc mà hông được
người đó mong muốn hoặc chấp nhận (khoản 9, Điều 3)” [139], đây là lần đầu tiên pháp
luật nước ta đưa ra định nghĩa về hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm.
Mặc dù trong PLHS Việt Nam hiện nay, hành vi quấy rối tình dục chưa được xem
là tội phạm tình dục, nhưng đây là hành vi xâm hại đến danh dự, nhân phẩm của con
người, vì thế cá nhân nào có hành vi quấy rối tình dục có thể bị xử lý vi phạm hành
chính theo quy định của nghị định 1 7/201 /NĐ-CP. Ngoài ra, để xử lý với những hành
vi của cá nhân, tổ chức tuyên truyền, ích động, cung cấp, chia sẻ, lưu trữ, sử dụng
thông tin cổ súy dâm ô, đồi truỵ trên môi trường mạng internet hoặc cung cấp dịch vụ
trò chơi điện tử G1 có nội dung kịch bản có hình ảnh hoặc âm thanh khêu gợi, kích thích
dâm ô, trụy lạc, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 72/201 /NĐ-CP quy định về quản
lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng; Nghị định số
174/201 /NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn
thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện và Nghị định số 15/2020/NĐ-CP
Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô
tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử (có hiệu lực từ 15/4/2020).
Hai là, về quy định chức năng, nhiệm vụ các các cơ quan chức năng trong bảo
đảm QTCCL của NNN bị XHTD.
Nếu như trước hi BLSH năm 1985 được ban hành, chức năng, nhiệm vụ các các
cơ quan chức năng trong bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD chưa được quy định rõ
ràng, thì đến BLSH năm 1985 (sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997)
83
đã quy định tương đối rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền bất khả xâm phạm và tự do về tình dục
của phụ nữ và trẻ em, đó là: “Các cơ quan Công an, Kiểm sát, Toà án, Tư pháp và Thanh
tra có trách nhiệm thi hành đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình, đồng thời hướng dẫn,
giúp đ các cơ quan hác của Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân đấu tranh chống
và phòng ngừa tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm tội” (khoản 1, Điều 4).
Tiếp tục cụ thể hoá các quy định này, Hiến pháp năm 1992 tiếp tục quy định chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan này trong bảo vệ quyền bất khả XHTD của PNTEG.
Đặc biệt Nghị quyết số 51/2001/QH10 của QH ngày 25/12/2001 về sửa đổi, bổ sung
một số điều Hiến pháp năm 1992, trong đó bỏ chức năng iểm soát chung của VKSND,
thay vào đó, VKSND thực hiện quyền công tố và kiểm soát các hoạt động tư pháp:
“VKSND tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần
bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các VKSND địa
phương, các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định” (Điều 1).
Sau khi Hiến pháp năm 201 có hiệu lực, chức năng, nhiệm vụ của TAND,
VKSND, các cơ quan điều tra, thi hành án được tổ chức và thực hiện theo Hiến pháp
năm 201 , Luật Tổ chức TAND năm 2014, Luật Tổ chức TAND năm 2014, Luật Tổ
chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và 2019 và
các văn bản hướng dẫn. Bên cạnh đó, để xử lý HVVP hành chính có liên quan đến
XHTD, Nghị định 1 7/201 /NĐ-CP; Nghị định số 72/201 /NĐ-CP; Nghị định số
174/201 /NĐ-CP và Nghị định số 15/2020/NĐ-CP quy định các cơ quan sau có thẩm
quyền xử lý: UBND các cấp, công an nhân dân, Thanh tra, quản lý thị trường.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, để thụ lý vụ án XHTD nói chung và
XHTD PNT G nói riêng, các cơ quan chức năng thực hiện những nhiệm vụ sau:
(1) Cơ quan điều tra thực hiện các nhiệm vụ được quy định trong Điều 8 Luật tổ
chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015: “Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố; tiếp nhận hồ sơ vụ án do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động Điều tra chuyển giao; tiến hành Điều tra các tội phạm, áp dụng
mọi biện pháp do luật định để phát hiện, xác định tội phạm và người thực hiện hành vi
phạm tội” [132]; “lập hồ sơ, đề nghị truy tố; tìm ra nguyên nhân, Điều kiện phạm tội và
yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa”
[132]. Hệ thống cơ quan điều tra, bao gồm: “Cơ quan Điều tra của Công an nhân dân; cơ
quan Điều tra trong Quân đội nhân dân; Cơ quan Điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
84
tối cao (Điều 4)” [132] và “một số cơ quan hác được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động Điều tra (Điều 9)” [132].
(2) VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo khoản 1, Điều 2 Luật Tổ chức
VKSND năm 2014: “VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động
tư pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp
và pháp luật, bảo vệ QCN, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” [130].
(3) TAND thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo Khoản 1 Điều 2 Luật Tổ chức
TAND năm 2014: “TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực
hiện quyền tư pháp” [129], có nhiệm vụ “bảo vệ công lý, bảo vệ QCN, quyền công dân,
bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung
thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc
sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác” [129].
(4) Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, cơ quan thi hành án tiến hành thi hành án
theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2010, hiện nay là Luật Thi hành án
hình sự năm 2019.
Ngoài ra, để hỗ trợ cho NNN bị XHTD, Luật TGPL năm 200 quy định các tổ
chức thực hiện TGPL là Trung tâm TGPL nhà nước và các tổ chức tham gia TGPL,
trong đó các tổ chức tham gia TGPL bao gồm: Tổ chức hành nghề luật sư; Tổ chức tư
vấn pháp luật thuộc tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội-nghề nghiệp (sau đây gọi chung là tổ chức tư vấn pháp luật). Trung tâm
TGPL nhà nước do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định
thành lập, đây là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp (Điều 13, 14). Tiếp tục các nội
dung này, Luật TGPL năm 2017 còn quy định cụ thể hơn: Tổ chức thực hiện TGPL bao
gồm Trung tâm TGPL nhà nước (đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Tư pháp, do
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập) và tổ chức tham gia TGPL (gồm tổ chức ký hợp
đồng thực hiện TGPL (tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật ký kết hợp
đồng thực hiện TGPL với Sở Tư pháp theo quy định) và tổ chức đăng tham gia
TGPL (gồm tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật đăng tham gia TGPL
theo quy định)). Sở Tư pháp công bố danh sách các tổ chức thực hiện TGPL tại địa
phương, đăng tải trên trang thông tin điện tử của Sở Tư pháp và gửi Bộ Tư pháp để tổng
hợp đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp (Điều 10, 11,12).
85
Thêm vào đó, để các cơ quan chức năng thực hiện tốt quy định pháp luật về bảo
đảm QTCCL của NNN bị XHTD, các cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng giám
sát đã được Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị xác định: “Tăng
cường sự giám sát của QH, HĐND, của các tổ chức xã hội và công dân đối với công tác
tư pháp” [13], nhằm góp phần khắc phục trường hợp oan, sai và bỏ lọt tội phạm, vì thế,
“Cơ quan nhà nước, Uỷ ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại
BLTTHS năm 200 (Điều 2) và sau đó BLTTHS năm 2015 (Điều 33) đã quy định:
biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng” [123]; “Nếu phát hiện những hành vi trái pháp luật của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thì cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử có
quyền yêu cầu, Uỷ ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền
kiến nghị với cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định
của Bộ luật này. Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải xem xét, giải quyết và
trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật” [123].
Ba là, về quy định trình tự, thủ tục thụ lý và giải quyết các hành vi XHTD PNTEG.
Để thụ lý và giải quyết các vụ án XHTD PNT G, các cơ quan chức năng căn cứ
theo các quy định về tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, hởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án nói chung, tội phạm liên quan đến XHTD nói riêng.
Lần đầu tiên trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự
nói chung và các vụ án XHTD PNTEG nói riêng được quy định trong BLTTHS năm
1988, trong đó, từ Điều 2 đến Điều 25 quy định về các nguyên tắc trong quá trình thụ lý
và giải quyết các vụ án XHTD phụ nữ và trẻ em: bảo đảm pháp chế XHCN trong
TTHS; tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân; bảo đảm quyền bình đẳng
của mọi công dân trước pháp luật; bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân; bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân; bảo
đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của
công dân; việc tham gia TTHS của các tổ chức xã hội và công dân; sự phối hợp giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng với các cơ quan khác của Nhà nước; không ai có thể bị coi là
có tội, nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của Toà án; xác định sự thật của vụ án;
bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự;
bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia TTHS; phát hiện và khắc
phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội; thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm nhân dân
tham gia; thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; toà
án xét xử tập thể; xét xử công khai; bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án; tiếng nói và
86
chữ viết dùng trong TTHS; giám đốc việc xét xử; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
TTHS; bảo đảm quyền khiếu nại và tố cáo của công dân đối với hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng; bảo đảm hiệu lực của bản án và quyết định của Toà án.
Sau đó, BLTTHS năm 200 tiếp tục quy định những nội dung trên và bổ sung
thêm những nguyên tắc mới trong trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án hình sự: thực hành quyền công tố của VKSND; giải quyết vấn đề dân sự trong
vụ án hình sự; giám sát của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; thực hiện chế độ hai cấp xét xử; bảo
đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm
quyền tiến hành TTHS gây ra; v.v.. Đến BLTTHS năm 2015, còn bổ sung thêm nguyên
tắc: suy đoán vô tội (Điều 13); không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm (Điều 14);
tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26); v.v.. Các quy định này hiện đang được
quy định trong BLHS, BLTTHS; Nghị định 5 /2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều của Luật trẻ em; Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-
BCA-BQP của VKSNDTC, Bộ Công an và Bộ Quốc phòng quy định việc phối hợp
giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS
năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; Quyết
định số 2 8/QĐ-VKSTC ngày 28/6/2017 ban hành kèm theo Quy định tạm thời về quản
lý, theo dõi việc thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và các
vụ án hình sự tại VKSNDTC; Luật Tổ chức TAND; Luật Tổ chức VKSND năm 2014;
Quyết định số 15/QĐ-VKSTC ngày 09/01/2018 quyết định ban hành mẫu văn bản tố
tụng, văn bản nghiệp vụ thực hiện trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc
khởi tố, điều tra và truy tố; v.v… Theo đó các quy định này, các cơ quan, tổ chức có
trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm bao gồm: cơ quan điều tra; cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Viện kiểm sát các cấp; Các cơ
quan, tổ chức hác được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 145 BLTTHS năm
2015 gồm: Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an; Tòa án các cấp;
Cơ quan báo chí và các cơ quan, tổ chức khác.
Bên cạnh đó, các quy định pháp luật liên quan đến thủ tục pháp l trong giải quyết vụ
việc XHTD đang được quy định tại BLTTHS 2015; Thông tư liên tịch số 0 /2018/TTLT-
VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH; Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-
VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 quy định việc phối hợp giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của BLTTHS về trả hồ sơ điều
tra bổ sung; bên cạnh đó, các quy định pháp luật liên quan đến bảo mật thông tin, bí mật
riêng tư của trẻ em, hỗ trợ, bảo vệ phụ nữ và trẻ em là nạn nhân, nhân chứng của các vụ
87
việc XHTD hiện được quy định cụ thể tại các điều , 21, 25, 2 , 27, 28, 29, 0, 49, 50,
51, 52, 5 , 54, 70, 71 và 72 Luật Trẻ em năm 201 ; Nghị định số 5 /2017/NĐ-CP ngày
9/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều Luật Trẻ em.
Để bảo vệ NNN bị XHTD, đặc biệt là nạn nhân là người dưới 18 tuổi, Luật Tổ
chức TAND 2014 và Luật Tổ chức VKSND 2014 đã quy định về thành lập Toà gia đình
và người chưa thành niên để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người tham gia TTHS
dưới 18 tuổi. Theo Thông tư số 01/2016/TT-CA ngày 21/01/2016 của TAND tối cao
quy định, tòa gia đình và người chưa thành niên giải quyết các vụ án hình sự mà bị cáo
là người dưới 18 tuổi hoặc các vụ án hình sự mà bị cáo là người đã đủ 18 tuổi trở lên
nhưng người bị hại là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần
sự hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do không có môi trường gia đình lành mạnh như
những người dưới 18 tuổi hác (điểm a, khoản Điều ). Thêm vào đó, Thông tư số
02/2018/TT-TANDTC quy định khi xét xử có người bị hại dưới 18 tuổi: phòng xử án
phải được bố trí thân thiện, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi theo đúng
quy; thẩm phán mặc trang phục làm việc hành chính của Tòa án nhân dân (không mặc
áo choàng); đối với những vụ án có người bị hại là người dưới 18 tuổi bị XHTD, bị bạo
hành hoặc bị mua bán thì Tòa án phải xét xử ín; đối với những vụ án khác có yêu cầu
của người dưới 18 tuổi, người đại diện của họ hoặc để giữ bí mật đời tư, bảo vệ người
dưới 18 tuổi thì Tòa án c ng có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai; không xét
xử lưu động đối với vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi (Điều
7); ngoài ra, Điều 9 còn quy định: Người bị hại là người dưới 18 tuổi hoặc cha mẹ,
người đại diện hợp pháp, người giám hộ của họ có quyền nhờ những người sau đây bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại là người dưới 18 tuổi: luật sư; trợ giúp
viên pháp lý; bào chữa viên nhân dân; người khác; Tòa án phải thông báo cho người bị
hại là người dưới 18 tuổi hoặc cha mẹ, người đại diện hợp pháp, người giám hộ của họ
về quyền nhờ những người quy định này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị
hại là người dưới 18 tuổi. Trường hợp họ không lựa chọn được người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho người bị hại nhưng có văn bản đề nghị thì Tòa án yêu cầu Đoàn
luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sư cử luật sư hoặc Trung tâm TGPL cử Trợ
giúp viên pháp lý, luật sư hoặc Ủy ban MTTQ Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt
trận cử bào chữa viên nhân dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại là
người dưới 18 tuổi. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại là người
dưới 18 tuổi có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, có mặt hi cơ quan tiến
hành tố tụng lấy lời khai của người mà mình bảo vệ; có quyền kháng cáo phần bản án,
quyết định của Tòa án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ;
88
có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch,
người dịch thuật, người định giá tài sản theo quy định của BLTTHS.
Trong quá trình xét xử vụ án, Hội đồng xét xử phải cách ly người dưới 18 tuổi bị
XHTD với bị cáo; người bị hại tham gia phiên tòa ở phòng cách ly; thông tin về diễn
biến phiên tòa c ng như việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ được truyền qua hệ
thống truyền hình trực tuyến có âm thanh hoặc được thực hiện bằng phương thức khác
nhưng phải bảo đảm cho họ theo dõi đầy đủ diễn biến phiên tòa và thực hiện được
quyền, nghĩa vụ của mình. Người đại diện, người giám hộ, chuyên gia hoặc cán bộ tâm
lý - xã hội, người làm công tác bảo vệ trẻ em phải có mặt ở phòng cách ly để hỗ trợ
người bị hại tham gia phiên tòa (Điều 10). Bên cạnh đó, Thông tư liên tịch số
06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH về phối hợp thực hiện
một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi còn quy
định: đối với vụ án có người dưới 18 tuổi bị XHTD thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải phối hợp chặt chẽ với nhau và phối
hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan ngay từ khi phát hiện nguồn tin về
tội phạm; khẩn trương kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ, khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử, bảo đảm giải quyết vụ án, vụ án nhanh chóng, kịp thời, trong thời gian ngắn
nhất” (Điều 13); Trường hợp lấy lời khai người dưới 18 tuổi bị XHTD thì phải ưu tiên
địa điểm lấy lời khai tại nơi cư trú của người đó; nếu không có nơi cư trú thì phải tiến
hành tại cơ sở chăm sóc trẻ em theo quy định của pháp luật; việc lấy lời khai của họ phải
được tiến hành ngay sau khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm (Điều 14).
Ngoài ra, các quy định liên quan đến đảm bảo quyền được hỗ trợ và TGPL cho
NNN bị XHTD, như: người được TGPL; tổ chức thực hiện TGPL; người thực hiện
TGPL; hoạt động TGPL; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với hoạt động
TGPL; v.v.. được quy định chủ yếu trong Luật TGPL năm 200 và tiếp tục được quy
định trong Luật TGPL năm 2017. Thêm vào đó, để đảm bảo QTCCL của NNN bị
XHTD, HTPL Việt Nam còn có nhiều quy định liên quan đến tổ chức và vận hành của
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ đảm bảo
QTCCL của NNN bị XHTD, như: Hiến pháp 201 , Luật Tổ chức TAND năm 2014,
Luật Tổ chức VKSND năm 2014, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, Luật
Hoạt động giám sát của QH và HĐND năm 2015, Luật Thanh tra năm 2010, Luật Tổ
chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), Nghị định số 123/201 /NĐ-CP
của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ
quan ngang Bộ và các văn bản hướng dẫn, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2019), v.v.. (Bảng . , Phụ lục 2). Trong đó quy định
89
rõ chức năng, nhiệm của của các cơ quan này và sự phối hợp giữa các cơ quan với nhau
trong thụ lý, xử lý một vụ án XHTD; quy định việc giám sát đối với các cơ quan trong
việc thực hiện các nhiệm vụ này.
Như vậy, các quy định của pháp luật đã bao hàm tất cả các nội dung và các hía
cạnh liên quan đến việc bảo vệ quyền như các quy định về tội, hung hình phạt, các quy
định liên quan đến thủ tục tố tụng, việc bảo vệ nhân chứng và nạn nhân, các quy định
pháp luật liên quan đến trợ giúp tư vấn pháp l , các quy định cho sự vận hành của các
thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD. Việc ghi nhận các quyền và nghĩa vụ
trong HTPL tạo ra huôn hổ để đảm bảo quyền trong thực tế bởi đây là cơ sở để các
NNN tìm iếm sự đền bù, hắc phục một cách thỏa những thiệt hại của bản thân do
hành vi XHTD gây ra. Các quy định trong HTPL nước ta đã công nhận QCN là các
quyền tự nhiên vốn có; các vấn đề liên quan đến QTCCL của PNTEG bị XHTD đã
được lồng gh p vào trong nhiều chính sách và các văn bản quy phạm pháp luật. Các quy
định này đã tương đối hoàn thiện x t trên nhiều hía cạnh như tính ổn định, sự phù hợp,
tính hả thi hi áp dụng trong điều kiện KT-XH ở Việt Nam hiện nay.
Bốn là, quy định những hành vi và biện pháp xử l đối với những hành vi cản trở
việc thực hiện QTCCL của NNN bị XHTD.
Những hành vi và biện pháp xử l đối với những hành vi cản trở việc thực hiện
QTCCL của NNN bị XHTD được quy định tại Chương XXXIII BLTTHS hiện hành và
Thông tư liên tịch số 02/2018/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT.
Ngoài ra, Thông tư liên tịch số 0 /2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-
BLĐTBXH còn quy định: Khi nhận được khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định tố
tụng trái pháp luật của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng là
người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền giải quyết, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, người có thẩm quyền phải phân loại, phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan giải quyết kịp thời và gửi văn bản giải quyết cho người đã hiếu nại, tố cáo
theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Chương XXXIII BLTTHS hiện hành và Thông
tư liên tịch số 02/2018/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT. Trường
hợp khiếu nại, tố cáo đối với lệnh, quyết định bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp,
tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử thì VKSND, TAND phải giải
quyết ngay trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được khiếu nại, tố cáo. Nếu cần phải có
thời gian để xác minh làm rõ thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không
được quá 03 ngày kể từ khi nhận được khiếu nại, tố cáo (Điều 17).
90
Thứ hai, thể chế pháp lý bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD từng bước được
hoàn thiện phù hợp với xu hướng phát triển KT-XH và hội nhập quốc tế.
Một là, để bảo vệ quyền của PNTEG theo tiêu chuẩn của hệ thống Luật nhân
quyền quốc tế, Việt Nam đã sớm phê chuẩn và tham gia CEDAW, CRC c ng như
ICCPR. Với tư cách là quốc gia thành viên của LHQ, Việt Nam đã thông qua một số
tuyên bố và nghị quyết liên quan về ứng phó với bạo lực nhằm vào phụ nữ như: Tuyên
bố của Liên Hợp Quốc về Xóa bỏ Bạo lực với Phụ nữ năm 199 ; Tuyên bố và Cương
lĩnh hành động Bắc Kinh năm 1995; Tài liệu các chiến lược mẫu cập nhật và biện pháp
thực tin về xóa bỏ bạo lực đối với Phụ nữ trong lĩnh vực phòng ngừa tội phạm và tư
pháp hình sự năm 2010; Kết luận của Phiên họp thứ 57 Ủy ban Địa vị phụ nữ (CSW57);
Tuyên bố về những nguyên tắc công l cơ bản dành cho nạn nhân của các tội và việc
lạm dụng quyền lực; Hướng dẫn tư pháp trong các vụ án liên quan đến nạn nhân trẻ em
và nhân chứng về tội phạm và Các nguyên tắc và hướng dẫn của LHQ về Tiếp cận
TGPL trong các hệ thống tư pháp hình sự; v.v.. Ở hu vực Đông Nam , Việt Nam
c ng cam ết thực hiện Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực với phụ nữ tại khu vực ASEAN
năm 2004 của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam (AS AN); Tuyên bố năm 201 về
Xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và đối với trẻ em ở ASEAN, và Kế hoạch hành động khu
vực về chấm dứt bạo lực đối với PNTEG năm 2015. Đây chính là các văn iện pháp l
quốc tế quan trọng giúp Việt Nam xây dựng, hoàn thiện CCPL đảm bảo quyền của phụ
nữ và trẻ em nói chung c ng như QTCCL của NNN bị XHTD nói riêng.
Hai là, nhằm tích cực hoàn thiện HTPL về bảo đảm QCN theo tiêu chuẩn hệ thống
Luật nhân quyền quốc tế, Việt Nam đã ban hành Hiến pháp năm 201 có hiệu lực ngày
01/01/2014, đây là bản Hiến pháp có sự phân biệt tương đối rạch ròi giữa QCN và
quyền công dân, trong đó quy định 20 nhóm quyền thuộc về QCN, 16 nhóm quyền
thuộc về quyền công dân. Đặc biệt, Hiến pháp mới này đã thể hiện sự tiến bộ vượt bậc
về tư duy lập hiến trong bảo vệ QCN, quyền công dân, đó đã chuyển từ tư duy “trao
quyền” sang tư duy “thừa nhận và bảo đảm quyền”. Trên cơ sở đó, trong giai đoạn 2014
- 2019, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam được vận hành trên cơ
sở pháp lý của Hiến pháp năm 201 , Luật Tổ chức TAND năm 2014, Luật Tổ chức
TAND năm 2014, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 và các văn bản pháp
luật hác có liên quan, đặc biệt là sự chuyển tiếp từ BLHS năm 1999, BLTTHS năm
200 sang BLHS năm 2015, BLTTHS năm 2015.
Ba là, các quy định pháp luật liên quan đến quy trình tố tụng tư pháp của nước ta
đã được đổi mới theo hướng kết hợp giữa tố tụng thẩm vấn và tố tụng tranh tụng nhằm
tăng tính dân chủ, minh bạch trong hoạt động tư pháp: Hiến pháp năm 201 đã hiến
91
định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Khoản 5 Điều 103), từ đó,
BLTTHS năm 2015 quy định “Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả
kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa” (Điều 26). Những quy
định mới này nhằm góp phần vào việc tăng cường chất lượng hoạt động xét xử các vụ
án, trong đó bao gồm cả vụ án XHTD, qua đó x t xử đúng người, đúng tội, trừng trị
nghiêm minh người có hành vi XHTD và đền bù thoả đáng những tổn thương mà NNN
bị XHTD phải gánh chịu.
Bốn là, các quy định pháp luật hiện hành đã mở rộng đối tượng được TGPL, trong
đó bao gồm cả NNN bị XHTD. nếu NNN bị XHTD được Luật TGPL năm 200 quy
định gồm: “trẻ em không nơi nương tựa; người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt hó hăn; người nghèo; người có công với cách mạng
(Điều 10)” [125], thì Luật TGPL năm 2017 đã mở rộng đối tượng, đó là: “người cao tuổi
và người khuyết tật có hó hăn về tài chính, trẻ em, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi (Điều 7)” [137]. Như vậy, theo quy định của Luật mới này, đa số PNT G bị XHTD
là những đối tượng được TGPLmà không phải trả các chi phí.
Hệ thống pháp luật hiện tại đã tạo điều kiện tốt hơn (so với giai đoạn trước) để các
tổ chức tham gia vào quá trình tư phạm hình sự nhằm đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích
chính đáng của nạn nhân nói chung, NNN bị XHTD nói riêng, do đó QTCCL của họ
ngày càng được cải thiện hơn trong thực tế.
3.1.1.2. Thiết chế bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại
tình dục ở Việt Nam
Cùng với quá trình cải cách nhà nước Việt Nam, các thiết chế bảo đảm QTCCL
của NNN bị XHTD ở Việt Nam có những ưu điểm sau:
Thứ nhất, các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam tiếp tục
được hoàn thiện theo hướng tăng cường khả năng thực thi công lý của NNN bị XHTD.
Đến nay nước ta đã thiết lập được một hệ thống tương đối toàn diện các thiết chế
tư pháp phục vụ cho việc điều tra, truy tố và xét xử đảm bảo sự đền bù và hắc phụ hậu
quả cho các NNN bị XHTD. Hệ thống các cơ quan này hoạt động công hai theo các
quy định của Hiến pháp và pháp luật và các bên tham gia ban hành, điều này đảm bảo
cho các quy định của pháp luật được thực thi trong cuộc sống. Nếu như trước khi Hiến
pháp năm 201 được ban hành, hệ thống TAND, VKSND được tổ chức thành:
TANDTC, VKSNDTC; TAND, VKSND cấp tỉnh; TAND, VKSND cấp huyện; TAND,
VKSND quân sự thì từ khi thực hiện Hiến pháp năm 201 , bổ sung thêm TAND,
VKSND cấp cao đặt tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, theo
Hiến pháp mới và Luật Tổ chức TAND năm 2014 và các văn bản hướng dẫn, Tòa gia
92
đình và người chưa thành niên là toà chuyên trách được thành lập trực thuộc TAND cấp
cao, cấp tỉnh và cấp huyện. Đến hết năm 2019, cả nước đã thành lập 8 Toà gia đình và
người chưa thành niên [170], điều này đáp góp phần quan trọng trong việc xét xử các vụ
án XHTD trẻ em gái, quá đó tăng cường khả năng thực thi công lý của NNN bị XHTD.
Thứ hai, các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam được tổ
chức và đi vào hoạt động ổn định, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu thụ lý và giải quyết các vụ
án liên quan đến XHTD.
Các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam bao gồm: TAND,
VKSND, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án, cơ quan giám sát và các cơ quan TGPL.
Vị trí, vai trò và tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp đặc biệt là các cơ quan tư pháp
chính thức ngày càng được hoàn thiện nhằm đảm bảo tốt hơn vai trò điều tra, truy tố, x t
xử, bảo vệ công l cho PNTEG bị XHTD. Hiến pháp năm 201 ; Luật Tổ chức TAND
năm 2014 ra đời đã xác định rõ hơn vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của TAND. Hệ
thống TAND đã được cải tiến từ ba cấp thành hệ thống TAND bốn cấp, điều này đã
tăng thẩm quyền xét xử cho tòa án cấp cơ sở. Các tòa án chuyên trách ra đời giúp cho hệ
thống tòa án hoạt động một cách chuyên nghiệp hơn; mô hình tòa án gia đình và người
chưa thành niên dần được hình thành từ TAND cấp huyện đến TAND cấp cao, điều này
đặc biệt có nghĩa trong hoạt động đảm bảo quyền cho NNN bị XHTD bởi nạn nhân
chủ yếu của tội danh này vẫn là trẻ em gái còn rất nhỏ tuổi.
Bên cạnh đó, VKSND c ng xây dựng mô hình tổ chức theo hướng phù hợp với tổ
chức TAND và quy định pháp luật hiện hành; tổ chức các cơ quan điều tra bước đầu
được sắp xếp lại theo hướng thu gọn đầu mối. Việc tổ chức các cơ quan điều tra theo mô
hình tổ chức hiện nay có ưu điểm là: được tổ chức chuyên sâu theo nhóm tội phạm, kết
hợp hoạt động trinh sát với hoạt động điều tra, khắc phục được tình trạng án tồn đọng
kéo dài; tập trung nhiệm vụ điều tra tạo cơ sở để cơ quan điều tra cấp trên có điều kiện
tập trung lực lượng, phương tiện điều tra các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, liên
tỉnh, xuyên quốc gia; huy động đầy đủ và nhanh nhất lực lượng, phương tiện khi có yêu
cầu điều tra vụ án, đáp ứng tốt nhất yêu cầu khẩn trương, cấp bách của hoạt động điều
tra. Để bổ trợ và iểm sát hoạt động của cơ quan điều tra thuộc Bộ công an, Cơ quan
điều tra VKSND tối cao c ng đã từng bước được củng cố, kiện toàn và tăng cường.
Một là, các thiết chế tư pháp chính thức.
Để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, hệ thống thiết chế tư pháp chính thức ở
Việt Nam bao gồm: TAND các cấp, VKSND các cấp, cơ quan điều tra và cơ quan thi
hành án hình sự.
(1) TAND, VKSND các cấp.
93
TAND các cấp bảo đảm QTCCL của phụ nữ và trẻ em bị XHTD thông qua hoạt
động xét xử HVVP quyền tự do và bất khả xâm phạm tình dục của PNTEG và xét xử
các hành vi cản trở thực hiện QTCCL của phụ nữ và trẻ em bị XHTD. VKSND các cấp
bảo đảm QTCCL của phụ nữ và trẻ em bị XHTD thông qua hoạt động thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với việc xử lý các HVVP quyền tự do và bất
khả xâm phạm tình dục của PNTEG và hành vi cản trở thực hiện QTCCL của phụ nữ và
trẻ em bị XHTD. Theo quy định của pháp luật hiện hành, VKSND các cấp thực hiện
việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội XHTD và cản trở việc thực hiện
QTCCL của phụ nữ và trẻ em bị XHTD; đồng thời kiểm sát tính hợp pháp của các hành
vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện
ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
trong suốt quá trình giải quyết vụ án XHTD.
Hiện nay, tổ chức bộ máy của TAND, VKSND được tổ chức 04 cấp theo thẩm
quyền (TAND, VKSND tối cao, TAND, VKSND cấp cao, TAND, VKSND cấp tỉnh,
TAND, VKSND cấp huyện). Thực hiện Nghị quyết số 957/NQ-UBTVQH13 ngày
28/5/2015 của UBTVQH về việc thành lập 03 TAND, VKSND cấp cao, TAND, VKSND cấp cao được thành lập tại Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh1. Ngoài ra, theo Luật Tổ chức TAND năm 2014, cơ cấu tổ chức của TAND tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương gồm: Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế,
Tòa lao động, Tòa gia đình và người chưa thành niên (Điều 38) và cơ cấu tổ chức của
TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương gồm: Tòa hình sự, Tòa
dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử l hành chính. Trường hợp cần
thiết, Ủy ban thường vụ QH quyết định thành lập Tòa chuyên trách hác (Điều 45).
(2) Cơ quan điều tra.
Theo Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, đối với các vụ án XHTD,
cơ quan điều tra có nhiệm vụ: tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm XHTD
1 TAND cấp cao tại Hà Nội có phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ đối với 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, bao gồm: thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng; các tỉnh: Hòa Bình, Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai, Yên Bái, Lạng Sơn, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nam, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có trụ sở đặt tại thành phố Hà Nội; TAND cấp cao tại Đà Nẵng có phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ đối với 12 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, bao gồm: thành phố Đà Nẵng; các tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Gia Lai, Kom Tum và ĐắkLắk. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có trụ sở đặt tại thành phố Đà Nẵng; TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh có phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ đối với 23 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, bao gồm: thành phố Hồ Chí Minh, thành phố cần Thơ; các tỉnh: Bình Thuận, Ninh Thuận, Đồng Nai, Bà Rịa - V ng Tàu, Binh Dương, Bình Phước, Long An, Tây Ninh, Đắ Nông, Lâm Đồng, Hậu Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, An Giang và Kiên Giang. Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có trụ sở đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh.
và kiến nghị khởi tố vụ án XHTD; tiếp nhận hồ sơ vụ án do cơ quan được giao nhiệm vụ
94
tiến hành một số hoạt động Điều tra chuyển giao; tiến hành Điều tra các tội phạm
XHTD, áp dụng mọi biện pháp do luật định để phát hiện, xác định tội phạm và người
thực hiện hành vi phạm tội XHTD; lập hồ sơ, đề nghị truy tố; tìm ra nguyên nhân, Điều
kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc
phục và ngăn ngừa đối với tội phạm này.
Trong Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 quy định, cơ quan đều tra
bao gồm: Cơ quan Điều tra của Công an nhân dân; Cơ quan Điều tra trong Quân đội
nhân dân; Cơ quan Điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong đó, (1) Cơ quan
Điều tra của Công an nhân dân bao gồm: cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an; Cơ
quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh; Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an; Cơ
quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện;
(2) Cơ quan Điều tra trong Quân đội nhân dân, gồm: Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc
phòng; Cơ quan An ninh điều tra quân hu và tương đương. Cơ quan điều tra hình sự
Bộ Quốc phòng; Cơ quan điều tra hình sự quân hu và tương đương; Cơ quan điều tra
hình sự hu vực; ( ) Cơ quan Điều tra của VKSND dân tối cao gồm: cơ quan điều tra
VKSND tối cao; cơ quan điều tra Viện iểm sát quân sự trung ương (Điều 4, 5, 6, 7).
( ) Cơ quan thi hành án.
Theo Luật Thị hành án hình sự hiện hành, cơ quan thi hành án hình sự sẽ tiến hành
việc thi hành án đối với bản án về tội xâm phạm tình dục của TAND đã có hiệu lực pháp
luật. Hiện nay, các cơ quan thi hành án bao gồm: trại giam thuộc Bộ Công an, trại giam
thuộc Bộ Quốc phòng, trại giam thuộc quân hu; cơ quan thi hành án hình sự Công an
cấp tỉnh; cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện; cơ quan thi hành án hình sự
cấp quân hu. Ngoài ra, cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự bao
gồm: Trại tạm giam thuộc Bộ Công an, trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại tạm
giam thuộc Công an cấp tỉnh, trại tạm giam cấp quân khu; UBND cấp xã; Đơn vị quân
đội cấp trung đoàn và tương đương.
Hai là, các thiết chế giám sát và hỗ trợ, tư vấn pháp lý.
Quốc hội, các cơ quan của QH, Đoàn ĐBQH, ĐBQH, HĐND, đại biểu HĐND, Uỷ
ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận giám sát việc thực hiện thực
hiện chính sách, pháp luật về quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục PNTEG của
các cá nhân và tổ chức theo quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời giám sát hoạt
động của TAND, VKSND, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án trong quá trình thụ lý
và giải quyết các vụ án XHTD. Trong đó, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của QH có trách
nhiệm phối hợp với Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của
QH xem xét, đánh giá những vấn đề liên quan đến quyền bất khả xâm phạm và tự do
95
tình dục của PNTEG trong dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của QH, UBTVQH
và việc lồng ghép các mục tiêu, chỉ tiêu thực hiện quyền bất khả xâm phạm và tự do tình
dục PNTEG khi thẩm tra quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH quốc gia; giám sát việc
thực hiện chính sách, pháp luật liên quan đến PNTEG và việc thực hiện quyền bất khả
xâm phạm và tự do tình dục của PNT G. Đại biểu QH, HĐND các cấp có trách nhiệm
thường xuyên và định kỳ tiếp xúc với phụ nữ, trẻ em hoặc đại diện trẻ em; tiếp nhận,
chuyển và theo dõi, giám sát việc giải quyết kiến nghị của cơ quan, tổ chức liên quan
đến quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục PNTEG.
Việc bảo vệ QTCCL của NNN bị XHTD ngoài các cơ quan chuyên trách đã được
đề cập ở trên còn có vai trò của các đơn vị và tổ chức cung cấp dịch vụ đảm bảo quyền
PNTEG; các tổ chức xã hội, đoàn thể và các cơ quan truyền thông và các đối tác quốc
tế, các hội nghề nghiệp như hội luật sư; các trung tâm tư vấn trợ giúp pháp l tư nhân,
các tổ chức cộng đồng trong đó: TTQ, HLHPN Việt Nam, ĐTNCS Hồ Chí Minh
cùng các cơ quan đoàn thể và các tổ chức chính trị xã hội hác đóng vai trò tích cực
trong thức hiện bảo vệ quyền PNTEG. Các đối tác quốc tế đóng vai trò quan trọng trong
việc hỗ trợ các nguồn lực cho các thiết chế tư pháp chính quy và thiết chế tư pháp phi
chính quy trong việc hoàn thiện hung luật pháp, chính sách nhằm đảm bảo tốt hơn
QTCCL của NNN bị XHTD.
Trong quá trình hiện nhiệm vụ của mình, các thiết chế giám sát và hỗ trợ, TGPL
phối hợp với các cơ quan hành chính nhà nước, Uỷ ban MTTQ Việt Nam các cấp và các
đoàn thể nhân dân phối hợp chặt với cơ quan dân cử và cơ quan hành chính các cấp
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về các hành vi XHTD và trình tự, thủ tục giải
quyết các vụ án XHTD, trong đó, các cơ quan hành chính nhà nước bao gồm Chính phủ,
các Bộ và UBND các cấp (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã).
Thứ ba, các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam thực hiện
triệt để các biện pháp hỗ trợ theo quy định của pháp luật nhằm tăng cường khả năng tiếp
cận của NNN bị XHTD. Các cơ quan tư pháp thực hiện các biện pháp hỗ trợ để NNN bị
XHTD thực hiện QTCCL, như hắc phục rào cản về ngôn ngữ, tuổi tác, thông tin, tài
chính, v..v. Trên cơ sở đó, hệ thống tư pháp tiếp tục được hoàn thiện về tổ chức và hoạt
động nhằm đáp ứng tốt yêu cầu tiếp nhận, giải quyết các vụ án XHTD, đặc biệt các vụ
án XHTD đối với PNTEG.
Thứ tư, các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam đã nỗ lực
cải thiện chất lượng hoạt động nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để kịp thời thụ lý và
giải quyết các vụ án XHTD, quá đó ịp thời đền bù và khắc phục thoả đáng những thiệt
hại mà NNN phải gánh chịu.
96
Tổ chức và hoạt động của các thiết chế bổ trợ tư pháp (luật sư, tư vấn pháp luật,
TGPL, giám định tư pháp) ngày càng hoàn thiện và phát triển cung cấp các biện pháp
TGPL, các biện pháp hỗ trợ xã hội, các thủ tục đặc thù cho NNN bị XHTD. Cùng với sự
lớn mạnh của đội ng luật sư, hệ thống bảo vệ trẻ em, các tổ chức cơ sở bảo vệ phụ nữ
được triển hai xây dựng trên quy mô cả nước: “từ năm 2008 hệ thống bảo vệ trẻ em đã
được triển hai với mục đích cung cấp những dịch vụ bảo vệ trẻ em khi cần” [16, tr.
210]. Từ năm 2004, Việt Nam đã thành lập Đường dây tư vấn và hỗ trợ trẻ em miễn phí
với đầu số là 18001567 (nay là Tổng đài quốc gia bảo vệ trẻ em – 111). Tổng đài thực
hiện nhiệm vụ tiếp nhận thông tin, tư vấn và kết nối dịch vụ qua điện thoại để trợ giúp
trẻ em và gia đình trẻ em; đã góp phần can thiệp, trợ giúp cho nhiều đối tượng trẻ em,
đặc biệt là trẻ em bị xâm hại, bạo lực; năm 201 , “Tổng đài tiếp nhận 331.582 cuộc gọi,
tư vấn 25.791 cuộc” [16, tr. 210]. Các trung tâm dịch vụ công tác xã hội đã cung cấp các
dịch vụ tư vấn cho trẻ em và gia đình tại cộng đồng ngày càng phát triển cả về lượng và
chất chất, tính đến tháng 12/2014, “Việt Nam có 34 trung tâm dịch vụ công tác xã hội
cấp tỉnh trên cả nước, trong đó có 07 trung tâm công tác xã hội trẻ em của tỉnh, 1 4 cơ
quan tư vấn cho trẻ em cấp huyện, 4.1 5 điểm tư vấn tại cộng đồng, .42 điểm tư vấn
tại trường học được thiết lập và đi vào hoạt động” [16, tr. 210]. Cùng với đó, sự phát
“những dịch vụ xã hội dành cho nhóm phụ nữ và trẻ em yếu thế được cung cấp rộng rãi
triển hệ thống, cộng tác viên sẵn sàng giải quyết các vấn đề của PNTEG tại cộng đồng;
thông qua các tổ chức phi lợi nhuận hay tổ chức tình nguyện nhiều hơn những cán bộ
công tác xã hội được đào tạo chuyên nghiệp” [16, tr. 214]. Hiện có “khoảng 70.000
người hoạt động trong ngành dịch vụ xã hội ở các cấp độ khác nhau (kể cả các trung tâm
và tại cộng đồng) và có tổng số 408 trung tâm công tác xã hội gồm 34 trung tâm dịch vụ
công tác xã hội được duy trì hoạt động bởi khối tư nhân và nhà nước” [16, tr. 214].
Qua công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng TGPL hằng năm cho thấy, phần lớn
các vụ án được TGPL đều đạt chất lượng và chất lượng tốt theo quy định của pháp luật,
đặc biệt, các vụ án XHTD trẻ em đều được các Trung tâm TGPL tạo điều kiện phân
công các Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư có nhiều kinh nghiệm thực tế, am hiểu tâm lý
trẻ em thực hiện việc TGPL.
Các Trợ giúp viên pháp l đã tích cực tham gia vào các vụ án XHTD trẻ em,
được dư luận quan tâm như như Lê Ngọc ., Đỗ Hoàng P... ở Bình Dương; bảo
vệ cho bị hại trong vụ giao cấu với người từ đủ 1 đến dưới 16 tuổi, trong vụ án
hiếp dâm người dưới 16 tuổi và giao cấu với trẻ em... ở Tiền Giang. Chỉ tính riêng
trong giai đoạn 2015-2019, các Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh/thành phố đã thực
hiện được 382.960 vụ việc TGPL cho 382.960 lượt người được TGPL, trong đó
97
TGPL cho trẻ em là 18.155 lượt. Một số địa phương thực hiện nhiều vụ việc
TGPL cho trẻ em như thành phố Hà Nội 703 vụ, thành phố Hồ Chí Minh 549 vụ,
Quảng trị 185 vụ [176].
Ngoài ra, các tổ chức quốc tế đã hợp tác và hỗ trợ Việt Nam trong thúc đẩy bảo vệ
QCN, đặc biệt quyền của phụ nữ và trẻ em, đó là: Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ Tiền
tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu (ADB); cơ quan thường trú thường trú ở
Việt Nam bao gồm Úc, Bỉ, Canada, Đan ạch, Đức, Phần Lan, Ý, Ireland, Hà Lan,
New Zealand, Na Uy, Thụy Sỹ, Thụy Điển, Cơ quan Phát triển Quốc tế Vương Quốc
Anh (DFID) và Hoa Kỳ đã giúp chúng ta trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, và bảo trợ xã
hội đối với nạn nhân bị xâm hại. UN C và các tổ chức phi chính phủ quốc tế như
Save the Children, ChildFund, Plan International và Tầm nhìn Thế giới, các tổ chức hoạt
động trong lĩnh vực quyền trẻ em, đã đóng góp đáng ể vào quá trình đàm luận về
quyền trẻ em tại Việt Nam [16, tr. 1]. Các cơ quan này c ng có nhiều chương trình, dự
án nhằm hỗ trợ nâng cao iến thức và ỹ năng bảo vệ QTCCL của NNN cho người dân
và cán bộ của các cơ quan công quyền.
Thứ năm, các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam đã thực
hiện các cải cách nhằm cung cấp các biện pháp khắc phục cần thiết để hỗ trợ PNTEG bị
XHTD.
Trong thời gian qua, các cơ quan tư pháp chính thức thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ theo luật định, từng bước đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế về tính hiệu lực, hiệu
quả, độc lập, khách quan và cung cấp các biện pháp đền bù và khắc phục thoả đáng
những thiệt hại của NNN bị XHTD. Sau nhiều năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW
của Bộ Chính trị về Chiến lược CCTP đến năm 2020, cho đến nay hệ thống các cơ quan
tư pháp chính thức của chúng ta đã được cải thiện; tổ chức và hoạt động của tòa án và
các cơ quan, tổ chức tham gia thực hiện quyền tư pháp như cơ quan điều tra, kiểm sát,
thi hành án, luật sư, giám định tư pháp… “đã được cải cách từng bước theo hướng tuân
thủ tốt hơn các nguyên tắc phổ biến của nền tư pháp dân chủ trong NNPQ, như nguyên
tắc độc lập xét xử; nguyên tắc xét xử công hai…” [8]; các nguyên tắc đặc thù trong
từng loại tố tụng tư pháp như “nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo”;
“nguyên tắc suy đoán vô tội (trong TTHS)”; “nguyên tắc x t xử công bằng và bình
đẳng” đã và đang được áp dụng trong hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Một số địa phương (như tỉnh Hà Nam), công tác cải cách thủ tục hành chính tư
pháp đã được chú trọng, triển hai mô hình “một cửa”; tăng cường công khai, minh
bạch trong các hoạt động của toà án, đồng thời bảo đảm quyền giám sát, kiểm tra và
TCCL của người dân; triển hai quy định mới về phòng xét xử; lắp camera giám sát tại
98
phòng tiếp dân, tiếp đương sự, hoà giải, đối thoại; tăng cường sử dụng công nghệ thông
tin, đẩy mạnh hoạt động cổng thông tin điện tử; sử dụng camera giám sát trực tuyến
phiên toà tại toà án hai cấp theo tinh thần chỉ đạo của TANDTC; thực hiện công khai
bản án, quyết định của toà án trên công thông tin điện tử.
Thứ sáu, các thiết chế giám sát đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình
trong việc giám sát các thiết chế tư pháp chính thức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
theo quy định pháp luật để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam.
Các cơ quan dân cử, tổ chức hội nghề nghiệp ngày càng được tăng cường; sự phát
triển của các cơ quan này đã hỗ trợ tốt hơn cho các cơ quan tư pháp chính thức trong
việc đảm bảo quyền của các công dân nói chung, của NNN bị XHTD nói riêng. Hoạt
động của các cơ quan tư pháp luôn chịu sự giám sát của cơ quan dân cử, MTTQ và các
đoàn thể nhân dân, các cơ quan giám sát chuyên trách. Nhằm tăng tính chịu trách nhiệm
của hệ thống tư pháp, các cơ quan dân cử (QH và HĐND các cấp) thực hiện các hoạt
động giám sát đối với các cơ quan, tổ chức và các nhân trong quá trình giải quyết các vụ
án XHTD PNTEG, như nghe báo cáo của các cơ quan tư pháp tại các kỳ họp, chất vấn
lãnh đạo các cơ quan tư pháp tại các kỳ họp và lấy phiếu tín nhiệm các chức danh lãnh
đạo của các cơ quan tư pháp do cơ quan dân cử bầu hoặc phê chuẩn. Trong thời gian
qua, QH đã tổ chức giám sát tối cao đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật về
phòng, chống xâm hại trẻ em, sau đó đã ban hành nghị quyết của QH về vấn đề này.
Bên cạnh đó, VKSND iểm sát hoạt động tố tụng các vụ án XHTD PNTEG từ
khâu khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Ngoài ra, Nhân dân và các cơ quan
đại diện của Nhân dân như TTQ và các đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tấn, báo
chí theo dõi, thông tin và giám sát chặt chẽ quá trình giải quyết các vụ án XHTD.
3.1.1.3. Nguồn lực để vận hành cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý
của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam
Thứ nhất, đội ng cán bộ, công chức, viên chức của các thiết chế bảo đảm QTCCL
của NNN bị XHTD ở Việt Nam tiếp tục được cải thiện cả về chất lẫn lượng.
Một là, cán bộ, công chức, viện chức và người lao động của TAND và VKSND
tiếp tục được phát triển theo quy định trong Luật Tổ chức TAND năm 2014, Luật Tổ
chức VKSND năm 2014 và các văn bản hướng dẫn khác.
(1) Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư toà, Thẩm
tra viên đươc pháp luật hiện hành quy định rõ ràng, chặt chẽ, tương đối phù hợp với thực
tiễn: (i) Đối với Chánh án, Phó Chánh án. Chánh án TANDTC do QH bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. Phó Chánh án TANDTC được Chủ tịch nước
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức trong số các Thẩm phán TANDTC; Chánh án, Phó
99
Chánh án TAND cấp cao do Chánh án TANDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức;
Chánh án, Phó Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Chánh án
TANDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; Chánh án, Phó Chánh án TAND huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương do Chánh án TANDTC bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của các Chánh án, Phó Chánh án TAND là 05 năm,
kể từ ngày được bổ nhiệm, riêng đối với Chánh án TANDTC theo nhiệm kỳ của QH (05
năm), hi QH hết nhiệm kỳ, Chánh án TANDTC tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cho đến
khi QH khóa mới bầu ra Chánh án TANDTC mới. Theo quy định pháp luật hiện hành,
Chánh án TANDTC không nhất thiết là ĐBQH, nhưng trên thực tế, Chánh án TANDTC
thường là ĐBQH; (ii) Đối với thẩm phán. Thẩm phán TAND tối cao là những chuyên
gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành. Ngạch thẩm phán thứ hai là
thẩm phán cao cấp làm công việc xét xử trong các Tòa án cấp cao đặt tại ba khu vực
Bắc, Trung, Nam. Đây là ngạch thẩm phán mới được quy định ở Việt Nam. Sau ngạch
thẩm phán cao cấp là thẩm phán trung cấp, chủ yếu công tác ở TAND cấp tỉnh. Cuối
cùng là ngạch thẩm phán sơ cấp, làm việc ở TAND cấp huyện, là lực lượng thẩm phán
đông đảo nhất, giải quyết phần lớn các vụ án theo trình tự xét xử sơ thẩm. Các thẩm
phán được tuyển chọn, bổ nhiệm theo quy trình luật định. Các thẩm phán TAND tối cao
được Hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia xem x t, đề nghị Chánh án
TAND tối cao trình QH xem xét phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm. Đối với các thẩm
phán cao cấp, trung cấp và sơ cấp phải thông qua thủ tục thi tuyển, sau hi được Hội
đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia xem x t, đề nghị, Chánh án TAND tối
cao trình Chủ tịch nước bổ nhiệm. Việc tổ chức thi tuyển ba ngạch thẩm phán (cao cấp,
trung cấp, sơ cấp) và cơ cấu Hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia là bước
đổi mới quan trọng phát triển đội ng những người trực tiếp thường xuyên thực hiện
quyền tư pháp trong các TAND. Nhiệm kỳ đầu của thẩm phán là 5 năm, trong trường
hợp được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp
theo là 10 năm. Sự đổi mới nêu trên có nghĩa quan trọng nhằm bảo đảm tính độc lập
và sự yên tâm của thẩm phán trong quá trình đảm nhiệm công việc. Theo Nghị định số
5 /2015/NĐ-CP quy định về tuổi nghỉ hưu cao hơn đối với cán bộ, công chức (có hiệu
lực từ ngày 01/6/2015), Thẩm phán TANDTC có thể làm việc đến 65 tuổi đối với nam
và 60 tuổi đối với nữ (Khoản 2 Điều 2 và Khoản 2 Điều 5); (iii) Hội thẩm nhân dân.
TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh và tương đương đề xuất nhu cầu về số lượng, cơ cấu thành phần Hội thẩm đề
nghị Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp lựa chọn và giới thiệu người đủ tiêu chuẩn để
HĐND có thẩm quyền theo luật định bầu Hội thẩm nhân dân; Chánh án TAND sau khi
100
thống nhất với Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp. đề nghị HĐND miễn nhiệm, bãi
nhiệm Hội thẩm nhân dân. Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân theo nhiệm kỳ của HĐND
đã bầu ra Hội thẩm nhân dân (05 năm). Khi HĐND hết nhiệm kỳ, Hội thẩm nhân dân
tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Hội đồng nhân dân khóa mới bầu ra Hội thẩm nhân
dân mới; (iv) Đối với thư ký toà và thẩm tra viên. Thư Tòa án là người có trình độ cử
nhân luật trở lên được Tòa án tuyển dụng, được đào tạo nghiệp vụ Thư Tòa án và bổ
nhiệm vào ngạch Thư Tòa án, gồm có các ngạch: Thư viên; Thư viên chính;
Thư viên cao cấp. Thẩm tra viên là công chức chuyên môn của Tòa án đã làm Thư
Tòa án từ 05 năm trở lên, được đào tạo nghiệp vụ Thẩm tra viên và bổ nhiệm vào ngạch
Thẩm tra viên, gồm các ngạch: Thẩm tra viên; Thẩm tra viên chính; Thẩm tra viên cao
cấp. Số lượng thẩm phán TANDTC từ 1 đến 17 người; số lượng Thẩm phán Tòa án
khác, cơ cấu tỷ lệ các ngạch Thẩm phán tại mỗi cấp Tòa án và tổng biên chế của Tòa án
nhân dân do UBTV QH quyết định theo đề nghị của Chánh án TANDTC sau khi có ý
kiến của Chính phủ. Căn cứ vào tổng biên chế, số lượng, cơ cấu tỷ lệ các ngạch Thẩm
phán đã được UBTV QH quyết định, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phân bổ biên
chế, số lượng Thẩm phán Tòa án khác; công chức khác, viên chức và người lao động
của các đơn vị trực thuộc các TAND.
(2) Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ
quan điều tra, Điều tra viên, Kiểm tra viên và công chức khác, viên chức và người lao
động khác của VKSND đươc quy định cụ thể, rõ ràng như sau: (i) Đối với Viện trưởng,
Phó Viện trưởng. Viện trưởng VKSNDTC do QH bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề
nghị của Chủ tịch nước. Phó Viện trưởng VKSNDTC do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng VKSNDTC; Viện trưởng, Phó Viện
trưởng VKSND cấp cao, cấp tỉnh, cấp huyện đều do Viện trưởng VKSNDTC bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức. Nhiệm kỳ của các Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND là 05
năm, ể từ ngày được bổ nhiệm, riêng đối với nhiệm kỳ của Viện trưởng VKSNDTC
theo nhiệm kỳ của QH (05 năm), hi QH hết nhiệm kỳ, Viện trưởng VKSNDTC tiếp tục
làm nhiệm vụ cho đến khi QH khóa mới bầu ra Viện trưởng VKSNDTC mới. C ng như
Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC không nhất thiết là ĐBQH, nhưng trên
thực tế, Viện trưởng VKSNDTC thường là ĐBQH; (ii) Đối với Kiểm sát viên. Kiểm sát
viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; là công dân Việt Nam trung thành với
Tổ quốc và Hiến pháp Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản
lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế XHCN, có trình độ cử
nhân luật trở lên và đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát. Ngạch Kiểm sát viên
101
VKSND gồm có: Kiểm sát viên VKSNDTC; Kiểm sát viên cao cấp; Kiểm sát viên
trung cấp; Kiểm sát viên sơ cấp, trong đó: Kiểm sát viên VKSNDTC phải là Kiểm sát
viên cao cấp ít nhất 05 năm, có năng lực chỉ đạo, điều hành công tác thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSNDTC và có năng lực giải quyết những
vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của VKSNDTC. Trong trường hợp do nhu cầu cán
bộ của VKSND, người đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 20 năm trở lên và đáp
ứng các tiêu chuẩn trên thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Kiểm sát viên
VKSNDTC; Kiểm sát viên cao cấp phải là Kiểm sát viên trung cấp ít nhất 05 năm, có
năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, có hả năng hướng dẫn
nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với Kiểm sát viên
cấp dưới và đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên cao cấp. Trong trường hợp
do nhu cầu cán bộ của VKSND, người đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 15 năm
trở lên, có đủ tiêu chuẩn trên thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên cao cấp của
VKSND; nếu là sĩ quan quân đội tại ng thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên
cao cấp của Viện kiểm sát quân sự; Kiểm sát viên trung cấp phải là Kiểm sát viên sơ cấp
ít nhất 05 năm, có năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, có hả
năng hướng dẫn nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với
Kiểm sát viên sơ cấp và đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên trung cấp. Trong
trường hợp do nhu cầu cán bộ của VKSND, người đã có thời gian làm công tác pháp
luật từ 10 năm trở lên, có đủ tiêu chuẩn trên có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên
trung cấp của VKSND; nếu là sĩ quan quân đội tại ng thì có thể được bổ nhiệm làm
Kiểm sát viên trung cấp của Viện kiểm sát quân sự; Kiểm sát viên sơ cấp phải là người
có thời gian làm công tác pháp luật từ 04 năm trở lên, có năng lực thực hành quyền công
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên sơ cấp. Ở
VKSNDTC có thể được bố trí bốn ngạch Kiểm sát viên; ở Viện kiểm sát quân sự trung
ương có Viện trưởng là Kiểm sát viên VKSNDTC và có thể được bố trí các ngạch Kiểm
sát viên cao cấp, trung cấp, sơ cấp; các Viện kiểm sát khác có thể được bố trí các ngạch
Kiểm sát viên cao cấp, trung cấp, sơ cấp. Kiểm sát viên được bổ nhiệm lần đầu có thời
hạn là 05 năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm.
Theo Nghị định số 5 /2015/NĐ-CP quy định về tuổi nghỉ hưu cao hơn đối với cán bộ,
công chức (có hiệu lực từ ngày 01/6/2015), Kiểm sát viên VKSNDTC có thể làm việc
đến 65 tuổi đối với nam và 60 tuổi đối với nữ (Khoản 2 Điều 2 và Khoản 2 Điều 5); (iii)
Đối với Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Kiểm tra viên và
công chức khác, viên chức và người lao động khác. Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan
điều tra VKSNDTC, Viện kiểm sát quân sự trung ương do Viện trưởng VKSNDTC bổ
102
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Kiểm tra viên là người được bổ nhiệm theo quy định của
pháp luật để giúp Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp;
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo sự phân công của Viện trưởng VKSND,
gồm các ngạch: Kiểm tra viên; Kiểm tra viên chính; Kiểm tra viên cao cấp. Số lượng
Kiểm sát viên ở VKSNDTC hông qua 19 người; tổng biên chế, số lượng Kiểm sát
viên; cơ cấu tỷ lệ các ngạch Kiểm sát viên tại mỗi cấp Viện kiểm sát; số lượng, cơ cấu tỷ
lệ các ngạch Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao do UBTV QH quyết định
theo đề nghị của Viện trưởng VKSNDTC sau khi có ý kiến của Chính phủ. Căn cứ tổng
biên chế, số lượng, cơ cấu tỷ lệ các ngạch Kiểm sát viên đã được UBTV QH quyết định,
Viện trưởng VKSNDTC quyết định biên chế, số lượng Kiểm sát viên, công chức khác,
viên chức và người lao động khác của các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối
cao và các Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới.
Hai là, nguồn nhân lực của cơ quan điều tra.
Theo quy định của Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, Điều tra viên
là người được bổ nhiệm để làm nhiệm vụ Điều tra hình sự, gồm các ngạch: Điều tra viên
sơ cấp; Điều tra viên trung cấp; Điều tra viên cao cấp. Tiêu chuẩn của Điều tra viên phải
là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp Việt Nam, có phẩm chất
đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần kiên quyết
bảo vệ pháp chế XHCN, có trình độ đại học An ninh, đại học Cảnh sát hoặc cử nhân luật
trở lên, đã được đào tạo về nghiệp vụ Điều tra, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm
vụ được giao. Ở từng ngạch sẽ có quy định cụ thể về thời gian làm công tác pháp luật,
đó là: Điều tra viên sơ cấp phải có thời gian làm công tác pháp luật từ 04 năm trở lên, có
năng lực Điều tra các vụ án thuộc loại tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, đã trúng tuyển
ỳ thi vào ngạch Điều tra viên sơ cấp; Điều tra viên trung cấp phải là điều tra viên sơ
cấp ít nhất là 05 năm, có năng lực Điều tra các vụ án thuộc loại tội rất nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng, có khả năng hướng dẫn các hoạt động Điều tra của Điều tra viên sơ
cấp và đã trúng tuyển ỳ thi vào ngạch Điều tra viên trung cấp. Trường hợp do nhu cầu
cán bộ của Cơ quan Điều tra, người có đủ tiêu chuẩn quy định trên và đã có thời gian
làm công tác pháp luật từ 09 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm làm Điều tra viên
trung cấp; Điều tra viên cao cấp phải là Điều tra viên trung cấp ít nhất 05 năm, có năng
lực Điều tra các vụ án thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, phức
tạp, có khả năng nghiên cứu, tổng hợp, đề xuất biện pháp phòng, chống tội phạm, có khả
năng hướng dẫn các hoạt động Điều tra của Điều tra viên sơ cấp, Điều tra viên trung cấp
và đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Điều tra viên cao cấp. Trong trường hợp do nhu cầu
cán bộ của Cơ quan Điều tra, người có đủ tiêu chuẩn quy định trên và đã có thời gian
103
làm công tác pháp luật từ 14 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm làm Điều tra viên cao
cấp. Điều tra viên được bổ nhiệm lần đầu có thời hạn là 05 năm; trường hợp được bổ
nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm.
Ba là, nguồn nhân lực của cơ quan thi hành án.
Nhà nước bảo đảm biên chế, cán bộ cần thiết cho các cơ quan quản lý thi hành án
hình sự, cơ quan thi hành án hình sự. Người làm công tác thi hành án hình sự đã được
đào tạo, huấn luyện chuyên môn nghiệp vụ, bồi dư ng pháp luật phù hợp với nhiệm vụ,
quyền hạn được giao.
Nhìn chung, trong thời gian qua, các cơ quan tư pháp đã đặt biệt quan tâm công tác
đào tạo, đào tạo lại đội ng cán bộ tư pháp cả về chuyên môn, nghiệp vụ, cả về giáo dục
bồi dư ng phẩm chất và đạo đức nghề nghiệp. Tính đến 31/12/2018, tổng số biên chế
TAND là 14.149 người, thiếu 1.088 người so với biên chế UBTV QH giao; trong đó
trình độ trên tiến sĩ có 50 người, thạc sĩ có 1 51 người, cử nhân 12004 người; có 2391
người có trình độ cử nhân hoặc cao cấp lý luận chính trị; 4442 người có trình độ trung
cấp lý luận chính trị. Tổng số hội thẩm cấp tỉnh, cấp huyện của “cả nhiệm kỳ 2016-2021
là 17.014 người, trong đó cấp tỉnh là 1785 người, cấp huyện là 15229 người” [165], đến
12/2019, “tổng số biên chế của TAND các cấp là 13792 người, giảm 1445 người so với
biên chế được UBTV QH giao” [170].
Từ năm 201 đến nay, TANDTC đã tổ chức đào tạo nghiệp vụ xét xử cho
1.348 học viên; đào tạo nghiệp vụ Thẩm tra viên và Thư ký cho 2.655 học viên;
bồi dư ng nghiệp vụ cho 2.791 Thẩm phán, Thư ký Toà án.... Bên cạnh đó, năm
2018 Toà án nhân dân tối cao còn tổ chức 08 khoá tập huấn định kỳ qua hệ thống
truyền hình trực tuyến đến 778 điểm cầu trong hệ thống Tòa án với sự tham gia
thường xuyên của trên 10.000 cán bộ có chức danh tư pháp. Tham gia giảng dạy là
các chuyên gia đầu ngành của Toà án, các chuyên gia có uy tín trong và ngoài
nước [166].
Do đó, đến nay đội ng cán bộ tư pháp đã có sự trưởng thành nhanh chóng cả về
lượng và chất, dần đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Phần lớn cán bộ tư pháp đánh
giá há tốt về số lượng, cơ cấu đội ng cán bộ tại các bộ phận có chức năng đảm bảo
QTCCL cho NNN bị XHTD ở cơ quan mình. Trên 80% cán bộ trong mẫu nghiên cứu
đều cho rằng số lượng cán bộ đảm bảo phù hợp với công việc, cơ cấu x t theo độ tuổi,
giới tính, trình độ học vấn, thành phần dân tộc đều ở mức phù hợp hay rất phù hợp
(Bảng .7, Phụ lục 2). Đa số cán bộ các cơ quan tư pháp được đánh giá cao ở một số
năng lực như: 5, % cán bộ tư pháp tham gia nghiên cứu đánh giá hả năng hiểu biết,
nắm rõ các quy định của pháp luật của đội ng cán bộ thuộc cơ quan mình ở mức tốt
104
hoặc rất tốt; 1,7% cán bộ tham gia nghiên cứu đánh giá hả năng áp dụng các quy định
pháp luật vào giải quyết các vụ việc cụ thể ở mức tốt hoặc rất tốt (Bảng .8, Phụ lục 2).
Bốn là, nguồn nhân lực của thiết chế giám sát.
Đối với nguồn lực của QH, các cơ quan của QH, Đoàn ĐBQH, ĐBQH thực hiện
chức năng giám sát được thực hiện theo Luật Tổ chức QH năm 2014 (sửa đổi, bổ sung
năm 2020), trong đó, tổng số đại biểu QH không quá 500 người, bao gồm đại biểu hoạt
động chuyên trách và đại biểu hoạt động không chuyên trách; nhiệm kỳ của đại biểu QH
theo nhiệm kỳ của QH (05 năm). Số lượng đại biểu QH hoạt động chuyên trách ít nhất
là 40% tổng số đại biểu QH; số lượng và danh sách đại biểu QH hoạt động chuyên trách
tại Đoàn ĐBQH do UBTV QH quyết định, phê chuẩn. Cơ quan có thẩm quyền quản lý
cán bộ ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo phân cấp chịu trách nhiệm quản lý
công tác cán bộ đối với đại biểu QH hoạt động chuyên trách tại địa phương mình theo
quy định của UBTV QH.
Đối với nguồn lực cho HĐND, đại biểu HĐND thực hiện chức năng giám sát
được thực hiện theo Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2019), trong đó, tổng số đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã được phân bổ
theo điều kiện KT-XH và số dân của địa phương đó: (i) Cấp tỉnh: nếu là tỉnh miền núi,
vùng cao, số đại biểu từ 50 đến 75 đại biểu; các tỉnh khác, số đại biểu từ 50 đến 85 đại
biểu. Riêng thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí inh được bầu 95 đại biểu; (ii) Cấp
huyện: nếu là huyện miền núi, vùng cao, hải đảo, số đại biểu từ 0 đến 5 đại biểu; các
huyện khác, số đại biểu từ 0 đến 5 đại biểu, trong trường hợp HĐND ở huyện có từ ba
mươi đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc trở lên do UBTV QH quyết định theo đề nghị
của Thường trực HĐND cấp tỉnh, nhưng tổng số hông quá 40 đại biểu; (iii) Cấp xã:
nếu là xã miền núi, vùng cao, hải đảo, số đại biểu từ 15 đến 0 đại biểu.
Đối với nguồn lực cho Uỷ ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên của
Mặt trận thực hiện chức năng giám sát được thực hiện theo Luật Tổ chức TTQ năm
2015 và các văn bản pháp luật liên quan, trong đó, tổ chức, biên chế bộ máy giúp việc
của Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp do cơ quan có thẩm quyền quy định. Cán bộ, công
chức, viên chức trong cơ quan Ủy ban MTTQ Việt Nam và người làm công tác Mặt trận
hông chuyên trách được đào tạo, bồi dư ng để nâng cao trình độ, nghiệp vụ công tác
Mặt trận, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Năm là, nguồn nhân lực của thiết chế hỗ trợ và tư vấn pháp lý.
Theo Luật TGPL năm 200 và năm 2017, người thực hiện TGPL bao gồm: trợ
giúp viên pháp lý; luật sư thực hiện TGPL theo hợp đồng với Trung tâm TGPL nhà
nước; luật sư thực hiện TGPL theo phân công của tổ chức tham gia TGPL; tư vấn viên
105
pháp luật có 02 năm inh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên làm việc tại tổ chức tham
TGPL; cộng tác viên TGPL. Sở Tư pháp công bố danh sách người thực hiện TGPL tại
địa phương, đăng tải trên trang thông tin điện tử của Sở Tư pháp và gửi Bộ Tư pháp để
tổng hợp đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.
Đội ng cán bộ của các cơ quan dân cử, cán bộ phụ trách đảm bảo quyền của phụ
nữ và trẻ em gái thuộc Bộ LĐTBXH ngày càng được hoàn thiện về số lượng, cơ cấu và
chất lượng; tính đến hết năm 2019, tổng số luật sư của cả nước là 1 .859 người; số
lượng luật sư tăng đều mỗi năm hơn 850 người (Biểu đồ 3.1, Phụ lục 2). Đội ng luật sư
đã đảm nhận 100% việc bào chữa trong các vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu
với chất lượng bào chữa trong các vụ án này ngày càng được nâng cao [58]; sự lớn
mạnh nhanh chóng của đội ng luật sư đã góp phần tích cực trong việc nâng cao chất
lượng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, thúc đẩy quá trình thực hiện chủ
trương đổi mới thủ tục tố tụng tư pháp, trước hết là nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên toà, qua đó góp phần nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của toà án [99].
Thứ hai, kinh phí hoạt động và cơ sở vật chất, trang thiết bị của các thiết chế bảo
đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam tiếp tục được quan tâm đầu tư, đặc biệt là
nguồn inh phí và cơ sở vật chất, trang thiết bị và công cụ phục vụ cho hoạt động của
các thiết chế tư pháp nước ta đã được cải thiện đáng ể.
Một là, kinh phí hoạt động của TANDTC, TAND cấp cao, TAND cấp tỉnh, TAND
cấp huyện do Chính phủ trình QH quyết định sau khi thống nhất với TANDTC. Trường
hợp Chính phủ và TANDTC không thống nhất về dự toán kinh phí hoạt động của
TAND thì Chánh án TANDTC kiến nghị QH xem xét, quyết định. Kinh phí hoạt động
của VKSND do VKSNDTC lập dự toán và đề nghị Chính phủ trình QH quyết định.
Trong trường hợp Chính phủ và VKSNDTC không thống nhất về dự toán kinh phí hoạt
động của VKSND thì Viện trưởng VKSND kiến nghị QH xem xét, quyết định. Việc
quản lý, phân bổ và sử dụng inh phí được thực hiện theo quy định của pháp luật về
ngân sách. Thực tế, TAND tối cao đã phân bổ 620 tỷ đồng vốn đầu tư phát triển từ
NSNN năm 2018 cho 9 dự án xây dựng các trụ sở TAND cấp huyện; phân bổ 70 tỷ để
bảo trì, sửa chữa trụ sở và 30 tỷ để sửa chữa, mua sắm các thiết bị phục vụ phòng xét xử
thân thiện [165]. Điều này cho thấy rằng đa số các cán bộ tư pháp tham gia nghiên cứu
đều cho rằng các nguồn lực vật chất phục vụ cho việc thực thi nhiệm vụ được đảm bảo.
Trên 80% cán bộ tư pháp tham gia nghiên cứu đều đánh giá inh phí cho việc thực hiện
nhiệm vụ chuyên môn tại cơ quan đơn vị họ được đảm bảo. Đồng thời 89, % cán bộ cơ
quan tư pháp hẳng định cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ thực thi nhiệm vụ chuyên
môn của họ được đảm bảo tương đối đầy đủ trong thực tế (Bảng .9, Phụ lục 2).
106
Hai là, nhà nước bảo đảm kinh phí cho hoạt động Điều tra hình sự và thi hành án
hình sự. Việc lập dự toán, sử dụng và quyết toán inh phí và cơ sở, vật chất cho hoạt
động Điều tra hình sự được thực hiện theo pháp luật NSNN. Căn cứ yêu cầu công tác thi
hành án hình sự, địa bàn hoạt động và điều kiện kinh tế - xã hội, Nhà nước bảo đảm cơ
sở vật chất của cơ quan quản lý thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án hình sự, bao
gồm đất đai, trụ sở, công trình; trang thiết bị, v hí, công cụ hỗ trợ, phương tiện giao
thông, thông tin liên lạc, kỹ thuật nghiệp vụ và các điều kiện vật chất, kỹ thuật khác; ưu
tiên bảo đảm cơ sở vật chất cho cơ quan đóng ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo,
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó hăn, địa bàn trọng yếu về an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội. Nhà nước bảo đảm kinh phí cho hoạt động thi hành án hình
sự. Việc lập, dự toán, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho hoạt động thi hành án
hình sự được thực hiện theo pháp luật NSNN.
Ba là, kinh phí hoạt động của QH là một khoản trong NSNN do QH quyết định,
bao gồm kinh phí hoạt động chung của QH, kinh phí hoạt động của UBTV QH, Hội
đồng dân tộc, các Ủy ban của QH, Tổng Thư QH, Văn phòng QH, cơ quan thuộc
UBTV QH, kinh phí hoạt động của Đoàn ĐBQH, lương của ĐBQH hoạt động chuyên
trách, hoạt động phí, thù lao tham gia hoạt động QH, các khoản phụ cấp và các chế độ
của ĐBSH gắn với hoạt động của QH. Kinh phí hoạt động của HĐND các cấp do
NSNN bảo đảm. Việc quản lý, sử dụng kinh phí hoạt động của HĐND phải bảo đảm tiết
kiệm, hiệu quả và phải được kiểm toán theo quy định của pháp luật.
Bốn là, kinh phí hoạt động của Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp do NSNN bảo
đảm theo quy định của pháp luật. Việc lập dự toán, phân bổ, chấp hành và quyết toán
kinh phí NSNN cho hoạt động của MTTQ Việt Nam thực hiện theo quy định của Luật
NSNN. MTTQ Việt Nam được quản lý và sử dụng tài sản Nhà nước giao, tài sản và các
nguồn tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài tặng, cho theo quy định của
pháp luật.
Năm là, nguồn tài chính cho công tác TGPL bao gồm nguồn NSNN; đóng góp, tài
trợ của tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước và các nguồn hợp pháp khác; kinh phí
NSNN được bố trí trong dự toán NSNN hằng năm của cơ quan thực hiện quản lý nhà
nước về TGPL theo quy định của pháp luật về NSNN. Đối với địa phương chưa tự cân
đối được ngân sách, ưu tiên bố trí ngân sách từ số bổ sung cân đối ngân sách hằng năm
để hỗ trợ cho việc thực hiện vụ việc TGPL phức tạp, điển hình. Kinh phí cho hoạt động
TGPL của tổ chức tự nguyện thực hiện do tổ chức đó tự bảo đảm.
107
3.1.2. Hiệu lực, hiệu quả trong vận hành cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp
cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam tiếp tục được cải
thiện
3.1.2.1. Hiệu lực của cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn
nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam
Thứ nhất, các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam cơ bản
thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định pháp luật hiện hành để bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD và thực hiện các hỗ trợ cần thiết để nâng cao năng lực
TCCL của NNN bị XHTD.
Mỗi cơ quan trong hệ thống tư pháp đảm nhận phần trách nhiệm theo chức năng,
nhiệm vụ của mình, điều này tạo ra cơ chế iểm tra và kiềm chế lẫn nhau trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ, bảo đảm cho việc thi hành pháp luật đúng đắn và có hiệu quả. Thực
tế hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp nước ta những năm qua cho thấy công tác
phối hợp giữa cơ quan điều tra với VKSND, TAND cùng cấp luôn được quan tâm thực
hiện. Hoạt động phối hợp diễn ra “thường xuyên, chặt chẽ, không ngừng được củng cố,
đã tạo được những chuyển biến tích cực góp phần đảm bảo kịp thời đưa ra truy tố, xét
xử đúng người, đúng tội, hông làm oan sai, đảm bảo quy định của pháp luật” [106].
Thứ hai, đa số các vụ án XHTD được trình báo đều được các cơ quan chức năng
thụ l , điều tra, truy tố và đưa ra x t xử một cách nghiêm minh đảm bảo đúng người,
đúng tội.
Trong các vụ án XHTD PNT G của cả nước được x t xử sơ thẩm trong giai đoạn
2014-2019: hiếp dâm chiếm tỷ lệ 22,4%; hiếp dâm trẻ em chiếm tỷ lệ 28,4%; cư ng
dâm chiếm tỷ lệ 0,4%; cư ng dâm trẻ em chiếm tỷ lệ 0,3%; giao cấu với trẻ em chiếm tỷ
lệ 34% và dâm ô trẻ em chiếm tỷ lệ 14,5%. Như thế, trẻ em gái bị XHTD chiếm tỷ lệ
77,2% (bao gồm hiếp dâm trẻ em, cư ng dâm trẻ em, giao cấu với trẻ em và dâm ô trẻ
em) (Bảng .2, Phụ lục 2). Đặc biệt, trong số các vụ giao cấu với trẻ em gái và dâm ô trẻ
em gái, số vụ và số nạn nhân trong giai đoạn 2014-2019 cao hơn so với giai đoạn 2008-
2013 lần lượt là: 41,54% (số vụ giao cấu với trẻ em) và 40,77% (số nạn nhân trong vụ
giao cấu với trẻ em); 45,96% (số vụ dâm ô trẻ em) và 45,26% (số nạn nhân trong vụ
dâm ô trẻ em) (Bảng .2, Phụ lục 2). Trong số trẻ em gái bị XHTD, có trên 50% nạn
nhân là trẻ em gái từ 1 đến đưới 16 tuổi; độ tuổi từ đến dưới 13 tuổi chiếm khoảng
35%, trẻ em dưới tuổi chiếm hoảng 10%; phần lớn 5 ,4% trẻ bị xâm hại đều có hoàn
cảnh gia đình hó hăn, hông được quan tâm; đặc biệt có 25,2% trẻ bị xâm hại sống
trong gia đình có bạo lực và 14,1% trẻ bị xâm hại sống trong gia đình có bố mẹ ly hôn
108
[157, tr. 50]. Đặc biệt, những năm gần đây, ở Việt Nam “trung bình nạn nhân nhỏ hơn
nghi phạm 10 tuổi” [41, tr. 5]; trong tổng số các bị cáo bị x t xử về tội phạm XHTD
PNT G có có độ tuổi từ 18 đến 0 tuổi chiếm tỷ lệ 36,29% [96, tr. 120].
Qua thực tiễn x t xử vụ án liên quan đến XHTD trong cả giai đoạn 2014-2019, tỷ
lệ xét xử vụ án XHTD PNTEG so với số thụ l đạt tỷ lệ tương đối cao khoảng 90%
(90,1% số vụ và 89,9% số bị cáo), cao hơn so với giai đoạn 2008-2013 (82,3% số vụ và
84,8% số bị cáo) (Bảng 3.10, Phụ lục 2).
Bên cạnh đó, tỷ lệ xét xử phúc thẩm các vụ án XHTD trong giai đoạn 2014-2019
so với số vụ án thụ lý luôn chiếm tỷ lệ cao trong các năm của cả giai đoạn này, trong đó
trung bình của cả giai đoạn này là: 87,6% số vụ và 87,4% số bị cáo. Cùng với đó, tỷ lệ
xét xử phúc thẩm các vụ án XHTD so với xét xử sơ thẩm trong giai đoạn 2014-2019
chiểm tỷ lệ tương đối thấp, trung bình của cả giai đoạn này là 27,1% số vụ và 27,2% số
bị cáo (Bảng 3.11, Phụ lục 2).
3.1.2.2. Hiệu quả của cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn
nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam
Thứ nhất, cơ chế này góp phần từng bước phát huy vai trò của thiết chế tư pháp
trong bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam.
Kết quả khảo thực tế cho thấy đa số cán bộ thuộc các thiết chế tư pháp đánh giá tốt
hoạt động x t xử của tòa án trên các tiêu chí như: x t xử đúng pháp luật, x t xử thấu tình
đạt l . ặc dù điểm số trung bình mà người dân đánh giá về hoạt động x t xử của tòa án
trên các tiêu chí như: “x t xử đúng pháp luật”, “x t xử thấu tình đạt l ”; “x t xử đảm bảo
tính công bằng” ở mức điểm thấp hơn mức điểm các cán bộ thuộc thiết chế tư pháp đánh
giá (điểm số trung bình người dân đánh giá là và ,5 điểm, điểm cán bộ đánh giá 4
điểm) tuy nhiên các mức điểm đều ở mức bình thường và gần tốt (Bảng 3.12, Phụ lục
2); hi có vụ việc xảy ra, hơn 75% người dân chọn xử l vụ việc thông qua thiết chế tư
pháp chính thức đã cho thấy người dân vẫn rất tin tưởng vào hoạt động đảm bảo
QTCCL của các thiết chế này.
Thứ hai, năng lực tiếp cận công l của NNN bị XHTD từng bước được cải thiện.
Thực tế khảo sát cho thấy phần lớn người dân có hiểu biết tương đối tốt về các
hành vi liên quan đến XHTD theo quy định của BLHS năm 2015 và quy định pháp luật
liên quan, đa số người dân nhận diện được đâu là hành vi tình dục trái pháp luật. Đa số
người dân phân biệt được đâu là hành vi XHTD với hành vi không phải XHTD theo quy
định của BLHS hiện hành (chiếm tỷ lệ trên 90%); tỷ lệ người không phân biệt được
chiếm tỷ lệ tương đối thấp (từ 2%-8,4%) (Bảng .13, Phụ lục 2).
109
3.2. NHỮNG NHƯỢC ĐIỂM TRONG CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN
TIẾP CẬN CÔNG LÝ CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2014-2019
3.2.1. Các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý
của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam vẫn chưa đáp ứng kịp thời yêu
cầu thực tế
3.2.1.1. Thể chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị
xâm hại tình dục ở Việt Nam
Bên cạnh những ưu điểm, thể chế pháp lý về bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD
ở Việt Nam vẫn còn sự chồng chéo, mâu thuẫn, còn những khoảng trống nhất định và
còn những quy định chưa phù hợp với thực tế, cụ thể là:
Thứ nhất, những nhược điểm trong các quy định về hành vi XHTD.
Các quy định, định nghĩa về các hành vi XHTD ể cả trong xã hội và trong các
quy định của luật thường há đa dạng và sẽ hông đồng nhất. Những quy định, định
nghĩa này thường thay đổi theo thời gian, phụ thuộc vào các đặc trưng của xã hội, luật
pháp, đạo đức và thậm chí là sự thay đổi của công nghệ [220, tr. 3]. Theo ông Friday
Achilefu Nwaigwe, Quyền Phó Đại diện UN C tại Việt Nam: “Việc định nghĩa tội
phạm tình dục trong luật có vai trò quan trọng bởi nó tác động trực tiếp đến các điều tra
viên, kiểm sát viên, và thẩm phán xử lý các vụ án XHTD được tố giác. Điều này c ng
tác động đến việc các nạn nhân bị XHTD có tố giác tội phạm để đòi hỏi công l được
thực thi hay không” [77]. Cho đến nay, pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới
đều hình sự hóa hành vi XHTD, đặc biệt XHTD đối với PNTEG. Ở Việt Nam hiện nay,
tội phạm tình dục được quy định trong Chương X V (Các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người) của BLHS năm 2015 từ điều 141 đến điều
147, tuy nhiên những hành vi tình dục trái pháp luật trong HTPL Việt Nam, đặc biệt
trong PLHS chưa thật sự cụ thể và rõ ràng, quy định về tội danh hiếp dâm và cư ng dâm
còn hẹp không thể hiện đầy đủ những khía cạnh về hành vi bị tấn công tình dục mà các
NNN bị XHTD phải chịu trong thực tế. Những khía cạnh này được thể hiện trong các
nội dung sau:
Một là, những bất cập trong PLHS hiện hành quy định về hành vi hiếp dâm, cư ng
dâm và dâm ô.
Các tội danh này được cấu thành bởi người có năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiện thông qua hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác. Trong
đó, hành vi “giao cấu” được quy định tại khoản 1 của các điều 141, điều 142, điều 143,
điều 144 và điều 145 trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chưa rõ ràng,
110
chưa cụ thể và hó xác định trong thụ lý các vụ án XHTD. Theo Nghị quyết số
06/20119/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TANDTC ngày 01/10/2019 Hướng dẫn
áp dụng một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của BLHS và
việc xét xử vụ án XHTD dưới 18 tuổi, xác định giao cấu là “hành vi xâm nhập của bộ
phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào. Giao cấu
với trẻ em dưới 10 tuổi được xác định là đã hoàn thành hông phụ thuộc vào việc đã
xâm nhập hay chưa xâm nhập (Khoản 1 điều 3)” [71]. Như vậy, so với định nghĩa hành
vi “giao cấu” được hướng dẫn tại Bản tổng kết của TANDTC số 29/HS2 ngày 11-5-
19 7 thì định nghĩa hành vi “giao cấu” được đưa ra trong Nghị quyết số 0 /20119/NQ-
HĐTP đã thu hẹp đáng ể phạm vi.
Việc quy định như vậy vẫn gây ra những hó hăn trong việc thụ lý và xét xử đối
với tội hiếp dâm và tội cư ng dâm trong thực tế, bởi vì việc xác định tội hiếp dâm hoặc
tội cư ng dâm thông qua việc thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ
tình dục hác bằng “dùng v lực, đe dọa dùng v lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể
tự vệ được của nạn nhân” (tội hiếp dâm) hoặc “dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc
mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cư ng” (tội cư ng dâm)
là cách tiếp cận mang nặng tính bằng chứng và tương đối hạn hẹp, điều này gây hó
khăn cho các cơ quan chức năng đồng thời gây hó hăn cho các nạn nhân trong việc
tìm iếm công l thông qua con đường tư pháp chính thức. Bởi hiện nay, PLHS Việt
Nam đang quy định “lợi dụng tình trạng hông thể tự vệ được” hoặc “ở trong tình trạng
quẫn bách phải miễn cư ng” là dấu hiệu phạm tội hiếp dâm hoặc tội cư ng dâm, theo
quy định này các cơ quan chức năng có xu hướng chứng minh hành vi tội phạm căn cứ
vào bằng chứng pháp y, thông qua các thương tích, dấu vết như (chầy xước, bầm dập,
thâm tím….). Quan niệm cho rằng hiếp dâm, cư ng dâm thực sự liên quan đến thương
tích về mặt thể chất khiến nhiều cán bộ tư pháp không tiến hành thụ lý vụ án nếu không
có bằng chứng pháp y hoặc lời khai của các nhân chứng hác. Đa số cán bộ tư pháp hình
sự cho biết họ dựa vào khám nghiệm âm đạo và phát hiện tinh dịch để xác định xem đó
có phải là các dấu vết liên quan đến XHTD hông, tuy nhiên, việc làm này gặp phải
những thách thức lớn trong các vụ án mà nạn nhân nữ trưởng thành đã có quan hệ tình
dục trước khi xảy ra vụ án hay trong những vụ việc mà những nạn nhân không kịp thời
trình báo cơ quan chức năng ngay hi vụ án xảy ra, điều này làm hỏng bằng chứng pháp
y do việc tắm rửa sau khi bị hiếp dâm, bị cư ng dâm hoặc những dấu vết trên cơ thể sau
một vài ngày sẽ phai mờ. Thực tiễn xét xử các vụ án XHTD, đặc biệt XHTD trẻ em gái
cho thấy “việc phát hiện, thu thập chứng cứ, giám định, chứng minh tội phạm gặp rất
nhiều hó hăn do thiếu dấu vết, chứng cứ, tổn thương cơ thể chỉ được ghi nhận ở 24% số
111
vụ” [41, tr. 36], các nghiên cứu của Liên Hợp quốc c ng cho thấy, “7 % nạn nhân của
XHTD ở Việt Nam không có dấu hiệu thương tích rõ rệt” [41, tr. 36] vì các đối tượng có
hành vi XHTD thường rất hôn h o để che đậy hành vi phạm tội của mình, kể cả việc đe
dọa, khống chế nạn nhân. Điều này dẫn đến nhiều PNTEG là nạn nhân của tội hiếp dâm,
cư ng dâm hó được đảm bảo QTCCL, bởi theo các quy định pháp luật hiện hành, “các
cơ quan chức năng thường lấy lý do chứng cứ, dấu vết mờ nên không quyết liệt trong khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử vì sợ oan sai” [144].
Theo Điều 14 BLHS năm 2015 và Khoản Điều 3 Nghị quyết số 06/2019/NQ-
HĐTP vẫn chưa coi hành vi dâm ô đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên là hành vi nguy
hiểm cho xã hội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, bởi vì một số chuyên gia
pháp lý ở Việt Nam cho rằng “Hành vi dâm ô người từ 16 tuổi trở lên thì không phạm
tội mà chỉ áp dụng biện pháp giáo dục”. Do đó, đây vẫn là một hoảng trống pháp l
trong việc đấu tranh, phòng ngừa, xử l tội XHTD để bảo vệ quyền lợi ích chính đáng,
hợp pháp cho phụ nữ. Điều đó hiến cho việc xử l các vụ việc liên quan đến “dâm ô”
gặp nhiều hó hăn trong thực tế như: vụ án ông Nguyễn Khắc Thủy có hành vi dâm ô
với 4 trẻ em tại hu chung cư La eside (phường Nguyễn An Ninh, thành phố V ng Tàu)
phải mất tới 2 năm tòa án mới có phán quyết cuối cùng; vụ án ông Nguyễn Hữu Linh
ôm, hôn bé gái 8 tuổi tại thang máy chung cư Galaxy 9 (quận 4, Thành phố Hồ Chí
inh) đã bị cơ quan công an hởi tố nhưng cơ quan chức năng lại hó xử l bởi nếu căn
cứ theo Điều 146 BLHS năm 2015 thì hành vi của ông Linh được cho rằng chưa đủ yếu
tố cấu thành tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” [93].
Bên cạnh đó, nếu theo khoản 1 Điều 14 BLHS năm 2015 thì người dưới 18 tuổi
(đặc biệt từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi và có đủ năng lực trách nhiệm pháp lý hình sự)
có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi có bị truy cứu TNHS không? Nếu truy cứu
TNHS thì chưa có đủ cơ sở pháp l và như thế sẽ áp dụng theo khung hình phạt nào?
Nếu không bị truy cứu TNHS sẽ hông đảm bảo quyền được đền bù thoả đáng đối với
trẻ em gái bị dâm ô bởi người dưới 18 tuổi. Điều đó cho thấy các nhà làm luật Việt Nam
vẫn chưa coi hành vi “dâm ô đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên và hành vi dâm ô của
người dưới 18 tuổi là hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức phải truy cứu TNHS”. Bên
cạnh đó, sự phổ biến nhanh chóng của công nghệ thông tin và truyền thông đã tạo ra
môi trường mới cho các hành vi xâm hại và bóc lột tình dục thông qua môi trường
mạng. Những năm qua trên thực tế đã có nhiều trường hợp các cá nhân sử dụng môi
trường mạng để ve vãn, dụ dỗ trẻ em thực hiện các hành vi tình dục trực tuyến như phơi
bày bộ phận cơ thể, bộ phận sinh dục hay thực hiện hành vi tình dục hác với mục đích
nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục hay để thực hiện các mục đích inh doanh tình dục
112
hác. Tuy nhiên cho đến nay “BLHS và các luật chuyên ngành hác của nước ta vẫn
chưa đề cập đến các hành vi tình dục trên các thiết bị truyền thông trong hi đó nhiều
quốc gia trên thế giới đã đưa ra các tội mới liên quan đến ve vãn, dụ dỗ tình dục trực
tuyến trẻ em” [262, tr. 6]. Đây có thể được xem là một hoảng trống trong hung pháp
l của Việt Nam liên quan đến đảm bảo QTCCL cho nạn nhân bị XHTD mà hiện tại đa
số vẫn là PNTEG.
Hai là, pháp luật Việt Nam hiện nay chưa quy định rõ ràng các hành vi và biện
pháp chế tài hình sự liên quan đến quấy rối tình dục mặc dù đây là một hiện tượng đã và
đang diễn ra trong thực tế, gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, tinh thần và sự bảo đảm
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhân phẩm, danh dự của PNTEG.
Hiện tại, Bộ luật Lao động năm 2012 đã quy định cấm quấy rối tình dục tại nơi
làm việc (Khoản 2, Điều 8, Điểm c khoản 1 Điều 37, Khoản 1 Điều 183, khoản 4 Điều
182) nhưng lại hông đưa ra định nghĩa rõ ràng cho các hành vi quấy rối tình dục, mặc
dù Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Bộ LĐTBXH, Phòng Thương mại và công
nghiệp Việt Nam đã ban hành Bộ quy tắc ứng xử về quấy rối tình dục tại nơi làm việc
năm 2015, trong đó quy định: “Quấy rối tình dục” là hành vi có tính chất tình dục gây
ảnh hưởng tới nhân phẩm của nữ giới và nam giới, đây là hành vi hông được chấp
nhận, không mong muốn và không hợp lý làm xúc phạm đối với người nhận, và tạo ra
môi trường làm việc bất ổn, đáng sợ, thù địch và khó chịu. Quấy rối tình dục “trao đổi”
(nhằm mục đích đánh đổi) diễn ra khi người sử dụng lao động, người giám sát, người
quản l hay đồng nghiệp thực hiện hay cố gắng thực hiện nhằm gây ảnh hưởng đến quy
trình tuyển dụng, thăng chức, đào tạo, kỷ luật, sa thải, tăng lương hay các lợi ích khác
của người lao động để đổi lấy sự thỏa thuận về tình dục”, tuy nhiên quy định này chỉ
mang tính chất nội bộ trong cơ quan, đơn vị, vì thế không có giá trị về mặt pháp l để
truy cứu trách nhiệm pháp lý khi xảy ra vụ án quấy rối tình dục, điều này tạo ra rào cản
khiến cho nạn nhân không thể trình báo vụ việc và nếu có trình báo các cơ quan chức
năng c ng hông thể xử l bởi thiếu các quy định rõ ràng. ặc dù, Bộ luật Lao động
năm 2019 (có hiệu lực ngày 01/01/2021) đã đưa ra định nghĩ về hành vi quấy rối tình
dục tại nơi làm việc, đó là “hành vi có tính chất tình dục của bất kỳ người nào đối với
người khác tại nơi làm việc mà hông được người đó mong muốn hoặc chấp nhận
(khoản 9, Điều 3) [139], đây lần đầu tiên pháp luật nước ta đưa ra định nghĩa về hành vi
quấy rối tình dục tại nơi làm, nhưng quy định này mới chỉ giới hạn hành vi quấy rối tình
dục ở nơi làm việc, còn hành vi quấy rối tình dụng ở những nơi khác, như nơi công cộng
thì chưa có quy định cụ thể. Hơn nữa, định nghĩa về hành vi quấy rối tình dục trong Bộ
113
luật Lao động năm 2019 vẫn còn rất chung chung, rất hó xác định, điều này dẫn đến
khó xử lý khi xảy ra các hành vi quấy rối tình dục.
Thứ hai, những hạn chế trong xác định chủ thể của hành vi XHTD và xác định các
hung hình phạt.
Hiện tại trong các quy định tại Điều 115, 11 BLHS năm 1999 và Điều 145,
146,147 BLHS năm 2015 đều sử dụng cụm từ “người nào từ đủ 18 tuổi trở lên” (trong
BLHS năm 1999 sử dụng “người nào đã thành niên”) nghĩa là những người từ đủ 18
tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm pháp l về các tội liên quan đến XHTD được quy định
trong Điều 145,14 ,147. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều trường hợp là những người từ
đủ 1 tuổi đến 18 tuổi có hành vi XHTD với người từ đủ 1 đến dưới 1 tuổi: “trong 12
năm từ 200 đến 2017 có đến 1.725 bị cáo phạm các tội xâm phạm tình dục là người
chưa thành niên (dưới 18 tuổi) chiếm 7,79% số lượng bị cáo phạm các tội xâm phạm
tình dục” [96, tr. 120]. Như vậy việc sử dụng cụm từ “người nào từ đủ 18 tuổi trở lên”
trong các Điều 145,14 ,147 của BLHS được cho là đã tạo ra ẽ hở để lọt tội phạm.
Bên cạnh đó, các chế tài xử phạt các hành vi XHTD được quy định trong pháp luật
hiện hành còn chưa tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Các hung
hình phạt đối với tội liên quan đến XHTD được quy định trong các điều từ 141 đến 147
của BLHS năm 2015 được cho là tương đối thấp. Theo ết quả khảo sát thực tiễn cho
thấy, trong tổng số 800 người dân trả lời phiếu hỏi có 2 7 người (chiếm ,4%) cho
rằng các quy định pháp luật liên quan đến hung hình phạt đối với tội XHTD là chưa
hoàn thiện; đồng thời có 1 1 cán bộ tư pháp (chiếm 40, % trong tổng số 00 cán bộ tư
pháp) được hỏi hẳng định quan điểm tương tự, cụ thể là:
(1) Việc xác định hung hình phạt đối với các tội liên quan đến hành vi XHTD
được quy định tại hoản 4 Điều 141 và hoản 4 Điều 14 được cho là hông phù hợp,
gây hó hăn, vướng mắc cho các cơ quan tiến hành tố tụng cụ thể như sau: “Theo quy
định tại điều 141 và Điều 14 thì hung hình phạt liền ề của hoản 4 là hoản , hung
hình phạt liền ề của hoản là hoản 2, hung hình phạt liền ề của hoản 2 là hoản
1” [96, tr. 185]. Tuy nhiên “mức hình phạt hởi điểm tại hoản 4 Điều 141 và hoản 4
Điều 14 lại thấp hơn hình phạt hởi điểm quy định tại hoản . Vì vậy trường hợp bị
cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, được áp dụng các quy định tại Điều 54 thì việc xác định
mức án trong hung hình phạt liền ề nhẹ hơn là rất hó hăn” [96, tr. 185].
(2) Quy định “Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội” tại điểm b khoản Điều
141, Điều 14 , 145, điểm đ hoản Điều 142, điểm c khoản Điều 144 được cho là
chưa đáp ứng được yêu cầu bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD hiện nay. Bởi vì trong
thực tiễn, ngoài trường hợp bị nhiễm H V, người phạm tội XHTD còn mắc nhiều loại
114
bệnh truyền nhiễm nguy hiểm khác (lây nhiễm qua đường tình dục), như bệnh viêm gan
siêu vi B, bệnh lậu, bệnh sùi mào gà, bệnh giang mai, mụn rộp sinh dục, v.v.. Thực tiễn
ở một số quốc gia trên thế giới, người phạm tội bị bệnh truyền nhiễm, không chỉ bệnh
HIV mà các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục khác, mà vẫn phạm tội XHTD thì áp
dụng khung tăng nặng, như trong BLHS Liên bang Nga năm 19 quy định: “phạm tội
hiếp dâm mà kéo sự lây nhiễm của nạn nhân bị bệnh hoa liễu” (điểm c khoản 3 Mục
1 1); “phạm tội tấn công tình dục mà kéo theo sự lây nhiễm của nạn nhân bị bệnh hoa
liễu” (điểm c khoản 2 Mục 132).
(3) Những bất hợp lý trong Điều 142: người nào có hành vi “giao cấu hoặc thực
hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi” bị truy cứu ở khung hình
phạt từ 07 năm đến 15 năm tù (điểm c khoản 1) trong hi đó người có hành vi “giao cấu
hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 10 tuổi” bị phạt tù 20 năm,
tù chung thân hoặc tử hình (điểm c khoản 3). Với quy định này, người nào có hành vi
“giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ 10 tuổi đến dưới 13
tuổi” bị truy cứu ở khung hình phạt từ 07 năm đến 15 năm tù. Tuy nhiên, trong thực tế,
trẻ em nói chung, trẻ em gái nói riêng, đặc biệt là trẻ em dưới 13 tuổi là những người
đang trong độ tuổi phát triển, chưa hoàn thiện về thể chất và tâm sinh lý, cho nên khi bị
XHTD, những nạn nhân này sẽ chịu những thương tổn lâu dài, ảnh hưởng sâu đến sự
phát triển của nạn nhân và gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho gia đình nạn nhân và
cộng đồng xã hội. Vì thế, việc quy định khung hình phạt như tại điểm c khoản 1 Điều
142 là bất hợp lý, cần phải nâng khung hình phạt lên như điểm c khoản 3 của Điều này.
(4) Quy định khung hình phạt tại đối với tại khoản các Điều 145 (tội giao cấu
hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác đối với người từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi),
Điều 146 (tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi), Điều 147 (tội sử dụng người dưới 16
tuổi vào mục đích hiêu dâm) là chưa thoả đáng.
Đối với tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác đối với người từ
13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì hình phạt cao nhất là 15 năm tù trong trường hợp nạn nhân
bị tổn thương cơ thể đến 61% trở lên hoặc bị nhiễm HIV (Khoản Điều 145). Tuy
nhiên, những tổn thương mà nạn nhân phải gánh chịu hết sức nghiêm trọng, ảnh hưởng
đến cuộc sống và tương lai của nạn nhân, đặc biệt trường hợp nạn nhân bị nhiễm HIV
thì còn nghiêm trọng hơn, cho nên với quy định khung hình phạt như vậy chưa đảm bảo
sự đền bù thoả đáng đối với trẻ em gái từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi bị người khác thực
hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.
Ngoài ra, tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi và tội sử dụng người dưới 16 tuổi
vào mục đích hiêu dâm đều có khung hình phạt cao nhất là 12 năm tù đối với trường
115
hợp nạn nhân bị rối loạn tâm thần và hành vi mà tỷ lệ thương tổn cơ thể từ 61% trở lên
hoặc làm nạn nhân tự sát (khoản Điều 146, 147). Với những hậu quả nặng nề như vậy
mà người phạm tội chỉ chịu khung hình phạt tối đa là 12 năm tù thì chưa đủ sức răn đe
đối với người phạm tội và hông đảm bảo sự đền bù thoả đáng đối với NNN bị XHTD.
Thứ ba, những hạn chế trong các quy định pháp luật liên quan đến quy trình tố
tụng hình sự đối với vụ án XHTD ở Việt Nam.
Hiện tại đối với vụ án XHTD, theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành, quá
trình tư pháp hình sự thường trải qua 4 giai đoạn phổ biến là: (1) trình báo/tiếp xúc ban
đầu; (2) điều tra, thu thập chứng cứ; ( ) các quá trình trước xét xử/truy tố và (4) các quá
trình xét xử. Trong mỗi giai đoạn của quá trình tư pháp hình sự đều có những quy định
mà các cơ quan chức năng và các chủ thể liên quan hác phải tuân theo. Tuy nhiên, các
nghiên cứu đã cho thấy nhiều quy định pháp luật liên quan đến quy trình tố tụng hình sự
đối với vụ án XHTD ở Việt Nam đang tạo ra rào cản trên con đường tiếp cận công l
của các NNN bị XHTD, đó là:
Một là, những hạn chế liên quan đến các quy định về xử l thông tin tố giác, tin
báo tội pham tình dục. Với các vụ việc liên quan đến XHTD thì giai đoạn trình báo, tố
giác tội phạm rất quan trọng, tuy nhiên một “lỗ hổng” trong hung pháp l hiện tại của
nước ta là chưa có quy trình tố tụng đặc biệt để xử lý tin tố giác, tin báo tội phạm. Trong
hi đó chúng ta lại thiếu các quy định xử l các cơ quan, tổ chức, cá nhân không tố cáo,
tố giác hành vi XHTD, không thực hiện hoặc thực hiện chậm trễ trách nhiệm bảo vệ
quyền của nạn nhân bị XHTD. Do đó rất nhiều trường hợp các cơ quan nhận tin báo, tố
giác tội phạm đã hông thực hiện hết trách nhiệm của mình trong giải quyết vụ việc
hiến cho việc đảm bảo QTCCL của các nạn nhân gặp nhiều hó hăn, trở ngại. inh
chứng cho trường hợp này là vụ việc XHTD đối với cháu b 5 tuổi ở phường 14, quận
Tân Bình, thành Phố Hồ Chí inh năm 2019, hi mẹ cháu b đưa con đến công an
phường 14 (quận Tân Bình) để trình báo vụ việc thì công an phường đã hông hướng
dẫn đầy đủ các quy trình thủ tục giúp nạn nhân trình báo và giải quyết vụ việc, sau hi
gia đình nạn nhân quyết tâm tố cáo thì lại huyên gia đình nạn nhân giải quyết bằng con
đường tự thỏa thuận, thương lượng bồi thường (Hộp 3.1, Phụ lục 3). Bên cạnh đó,
HTPL nước ta còn thiếu các quy định cụ thể đầu mối tiếp nhận, xử lý thông tin, thông
báo, tố giác và phối hợp xác minh, đánh giá, điều tra về hành vi XHTD, tình trạng mất
an toàn hoặc gây tổn hại, mức độ nguy cơ gây tổn hại đối với NNN; chưa có quy định
về thẩm quyền, thủ tục tách trẻ em ra khỏi cha mẹ, người chăm sóc trong trường hợp
chính cha mẹ, người chăm sóc có hành vi XHTD đối với trẻ em; thiếu hệ thống theo dõi
để đảm bảo những trẻ em này không tiếp tục bị XHTD [94].
116
Hai là, các quy định liên quan đến thủ tục pháp l hiện còn nhiều bất cập. Trong
bối cảnh mà hầu hết các NNN bị XHTD hông hiểu rõ quy trình thủ tục pháp l thì việc
có quá nhiều thủ tục sẽ làm chậm đáng ể thời gian thụ l , hám x t thu giữ dấu hiệu
chứng cứ vụ việc (được minh chứng bởi vụ XHTD đối với cháu b 5 tuổi ở phường 14,
quận Tân Bình, thành Phố Hồ Chí inh năm 2019) (Hộp 3.1, Phụ lục 3). Các quy định
liên quan đến thu thập chứng cứ pháp y và các biên liên quan là một minh chứng cho
thấy quy định pháp l hiện hành ở nước ta còn quá nhiều tầng, nhiều nấc. Đối với công
tác x t xử tội phạm tình dục thì việc thu thập chứng cứ pháp y có nghĩa vô cùng quan
trọng bởi các quy định pháp luật hiện tại hiến cho thủ tục tố tụng của tòa án thường tập
trung vào chứng cứ về dấu vết trên thân thể nạn nhân hoặc bằng chứng pháp y hay độ tin
cậy trong lời khai của nạn nhân để x t xử, tuy nhiên, việc thực hiện hâu này vẫn còn
nhiều phức tạp và còn nhiều lỗ hổng. Hiện nay, quy trình trưng cầu giám định vụ án
XHTD đang được thực hiện theo các bước: (1) sau khi nạn nhân hoặc gia đình trình báo
sự việc, cơ quan điều tra tiến hành lập biên bản lấy lời hai; (2) đưa nạn nhân đến cơ sở
khám, chữa bệnh, thường là các bệnh viện có chuyên khoa sản để khám chứng thương;
(3) sau khi hoàn tất hồ sơ, cơ quan điều tra gửi quyết định trưng cầu giám định pháp y
tình dục đến trung tâm pháp y nhưng thường là muộn vài ngày, có vụ muộn vài tháng.
Khi đó hầu như hông còn dấu vết của hành vi XHTD, trung tâm pháp y chỉ có thể thẩm
định lại các dấu hiệu tổn thương đã được ghi nhận tại các cơ sở khám chữa bệnh trước
đó xem có đúng hông, ết quả này không có tác dụng giúp cơ quan điều tra xác định
đây có phải là vụ án XHTD hay không, “thậm chí có trường hợp thời gian giám định
pháp y sẽ o dài hơn nếu trong quá trình giải quyết vụ án bị cáo được tư vấn của luật
sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp hoặc vì một l do nào đó đã hông đồng ý
với bản kết luận giám định pháp y đã nhận được trước đó nên đã đề nghị với Hội đồng
xét xử cho giám định pháp y lại” [167].
Để rút ngắn và nâng cao hiệu quả của giám định pháp y về XHTD đối với PNTEG
cần được quy định là loại đặc biệt, phải được thực hiện nhanh, nhưng, Luật Giám định
tư pháp năm 2012 (có hiệu lực từ ngày 01/01/201 ) đã hông quy định việc trưng cầu
giám định pháp y về XHTD đối với PNTEG là loại đặc biệt, phải được thực hiện nhanh
để xác định thủ phạm, trong hi đó việc thực hiện quy trình thủ tục này lại hông hề đơn
giản với các nạn nhân nữ (thời gian kéo dài, những dấu vết trên cơ thể nạn nhân bị xoa
mờ, vùng kín bị hóa sẹo, hông thu được tinh dịch…), điều đó hiến cho việc giải quyết
vụ án bị o dài, gặp nhiều hó hăn thậm chí dẫn đến bỏ lọt tội phạm hoặc xử lý không
đúng tội danh.
117
Ba là, những hạn chế trong các quy định liên quan đến cung cấp chứng cứ chứng
minh tội phạm XHTD. Việc thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm XHTD là trách
nhiệm của cơ quan điều tra, tố tụng và x t xử, tuy nhiên quy định của PLHS hiện hành
quy định nạn nhân phải có trách nhiệm chứng minh mình bị XHTD trái ph p. Để chứng
minh mình bị hiếp dâm hoặc bị cư ng dâm, nạn nhân phải chứng minh là đã bị quan hệ
tình dục “ngược lại muốn” của bản thân. Điều này đang đặt trách nhiệm chứng minh
tội phạm lên nạn nhân và biến hành vi của nạn nhân thành yếu tố trung tâm trong việc
xác định tội phạm tình dục, thực tế này hiến cho quá trình tố tụng trở nên hó hăn, đặc
biệt với trẻ em gái bị XHTD và nó hiến cho nạn nhân e ngại trình báo vụ án với cơ
quan chức năng.
Bốn là, hệ thống pháp luật của nước ta còn “thiếu các quy định về bảo vệ nạn nhân
trong quá trình thu thập chứng cứ” [193]. Hệ thống pháp luật đã quy định về việc bảo
mật thông tin, việc giữ bí mật đời sống riêng tư cho nạn nhân tuy nhiên “những quy định
này hiện chưa đủ chi tiết đồng thời hệ thống pháp luật vẫn còn thiếu các quy định bảo vệ
người tố giác tội phạm” [206]. Do vậy, các quy định pháp luật của nước ta hiện nay
chưa chú trọng đầy đủ đến đặc tính dễ bị tổn thương của NNN bị XHTD đặc biệt là trẻ
em gái trong quá trình TTHS. Điều này sẽ tạo ra rào cản hiến NNN bị XHTD giữ bí
mật hông hai báo vụ việc với cơ quan chức năng.
Thứ tư, những hác biệt trong các quy định pháp luật Việt Nam với công ước quốc
tế về bảo vệ quyền trẻ em.
Hiện tại, các quy định của công ước quốc tế về QCN, quyền PNTEG đã được nội
luật hóa trong HTPL nước ta. Tuy nhiên, việc định nghĩa về “trẻ em” trong pháp luật
hiện hành nước ta chưa phù hợp với CRC: nếu như CRC quy định “trẻ em là người dưới
18 tuổi trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm
hơn” [97] thì Luật Trẻ em Việt Nam năm 201 lại quy định “trẻ em là người dưới 16
tuổi (Điều 1)” [135].
ặc dù BLHS, BLTTHS hiện hành đã công nhận người dưới 18 tuổi cần được
bảo vệ và hỗ trợ đặc biệt, nhất là trong quá trình tố tụng, tuy nhiên, rất nhiều quy định
liên quan đến định hung tăng nặng đối với các tội liên quan đến XHTD trong BLHS
mới chỉ áp dụng cho trẻ ở độ tuổi dưới 1 , như: Điều 142 BLHS quy định tội Hiếp dâm
người dưới 1 tuổi; Điều 144 quy định tội cư ng dâm người từ đủ 1 đến dưới 1 tuổi;
Điều 145 quy định tội giao cấu với người từ đủ 1 tuổi đến dưới 1 tuổi, v.v.. Như vậy,
mặc dù BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung các điều khoản về hành vi XHTD, nhưng
so với công ước CRC và Nghị định thư bổ sung về việc xác định trẻ em là người dưới
18 tuổi thì những quy định trong BLHS hiện hành vẫn cần tiếp tục hoàn thiện.
118
Thứ năm, một số vướng mắc liên quan đến các quy định về sự vận hành của các
thiết chế bảo quyền của NNN bị XHTD.
Để đảm bảo QTCCL của NNN bị XHTD thì tòa án phải là cơ quan x t xử độc lập,
phải tạo ra cơ chế để các thẩm phán được độc lập trong quá trình x t xử mà hông bị chi
phối , bóp m o, can thiệp bởi bất cứ cơ quan hay tổ chức nào ngoài các quy định trong
hiến pháp và pháp luật. Ở nước ta, nguyên tắc toà án độc lập trong x t xử được ghi nhân
trong Hiến pháp, Luật Tổ chức TAND; Bộ luật TTHS, tuy nhiên, trong một số quy định
của pháp luật và thực tiễn vẫn có những yếu tố làm giảm đi tính độc lập xét xử của tòa
án. Về mặt tổ chức, đó là việc bổ nhiệm thẩm phán theo nhiệm kỳ chứ không phải là dài
hơn hoặc chế độ thẩm phán suốt đời; thêm vào đó, chế độ đãi ngộ đối với đội ng thẩm
phán, nhân viên tư pháp chưa bảo đảm tính đặc thù của nghề nghiệp. Ngoài ra, việc tổ
chức tòa án các cấp tỉnh và cấp huyện có mối quan hệ mật thiết với cấp uỷ và chỉnh
quyền địa phương c ng là yếu tố bị cho là ảnh hưởng đến tính độc lập của tòa án. Hiện
tại việc bổ nhiệm thẩm phán ở nước ta dựa rất nhiều vào các tiêu chuẩn về chính trị, tư
tưởng, cùng với đó quy trình bổ nhiệm có sự tham gia của quá nhiều chủ thể ngoài
ngành, đặc biệt là cấp uỷ địa phương. Tất cả các quy định đó khiến các thẩm phán hó
giữ được tính độc lập trong hoạt động nghề nghiệp nếu như muốn được bổ nhiệm hoặc
tái bổ nhiệm.
3.2.1.2. Thiết chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị
xâm hại tình dục ở Việt Nam
Bên cạnh những kết quả đạt được đó, các thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD ở Việt Nam còn có những hạn chế sau:
Thứ nhất, thiết chế điều tra ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ những hạn chế làm giảm
khả năng thực thi công lý của NNN bị XHTD.
ô hình cơ quan điều tra hiện nay c ng bộc lộ một số hạn chế, như: mô hình các
cơ quan điều tra ở nước ta còn do “nhiều đơn vị ở các bộ, ngành khác nhau cùng thực
hiện nhiệm vụ điều tra tố tụng; chưa xác định rõ cơ quan giúp Chính phủ thống nhất
quản l nhà nước về hoạt động điều tra” [8], đồng thời, việc tổ chức cơ quan điều tra
trong thực tế ở nhiều nơi xảy ra tình trạng “nhiều cơ quan điều tra số lượng án ít, nhưng
vẫn phải tổ chức đầy đủ bộ máy dẫn đến lãng phí về nhân lực và ngân sách” [8], thêm
vào đó, trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan này “chưa tách bạch rõ nhiệm vụ
phòng ngừa tội phạm và điều tra tố tụng; việc kết hợp giữa hoạt động trinh sát và điều
tra tố tụng chưa đúng yêu cầu của Chiến lược CCTP” [8]. Thêm vào đó, cơ quan điều tra
thuộc VKSND tối cao sẽ bộc lộ nh ng bất cập đó là “VKSND tối cao vừa làm nhiệm vụ
kiểm sát hoạt động tư pháp vừa có cơ quan điều tra chuyên trách nhưng không có cơ chế
119
kiểm tra từ bên ngoài nên hó đảm bảo tính khách quan trong hoạt động điều tra; chất
lượng điều tra của cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao còn hạn chế, hiệu
quả chưa cao” [8]. Ngoài ra, “việc giao cho nhiều cơ quan hác thực hiện một số hoạt
động điều tra với quyền hạn lớn (được khởi tố vụ án, khởi tố bị can, điều tra chuyển viện
kiểm sát truy tố) dẫn đến có nhiều cơ quan có thẩm quyền tố tụng” [8]. Những hạn chế
này sẽ làm giảm chất lượng hoạt động của các cơ quan điều tra trong việc thụ lý và giải
quyết các vụ án XHTD PNTEG.
Thứ hai, thiết chế tư pháp chính thức ở Việt Nam vẫn còn những hạn chế trong tổ
chức và hoạt động, làm suy giảm khả năng sẵn sàng bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD.
Tổ chức và hoạt động bộ máy của các TAND và VKSND chưa phù hợp với yêu
cầu CCTP và bảo vệ QCN, đặc biệt là TAND cấp huyện; các cơ quan điều tra vẫn còn
nhiều đầu mối gây hó hăn trong quá trình iểm tra, giám sát việc tiếp nhận, giải quyết
tin báo tội phạm, điều tra các vụ án XHTD PNTEG. Hiện nay Toà gia đình và người
chưa thành niên mới được triển khai thành lập ở TAND cấp tỉnh (mới chỉ thành lập
được 38 Toà), còn rất nhiều tỉnh chưa thành lập được Toà chuyên trách này, đặc biệt
chưa có TAND cấp huyện nào thành lập được toà chuyên trách này vì thiếu điều kiện
cứng (phải đảm bảo đủ 50 vụ/năm mới được xem xét thành lập). Chính vì thế, việc thụ
lý và xét xử các vụ án XHTD PNTEG vẫn sử dụng cơ sở vật chất chung nên chưa bảo
đảm yêu cầu của phòng xử án thân thiện đối với các vụ án XHTD PNTEG.
Thứ ba, các thiết chế tư pháp chính thức ở Việt Nam vẫn có những “rào cản” nhất
định đối với NNN bị XHTD trong quá trình tìm kiếm và đạt được sự đền bù thoả đáng
những thiệt hại mà họ gánh chịu do hành vi XHTD gây ra. Bên cạnh đó, hệ thống tư
pháp chưa thực sự tạo ra đầy đủ các điều kiện cho NNN bị XHTD TCCL, vì thế, nhiều
NNN bị XHTD hoặc họ phải bỏ cuộc giữa chừng trong quá trình giải quyết vụ án
XHTD hoặc họ không trình báo với cơ quan chức năng mà tự hoà giải, dàn xếp với thủ
phạm XHTD. Nhiều toà án chưa tổ chúc xét xử được vụ án nào theo mô hình toà thân
thiện đối với những vụ án XHTD trẻ em gái, như ở Hà Tĩnh, Sơn La, Vĩnh Long [168].
Thứ tư, thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam vẫn còn chưa
đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn, một số nơi, chất lượng tốt của hệ thống tư pháp chưa
được đảm bảo.
Theo khảo sát thực tế cho thấy vẫn còn tỷ lệ há cao cán bộ cơ quan tư pháp có
những định iến nhất định với những NNN bị XHTD, điều này tạo ra những hó hăn
trong quá trình họ tiếp nhận và xử l vụ việc. Vẫn còn tỷ lệ đáng ể cán bộ tư pháp cho
rằng “XHTD một phần do lỗi của nạn nhân” hay nhiều người quan niệm rằng “phụ nữ
120
và trẻ em gái hi bị xâm hại mất đi trinh tiết rất hó có được cuộc sống hôn nhân hạnh
phúc, do đó việc công bố, công hai vụ việc liên quan đến XHTD chỉ làm nạn nhân tổn
thương thêm” (Trích biên bản phỏng vấn Kiểm sát viên VKSND huyện Phú Tân, Cà
Mau). Việc có định iến như vậy sẽ hiến các cơ quan chức năng hông nỗ lực để đưa
các vụ việc ra ánh sáng đồng thời chính cán bộ có thể huyên các nạn nhân sử dụng con
đường thương lượng hòa giải nhằm chấm dứt nỗi đau một cách nhanh chóng đặc biệt
trong những tình huống hi việc xác định dấu vết chứng cứ gặp nhiều hó hăn. Tuy
nhiên, nếu vụ việc hông được đưa ra ánh sáng và hông được x t xử thông qua con
đường tư pháp hình sự chính thức thì nạn nhân rất hó tìm lại được công l đồng thời họ
có thể trở thành nạn nhân bị xâm hại nhiều lần. Nhiều người dân và cả cán bộ tư pháp
c ng cho rằng “cán bộ tiếp nhận, giải quyết vụ việc liên quan đến XHTD thường ứng xử
thiếu sự đồng cảm với nạn nhân” hay “cán bộ tiếp nhận giải quyết vụ việc liên quan đến
xâm hại tình dục thường hông nhạy cảm với những trải nghiệm, sang chấn tâm l mà
nạn nhân bị xâm hại tình dục phải chịu đựng”; còn hiện tượng n tránh đùn đẩy giữa các
cơ quan x t xử (Bảng .4, Bảng .5, Phụ lục 2).
Qua nghiên cứu hồ sơ bản án cho thấy, năng lực, phẩm chất đạo đức trong thực thi
nhiệm vụ của các cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp như cơ quan điều tra, VKSND,
TAND là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến hả năng đảm bảo công l cho
NNN bị XHTD trên thực tế. Có nhiều vụ việc do cơ quan điều tra bỏ lọt chứng cứ chứng
minh tội phạm dẫn đến hậu quả rất nghiêm trọng (Hộp 3.2, Phụ lục 3). Những sai xót
đến từ cơ quan điều tra có thể xuất phát do năng lực thực thi nhiệm vụ của cán bộ điều
tra, có thể do cán bộ điều tra thiếu trách nhiệm hay do những tiêu cực hác (Hộp 3.3,
Phụ luc 3).
Thực tế, x t xử tôi hiếp dâm ở nước ta cho thấy sự yếu m trong năng lực thực thi
nhiệm vụ của một bộ phận đội ng cán bộ các cơ quan tư pháp có ở tất cả các giai đoạn
của quá trình tố tụng như: (i) Giai đoạn tiếp xúc ban đầu, “nạn nhân hông được tiếp
đón, bị răn đe hoặc làm nản lòng ngay từ khi bắt đầu trình báo” [41, tr. 32]; (ii) Giai
đoạn trình báo, “thiếu tôn trọng và thiếu nhạy cảm với nạn nhân, nạn nhân bị yêu cầu kể
lại câu chuyện của mình nhiều lần; việc trình báo bị từ chối; hoặc có tiếp nhận trình báo
nhưng hông tiến hành điều tra hoặc trì hoãn việc điều tra; cảnh sát khuyến khích hòa
giải và dàn xếp riêng; hoặc nạn nhân rút đơn” [41, tr. 32], thái độ của một số ít cán bộ
khi tiếp nhận tin báo về tội phạm XPTD trẻ em “còn thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm,
gây hó hăn, phiền hà về thủ tục trình báo, làm ảnh hưởng rất lớn đến tâm l người tố
giác” [157, tr. 56], một số trường hợp khác do bệnh thành tích mà cơ quan Công an đã
đùn đẩy trách nhiệm tiếp nhận tin báo tội phạm, dẫn đến người phạm tội cảm thấy phiền
121
hà, phức tạp nên không báo tin [157, tr. 56]; (iii) Giai đoạn điều tra, “ hông điều tra
hoặc điều tra hông đầy đủ; tiếp cận hạn chế hoặc hạn chế sử dụng chứng cứ pháp y;
thiếu dịch vụ trợ giúp, hỗ trợ hoặc bảo vệ; không có hoặc rất ít trao đổi thông tin giữa
các nhà cung cấp dịch vụ trong hệ thống tư pháp hình sự và nạn nhân; cán bộ điều tra
quyết định không khởi tố; hoặc nạn nhân rút đơn” [41, tr. 32], công tác giám định còn
hạn chế, đôi hi ết luận giám định hông đúng, hông chính xác, có những vụ án, cùng
thời điểm, giám định hai nơi thì cho hai ết quả khác nhau. Bên cạnh đó, c ng có trường
hợp do lợi ích cá nhân, trong một số vụ án, cán bộ điều tra đã hướng cho người phạm tội
và người bị hại tự nguyện thoả thuận với nhau về việc bồi thường để không bị khởi tố vụ
án, từ đó bưng bít thông tin làm cho người phạm tội không bị xử l theo quy định pháp
luật” [157, tr. 56]; (iv) Giai đoạn trước xét xử và xét xử, “ hông có hoặc chỉ có hỗ trợ
hạn chế cho nạn nhân tại tòa; thủ tục kéo dài; tập trung vào chứng cứ pháp y hoặc thể
chất mà không có sự đồng thuận của nạn nhân; công tố viên hoặc thẩm phán quyết định
hông tiếp tục vụ án; hoặc tòa tuyên bị cáo trắng án” [41, tr. 32], năng lực nghề nghiệp
của một số chủ thể tiến hành tố tụng còn hạn chế dẫn đến việc tiếp nhận, xử lý thông tin
chậm, đánh giá chứng cứ còn thiếu sót chưa đầy đủ [157, tr. 56]. Ngoài ra, các thiết chế
tư pháp chính thức hiện vẫn gặp hó hăn trong việc trang bị cơ sở vật chất thân thiện
với NNN như hệ thống phòng xử án riêng, các phòng xử án với thiết ế đảm bảo mô
hình tòa án gia đình và người chưa thành niên.
Thứ năm, các thiết chế ở Việt Nam chưa bảo đảm bảo cung cấp đầy đủ các biện
pháp khắc phục cho NNN bị XHTD.
Thực tiễn hoạt động của các cơ quan tư vấn TGPL ở Việt Nam cho thấy đa số
người dân hông biết đến những cơ quan có chức năng trợ giúp tư vấn pháp l cho nạn
nhân bị XHTD. Kết quả khảo sát thực tiễn cho thấy 88,8% người dân trong mẫu nghiên
cứu hẳng định rằng họ hông biết cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng tư vấn, trợ
giúp pháp l cho nạn nhân bị XHTD; ,1% người dân hẳng định hông có cơ quan, tổ
chức nào thực hiện chức năng tư vấn, trợ giúp pháp l cho nạn nhân bị XHTD tại địa
phương của họ và 42, % người dân trả lời rằng có rất ít các cơ quan, tổ chức thực hiện
chức năng này. Ngoài ra, 24,1% người dân cho rằng chi phí mà nạn nhân phải bỏ ra để
được tư vấn trợ giúp pháp l là há cao; bên cạnh đó, người dân và cán bộ đều có đánh
giá hông cao về tính hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan tư vấn trợ giúp pháp l .
Với thang điểm 5, điểm trung bình mà người dân đánh giá về hiệu quả hoạt động của cơ
quan tư vấn trợ giúp pháp l là điểm ở mức điểm trung bình, điểm trung bình cán bộ
các thiết chế tư pháp đánh giá là 2,5 điểm (Bảng .6, Phụ lục 2).
122
Thứ sáu, khả năng chịu trách nhiệm của hệ thống tư pháp còn thấp, chưa đáp ứng
kịp thời yêu cầu bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam hiện nay.
Cơ chế giám sát các thiết chế tư pháp trong thực hiện các chức năng bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD chưa thực sự chặt chẽ. Hiện tại việc giám sát được thực
hiện theo ngành dọc và giám sát ngang giữa chính quyền địa phương với hoạt động tư
pháp đồng thời việc công hai công bố bản án đảm bảo cho sự tham gia giám sát của
nhân dân. Tuy nhiên hệ thống giám sát để theo dõi các biện pháp mà cơ quan nhà nước
giải quyết các vụ án được trình báo hiện còn nhiều hạn chế. Trong hi đó “Các nhà
cung cấp dịch vụ tư pháp hình sự không phải chịu trách nhiệm giải trình khi thực hiện
các biện pháp ứng phó và dịch vụ dựa trên quyền, và lấy nạn nhân làm trung tâm”, điều
này làm giảm hiệu quả của cơ chế giám sát. Các hoạt động giám sát của QH và HĐND
các cấp chưa được tiến hành thường xuyên, đôi hi còn mang tính hình thức, chủ yếu
dựa vào báo cáo của các cơ quan chịu sự giám sát, vì thế kết luận giám sát còn chung
chung; chưa quy rõ trách nhiệm cho cá nhân, người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong
thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ PNTEG khỏi bị XHTD; việc công hai, minh
bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan chưa cao nên Nhân dân hó tham gia vào
giám sát hoạt động giải quyết các vụ án XHTD của các cơ quan tư pháp. Việc giám sát
hoạt động của cơ quan thi hành án đang là một hó hăn hiến cho “việc thực hiện các
cam kết pháp l thường rất chậm trễ. Thông thường, cơ sở hạ tầng pháp lý bao gồm
cảnh sát, quan tòa và cơ quan tư pháp hông có biện pháp bảo vệ đầy đủ, bồi thường và
công bằng cho PNTEG bị bạo lực” [41, tr. vi].
3.2.1.3. Nguồn lực để vận hành cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý
của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam
Chất lượng nguồn nhân lực của một số thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD ở một số bộ phận, một số địa phương chưa được bảo đảm để đáp ứng yêu cầu và
nhiệm vụ. Hiện tại, các thiết chế tư pháp phi chính thức thiếu nguồn lực để thực hiện các
hỗ trợ, trợ giúp và truyền thông cho nạn nhân khi tham gia vào những hệ thống và quy
trình tư pháp hình sự phức tạp. Bên cạnh đó mặc dù số lượng của các luật sư ở nước ta
hông ngừng tăng lên tuy nhiên sự thiếu hụt về số lượng và chất lượng của đội ng luật
sư vẫn là một rào cản hiến cho dịch vụ mà các luật sư cung cấp cho nạn nhân vẫn chưa
đảm bảo; số lượng luật sư của nước ta hiện phân bổ hông đồng đều giữa thành thị và
nông thôn, chủ yếu vẫn tập trung ở các thành phố lớn, nhất là Thành phố Hồ Chí Minh
và Hà Nội. Tỷ lệ số luật sự/số dân ở Việt Nam hiện nay còn thấp nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới, nếu như “năm 2015 cả nước có khoảng 9000 luật sự và gần 5000
người tập sự trong hơn 4000 tổ chức hành nghề luật sư” [120, tr. 97]; đầu năm 2019 “đã
123
tăng lên 12.821 luật sư, hành nghề ở hơn 4000 tổ chức hành nghề luật sư” [186, tr. 92]
và đến cuối năm 2019 là 1 .859 luật sư (Biểu đồ 3.1, Phụ lục 2), theo đó, tỷ lệ số luật
sự/số dân ở Việt Nam hiện nay là 1/6962, trong hi đó tỷ lệ này ở “Nhật Bản là 1/4500,
Thái Lan là 1/1500, Mỹ là 1/250” [186, tr. 93]. Tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam còn
nhỏ lẻ, chủ yếu dưới hình thức văn phòng; hiệu quả tham gia tố tụng chưa cao; nhiều
luật sư vẫn gặp khó trong quá trình hành nghề, nhất là giai đoạn điều tra trong các vụ án
hình sự. Ở một số địa bàn, nơi xảy ra nhiều vụ án các thẩm phán, công chức khác của
tòa án hay các cán bộ viện iểm sát, cơ quan điều tra đôi hi bị quá tải, áp lực về công
việc.
Số lượng án trung bình trong năm (năm 2015, 201 và 2017) cho thấy số
lượng các loại vụ án phải giải quyết của Tòa án cấp này tăng hàng năm trung bình
,5%/năm. Thực tế hiện nay, mỗi Thẩm phán phải giải quyết, xét xử trung bình 8
vụ, việc/tháng, cá biệt có nơi 12-14 vụ/tháng, như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
inh, Đồng Nai, Bình Dương... Từ đó cho thấy số lượng Thẩm phán tại các Tòa
án nhân dân cấp huyện hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu công tác xét xử, giải quyết
các loại vụ, việc thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp này [163].
Hiện tượng “thiếu cảnh sát và điều tra viên là nữ” [41, tr. 33] hiến cho quá trình
tiếp nhận xử l vụ việc liên quan đến XHTD gặp hó hăn. ột số cán bộ viện iểm sát
mà tôi phỏng vấn cho biết “Do thiếu cán bộ nữ, do quan niệm, trên thực tế đối với các
vụ án hình sự nói chung các vụ liên quan đến XHTD với phụ nữ và trẻ em gái nói riêng
vẫn được giao cho cán bộ nam giới đảm nhiệm. Điều này gây hó hăn nhất định bởi
cán bộ là nam giới thường hó tiếp xúc thân thiện với nạn nhân đặc biệt là trẻ em gái”
(Trích biên bản phỏng vấn sâu cán bộ VKSND Cần Thơ).
Các tổ chức hỗ trợ cộng đồng hay các cơ quan, đơn vị có chức năng bảo vệ quyền
của phụ nữ và trẻ em hiện còn thiếu các cán bộ chuyên trách có đủ hả năng cung cấp
các dịch vụ tư vấn, trợ giúp về mặt tâm l để các nạn nhân nữ bị XHTD có thể vượt qua
được những sang chấn tâm l . Tại các cộng đồng đặc biệt ở đô thị nhỏ hay các vùng
nông thôn hông có các trung có hả năng cung cấp dịch vụ trợ giúp tư vấn tâm l cho
nạn nhân bị bạo lực tình dục. Cán bộ phụ trách bình đẳng giới và bảo vệ quyền trẻ em
thuộc Sở LĐTBXH tỉnh Kiên Giang cho biết “Hiện nay hó hăn lớn nhất trong quá
trình hỗ trợ PNTEG bị XHTD là việc thiếu các chuyên gia hay các nhân viên có hả
năng tư vấn, trợ giúp tâm l ở cấp cộng đồng” (Trích biên bản phỏng vấn cán bộ Sở
LĐTBXH tỉnh iên Giang).
Ngoài ra, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc ở nhiều cơ
quan tư pháp chính thức, đặc biệt cấp huyện của nhiều địa phương còn thiếu do kinh phí
124
hạn hẹp nên việc đầu tư còn mang tính chắp vá, chưa có tính thống nhất, đồng bộ trong
cả hệ thống.
3.2.2. Hiệu lực, hiệu quả trong vận hành cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp
cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam vẫn còn thấp
3.2.2.1. Hiệu lực của cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn
nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, các thiết chế bảo đảm QTCCL của
NNN bị XHTD ở Việt Nam vẫn còn sự thiếu nhịp nhàng trong phối hợp, gây ra những
cản trở nhất định trong thực thi công lý của các thiết chế này.
Chính “việc phân lập các chức năng vốn phải gắn bó với nhau chặt chẽ tạo ra khó
hăn về cơ cấu trong quản lý hệ thống tư pháp” [95, tr. 127]; cán bộ thuộc các cơ quan
riêng rẽ cùng thực hiện thẩm quyền nhất định đối với các phần khác nhau của hệ thống
tư pháp hiến cho việc phối hợp để thực hiện nhiệm vụ nhiều hi gặp hông ít hó hăn.
Bởi bất kỳ hoạt động phối hợp nào c ng cần được luật hóa và dù có được luật hóa thì
việc phối hợp, “sự hợp tác của số lượng lớn các cơ quan mà mỗi cơ quan trong số đó
đều có quyền lợi trong việc bảo vệ quan điểm của mình” sẽ là một thách thức hông nhỏ
đối với sự vận hành một cách trơn tru cho hệ thống cơ quan tư pháp.
Trên thực thế luôn xuất hiện những vấn đề nội tại trong cơ chế phối hợp giữa các
cơ quan tư pháp như: Tòa án không có khả năng buộc các điều tra viên phải chịu trách
nhiệm về hành vi của họ trong giai đoạn điều tra hoặc khả năng giám sát một cách hiệu
quả các hoạt động điều tra; điều tra viên có rất ít động cơ để hợp tác với các bên hác.
ột thẩm phán tham gia phỏng vấn sâu cho biết “Việc phối hợp giữa các bên trong điều
tra, truy tố, x t xử vụ án gặp nhiều hó hăn đặc biệt với các vụ án có tính chất phức tạp.
ặc dù có cơ chế phối hợp đôi hi việc nghị án giữa ba bên tạo ra những rào cản nhất
định với quá trình xử l vụ án” (Trích biên bản phỏng vấn thẩm phán TAND TP Rạch
Giá, Kiên Giang).
3.2.2.2. Hiệu quả của cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn
nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam
Bên cạnh những ưu điểm trên, cơ chế này vẫn chưa đem lại hiệu quả thực sự trong
bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam, đó là:
Thứ nhất, tình trạng ẩn của tội phạm liên quan đến XHTD vẫn còn nhiều.
Theo báo cáo của tổ chức Y tế thế giới (WHO), Đông Nam là một trong những
hu vực có tỷ lệ phụ nữ bị XHTD cao thứ hai trên thế giới sau châu Phi; 40,2% phụ nữ
từ 15 tuổi trở lên ở hu vực này ghi nhận đã từng bị XHTD do chồng, bạn tình hay
người lạ gây ra [41, tr. 10]. Tại Việt Nam, theo số liệu của Vụ thống ê tổng hợp của
125
TAND tối cao, số vụ án liên quan đến XHTD PNT G liên tục tăng trong những năm
qua: nếu như trong 06 năm giai đoạn 2008 – 2013, trung bình mỗi năm có 1.626,5 vụ,
đến giai đoạn 2014-2019, trung bình mỗi năm có 1.957 vụ (tăng 20,32%); số NNN bị
XHTD giai đoạn 2008-2012, trung bình mỗi năm có 1.639,5 nạn nhân, đến giai đoạn
2014-2019, trung bình mỗi năm có 1.962,3 nạn nhân (tăng 19,69%) (Bảng .1, Phụ lục
2). Trong đó, số vụ XHTD trẻ em gái và số nạn nhân là trẻ em gái chiếm đa số trong các
vụ XHTD: trong cả giai đoạn 2014-2019, số vụ XHTD trẻ em gái và nạn nhân là trẻ em
gái lần lượt chiếm 77,227% và 77,232% so với tổng số vụ XHTD và tổng số NNN, cao
hơn so với giai đoạn 2008-2013 (chiếm tỷ lệ làn lượt là 76,207% và 76,239%); bên cạnh
đó, số vụ XHTD trẻ em gái và nạn nhân là trẻ em gái liên tục tăng trong những năm qua,
số vụ và nạn nhân năm 2019 tăng 16,6% so với năm 2014 (Bảng .1, Phụ lục 2).
Trong tổng số các vụ XHTD đã được xử lý, các vụ XHTD trẻ em gái chiếm đa số
(gấp 3,45 lần so với tổng số vụ và tổng số NNN bị XHTD), tính chất của các vụ xâm hại
tình dục trẻ em có chiều hướng diễn biến phức tạp, nghiêm trọng. Trẻ em bị XHTD xảy
ra ở nhiều độ tuổi, do nhiều loại đối tượng gây ra, trong đó phần lớn là người quen, họ
hàng, hàng xóm, không chỉ người Việt Nam mà cả người nước ngoài và có cả trường
hợp xâm hại trẻ em trên môi trường mạng. Trong hi đó, nạn nhân là trẻ em gái hi bị
dụ dỗ, bị đe dọa phần lớn do các em hông nhận thức một cách đầy đủ về hành vi mà
người phạm tội gây ra với mình, đồng thời, không dám tố cáo với cơ quan chức năng
hoặc nói cho người thân mình biết. Nhiều vụ án gia đình hông cung cấp thông tin,
thông báo, tố giác tới các cơ quan chức năng, vì sợ ảnh hưởng đến trẻ em và gia đình.
Thủ phạm có sự đe doạ hoặc dùng tiền mua chuộc, hoà giải với gia đình của nạn nhân.
Vì thế, các cơ quan chức năng gặp nhiều hó hăn trong việc đấu tranh, xử lý kịp thời
các vụ XHTD trẻ em gái.
ặc dù số vụ án liên quan đến XHTD đối với PNTEG bị đưa ra x t xử ngày càng
tăng, tuy nhiên, những con số nêu trên chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm” bởi còn rất
nhiều vụ việc liên quan đến XHTD phụ nữ và trẻ em gái vẫn chưa được phát hiện và xử
l bởi các cơ quan chức năng. Ngay cả khi các vụ án được trình báo thì các bước tiếp
cận hệ thống tư pháp chính thức (hay “chuỗi công l ”) c ng thường bị ngắt giữa chừng
với tỷ lệ bỏ cuộc cao và chỉ có vài vụ án bị kết án, do vậy tỷ lệ tội phạm ẩn là rất lớn [41,
tr. 2]. Kết quả khảo sát thực tiễn chỉ ra rằng vẫn còn 21,5% người dân hông lựa chọn
việc giải quyết vụ việc thông qua cơ chế chính thức; 15, % người dân lựa chọn giữ bí
mật chuyện này nhằm bảo vệ thanh danh gia đình và hạnh phúc về sau cho nạn nhân;
28% lựa chọn việc thương lượng hòa giải với ẻ phạm tội và 15,9% lựa chọn giải quyết
126
thông qua cơ chế phi chính thức như tổ hòa giải, công đoàn, các tổ chức truyền thống tại
cộng đồng (Biểu đồ .2, Phụ lục 2).
Kết quả phỏng vấn đội ng cán bộ trong hệ thống cơ quan tư pháp c ng cho thấy
ết quả tương tự. Rất nhiều cán bộ tư pháp mà chúng tôi phỏng vấn cho biết: “Nạn nhân
của những vụ án liên quan đến XHTD thường lựa chọn con đường giữ ín chuyện này
hay lựa chọn việc thương lượng hòa giải với ẻ phạm tội, sau hi thương lượng hòa giải
hông thành họ mới đem vụ việc trình báo cho các cơ quan chức năng” (Trích biên bản
phỏng vấn Thẩm phán trung cấp TAND tỉnh Hải Dương). Bên cạnh đó, kết quả khảo sát
thực tiễn cho thấy, hi trở thành nạn nhân bị hiếp dâm mà ẻ phạm tội là người lạ có
25% lựa chọn giải quyết vụ việc thông qua thương lượng hòa giải hay giữ ín chuyện
này; đối với trường hợp nạn nhân bị người thân của mình hiếp dâm thì chỉ có 4 % người
dân hông lựa chọn việc trình báo vụ việc cho các cơ quan chức năng mà lựa chọn giải
quyết thông qua con đường thương lượng, hòa giải hay giữ ín chuyện này, trong đó
2, % lựa chọn giữ ín chuyện này, 0,4% lựa chọn việc tìm iếm sự tư vấn giúp đ của
người thân, 8% tìm cách thương lượng hòa giải với người đó để được đền bù và 2,1%
lựa chọn giải pháp hác như bỏ đi, cắt đứt liên hệ với người đó. Đối với trường hợp bị
cư ng dâm, nếu người phạm tội là người lạ có 70,8% người dân lựa chọn trình báo vụ
việc cho các cơ quan chức năng, nhưng nếu người phạm tội là người thân thì chỉ có
5 ,9% người dân lựa chọn việc trình báo vụ việc, nghĩa là còn 4 ,1% người dân lựa
chọn việc giữ im lặng hay chọn con đường thương lượng hòa giải và tìm iếm sự tư vấn
giúp đ của người thân (Bảng .14, Phụ lục 2).
Thông thường hi người bị bạo hành tình dục trong gia đình là phụ nữ họ thường
có thái độ cam chịu hoặc không dám tố cáo với chính quyền địa phương, tổ chức đoàn
thể đặc biệt hi người xâm hại họ là người thâm quen. Họ hông sẵn sàng cung cấp
chứng cứ chứng minh là họ bị XHTD hi cơ quan chức năng yêu cầu. Điều này gây
nhiều hó hăn cho tòa án trong việc giải quyết, xét xử vụ việc nhằm trả lại công l cho
nạn nhân [167]. Với những hành vi dâm ô vẫn còn tỷ lệ há cao nạn nhân hông lựa
chọn trình báo vụ việc cho cơ quan chức năng. Họ có thể giữ ín chuyện này đặc biệt
trong trường hợp người phạm tội là người thân trong gia đình. Điều này có thể do họ e
ngại việc tiết lộ sự việc sẽ phá v hạnh phúc, thanh danh gia đình và một số trường hợp
hông biết rằng đây là những hành vi có thể được xử l thông qua con đường tư pháp
hình sự.
Ngoài ra, các vụ việc liên quan đến XHTD trong hôn nhân, trong đó có ết hôn
sớm thường hông được nhìn nhận là hành vi vi phạm pháp luật nên thường hông được
trình báo cho các cơ quan chức năng và hông được đưa ra x t xử, vì thế “ hông có hồ
127
sơ nào về hiếp dâm trong hôn nhân” [41, tr. 36]. Thực tế hiện nay, tỷ lệ tảo hôn, đặc biệt
đối với người dân tộc thiểu số ở nước ta còn chiếm tỷ lệ nhất định nhưng những vụ việc
này thường hông được trình báo để ghi nhận như các vụ việc liên quan đến XHTD.
Năm 201 -2014, “tỷ lệ ết hôn trước 15 tuổi ở phụ nữ có độ tuổi 15-49 là 2,1% ở khu
vực trung du và miền núi phía Bắc và 1,9% ở khu vực Tây Nguyên. Nếu tính tỷ lệ phụ
nữ ở độ tuổi 20-49 kết hôn trước 18 tuổi ở hai khu vực này lần lượt là 18,8% và 15,8%”
[16, tr. 203]; ở Ninh Thuận năm 2011 “có đến 0,9 % phụ nữ nằm trong độ tuổi từ 15-49
kết hôn hoặc sống chung như vợ chồng lần đầu trước năm 15 tuổi và 11,2% phụ nữ 20-
49 tuổi kết hôn hoặc sống chung như vợ chồng lần đầu trước năm 18 tuổi; 10,3% phụ nữ
từ 15-19 tuổi đã ết hôn hoặc chung sống như vợ chồng” [16, tr. 203].
Theo kết quả điều tra dân số và nhà ở Việt Nam vào thời điểm 0h ngày
01/04/2019, thì tỷ lệ phụ nữ từ 20-24 tuổi kết hôn lần đầu dưới 15 tuổi và trước 18 tuổi
lần lượt là 0,4% cà 9,1%, trong đó nông thôn (lần lượt là 0,5% và 12,5%) cao hơn thành
thị (lần lượt là 0,1% và 3,7%) (Bảng 3.15, Phụ lục 2). Cho nên, NNN bị XHTD còn
nhiều gian nan trong quá trình tìm kiếm các biện pháp khắc phục, đền bù thoả đáng
những thiệt hại mà họ gặp phải.
Thứ hai, nhiều vụ việc được trình báo nhưng do năng lực thực thi nhiệm vụ của cơ
quan chức năng nên đã hông được đưa ra x t xử hay hông chứng minh được bị can đã
phạm tội.
Tình trạng “x t xử oan sai vẫn còn tồn tại, vẫn còn hiện tượng vi phạm thời gian
giải quyết vụ việc” [96, tr. 167]; hả năng được bồi thường thiệt hại một cách thỏa đáng
cho nạn nhân vẫn chưa đảm bảo. Trong giai đoạn này, “số vụ và bị cáo được đưa ra x t
xử về các tội XPTD trẻ em địa bàn miền Đông Nam Bộ đạt tỷ lệ không cao (so với số
vụ và bị can bị khởi tố); số vụ và bị can còn lại chưa hoặc hông được xét xử chiếm
30,6% số vụ, 31,6% bị can” [157, tr. 54], thực tế này do hết thời hạn điều tra mà không
chứng minh được bị can đã phạm tội hoặc đã hết thời hiệu truy cứu TNHS, người phạm
tội được miễn trách nhiệm hình sự khiến việc khởi tố, điều tra vụ án bị đình chỉ.
Trong thời gian qua có nhiều vụ việc liên quan đến quấy rối tình dục nhưng do các
quy định pháp luật chưa rõ ràng nên các cơ quan chức năng thường xử l vụ việc một
cách hiên cư ng, thiếu chính xác: theo Báo cáo nghiên cứu về quấy rối tình dục tại nơi
làm việc ở Việt Nam do Bộ LĐTBXH thực hiện với sự giúp đ của Tổ chức lao động
quốc tế (ILO) cho thấy, chiếm phần lớn các nạn nhân bị quấy rối tình dục ở Việt Nam là
nữ giới (78,2%) và độ tuổi của các nạn nhân này (trong khoảng từ 18 đến 30). Nhiều vụ
liên quan đến quấy rối tình dục nhưng các cơ quan chức năng lại áp dụng Điều 5 Nghị
định số 1 7/201 NĐ-CP của Chính phủ để xử phạt về HVVP quy định về trật tự công
128
cộng, như: vụ người đàn ông 47 tuổi (quê Hải Phòng) đã cư ng hôn nữ sinh 20 tuổi
trong thang máy chung cư ở đường Lê Văn Lương (Thành Xuân, Hà Nội) vào tối
4/3/2019 hoặc vụ một cán bộ nam 39 tuổi (huyện Triệu Phong, Quảng Trị) “xin hôn” và
sờ soạng nữ đồng nghiệp trong phòng làm việc vào tháng 8/2018, những hành vi của hai
người đàn ông trên rõ ràng là quấy rối tình dục song hiện nay lại hông có quy định về
tội danh này.
Thêm vào đó, trên phạm vi cả nước tổng số vụ án liên quan đến XHTD bị đình
chỉ, trả hồ sơ điều tra bổ sung vẫn còn chiếm tỷ lệ nhất định. Điều đó cho thấy một phần
sự yếu kém trong công tác phát hiện, xử lý tội phạm của cơ quan chức năng (Bảng .10,
Phụ lục 2). Chính “hoạt động kém hiệu quả của cơ quan công an, công tố và tòa án c ng
có thể dẫn đến việc nạn nhân sớm rút đơn hiếu nại” [41, tr. 14]. Thực tiễn ở Việt Nam
cho thấy tỷ lệ rút đơn còn diễn ra há phổ biến, việc rút đơn iện có thể xảy ra ở tất cả
các giai đoạn từ giai đoạn trình báo đến giai đoạn điều tra, giai đoạn trước hi x t xử và
giai đoạn x t xử. Sự hạn chế trong năng lực thực thi công vụ hiến cho tình trạng tội
phạm ẩn gia tăng bởi người dân hông dám tố cáo do ngại tiếp xúc với cán bộ tư pháp,
do họ hông tin tưởng vào hả năng đảm bảo công l của các thiết chế này.
Thứ ba, cơ chế này vẫn chưa góp phần nâng cao năng lực TCCL của NNN bị
XHTD một cách vượt bậc.
Một là, trình độ hiểu biết các quy định pháp luật về XHTD của một bộ phận người
dân nói chung và của NNN bị XHTD nói riêng còn nhiều hạn chế.
Thực tế cho thấy vẫn còn một bộ phận người dân chưa nhận biết được đâu là hành
vi XHTD theo quy định của pháp luật hiện hành ở Việt Nam. Vẫn còn 8,4% người dân
cho rằng quan hệ tình dục hoặc thực hiện hành vi tình dục hác với vợ hoặc người yêu
dưới 1 tuổi là hông vi phạm pháp luật. ột số người dân ghi rõ trong phiếu hỏi rằng
quan hệ tình dục với vợ (dưới 1 tuổi) hông được coi là vi phạm pháp luật; 5,4% người
dân trong mẫu nghiên cứu xác định rằng việc A lợi dụng tình trạng quẫn bách về inh tế
của B, dùng tiền để mua chuộc, p buộc B phải miễn cư ng giao cấu hoặc miễn cư ng
thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với A hông phải là vi phạm pháp luật mặc dù
chiếu theo BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì hành vi này được xác định
là tội cư ng dâm (Bảng .13, Phụ lục 2).
Trong nhiều năm qua, đa số các nạn nhân bị XHTD là trẻ em có độ tuổi tương đối
nhỏ, những người dưới 18 tuổi do vậy năng lực pháp l để tự đưa ra quyết định rất hạn
chế [192]; các nạn nhân này thường hông nhận thức đầy đủ về hành vi mà tội phạm
gây ra với mình. Đối với người bảo trợ cho các em và ngay cả với nạn nhân là người
129
trưởng thành việc hiểu, biết và có thể vận dụng được các quy định pháp luật là một điều
hó hăn đặc biệt trong bối cảnh hi quy định pháp luật của nước ta còn nhiều tầng nấc.
Hai là, mức độ hiểu biết của một bộ phận người dân về các cơ chế, thủ tục cần
phải tiếp cận hoặc áp dụng để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng hi họ là nạn nhân bị
XHTD còn thấp. Kết quả khảo sát thực tế chỉ ra rằng 7,8% người dân trong mẫu
nghiên cứu trả lời, họ hông biết phải đến đâu trình báo vụ việc trong trường hợp họ hay
người thân của họ là nạn nhân XHTD; 59, % người dân được hỏi biết chính xác và %
người dân được hỏi biết hông chính xác nơi họ phải đến để trình báo vụ việc. Đối với
các thủ tục cần phải làm để nạn nhân XHTD có thể trình báo vụ việc hay để áp dụng hi
tham gia tố tụng hình sự, thực tế cho thấy đa số người dân hông biết hoặc chỉ biết sơ
qua về các thủ tục này đây là một trong những rào cản rất lớn cho con đường tiếp cận
công l của nạn nhân (Bảng .16, Phụ lục 2).
3.3. NGUYÊN NHÂN NHỮNG ƯU, NHƯỢC ĐIỂM TRONG CƠ CHẾ PHÁP LÝ
BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH
DỤC Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2014-2019
3.3.1. Nguyên nhân những ưu điểm trong cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp
cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam
Những ưu điểm trong CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam
xuất phát những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập trung lãnh đạo công tác xây dựng, hoàn
thiện HTPL, CCTP nhằm nâng cao chất lượng bảo đảm QCN nói chung, QTCCL của
NNN bị XHTD nói riêng.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương đã
ban hành nhiều văn bản cụ thể hoá chủ trương, đường lối cải cách HTPL, CCTP phù
hợp với yêu cầu phát triển KT-XH và thực tiễn, như: Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị
quyết số 49-NQ/TW năm 2005; cùng với đó đã chỉ đạo quyết liệt trong quá trình xây
dựng và ban hành Hiến pháp năm 201 , từ đó đẩy mạnh công tác xây dựng, hoàn thiện
HTPL, thúc đẩy CCTP, trong đó chú trọng hoàn thiện các thiết chế tư pháp phù hợp với
Hiến pháp 2013 nhằm bảo đảm và phát triển QCN, đặc biệt quyền của PNTEG. Trên cơ
sở quan điểm chỉ đạo của Đảng, CCPL bảo đảm QTCCL của người dân nói chung và
của NNN bị XHTD nói riêng đã được hình thành và tiếp tục hoàn thiện phù hợp với
thực tiễn đấu tranh, phòng chống vấn nạn XHTD ở Việt Nam.
Thứ hai, Nhà nước Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh hoàn thiện HTPPL, CCTP nhằm
đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước, hội nhập quốc tế sâu rộng, tích cực thực
hiện các cam kết quốc tế về bảo đảm, phát triển QCN mà Việt Nam đã gia nhập.
130
Thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, 49-NQ/TW, các cơ quan chức năng Nhà
nước Việt Nam đã nỗ lực hoàn thiện HTPL Việt Nam, đặc biệt là việc ban hành Hiếp
pháp năm 201 và hoàn thiện các văn bản pháp luật phù hợp với Hiến pháp mới; chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp được cải thiện
đáng ể; đội ng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp tiếp tục được phát triển cả về số lượng
và chất lượng; cơ sở vật chất hoạt động của các cơ quan tư pháp, cơ quan dân cử, cơ
quan hỗ trợ và TGPL từng bước được cải thiện; hoạt động giám sát của cơ quan dân cử
và nhân dân đối với cơ quan tư pháp được tăng cường.
Thứ ba, sự phát triển KT-XH của Việt Nam trong gần 5 năm đổi mới và sự hợp
tác quốc tế trên lĩnh vực bảo vệ QCN nói chung và QTCCL nói riêng ngày càng thường
xuyên hơn đã góp phần vào nâng cao năng lực TCCL của NNN bị XHTD.
Sự nghiệp đổi mới đất nước trong gần 5 năm qua đã thúc đẩy KT-XH phát triển
mạnh mẽ, đời sống nhân dân đã được nâng lên đáng ể cả về chất lẫn lượng, trình độ
dân trí ngày một phát triển (Biểu đồ 3.3, Phụ lục 2). Thực tế này góp phần quan trọng
trong bảo vệ và phát triển QCN ở Việt Nam, đặc biệt góp phần nâng cao trình độ TCCL
của người dân, trong đó có PNT G. Bên cạnh đó, Việt Nam đã nỗ lực, tích cực hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực tư pháp và đàm phán, ết, thực hiện các thoả thuận, cam kết
quốc tế phục vụ các hoạt động bảo vệ và phát triển QCN, đặc biệt đối với quyền của
PNT G, như Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội Công tố viên
quốc tế (2012); thành viên của Hội nghị Lahay về tư pháp quốc tế (năm 201 ); thành
thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016), Hội đồng
Kinh tế - Xã hội (2016 - 2018) và gần đây, được bầu vào Ủy ban Pháp luật Liên hợp
quốc (nhiệm kỳ 2016 - 2021); v.v.. Ngoài ra, Việt Nam tích cực hợp tác với UNDP,
UNFPA, UNICEF và UN Women thực hiện các dự án để chấm dứt bạo lực đối với phụ
nữ và trẻ em, như dự án “Tăng cường TCCL và bảo vệ quyền tại Việt Nam”, trong đó
tập trung vào cải cách HTPL, CCTP, tăng cường năng lực TCCL của người dân Việt
Nam.
3.3.2. Nguyên nhân của những nhược điểm trong cơ chế pháp lý bảo đảm
quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam
3.3.2.1. Nguyên nhân chủ quan
Những nhược điểm của CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam
xuất phát những nguyên nhân chủ quan sau:
Thứ nhất, HTPL về bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam chưa hoàn
thiện; còn có những khác biệt so với pháp luật quốc tế về bảo vệ QTCCL cho PNTEG.
Bà Rana lowers, đại diện của Unicef tại Việt Nam cho rằng “Việt Nam vẫn thiếu một
131
khung pháp lý mạnh để bảo vệ trẻ em khỏi tất cả các hình thức bạo lực, đặc biệt là bạo
lực tình dục” [266] (như đã trình bày ở mục 3.2.1.1).
Thứ hai, hệ thống thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam
chưa đồng bộ và hoàn thiện; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các thiết chế chưa cao; sự
phối hợp giữa thiết chế tư pháp chính thức với nhau và thiết chế giám sát, hỗ trợ và
TGPL chưa chính thức chưa hiệu quả. Bà Rana lowers, đại diện của UNICEF tại Việt
Nam cho rằng “việc thiếu các dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ cho các nạn nhân” [266] c ng
là nguyên nhân dẫn đến QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam chưa được bảo đảm
(như đã trình bày ở mục 3.2.1.2)..
Thứ ba, hệ thống nguồn lực để vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD ở Việt Nam vẫn chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu cải cách tư pháp nói chung và
nhiệm vụ bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD nới riêng. Chất lượng cán bộ tư pháp ở
địa phương (điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên) vẫn còn những hạn
chế; đầu tư phát triển cơ sở vật chất cho toà án, viện kiểm sát và cơ quan điều tra, cơ
quan thi hành án còn nhiều bất cập (như đã trình bày ở mục 3.2.1.3).
Thứ tư, mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN
bị XHTD ở Việt Nam, đặc biệt mối quan hệ giữa cơ quan điều tra với VKSND và
TAND, nhiều lúc, nhiều nơi chưa chặt chẽ. Điều này làm cho sự phối hợp các yếu tố
trong quá trình vận hành CCPL thiếu hiệu lực, hiệu quả trong bảo đảm QTCCL của
NNN bị XHTD.
3.3.2.2. Nguyên nhân khách quan
Những nhược điểm của CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam
xuất phát những nguyên nhân khách quan sau:
Thứ nhất là, những rào cản về mặt văn hóa hiến cho nạn nhân bị XHTD hó đưa
vụ việc của mình ra ánh sáng hay hông theo đuổi vụ việc của mình đến cùng.
Xã hội Việt Nam hiện tại vẫn chịu nhiều ảnh hưởng từ Nho giáo, vì thế những quy
chuẩn về thứ bậc xã hội, nam quyền và sự phục tùng; những định chuẩn xã hội dựa trên
tuổi tác và giới tính c ng góp phần khiến phụ nữ và trẻ em dễ trở thành nạn nhân của
XHTD hơn. Vì thế, những định kiến về giới tính, tuổi tác của xã hội Việt Nam và văn
hóa đổ lỗi cho nạn nhân c ng góp phần khiến nhiều vụ XHTD tiếp tục ẩn mình trong
bóng tối [207]. ột trong những rào cản lớn hiến các nạn nhân bị XHTD lựa chọn giữ
ín vụ việc, dùng con đường thương lượng thỏa thuận hay hông theo đuổi vụ việc đến
cùng đó chính là các quan niệm, chuẩn mực văn hóa của gia đình và cộng đồng. C ng
giống như nhiều quốc gia trên thế giới, phụ nữ và trẻ em giái ở nước ta luôn phải đối
mặt với các rào cản mang tính cơ cấu và văn hóa. Do đó phần lớn các nạn nhân bị quấy
132
rối và tấn công tình dục luôn đối mặt với cảm giác lo âu, bất lực và bị trầm cảm o dài.
Không chỉ những người xung quanh mà ngay bản thân nạn nhân thường tự đổ lỗi cho
bản thân mình hi để xảy ra vụ việc. Họ cho rằng chính những hành vi của mình là
nguyên nhân dẫn đến những hậu quả đau lòng, thực tế có đến 31,5% nạn nhân của nạn
XHTD trực tiếp đổ lỗi cho mình; 14,6% nạn nhân đổ lỗi cho các thuộc tính cá nhân như
“quá tin tưởng”; ,9% nạn nhân đổ lỗi cho các hành vi của mình, như “ hông ngăn chặn
từ đầu”; 1 % nạn nhân tự trách cơ thể mình hoặc giới tính của mình [64]. Theo kết quả
khảo sát thực tế, cho thấy có đến 7 , % người dân trong mẫu nghiên cứu đồng hay
đồng một phần với nhận định cho rằng, XHTD xảy ra một phần do lỗi của nạn nhân
(ăn mặc quá hở hang, hông iên quyết chống lại hành vi xâm hại, tin theo lời dụ dỗ,
nạn nhân hơi dậy sự ham muốn của hung thủ). Tâm l đổ lỗi cho mình hiến nạn nhân
thường co mình lại và hông giám tố cáo sự việc cho các cơ quan chức năng.
Bên cạnh đó văn hóa đề cao “trinh tiết” của người phụ nữ, việc sợ bị làm ảnh
hưởng đến thanh danh của gia đình, đến cuộc sống hôn nhân sau này đã hiến nhiều nạn
nhân nữ hi bị xâm hại thường dấu diếm hông dám thổ lộ với người thân và hông
trình báo với cơ quan chức năng. Kết quả khảo sát thực tiễn chỉ ra rằng chúng ta vẫn
đang sống trong môi trường văn hóa mà các định iến, quy chuẩn văn hóa hông ủng hộ
việc phụ nữ hoặc trẻ em gái lên tiếng đấu tranh với các hành vi xâm hại. Kết quả khảo
sát thực tiễn cho thấy có đến 52,9% người dân trong mẫu nghiên cứu của tôi đồng hay
đồng một phần với nhận định cho rằng PNTEG hi đã bị XHTD hông còn trinh tiết
thì đã mất đi giá trị, hó có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc; 79,5% người đồng hay
đồng một phần với nhận định cho rằng vệc công bố công hai vụ việc liên quan đến
XHTD chỉ làm nạn nhân tổn thương thêm; 9,8% người dân trong mẫu nghiên cứu đồng
hay đồng một phần với nhận định cho rằng tố giác với cơ quan chức năng về việc
người thân trong gia đình như (ông, cha, anh chị em) có hành vi XHTD đối với mình
hay với người hác sẽ làm ảnh hưởng đến thanh danh, hạnh phúc của gia đình; 7 ,1%
người dân đồng hay đồng một phần với nhận định cho rằng rất hó để có thể nói với
người hác hay trình báo với cơ quan chức năng về việc chồng hay người yêu mình bắt
mình quan hệ , thực hiện hành vi tình dục trái với muốn của mình (Bảng .18, Phụ lục
2).
Thứ hai, những định kiến trong xã hội Việt Nam về giải quyết các vụ án XHTD
PNTEG.
Xã hội Việt Nam hiện tại vẫn chịu nhiều ảnh hưởng từ Nho giáo, như: trọng nam
khinh nữ; phụ nữ phải đề cao “trinh tiết”, phụ nữ được dạy phải biết vâng lời (khi lập gia
đình phải vâng lời chồng), tuân phục, sẵn sàng hi sinh vì người thân, gia đình và sẵn
133
sàng đặt hạnh phúc của gia đình lên trên chính mình; bất bình đẳng trong gia đình, đặc
biệt trẻ em được dạy để hông được hỗn hay cãi lại người lớn và hông được bày tỏ
chính kiến, vì vậy các nạn nhân khó có thể nói “ hông” trước những hành vi của người
lớn khiến trẻ không thoải mái; v.v… Những điều này ảnh hưởng đến giải quyết các vụ
XHTD, đặc biệt ảnh hướng đến năng lực TCCL của NNN bị XHTD. Như thế, giới tính,
tuổi tác c ng tạo nên những tương quan về quyền lực và khiến PNTEG dễ bị tổn thương
hơn trước nguy cơ XHTD. Trước những định kiến về giới tính và tuổi tác của xã hội
Việt Nam, có thể hiểu vì sao phần đông phụ nữ và trẻ em Việt Nam vẫn chưa được dạy
các kiến thức và kỹ năng để tự vệ trước XHTD, đặc biệt là sự xâm hại đến từ người yêu
hay người thân trong gia đình. Ngoài ra, văn hóa đổ lỗi cho nạn nhân c ng góp phần
khiến nhiều vụ XHTD tiếp tục ẩn mình trong bóng tối.
Từ mô hình này chúng ta xác định được vai trò ảnh hưởng của các nhân tố đến lựa
chọn giải quyết vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự của NNN bị XHTD như
sau: định kiến về văn hoá, tâm l (X4) có sự ảnh hưởng nhất định, nghĩa là nếu nạn nhân
hay người thân của NNN bị XHTD không bị định kiến về văn hoá và tâm l thì xác suất
lựa chọn con đường tư pháp hình sự để giải quyết vụ án của họ tăng lên 9, % và yếu
tố tuổi (X1) c ng có ảnh hưởng, nếu NNN bị XHTD tăng thêm 1 tuổi thì xác suất lựa chọn con đường tư pháp hình sự để giải quyết vụ án của họ tăng lên 0,87% (Bảng 3.19,
Phụ lục 2). Vì thế, để gia tăng xác suất lựa chọn giải quyết vụ việc thông qua con đường
tư pháp hình sự của của NNN bị XHTD cần phải thay đổi nhận thức của NNN bị XHTD
và phá v những rào cản về văn hoá và tâm l xã hội đối với các vụ án XHTD. Vì vậy,
để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD cần phải thực hiện nhiều biện pháp,
Một mặt phát triển một nền văn hóa và một hệ thống giáo dục nhấn mạnh sự
trân trọng thân thể, phẩm giá con người và không xem việc gây tổn thương người
hác đơn thuần là một “trò đùa”, mặt khác c ng cần gạt bỏ những định chuẩn quá
đơn giản về “người tốt/kẻ xấu”, từ bỏ những đòi hỏi văn hóa về sự hi sinh và phục
tùng của người phụ nữ, dạy cho trẻ em phát triển khả năng tự lập và cách nói
“ hông”. Cho nên, song song với việc xây dựng một hệ thống luật nghiêm khắc và
rõ ràng đối với tội phạm tình dục, chúng ta c ng cần tạo nên một không gian an
toàn để nạn nhân lên tiếng, tìm được sự đồng cảm và những hỗ trợ tâm lý thích
hợp, kịp lúc [207].
Thứ ba, hỗ trợ cho NNN bị XHTD ở Việt Nam còn hạn chế vì thế năng lực tiếp
cận công lý của họ bị hạn chế. Để tham gia vào chuỗi TCCL, tài chính là một nhân tố
tác động đến lựa chọn của nạn nhân và gia đình xem họ có trình báo vụ việc hay có theo
đuổi vụ việc đến cùng hay hông, hiện tại, theo quy định pháp luật các nạn nhân bị
134
XHTD hông phải mất phí để thực hiện các thủ tục TTHS. Tuy nhiên có thể nhiều
người dân hông biết đến quy định này, bên cạnh đó ngoài chí phí chính thức thì các
hoản chi phí phi chính thức, các chi phí phải bỏ ra cho việc đi lại, ăn nghỉ để theo đuổi
vụ việc hay chi phí mà gia đình nạn nhân bị mất đi do họ phải nghỉ việc để có thời gian
theo đuổi vụ việc c ng cần phải được tính đến. Kết khảo sát thực tiễn cho thấy trên 40%
người dân tham gia mẫu nghiên cứu đều cho rằng chi phí chính thức mà nạn nhân phải
bỏ ra để thực hiện hiện tố tụng là cao và rất cao; trên 0% người dân và trên % cán bộ
thuộc các thiết chế tư pháp cho rằng chi phí phi chính thức mà nạn nhân phải bỏ ra để vụ
việc của mình được quan tâm x t xử thỏa đáng là cao và rất cao (Bảng .17, Phụ lục 2).
Thứ tư, hạn chế trong nhận thức của người dân đối với các quy định pháp luật về
QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam hiện nay.
Từ mô hình này chúng ta xác định được vai trò ảnh hưởng của các nhân tố đến lựa
chọn giải quyết vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự của NNN bị XHTD như
sau: mức độ hiểu biết về thủ tục TTHS (X5) có vị trí ảnh hưởng cao nhất, điều đó có nghĩa là nếu nạn nhân hay người thân của NNN bị XHTD có thêm sức độ hiểu biết về
thủ tục TTHS thì xác suất lựa chọn con đường tư pháp hình sự để giải quyết vụ án của
họ tăng lên 22,0 %; mức độ hiểu biết pháp luật hình sự (X3) có vị trí ảnh hưởng thứ hai, điều đó có nghĩa nếu nạn nhân hay người thân của NNN bị XHTD có thêm sức độ hiểu
biết về quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục trong PLHS thì xác suất lựa chọn con
đường tư pháp hình sự để giải quyết vụ án của họ tăng lên 9,82% (Bảng 3.19, Phụ lục
2). Vì thế, để gia tăng xác suất lựa chọn giải quyết vụ việc thông qua con đường tư pháp
hình sự của của NNN bị XHTD cần phải năng cao mức độ hiệu biết về PLHS và pháp
luật về TTHS. Trong hi đó, trình độ hiểu biết của người dân về pháp luật còn nhiều hạn
chế, đặc biệt hiểu biết của người dân về các hành vi XHTD, thủ tục xử lý vụ án XHTD
(Bảng .13, Bảng 3.14 Phụ lục 2).
Kết luận chương 3
Trong những năm qua, ở Việt Nam số vụ án liên quan đến XHTD PNTEG có
chiều hướng các diễn biến và mức độ ngày càng nghiêm trọng. CCPL bảo đảm QTCCL
của NNN bị XHTD những năm qua đã được cải thiện đáng ể nhờ sự hoàn thiện hông
ngừng của thể chế pháp lý, đồng thời và sự hoàn thiện các thiết chế nhằm thực thi tốt
hơn các quy định pháp luật trong thực tế. Các nguồn lực đảm bảo cho sự vận hành của
các thiết chế c ng được cải thiện. Đội ng cán bộ, công chức được đảm bảo về số lượng
cơ cấu và chất lượng, các nguồn lực hác được tăng cường. Trình độ hiểu biết pháp luật
và các quy chuẩn văn hóa của người dân đã thay đổi giúp các nạn nhân có hả năng tốt
hơn trong quá trình công hai và theo đuổi vụ việc thông qua con đường tư pháp hình
135
sự. Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD còn
những khuyết điểm nhất định, cho nên con đường TCCL của nhiều NNN bị XHTD ở
nước ta còn rất gian nan. Nhiều nạn nhân vẫn hông dám công hai trình báo vụ việc,
nhiều vụ việc được trình báo nhưng vẫn chưa được đưa ra x t xử một cách thỏa đáng do
những lỗ hổng trong hung luật pháp và chính sách, do những hạn chế trong bộ máy và
cơ chế vận hành của bộ máy. Sự yếu m trong năng lực thực thi nhiệm vụ của đội ng
cán bộ trong các thiết chế tư pháp chính thức, những hạn chế trong năng lực TCCL của
nạn nhân và gia đình nạn nhân. Tất cả những nhân tố nêu trên đã và đang làm cản trở
việc “tìm iếm sự đền bù và hắc phục thỏa đáng” cho những thiệt hại mà NNN bị
XHTD phải chịu đựng ở Việt Nam hiện nay, điều này dẫn đến tình trạng ẩn của loại tội
phạm này còn há lớn trong thực tế. Vì thế, những hạn chế này cần phải được giải quyết
triệt để thông qua việc hoàn thiện thể chế, thiết chế pháp lý và các nguồn lực đảm bảo
cho QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam được thực hiện tốt nhất.
136
CHƯƠNG 4
NHỮNG YÊU CẦU MỚI, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ
CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN C NG LÝ CỦA
NẠN NH N NỮ Ị XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM
4.1. NHỮNG YÊU CẦU MỚI VÀ QUAN ĐIỂM VỀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ
PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM
HẠI TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.1. Những yêu cầu mới về hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp
cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam hiện nay
4.1.1.1. Hội nhập quốc tế đặt ra những yêu cầu đối với hoàn thiện cơ chế pháp
lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam
Chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, có hiệu quả là một trong những nhiệm vụ
quan trọng để phát triển đất nước Việt Nam nhanh, bền vững. Trong quá trình này đặt ra
nhiều vấn đề mà chúng ta cần phải giải quyết, đó là:
Thứ nhất, quy định về độ tuổi trẻ em trong pháp luật Việt Nam vẫn còn có sự khác
biệt với CRC, điều này gây những “rào cản” trong bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD, đặc biệt là trẻ em gái; đồng thời tạo ra những trở ngại trong việc Việt Nam thực
hiện có trách nhiệm các cam kết quốc tế về bảo vệ quyền của PNTEG mà Việt Nam đã
ký kết.
Thứ hai, trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam phải đối mặt với những loại
tội phạm mới, trong đó những hành vi XHTD đối với PNTEG c ng có những biểu hiện
mới, tinh vi hơn, phức tạp hơn. Tình trạng XHTD trẻ em trong hoạt động du lịch đã diện
ra ở Việt Nam và ngày càng diễn biến phức tạp.
Trong những năm gần đây, “cả nước có hơn 50 vụ án XHTD trẻ em mà đối tượng
gây án là người nước ngoài. Đặc biệt tập trung vào một số tỉnh, thành phố phát triển du
lịch như TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Bà Rịa – V ng Tàu, Đà Nẵng, Hà Nội, Quảng
Ninh, Hải Phòng, Lạng Sơn, Lào Cai… đây là những trung tâm du lịch lớn hoặc là nơi
có nhiều trẻ em di cư đến từ địa bàn há” [33]. Thực tế này cho thấy, cùng với việc kích
cầu phát triển du lịch ở Việt Nam thì nguy cơ XHTD trẻ em thông qua con đường du
lịch ngày một gia tăng. Đây là vấn đề lớn đòi hỏi các cơ quan quản lý, các công ty lữ
hành và lực lượng công an phải quyết liệt đấu tranh, chấn áp đối với hành vi XHTD
nhằm thúc đẩy phát triển nền du lịch sạch ở Việt Nam.
137
4.1.1.2. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra những yêu cầu đối với
hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm
hại tình dục ở Việt Nam
Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chắc
chắn không nằm ngoài “dòng chảy” chung của thời đại, chính vì thế, cách mạng công
nghiệp 4.0 sẽ có những tác động nhất định, tuy nhiên mức độ và quy mô của sự tác động
này theo chiều thuận hay chiều nghịch (thuận lợi hay thách thức) sẽ phụ thuộc vào mức
độ sẵn sàng của các ngành, các lĩnh vực và năng lực quản trị quốc gia của Việt Nam.
Trong các lĩnh vực chịu sự tác động lớn của cuộc mạng công nghiệp 4.0, lĩnh vực đấu
tranh, phòng chống tội phạm chịu tác động rất lớn, đặc biệt hiện nay nhiều đối tượng đã
sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông để tiến hành các hành vi XHTD. Bà Rana
lowers, đại diện của Unicef tại Việt Nam, cho rằng những con số thống kê các vụ
XHTD trên chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm” và “sự phát triển nhanh chóng của
Internet ở Việt Nam gây ra mối nguy cơ mới cho trẻ em với số vụ lạm dụng trên Internet
và mạng xã hội c ng đang gia tăng” [266]. Vì thế để bảo đảm QTCCL của NNN bị
XHTD, một mặt cần tiếp tục hoàn thiện HTPL, đặc biệt là tăng cường khung hình phạt,
bổ sung thêm các hình phạt mới; mặt khác cần tăng cường trang thiết bị hiện đại để đấu
tranh, phòng chống loại tội phạm này. Ngoài ra, tăng cường các biện pháp giáo dục,
truyền thông để mọi người dân nâng cao trình độ hiểu biết và các kỹ năng để tự phòng,
tránh các hành vi XHTD trên mạng xã hội (Social Network).
4.1.2. Quan điểm hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý
của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam hiện nay
Trong quá trình hội nhập quốc tế và sự tác động mạnh mẽ của cách mạng công
nghiệp 4.0, tình hình XHTD PNTEG ở Việt Nam trong thời gian tới tiếp tục có những
diễn biến phức tạp, các hành vi XHTD ngày càng tinh vi, núp bóng dưới nhiều hình thức
hác nhau, đặc biệt trong quá trình phát triển du lịch và thương mại điện tử. Để hoàn
thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở nước ta trong thời gian tới, các
ngành, các cấp cần quán triệt các quan điểm sau:
4.1.2.1. Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn
nhân nữ bị xâm hại tình dục nhằm xoá bỏ sự kỳ thị và định kiến xã hội đối với nạn
nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam
Sự kỳ thị và định kiến xã hội đối với NNN bị XHTD là một trong những rào cản
lớn đối với bản thân NNN bị XHTD c ng như người thân/gia đình họ trong quá trình
tìm kiếm và đạt được sự đền bù thoả đáng những tổn thất mà bản thân nạn nhân phải
138
gánh chịu, bởi lý thuyết kỳ thị xã hội và lý thuyết rào cản tâm l đã chứng minh rằng sự
kỳ thị và định kiến xã hội sẽ hạn chế cơ hội hoà nhập cộng động (và ngay cả quyền
sống) của người bị ỳ thị bởi “những người này sẽ tự ti do lỗi sợ hãi vì mình hác biệt
so với số đông” [238, tr. 133].
Cho nên, hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam phải
thúc đẩy việc xoá bỏ sự kỳ thị và định kiến xã hội đối với NNN bị XHTD, từ đó g bỏ
những rào cản đối với họ trên con đường tìm kiếm công lý cho bản thân mình.
4.1.2.2. Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn
nhân nữ bị xâm hại tình dục nhằm góp phần tích cực vào đấu tranh, phòng chống
tình trạng xâm hại tình dục ở Việt Nam
XHTD nói chung và XHTD đối với PNTEG là vấn nạn chung của nhiều nước trên
thế giới, ở Việt Nam vấn nạn này trong thời gian qua vẫn chưa có chiều hướng suy
giảm, vì thế tăng cường đấu tranh, phòng chống các hành vi XHTD ở Việt Nam là trách
nhiệm của toàn xã hội.
Thông qua việc hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, thể chế
pháp lý, thiết chế bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD tiếp tục được hoàn thiện, đặc
biệt trong quá trình này: QH, Chính phủ, Bộ LĐTBXH, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Y
tế và các Bộ khác có liên quan, TAND tối cao, VKSND tối cao phải tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện các chính sách, pháp luật về bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; chính
quyền địa phương phải phối hợp chặt chẽ với MTTQ Việt Nam và các đoàn thể nhân
dân tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao phẩm chất, đạo đức, lối sống cho
đội ng cán bộ làm công tác phòng ngừa, đấu tranh với các vi phạm QCN nói chung và
vi phạm QTCCL của NNN bị XHTD nói riêng; kiên quyết xử lý nghiêm những cán bộ
vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật công tác. Đồng thời, phát huy vai trò, trách nhiệm
của thành viên Ban Chỉ đạo các cấp trong việc tham mưu cấp uỷ, chính quyền chỉ đạo
công tác phòng, chống các hành vi XHTD PNT G trên địa bàn tình; thường xuyên kiểm
tra, đôn đốc, hướng dẫn đối với xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, trường học
nâng cao cảnh giác trước các thủ đoạn của chủ thể phạm tội và tích cực tham gia vào các
hoạt động phòng, chống các hành vi XHTD PNTEG ở các địa phương; thực hiện
nghiêm túc chế độ thông tin báo cáo và kịp thời biểu dương, khen thưởng, các tập thể, cá
nhân có thành tích xuất sắc; huy động các nguồn lực, nhất là nguồn kinh phí hỗ trợ thực
hiện công tác phòng, chống các hành vi XHTD PNTEG ở các địa phương; tiếp tục thực
hiện sâu rộng tạo nên sự đồng thuận thống nhất cao của các cấp, các ngành trong việc
nhận thức và thực hiện sự chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp, MTTQ và
139
các đoàn thể nhân dân về tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo và phối hợp trong việc
tiếp nhận, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tôi phạm nhất là ở cấp cơ sở, theo đó, hàng
tháng Công an cấp xã, phường, thị trấn phải chuyển danh sách thống kê từng tố giác, tin
báo về tội phạm cho cơ quan điều tra hoặc VKSND cấp huyện để theo dõi đối chiếu với
sổ thụ lý giải quyết của Cơ quan điều tra để từ đó quản lý nắm chắc tình hình tội phạm
và tỷ lệ khám phá án theo các kỳ báo cáo; công an các cấp phải kiểm tra, đôn đốc việc
thực hiện của các đơn vị; định kỳ tổng hợp, báo cáo theo quy định. Tăng cường tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để mọi người dân hiểu rõ các quy định pháp luật
hiện hành về các hành vi XHTD; các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết
các vụ án XHTD. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương, cùng MTTQ và các đoàn thể
nhân dân tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn cho người dân, đặc biệt cho PNTEG về
các kiến thức, kỹ năng phòng, chống XHTD.
Việc thực hiện các nội dung này thúc đẩy mạnh mẽ việc nâng cao năng lực tiếp
cận công lý của NNN bị XHTD, xử lý triệt để các vụ án XHTD, trừng trị nghiêm minh
người có hành vi XHTD, qua đó góp phần tích cực vào đẩy lùi vấn nạn này.
4.1.2.3. Vận dụng triệt để lý thuyết tiếp cận dựa trên quyền con người vào quá
trình hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị
xâm hại tình dục ở Việt Nam
Lý thuyết tiếp cận dựa trên QCN sử dụng các tiêu chuẩn và nguyên tắc về QCN
làm cơ sở và mục tiêu cho quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật, kiện toàn tổ chức
bộ máy và đảm bảo các nguồn lực nhằm bảo đảm QCN ngày một tốt hơn. Chính vì thế,
trong quá trình hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam hiện
nay phải tăng cường vào hoàn thiện các biện pháp hỗ trợ, trợ giúp cho NNN bị XHTD.
Thực tế PNTEG bị XHTD thuộc nhóm người dễ bị tổn thương, đồng thời họ gặp
nhiều hó hăn trong quá trình tìm iếm sự đền bù và khắc phục thoả đáng do những
hạn chế về thể chế pháp lý, thiết chế, các nguồn lực bảo đảm cơ chế này vận hành và
phải đối mặt với những rào cản do sự kỳ thị, định kiến xã hội ở nước ta hiện nay. Vì thế,
nếu cơ chế này không tạo dựng được sự hỗ trợ, trợ giúp kịp thời, thuận tiện thì NNN bị
XHTD có xu hướng bỏ cuộc trong quá trình “đòi” công l cho bản thân. Cho nên vận
dung triệt để lý thuyết tiếp cận dựa trên quyền con người vào hoàn thiện CCPL bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam nhằm xây dựng nền tư pháp thân thiện, minh
bạch, liêm chính, vì cong l và con người; hệ thống hỗ trợ, TGPL thuận lợi, dễ tiếp cận,
đầy đủ, bao phủ rộng rãi (đặc biệt vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số),
v.v.. thông qua đó nâng cao năng lực tiếp cận công lý của NNN bị XHTD ở Việt Nam.
140
4.1.2.4. Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn
nhân nữ bị xâm hại tình dục phải phù hợp với công ước quốc tế về bảo vệ quyền của
phụ nữ và trẻ em mà Việt Nam đã gia nhập
Việt Nam đã gia nhập nhiều công ước quốc tế về QCN, trong đó có công ước
CEDAW và CRC. Việc hoàn thiện thể chế pháp lý và thiết chế bảo đảm QTCCL của
NNN bị XHTD ở Việt Nam cần phải tương thích với nội dung của các công ước quốc tế
mà Việt Nam đã gia nhập. Hiến pháp 201 đã hiến định “Nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam (…) tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa
XHCN Việt Nam là thành viên” (Điều 12) [128], đồng thời Luật Điều ước Quốc tế năm
201 c ng quy định “Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn
đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp” (Khoản 1, Điều 6)
[136], vì thế Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật mà nội dung quy
định này chưa tương thích với các quy định của công ước quốc tế mà nước ta đã gia
nhập. Cho nên, trong quá trình hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD
ở Việt Nam, QH, Chính phủ và các cơ quan liên quan phải tiếp tục hoàn thiện các quy
định pháp luật về QTCCL của NNN bị XHTD tương thích với nội dung trong CEDAW
và CRC mà nước ta đã gia nhập, như quy định về độ tuổi của trẻ em trong pháp luật Việt
Nam phù hợp với CRC.
4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN TIẾP
CẬN CÔNG LÝ CỦA NẠN NHÂN NỮ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC Ở VIỆT NAM
4.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện thể chế pháp l đảm ảo qu ền tiếp cận
công l của nạn nh n nữ ị m hại tình ục
Những hạn chế của thể chế pháp l là một trong những nguyên nhân đã và đang
tạo ra rào cản hiến PNTEG bị XHTD hông trình báo vụ án của mình với các cơ quan
chức năng đồng thời nó hạn chế việc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả trả lại
công l cho nạn nhân thông qua con đường tư pháp hình sự. Do vậy, việc hoàn thiện thể
chế pháp l là một trong những nhóm giải pháp quan trọng nhằm đảm bảo tốt hơn
QTCCL cho đối tượng này, vì thế các nội dung sau cần được thực hiện đồng bộ.
4.2 n các quy định pháp luật về hành vi xâm hại tình dục ở Vi t
Nam
Việc làm rõ các quy định về hành vi XHTD có nghĩa vô cùng quan trọng bởi nó
ảnh hưởng trực tiếp đến việc hởi tố, điều tra, truy tố và x t xử các vụ án XHTD của cơ
quan chức năng do đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc đảm bảo quyền cho NNN bị
141
XHTD. Để xóa bỏ các rào cản trong hoạt động hởi tố, điều tra, truy tố và x t xử vụ án
XHTD nhằm bảo vệ QTCCL cho NNN, các quy định pháp luật Việt Nam cần tiếp tục
hoàn thiện các nội dung sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện PLHS, đặc biệt là tập trung sửa đổi các nội dung sau:
dâm ô đối với người đủ từ 16 tuổi trở lên phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự; quy định
rõ TNHS đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có hành vi dâm ô đối với người
dưới 16 tuổi hoặc có hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Đối với tội hiếp dâm, các quy định PLHS liên quan đến tội danh này nên sửa đổi
theo hướng tập trung vào vấn đề “đồng thuận” hay “ hông đồng thuận” chứ không phải
vấn đề sử dụng v lực hay đe doạ dùng v lực làm căn cứ điều tra xét xử tội phạm. Vì
vậy cần thay đổi cụm từ “không thể tự vệ” trong điều 141 và điều 142 BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017) thành “không thể đưa ra sự đồng ý một cách tự nguyện”.
Quy định này sẽ mở rộng các hành vi bị coi là hiếp dâm và tránh việc các cơ quan chức
năng coi nặng chứng cứ pháp y, đề cao các dấu vết mà coi nhẹ độ tin cậy của sự việc
hoặc vấn đề về thiếu sự đồng thuận của nạn nhân, qua đó hạn chế tình trạng bỏ qua, bỏ
lọt tội phạm. Hơn nữa, các chuyên gia c ng đưa ra đề nghị “cần quy định rõ bị cáo phải
có trách nhiệm chứng minh rằng nạn nhân đã thể hiện “rõ ràng sự đồng tình tự nguyện”
khi quan hệ tình dục; bị cáo phải cung cấp bằng chứng chứng minh rằng nguyên đơn
đồng thuận với hành vi giao cấu; trách nhiệm chứng minh sự vô tội thuộc về bên phạm
tội chứ không phải là của nạn nhân” [193, tr. 33].
Ngoài ra, để tạo điều iện và huyến hích nạn nhân nữ bị XHTD trình báo vụ
việc với cơ quan chức năng, cần mở rộng phạm vi các tội phạm tình dục, xóa bỏ các rào
cản trong quá trình thụ l điều tra, x t xử vụ việc, vì thế PLHS quy định về XHTD nên
loại bỏ yêu cầu cung cấp bằng chứng về sự “thâm nhập”. Thay vào đó, “PLHS nên tập
trung vào các dạng hành vi tình dục hác nhau để công nhận việc nạn nhân miễn cư ng
tham gia hành vi tình dục mà không chống trả là do họ ở thế yếu so với kẻ phạm tội”
[193, tr. 33].
Thứ hai, PLHS, pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình cần quy định tội cư ng
bức tình dục trong hôn nhân là tội phạm hình sự và được tiến hành theo thủ tục tố tụng
đặc biệt (nghĩa là hông cần thiết phải có đơn tố cáo của người bị hại như điều 155
BLTTHS 2015).
Hiện nay, theo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, “Cư ng ép quan hệ
tình dục” là một trong những hành vi bạo lực gia đình (điểm đ hoản 1 điều 2) và
142
“Người có HVVP pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức độ
vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật” ( hoản 1,
điều 42). Nếu coi hành vi bạo lực gia đình (bạo lực tình dục) là hành vi cư ng dâm hoặc
hiếp dâm theo điều 141, 143 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì để tiến
hành thụ lý và xử lý vụ án này cần phải thoả mãn khoản 1 Điều 155 BLTTHS năm 2015
(Chỉ được hởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135,
136, 138, 1 9, 141, 14 , 155, 15 và 22 của BLHS khi có yêu cầu của bị hại hoặc
người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc
thể chất hoặc đã chết…), vì hi hông có đơn tố cáo của người bị hại thì sẽ không thể
khởi tố được vụ án hình sự. Trong hi đó, hành vi bạo lực gia đình trên có thể bị xử lý vi
phạm hành chính theo Nghị định 1 7/201 /NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng
cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình, nhưng trong Nghị định này c ng
hông quy định cụ thể hành vi “Cư ng ép quan hệ tình dục” bị xử l như thế nào mà chỉ
quy định chung chung: “Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi
lăng mạ, chì chiết, xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình” ( hoản 1, điều
51), vì thế, những quy định này hông đủ cơ sở pháp l để đảm bảo QTCCL của phụ nữ
trong gia đình hi bị bạo lực tình dục.
Thứ ba, cần quy định rõ các hành vi quấy rối tình dục trong pháp luật xử lý vi
phạm hành chính, PLHS, pháp luật lao động.
Chúng ta có thể căn cứ theo Khuyến nghị chung số 19 của Công ước của Liên hợp
quốc về Loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (C DAW): “hành vi không
mong đợi về giới tính như tiếp xúc cơ thể và tán tỉnh, bình phẩm về giới tính, khoe ảnh
khiêu dâm và thể hiện nhu cầu tình dục, bằng lời hay hành động (Điều 11)” [191, tr. 16]
hoặc theo các chuyên gia của Liên Hợp quốc, quấy rối tình dục là “hành vi có tính chất
tình dục không được hưởng ứng trong quan hệ cấp trên với cấp dưới và ngang cấp, tại
nơi làm việc (kể cả trong khu vực làm việc không chính thức), trong hoạt động giáo dục,
tiếp nhận hàng hóa và dịch vụ, các hoạt động thể thao và giao dịch bất động sản, trong
đó hành vi có tính chất tình dục hông được hưởng ứng bao gồm, các hoạt động trực
tiếp hoặc có hàm ý, tán tỉnh và có hành vi đụng chạm; đòi hỏi hoặc yêu cầu quan hệ tình
dục; nhận xét có màu sắc tình dục; phô bày những tranh ảnh, áp phích hoặc hình vẽ về
tình dục; hoặc bất kỳ hành vi nào về thể chất, bằng lời hoặc không bằng lời, mang tính
chất tình dục mà hông được hưởng ứng” [193, tr. 36].
143
Cần mở rộng hành vi quấy rối tình dục không chỉ ở nơi làm việc (như trong Bộ
luật Lao động hiện hành quy định). Trong đó, cần quy định cụ thể những hành vi quấy
rối tình dục và các biện pháp chế tài đủ mạnh đối với hành vi này. Trước mắt, nâng mức
xử phạt hành chính đối với hành vi quấy rối tình dục bằng mức bồi thường thiệt hại về
tinh thần theo quy định của BLDS năm 2015 (Khoản 2, Điều 592); tiến tới hình sự hoá
đối với hành vi quấy rối tình dục, vì bản chất của hành vi này là vi phạm đến quyền bất
khả xâm phạm và tự do tình dục của con người, nghĩa là vi phạm đến quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con người. Trong đó BLHS
bổ sung thêm tội quấy rối tình dục như sau:
“Điều … Tội quấy rối tình dục
- Người nào có hành vi tình dục trái pháp luật, không phải là hành vi hiếp dâm,
cư ng dâm, dâm ô, giao cấu và thực hiện các hoạt động tình dục hác đối với trẻ em và
sử dụng trẻ em vào mục đích hiêu dâm, thông qua cử chỉ, lời nói hoặc phi lời nói có
liên quan đến tình dục nhằm gây tổn thương danh dự và nhân phẩm con người thì bị
phạt tù từ 0 tháng đến 0 năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ 0 năm đến 07
năm: phạm tội từ 02 lần trở lên; phạm tội với người dưới 18 tuổi; gây rối loạn tinh thần
và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 1% đến dưới 60%; tái phạm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15
năm: gây rối loạn tinh thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61%
trở lên; làm nạn nhân tự sát.
- Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
4.2.1.2. oàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến quy t ình thủ tục thụ
lý và giải quyết vụ án xâm hại tình dục ở Việt Nam
Như đã phân tích ở trên các quy định liên quan đến quy trình tố tụng đang tồn tại
nhiều hạn chế, vướng mắc hiến cho việc trình báo, tố giác, điều tra, x t xử các vụ án
liên quan đến XHTD còn gặp nhiều hó hăn. Theo đó để tạo điều iện thuận lợi hơn
cho các NNN bị XHTD trong quá trình trình báo, thụ lý và giải quyết vụ việc cần hoàn
thiện các quy định pháp luật sau đây:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến quy trình, thủ tục
thụ lý và giải quyết vụ án XHTD theo hướng áp dụng các thủ tục đặc biệt đối với các vụ
án XHTD, trong đó:
144
Một là, TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ Công an cần ban hành văn bản hướng
dẫn nghiệp vụ xử lý tin báo, tố giác, khởi tố, điều tra, truy tố các tội XHTD, đặc biệt
XHTD phụ nữ và trẻ em gái [206], mặt hác cần bổ sung các quy định xử l các cơ
quan, tổ chức, cá nhân không tố cáo, tố giác hành vi XHTD; không thực hiện hoặc thực
hiện chậm trễ trách nhiệm bảo vệ quyền của nạn nhân.
Hiện nay, việc tiếp nhận tin tối giác tội phạm và xử lý tin tố giác tội phạm được
thực hiên theo BLTTHS năm 2015, Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-
BNN&PTNT-VKSNDTC của Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tài chính - Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Thông tư số Thông
tư 28/2020/TT-BCA của Bộ Công an, tuy nhiên trong đó chưa có quy định riêng biệt,
đặc thù đối với tiếp nhận và xử lý tin tối giác tội XHTD. Theo quy định của Thông tư
liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC, “trong thời hạn 03
ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm
quyền giải quyết, Thủ trưởng Cơ quan điều tra hoặc cấp trưởng Cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, trực tiếp hoặc uỷ quyền cấp phó tổ chức,
chỉ đạo, phân công Điều tra viên, Cán bộ điều tra thuộc quyền thụ lý, giải quyết (Điều 9,
10)” [15]. Với quy định này, sau khi tiếp nhận tin báo tố giác tội XHTD đến khi ra quyết
định khởi tố, điều tra sẽ kéo dài trong khoản thời gian vài ngày, điều này sẽ làm cho
những dấu vết trên cơ thể của NNN bị XHTD mờ đi hoặc mất đi sẽ gây hó hăn cho
việc thu thập chứng cứ và giám định pháp y. Vì thế, TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ
Công an cần có hướng dẫn cụ thể đối với tiếp nhận và xử lý tin tối giác tội phạm XHTD
cần phải được xử lý thật nhanh và ngay sau đó cơ quan điều tra hoặc cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tiến hành ngay quyết định khởi tố và
tiếp hành thu thập dấu vết phạm tội trong vòng 24 giờ.
Hai là, cần quy định biện pháp điều tra đặc biệt đối với các tội XHTD, đặc biệt là
XHTD trẻ em gái; tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Giám định tư pháp năm 2012 (sửa đổi,
bổ sung năm 2020) theo hướng quy định việc trưng cầu giám định pháp y về XHTD đối
với PNTEG là loại giám định đặc biệt, phải được thực hiện nhanh; quy định rõ hoạt
động phối hợp giữa cơ quan công an và cơ quan y tế, cơ quan giám định nhằm đưa ra
kết quả giám định c ng như thu thập chứng cứ một cách nhanh chóng, hiệu quả và chính
xác nhất; các cơ quan điều tra, truy tố, x t xử cần phối hợp với ngành y tế để xác định
tổn hại tinh thần của nạn nhân.
Ba là, để đảm bảo QTCCL cho nạn nhân nữ bị XHTD cần có quy trình thủ tục đặc
biệt trong quá trình thu thập chứng cứ, lấy lời hai để hông làm tổn hại sâu hơn về mặt
145
tinh thần đối với nạn nhân, nghĩa là cần tạo ra quá trình điều tra thân thiện, tránh hắc
sâu hơn những tổn thương, những nỗi đau mà nạn nhân phải chịu đựng. Theo đó việc
tiếp xúc lấy lời khai, xét hỏi người bị hại, nhân chứng cần phải được thực hiện theo quy
trình đặc biệt, đặc biệt với người chưa thành niên; hỗ trợ họ cung cấp lời khai hiệu quả
và giảm chấn thương tâm l hi tham gia vào quá trình tố tụng. Điều này sẽ làm tăng tỷ
lệ các nạn nhân nữ hai báo vụ việc với cơ quan chức năng đồng thời giảm tỷ lệ bỏ cuộc
giữa chừng.
Thứ hai, sửa đổi các quy định về độ tuổi của trẻ em trong BLHS, BLTTHS, Luật
trẻ em hiện hành cho phù hợp với Công ước CRC. Theo đó cần xác định trẻ em là
“người dưới 18 tuổi”; việc xác định tình tiết tăng nặng hung hình phạt nên được sửa
đổi theo hướng là việc thực hiện hành vi với người dưới 18 tuổi chứ hông phải là dưới
1 tuổi.
4.2.1. . oàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến hung hình phạt và
xác định chủ thể của tội xâm hại tình dục ở Việt Nam
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung các quy định về khung hình phạt đối với tội XHTD
trong BLHS hiện hành theo hướng gia tăng hung hình phạt.
Hiện tại nhóm các tội về XHTD (tại Điều 141, 142, 14 , 144, 145, 14 ), được quy
định trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) đã có nhiều thay đổi so với các quy
định về tội danh này trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) tuy nhiên chế
tài, hình phạt với các tội danh này hiện còn nhẹ, chưa đủ sức răn đe, vì thế cần sửa đổi
theo hướng tăng nặng hung hình phạt, đặc biệt đối với các hành vi XHTD đối với trẻ
em gái. Trong đó, sửa đổi khung hình phạt ở điểm c khoản 1 Điều 142 thành khu hình
phạt như điểm c khoản 3 của Điều này: người nào có hành vi “giao cấu hoặc thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi” bị bị phạt tù 20 năm, tù chung
thân hoặc tử hình.
Thứ hai, với việc xác định chủ thể của tội, các quy định pháp luật hiện tại được
quy định trong điều 145, 14 , 147 BLHS hiện hành được cho là đã tạo ra ẽ hở để lọt tội
phạm.
Hiện nay, theo quy định của BLHS hiện hành, tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
“Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những
tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác (Khoản 1 Điều 12)” [138], vì thế quy định tại
Điều 145, 14 , 147 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là mâu thuẫn. Với các
quy định này, người chịu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi quy định tại các điều
này (giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến
146
dưới 16 tuổi; dâm ô đối với người dưới 16 tuổi; sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục
đích hiêu dâm) phải là người đủ 18 tuổi, trong hi đó thực tế vẫn có trường hợp người
dưới 18 tuổi thực hiện những hành vi này. Hơn nữa, khoản 2 Điều 12 của BLHS này
quy định “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều
123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250,
251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này” [138], nghĩa là
phạm tội với khung hình phạt trên 07 năm tù, tuy nhiên trong hoản 3 của các Điều 145,
146, 147 BLHS lại áp dụng đối với người đủ 18 tuổi, trong hi đó thực tế vẫn có trường
hợp người dưới 18 tuổi thực hiện những hành vi này và gây ra hậu quả rất nghiêm trọng
và đặc biệt nghiêm trọng. Vì thế, các Điều 145, 14 , 147 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) cần sửa đổi theo hướng: thay cụm từ “Người nào đủ 18 tuổi trở lên”
trong khoản 1 của các điều này bằng “Người nào đủ 14 tuổi trở lên”. Ngoài ra,
TANDTC cần ban hành hướng dẫn quy định chi tiết về các trường hợp người từ đủ từ
14 trở lên giao cấu với người từ đủ 1 đến dưới 1 tuổi. Nếu trong trường hợp đây là vụ
tảo hôn (hiện nay ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn xảy ra tình trạng tảo hôn) thì
cần áp dụng hình thức cải tạo không giam giữ.
Ngoài ra, nâng khung hình phạt tại khoản các Điều 145, 146, 147 là: phạt tù từ
mức 15 năm đến 20 năm.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung thêm các biện pháp chế tài hác đối với hành vi XHTD
trong pháp luật Việt Nam hiện nay.
Bổ sung thêm các biện pháp xử l đối với hành vi XHTD đối với trẻ em, như:
thiến hoá học: thực tiễn nhiều nước trên thế giới và khu vực đã áp dụng hình thức thiến
hoá học đối với người có hành vi hiếp dâm, cư ng dâm trẻ em, như Hàn Quốc,
Indonesia, một số bang của Mỹ (California, Georgia, ontana, lorida), Đức, Anh, Ba
Lan, Thụy Điển, Đan ạch, Nga, v.v.. Bổ sung thêm hình phạt tiền là hình phạt bổ sung
đối với người thực hiện các hành vi XHTD ở các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146 của
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). ức bồi thường thiệt hại của NNN bị
XHTD bao gồm: thiệt hại về sức khoẻ, thiệt hại về tinh thần và thiệt hại về kinh tế (đây
là những thiệt hại phát sinh do NNN bị XHTD hoặc gia đình của NNN phải nghỉ làm
việc để theo đuổi vụ án, c ng như những chi phí phát sinh trong suốt quá trình tố tụng).
Căn cứ để xác định mức bồi thường áp dụng theo khoản 2, Điều 590; khoản 2 Điều 592
BLDS năm 2015; trong trường hợp làm NNN bị XHTD chết thì phải bồi thường cho gia
đình nạn nhân theo khoản 2, Điều 591 BLDS năm 2015.
147
4.2.1. . oàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến sự vận hành của bộ
máy đảm bảo quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt
Nam
Để đảm bảo cho sự vận hành của bộ máy hay hung thiết chế bảo đảm QTCCL
của NNN bị XHTD, Quốc hội cần sớm sửa đổi bổ sung các quy định liên quan đến sự
vận hành của các thiết chế như: Sửa đổi các quy định của pháp luật để bảo đảm sự độc
lập của Tòa án trong xét xử, bảo đảm phán quyết của Tòa án phải trên cơ sở kết quả xét
hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa. Theo đó
cần sửa đổi các quy định liên quan đến bổ nhiệm, tuyển dụng bố chí sắp xếp đội ng cán
bộ đặc biệt là đội ng thẩm phán; sửa đổi các quy định về thu thập chứng cứ của đương
sự, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trách nhiệm
pháp lý của chủ thể cung cấp chứng cứ, trách nhiệm pháp lý của những người được triệu
tập đến phiên tòa. Để đảm bảo phối hợp hoạt động giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
và các cơ quan x t xử trong thu thập chứng cứ, hoàn thiện hồ sơ vụ án; “Các cơ quan
tiến hành tố tụng tại Trung ương sớm nghiên cứu, xây dựng và ban hành Thông tư liên
tịch hướng dẫn một số quy định của BLTTHS về quy trình điều tra, truy tố, xét xử các
vụ án XHTD”; đồng thời xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
với các cơ quan, tổ chức xã hội trong việc cử các chuyên gia tâm lý - xã hội trợ giúp cho
nạn nhân, nhất là PNTEG trong các vụ án XHTD hi họ tham gia tố tụng.
4.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện thiết chế đảm ảo qu ền tiếp cận công l
của nạn nh n nữ ị m hại tình ục ở Việt Nam
Bên cạnh việc hoàn thiện thể chế pháp lý phù hợp, điều quan trọng tiếp theo là
phải có được bộ máy bảo đảm QCTCCL của NNN bị XHTD vận hành tốt nhằm thực thi
một cách hiệu quả các quy định pháp luật trong thực tế. Hiện nay, nước ta đã thiết lập
được hệ thống thiết chế tư pháp chính thức và phi chính thức với sự tham gia của nhiều
bên, điều này tạo điều iện phát huy vai trò của các thiết chế này trong bảo đảm QTCCL
của PNTEG bị XHTD. Tuy nhiên để mỗi thiết chế này thực hiện tốt chức năng, vai trò
của mình đồng thời đảm bảo cho sự phối hợp hoạt động giữa các thiết chế với nhau cần
tiếp tục đổi mới cách thức tổ chức, sắp xếp và hoạt động của các thiết chế này.
4.2.2.1. Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của thiết chế tư pháp chính thức
bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục
Thứ nhất, đổi mới cách thức tổ chức, sắp xếp và hoạt động của TAND.
Để TAND thực sự là cơ quan x t xử độc lập hông bị chi phối, bóp m o, can thiệp
bởi bất cứ cơ quan tổ chức nào, “tổ chức hệ thống toà án theo thẩm quyền xét xử, không
148
phụ thuộc vào đơn vị hành chính” [195, tr. 19], vì thế cần nghiên cứu thành lập toà án sơ
thẩm khu vực thay thế cho TAND cấp huyện vì việc tổ chức toàn án này với quy mô
lớn, số lượng án giải quyết nhiều hơn, đặc biệt là án XHTD. Hiện nay, TAND cấp
huyện thụ lý số lượng vụ án không nhiều, đặc biệt án XHTD, vì thế việc đầu tư cơ sở vật
chất, phương tiện, trang thiết bị gặp nhiều hó hăn. Việc thành lập toà án sơ thẩm khu
vực sẽ giảm được đầu mối quản lý, nâng cao hiệu quả đầu tư, tập trung được các nguồn
lực để hiện đại hoá hệ thống tư pháp, xây dựng các phòng xét xử thân thiện, hiện đại
phục vụ tốt cho xét xử các vụ án XHTD. Đồng thời đây còn là điều kiện để “tập trung
đội ng thẩm phán, chuyên môn hoá hoạt động xét xử ở cấp sơ thẩm, tăng cường cơ hội
tự đào tạo cho thẩm phán qua việc cọ xát thực tiễn, trao đổi, học tập lẫn nhau, tích luỹ
kinh nghiệm xét xử và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ” [142, tr. 200].
Bên cạnh đó, cần tổ chức lại hệ thống tòa án theo hướng thành lập các tòa chuyên
trách nhằm đảm bảo các thẩm phán tham gia x t xử có đủ năng lực, trình độ, có hiểu
biết chuyên sâu về lĩnh vực mà mình đảm nhiệm. Hiện nay mô hình tòa chuyên trách đã
được thành lập ở cấp tỉnh và cấp huyện nơi có nhiều vụ án xảy ra. Tuy nhiên với nhiều
tòa cấp huyện hoạt động “phân án vẫn được thực hiện theo chí chủ quan của tránh án
TAND, điều này dẫn đến tình trạng phân án theo cảm tính chủ quan, hông đảm bảo
tính hách quan đồng thời nó dẫn đến nhiều tiêu cực trong hâu x t xử” (Trích biên bản
phỏng vấn sâu Thẩm phán trung cấp TAND Cà Mau). Trong đó, hẩn trương xây dựng
và hoàn thiện mô hình tòa án gia đình và người chưa thành niên theo Luật Tổ chức
TAND năm 2014 và Thông tư số 01/2016/TT-CA ngày 21/1/2016 của TANDTC . Tuy
nhiên khoản 2 Thông tư này quy định điều kiện thành lập toà chuyên trách là “1. Việc tổ
chức các Tòa chuyên trách tại TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, TAND
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương phải đáp ứng được các điều
kiện sau: a) Số lượng vụ án mà Tòa án thụ lý, giải quyết thuộc thẩm quyền của Tòa
chuyên trách theo quy định tại Điều Thông tư này phải từ 50 vụ/năm trở lên. b) Có
biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư Tòa án đáp ứng được yêu cầu tổ chức Tòa
chuyên trách. 2. Trường hợp tại Tòa án hông đáp ứng đủ điều kiện tổ chức Tòa chuyên
trách quy định tại khoản 1 Điều này thì không tổ chức Tòa chuyên trách nhưng phải bố
trí Thẩm phán chuyên trách để giải quyết”. Tuy nhiên, trung bình mỗi năm của giai đoạn
2014-2019 có từ 1957 – 2172 vụ XHTD/năm (Bảng 3.10, Phụ lục 2), như thế mỗi năm
TAND cấp huyện (số đơn vị hành chính cấp huyện năm 2019 là 71 đơn vị) thụ lý
khoảng 2,7–3.0 vụ XHTD/năm, trong hi đó tiêu chuẩn thành lập toà chuyên trách thì
149
TAND huyện phải thụ lý 50 vụ/năm, nên để thành lập Tòa gia đình và người chưa thành
niên tại TAND cấp huyện cần phải thực hiện một trong ba phương án sau:
(1) Phương án 1: thành lập toà án sơ thẩm khu vực như đề xuất ở trên, sau đó
thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên là toà chuyên trách trong toà án sơ
thẩm khu vực.
(2) Phương án 2: thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên là toà chuyên
trách trong các TAND cấp huyện hiện nay theo hình thức đặc thù, nghĩa là hông căn cứ
vào mức độ phải thụ lý 50 vụ/năm của TAND cấp huyện như trong Thông tư số
01/2016/TT-CA ngày 21/1/2016 của TAND tối cao.
( ) Phương án : Tòa gia đình và người chưa thành niên được thành lập ở TAND
cấp tỉnh (hiện nay đã và đang triển khai) và các vụ án XHTD có nạn nhân dưới 18 tuổi
thì do toà chuyên trách này thụ lý và giải quyết (như thế các vụ án XHTD có nạn nhân
dưới 18 tuổi sẽ không do TAND cấp huyện thụ lý và giải quyết nữa).
Bên cạnh đó, TAND tối cao cần chỉ đạo các đơn vị chuyên môn tổ chức tổng kết
thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; triển hai thi hành các đạo
luật về tư pháp đối với người chưa thành niên. Ngoài ra, “giảm số lượng hội thẩm trong
hội đồng xét xử sơ thẩm vì trình độ và năng lực của hội thẩm còn bị hạn chế trong việc
tham gia thảo luận và đưa ra quyết định về những vấn đề áp dụng pháp luật” [59, tr.
106-107], trong hi đó “cả nước có hơn 15.000 Hội thẩm nhưng tiêu chuẩn chuyên môn
của họ lại rất chung chung, chưa cụ thể và khác xa các tiêu chuẩn về chuyên môn đối
với Thẩm phán. Nếu có hội thẩm tham gia thì chỉ cần 01 người (trong Hội đồng xét xử
có 3 thành viên) hoặc 2 người (trong Hội đồng xét xử có 5 thành viên), còn lại là thẩm
phán chuyên nghiệp” [56, tr. 462].
Thứ hai, đổi mới cách thức tổ chức, sắp xếp và hoạt động của VKSND.
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện VKSND các cấp theo hướng “VKSND được tổ
chức phù hợp với hệ thống tổ chức của toà án” [195, tr. 19]; bên cạnh đó VKSND tối
cao sớm xây dựng và ban hành Thông tư liên tịch về công tác phối hợp giữa các cơ quan
tố tụng trong quá trình tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án XHTD trẻ em. Đồng thời VKSND tối cao chỉ đạo
VKSND các cấp áp dụng đồng bộ các giải pháp để thực hiện tốt công tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết các vụ án XHTD trẻ em; phối hợp chặt chẽ với
Cơ quan điều tra ngay từ khi có tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố vụ án
XHTD trẻ em để kịp thời thu thập chứng cứ, bảo vệ, hỗ trợ trẻ em là nạn nhân, đẩy
nhanh tiến độ giải quyết vụ án và chống bỏ lọt tội phạm; bảo đảm ra quyết định truy tố
150
đúng thời hạn đạt 100% số vụ án XHTD trẻ em và truy tố bị can đúng tội danh đạt
100%.
Ba là, đổi mới cách thức tổ chức, sắp xếp và hoạt động của cơ quan điều tra.
Hoạt động điều tra vụ án hình sự có vai trò rất quan trọng vì thế cần thiết “tổ chức
lại cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối” [195, tr. 19]. Theo đó, thống nhất
thống nhất cơ quan điều tra thuộc thẩm quyền của cơ quan công an (riêng đối với cơ
quan điều tra quân sự dành riêng cho các vụ án trong quân đội), VKSND thực hiện
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tố tụng, bao gồm cả hoạt động điều tra.
Bốn là, xây dựng và áp dụng chỉ số công l đánh giá hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của các thiết chế tư pháp.
Chỉ số công lý là một trong những công cụ đo lường hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của các thiết chế tư pháp trong bảo đảm QTCCL của người dân nói chung của NNN bị
XHTD nói riêng. Ở Việt Nam, chỉ số công lý giới thiệu một hướng tiếp cận mới để đánh
giá kết quả thực hiện tiến trình cải cách luật pháp và tư pháp. Dựa vào kinh nghiệm các
khảo sát về tiếp cận công l đã được tiến hành trước đây, c ng như từ việc xây dựng các
chỉ số đo lường hiệu quả quản trị địa phương đang được sử dụng ở Việt Nam (PAPI-
The Provincial Governance and Public Administration Performance Index), chỉ số hài
lòng cung cấp dịch vụ công và chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI - Provincial
Competitiveness Index) và kinh nghiệm của Tổ chức World Justice Project xây dựng
Chỉ số Pháp quyền (Rule of Law Index) công bố hàng năm, với các chỉ báo: (1) Kiểm
soát quyền lực nhà nước; (2) Phòng chống tham nh ng; ( ) Công hai, minh bạch hoạt
động của nhà nước; (4) Đảm bảo các quyền cơ bản của công dân; (5) Đảm bảo trật tự và
an toàn xã hội; (6) Thi hành pháp luật; (7) Tiếp cận công l trong lĩnh vực dân sự; (8)
Tiếp cận công l trong lĩnh vực hình sự [265], Hội Luật gia Việt Nam (VLA), Trung
tâm Nghiên cứu Phát triển và Hỗ trợ Cộng đồng (C COD S) và UNDP đã tiến hành
khảo sát nhiều tỉnh, thành phố ở Việt Nam để đo lường, đánh giá về chỉ số Công lý ở
Việt Nam, với 4 chỉ báo sau: (1) Tiếp cận công lý; (2) công bằng và bình đẳng; (3) thi
hành pháp luật; (4) quyền cơ bản [73, tr. 66-68]. Chỉ số công l được hiểu là “một công
cụ định lượng được xây dựng để chuyển tải ý kiến và đánh giá của người dân về hiệu
quả hoạt động của các định chế nhà nước trong việc đảm bảo công lý và các quyền cơ
bản trên thực tế, đồng thời giúp các bên có liên quan đánh giá và giám sát các thay đổi
thực chứng về thực thi pháp luật và bảo đảm công lý ở Việt Nam” [72, tr. 8]. Do đó
những năm tới các cơ quan công quyền cần phối hợp với các tổ chức, cơ quan nghiên
cứu trong và ngoài nước hoàn thiện, xây dựng bộ chỉ số công l đồng thời tăng cường
151
đánh giá áp dụng chỉ số công l nhằm giám sát đánh giá hiệu quả hoạt động của các thiết
chế trong việc đảm bảo quyền dựa trên phản hồi từ trải nghiệm và quan sát thực tiễn của
người dân. Việc đánh giá hiệu quả hoạt động của thiết chế tư pháp thông qua Chỉ số
công lý giúp các thiết chế tư pháp có cái nhìn toàn diện hơn về hoạt động của mình để
tiếp tục cải thiện nhằm đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của người dân.
4.2.2.2. Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của thiết chế giám sát, hỗ trợ và tư
vấn pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục
Một là, đổi mới cách thức tổ chức, sắp xếp và hoạt động của thiết chế dân cử.
Để đảm bảo cho các thiết chế đặc biệt các thiết chế tư pháp chính thức hoạt động
có hiệu lực, hiệu quả, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế giám sát đồng thời đẩy mạnh hoạt
động giám sát đối với hoạt động các cơ quan này trong thực tế. Hiện tại, ngoài cơ chế
giám sát trong nội bộ các cơ quan, việc giám sát còn được thực hiện thông qua giám sát
của các cơ quan dân cử, giám sát của TTQ và giám sát của nhân dân với hoạt động
của các thiết chế tư pháp. Theo đó những năm tới cần đẩy mạnh việc công bố công hai
các bản án trên các trang thông tin điện tử, tạo điều iện cho hoạt động giám sát của
Nhân dân; đồng thời đẩy mạnh hoạt động giám sát của QH, HĐND các cấp, giám sát
trong nội bộ và giám sát ch o trong hoạt động của các thiết chế tư pháp.
Quốc hội tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động giám sát tư pháp; tăng
cường giám sát đối với các vụ án XHTD; làm tốt nhiệm vụ trong giai đoạn “hậu giám
sát”, iên trì đôn đốc, giám sát các cơ quan trong việc thực hiện các kiến nghị sau giám
sát. Trong đó nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban tư pháp của QH trong việc
giám sát các vụ án XHTD. Để thực hiện tốt yêu cầu này, cần tăng cường số lượng
ĐBQH hoạt động chuyên trách lên 40%-45% (hiện nay là khoảng 35%), dần dần tiến tới
giảm tối đa ĐBQH hoạt động kiêm nhiệm, đặc biệt đối với các trường hợp vừa là
ĐBQH vừa là cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan nhà nước ở địa phương; ngoài ra,
việc lấy phiếu tín nhiệm đối với Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao,
Bộ trưởng Bộ Công an vẫn tiếp tục thực hiện 02 lần trong cả nhiệm kỳ và thời điểm lấy
phiếu tín nhiệm cần thực hiện vào năm thứ 02 và năm thứ 04 của nhiệm kỳ (hiện nay
tiến hành một lần vào giữa nhiệm kỳ). Ngoài ra, nâng cao chất lượng giám sát tư pháp
của HĐND, bố trí cán bộ chuyên trách của Ban Pháp chế có nghiệp vụ, chuyên môn về
tư pháp để nâng cao chất lượng giám sát hoạt động xử lý các vụ án XHTD.
Hai là, đổi mới cách thức tổ chức, sắp xếp và hoạt động của thiết chế hỗ trợ, tư vấn
pháp lý.
152
Cần tiếp tục phát triển và tổ chức lại các thiết chế bổ trợ tư pháp như luật sư, các
cơ quan giám định, các cơ quan tổ chức hỗ trợ tư vấn tâm l cho nạn nhân bị XHTD,
trong đó cần hỗ trợ để phát triển và tổ chức lại các tổ chức hành nghề luật sư, các tổ
chức xã hội nghề nghiệp của luật sư ở các tỉnh, thành phố.
Đối với các cơ quan giám định tư pháp, cần iện toàn hệ thống tổ chức giám định
tư pháp. Hiện nay ở nước ta có 4 tổ chức giám định tư pháp ở Trung ương là: Viện Pháp
y quốc gia, Viện Pháp y tâm thần Trung ương thuộc Bộ Y tế, Viện Pháp y Quân đội
thuộc Bộ Quốc phòng và Viện Khoa học hình sự thuộc Bộ Công an. Theo đó cần tiếp
tục hỗ trợ hoàn thiện các trung tâm giám định pháp y thuộc Sở Y tế, Phòng giám định
pháp y thuộc bệnh viện đa hoa cấp tỉnh. Xây dựng mô hình giám sát tư pháp đối với tội
XHTD theo quy trình một cửa, như hình thức trung tâm 1 cửa tại Thái Lan và mô hình 1
điểm dừng tại Hàn Quốc, điều này tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng vượt qua những
sang chấn tâm lý của NNN bị XHTD, đặc biệt là trẻ em gái. Nhà nước phối hợp với
TTQ và các đoàn thể nhân dân phát triển các trung tâm tư vấn trợ giúp tâm l cho
NNN bị XHTD, đặc biệt trẻ em bị XHTD. Theo đó Bộ LĐTBXH cần tiếp tục duy trì và
phát triển các dịch vụ, tổng đài hỗ trợ tư vấn cho phụ nữ và trẻ em là nạn nhân bị
XHTD; đảm bảo cho các dịch vụ này được phát triển một cách rộng rãi và hoạt động có
hiệu quả trong tư vấn trợ giúp tâm l cho mọi nạn nhân trên mọi vùng miền của tổ quốc.
Tiếp tục duy trì, phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em kết nối với các
dịch vụ công tác xã hội, bảo trợ xã hội, y tế, giáo dục và TGPL nhằm đáp ứng việc bảo
vệ trẻ em ở cả ba cấp độ (phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp); phối hợp, xử lý thông tin kịp
thời giữa địa phương với Tổng đài 111 trong việc xác minh, hỗ trợ, can thiệp các vụ án
bạo lực giới, XHTD với trẻ em và phụ nữ; thực hiện quy trình hỗ trợ, can thiệp đối với
nạn nhân là PNTEG bị XHTD.
Thứ ba, tăng cường học hỏi inh nghiệm và tranh thủ các nguồn lực từ hoạt động
hợp tác quốc tế nhằm hoàn thiện tổ chức, bộ máy các thiết chế tư pháp.
Những năm tới các thiết chế tư pháp cần thông qua các chương trình hợp tác quốc
tế, trao đổi, học hỏi inh nghiệm với các đối tác quốc tế thông qua đó tiếp cận, thu thập
thông tin, kinh nghiệm, góp phần hoàn thiện tổ chức, bộ máy thiết chế tư pháp. Hoat
động trao đổi, tham khảo, học hỏi inh nghiệm về mô hình tổ chức hoạt động của các cơ
quan tư pháp nước ngoài cần được thực hiện một cách có chọn lọc, tránh dàn trải, trùng
lặp, dẫn đến hình thức và lãng phí. Theo đó, các cơ quan tư pháp ở Trung ương đẩy
mạnh hoạt động trao đổi thông qua nghiên cứu, điều tra đối với các vụ án XHTD; phối
hợp với các cơ quan tư pháp thực hiện các yêu cầu ủy thác, tương trợ tư pháp của Việt
153
Nam cho nước ngoài và tiếp nhận xử l các hồ sơ yêu cầu tương trợ tư pháp; đẩy mạnh
việc đàm phán, ết và tổ chức thực hiện một số điều ước quốc tế về tư pháp.
4.2.3. Nhóm giải pháp tăng cường các nguồn lực để vận hành cơ chế pháp lý
đảm ảo qu ền tiếp cận công l của nạn nh n nữ ị m hại tình ục
Để hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, Đảng và Nhà nước
cần thực hiện đồng bộ các biện pháp để tăng cường nguồn nhân lực và các nguồn lực vật
chất hác phục vụ cho vận hành CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD, cụ thể
như sau:
4.2.3.1. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp đủ về số lượng ph
hợp về cơ cấu và đảm bảo về chất lượng
Để đảm bảo số lượng cơ cấu cho đội ng cán bộ ở các cơ quan tư pháp địa
phương, những năm tới các cơ quan tư pháp Trug ương và địa phương cần cân đối cơ
cấu đội ng cán bộ tư pháp nhằm bố trí đủ về số lượng và cơ cấu tại những địa bàn trọng
điểm nơi có nhiều vụ án xảy ra tránh áp lực quá lớn cho thẩm phán, iểm sát viên và
điều tra viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Việc thiếu cán bộ tư pháp đặc biệt là
điều tra viên, iểm sát viên là nữ đã và đang tạo ra rào cản nhất định trong hoạt động bảo
đảm QTCCL của các nạn nhân bị XHTD là nữ hay trẻ em gái. Bởi hiện nay “Hầu hết
phụ nữ làm việc trong lĩnh vực tư pháp hình sự nắm giữ các vị trí thấp, và có ít khả năng
và ảnh hưởng đến việc ra quyết định” [193, tr. 54]; “chưa đến 1% các điều tra viên hình
sự là nữ giới” [193, tr. 59]. Do đó, để tiến tới xây dựng mô hình tố tụng thân thiện với
người chưa thành niên đặc biệt là trẻ em gái bị XHTD, các cơ quan, đơn vị của VKSND,
cơ quan điều tra tiếp nhận tin báo tội phạm “không chỉ cần phải chú trọng đến nâng cao
số lượng cán bộ nữ, mà còn cần phải tăng cường nỗ lực nhằm nâng cao năng lực cho
phụ nữ” [193, tr. 64] để họ có thể phát triển, trưởng thành đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
đảm trách các vụ án đặc biệt các vụ án liên quan đến XHTD với PNTEG. Chính phủ cần
xem xét lại tiêu chí tuyển dụng và quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm của mỗi cơ quan tư pháp
hình sự đối với cán bộ nữ nhằm xóa bỏ những định kiến giới, thiên lệch về các tiêu
chuẩn do nam giới định ra.
Bên cạnh đó, để nâng cao năng lực thi công vụ cho đội ng cán bộ thuộc các thiết
chế tư pháp chính thức thì đội ng cán bộ công an, cán bộ viện kiểm sát và thẩm phán
cần được tham gia vào các chương trình tập huấn và phát triển chuyên môn; nghiệp vụ,
trong đó họ “cần được đào tạo về các ỹ năng cung cấp thông tin, hỗ trợ, trợ giúp và
truyền thông cho nạn nhân khi tham gia vào hệ thống tư pháp hình sự” [41, tr. 33]. Theo
kết quả khảo sát thực tế cho thấy rằng, hạn chế lớn nhất của đội ng cán bộ tư pháp là
154
việc họ ít có hả năng giao tiếp hiệu quả với các nạn nhân dẫn đến tình trạng nạn nhân
rất e d hi phải tiếp xúc với cán bộ do họ cảm nhận rằng “cán bô tư pháp thiếu cảm
thông với các trải nghiêm tâm l mà nạn nhân phải chịu đựng”. Trong hi đó đa số cán
bộ tư pháp tham gia nghiên cứu cho rằng họ ít hi được tham gia các háo đào tạo tập
huấn liên như “Đào tạo ỹ năng, hiểu biết nắm bắt tâm l nạn nhân và người phạm tội”,
“Đào tạo iến thức ỹ năng giao tiếp, tiếp xúc với nạn nhân”; có đến 8, % cán bộ các
thiết chế tư pháp tham gia trả lời phiếu hỏi cho biết họ rất hiếm hi được tham gia “Đào
tạo ỹ năng, hiểu biết nắm bắt tâm l nạn nhân và người phạm tội” và 27% hẳng định
họ chưa được đào tạo tập huấn về ỹ năng này; có 45% cán bộ tư pháp trong mẫu
nghiên cứu hẳng định họ rất hiếm hi được “Đào tạo iến thức ỹ năng giao tiếp, tiếp
xúc với nạn nhân, người phạm tội” và 27,7% hẳng định họ chưa được đào tạo về ỹ
năng này (Bảng 4.1, Phụ lục 4). Để đảm bảo nâng cao năng lực và ỹ năng cho đội ng
cán bộ bên cạnh việc đưa đội ng này đi đào tạo, tập huấn. Các cơ quan cung cấp dịch
vụ đào tạo tập huấn cần nâng cao chất lượng của háo đào tạo đã và đang được cung
cấp. Bởi chất lượng các hóa đào tạo là nhân tố tác động trực tiếp đến nâng cao năng lực
cho đội ng cán bộ. Nghiên cứu thực tế cho thấy 54,7% cán bộ tư pháp đánh gía chất
lượng, hiệu quả của các háo đào tạo, cập nhật iến thức văn bản pháp luật ở mức bình
thường và , % cán bộ đánh giá về các háo đào tạo này ở mức hiệu quả. Tuy nhiên
với các háo đào tạo ỹ năng hiểu biết nắm bắt tâm l nạn nhân và người phạm tội có
đến 5 , % cán bộ tư pháp đánh giá các háo đào tạo này hông hiệu quả và rất hông
hiệu quả; 50% cán bộ tư pháp cho rằng các chương trình, đào tạo tập huấn iến thức ỹ
năng giao tiếp, tiếp xúc với nạn nhân, người phạm tội là hông hiệu quả.
Hiện tại, các trường đào tạo cử nhân luật, đào tạo nghề, bồi dư ng nghiệp vụ về tư
pháp đã phát triển nhanh về số lượng, tuy nhiên công tác đào tạo cán bộ pháp luật, đào
tạo nghề cho các chức danh tư pháp hiện còn rất phân tán. Chương trình chất lượng đào
tạo chưa đáp ứng việc thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng cán bộ tư pháp và phục
vụ nhiệm vụ nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa. “Công tác đào tạo, bồi dư ng
định kỳ, thường xuyên, cập nhật các kiến thức mới và chuyên sâu theo từng lĩnh vực cho
cán bộ có chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp chưa được quan tâm đúng mức, thực hiện
chưa có nền nếp, ổn định. Thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư chưa được trang bị kiến
thức, kỹ năng tranh tụng và điều hành phiên tòa tranh tụng” [8].
Theo đó, những năm tới các cơ sở đào tạo này (như Đại học Luật Hà Nội, Đại học
Luật thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Kiểm sát,
Học viện Tư pháp, Học viện Toà án, v.v..) tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo;
155
đẩy mạnh công tác hợp tác quốc tế trong đào tạo iến thức, ỹ năng cho cán bộ tư pháp,
bổ, trợ tư pháp trong việc giải quyết các vụ án XHTD PNTEG.
4.2.3.2. Đảm bảo các nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất t ang thiết bị cho
hoạt động tư pháp
Những năm qua theo báo cáo của Ban chỉ đạo CCTP Trung ương việc đầu tư xây
dựng trụ sở làm việc, đảm bảo cung cấp phương tiện trang thiết bị cho hoạt động các cơ
quan tư pháp trên toàn quốc luôn được quan tâm thực hiện. Các đơn vị và địa phương đã
chú trọng tập trung đầu tư “xây dựng cơ sở vật chất, trang bị, phương tiện làm việc và
ưu tiên bố trí kinh phí phục vụ công tác điều tra, kiểm sát, xét xử, giám định tư pháp, thi
hành án phù hợp điều kiện kinh tế của đất nước. Chế độ, chính sách đối với cán bộ, công
chức ngành TAND, VKSND, Thi hành án đã từng bước được bổ sung, góp phần động
viên cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ” [8].
Kết quả điều tra thực tế cho thấy các cán bộ tư pháp đều đánh giá tốt về cơ sở vật
chất trang thiết bị và inh phí hoạt động cho đội ng cán bộ các cơ quan tư pháp. Tuy
nhiên để nâng cao hiệu quả công tác giải quyết, xét xử các vụ án XHTD nói chung,
XHTD với PNTEG nói riêng, nhà nước và các địa phương cần tăng cường đầu tư cơ sở
vật chất, phương tiện cho các cơ quan trong hệ thống tư pháp. Với tòa án cần đầu tư xây
dựng mô hình phòng x t xử thân thiện bởi đây là một yếu tố đảm bảo về mặt tâm l cho
nạn nhân và gia đình nạn nhân, điều đó huyến hích họ mạnh dạn trình báo vụ việc và
đưa vụ việc ra x t xử thông qua con đường tư pháp hình sự.
Bên cạnh đó cần chú trọng đảm bảo về cơ sở vật chất như: xây dựng phòng chức
năng Giám sát tâm l , hình thức phòng xét xử các vụ án được đổi mới theo hướng thân
thiện với người chưa thành niên về cách sắp xếp chỗ ngồi của những người tiến hành tố
tụng, những người tham gia tố tụng.
4.2.4. Nhóm giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả vận hành cơ
chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công l của nạn nh n nữ bị xâm hại tình dục
4.2.4.1. Hoàn thiện sự phối hợp giữa các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý bảo
đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục
Thứ nhất, thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tham gia đảm bảo
quyền tiếp cận công l của NNN bị XHTD là việc làm quan trọng bởi bộ máy của chúng
ta hiện có sự tham gia phối hợp của nhiều cơ quan, đơn vị hác nhau. Do đó, nếu hông
xây dựng cơ chế phối hợp vận hành hiệu quả thì sự vận hành của hệ thống sẽ gặp hó
hăn.
156
Theo đó với các cơ quan tư pháp chính thức cần thiết lập cơ chế phối hợp giữa cơ
quan điều tra, viện iểm sát và tòa án. Cơ quan điều tra, viện iểm sát cần phối hợp hoạt
động chặt chẽ ngay từ hi bắt đầu tiếp nhận đơn tố cáo của gia đình bị hại. Hoạt động
phối hợp cần được thực hiện ngày từ hâu điều tra thu thập, giám định chứng cứ, dấu
vết. Trong quá trình thực hiện các hâu này “Kiểm sát viên phải thực sự trách nhiệm,
luôn bám sát các hoạt động điều tra, phối hợp chặt chẽ với điều tra thực hiện các biện
pháp điều tra, thu thập chứng cứ đảm bảo theo đúng quy định của BLTTHS. Trong quá
trình x t xử, chủ động phối hợp với Tòa án nhằm sớm đưa các vụ án ra x t xử, đề nghị
mức án nghiêm hắc, tương xứng với hành vi bị cáo để Hội đồng x t xử đưa ra bản án
có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, đảm bảo việc x t xử đúng người, đúng tội” [91].
Để hạn chế đến mức thấp nhất những vấn đề nội tại phát sinh trong cơ chế phối
hợp giữa các cơ quan tư pháp như: Tòa án hông có hả năng buộc các điều tra viên
phải chịu trách nhiệm về hành vi của họ trong giai đoạn điều tra, hay sự phối hợp lỏng
lẻo giữa viện iểm sát và tòa án, cần có quy định rõ ràng cụ thể hơn về trách nhiệm và
quyền hạn của các bên đến đâu trong từng hâu. Cần thiết lập cơ chế iểm tra, iểm sát
ch o lẫn nhau giữa các cơ quan cùng tiến hành hoạt động tố tụng. Cần tăng cường trách
nhiệm giải trình trong hoạt động của các cơ quan tư pháp nhằm đảm bảo hoạt động của
cơ quan này đặc biệt là hoạt động của tòa án được thực hiện theo hướng công hai, minh
bạch. Cán bộ của các cơ quan cần thường xuyên trao đổi, thống nhất nhận thức về các
quy định của pháp luật c ng như những vấn đề còn có ý kiến hác nhau hi đánh giá các
tình tiết khách quan của vụ án, nhằm đảm bảo xét xử, giải quyết các vụ án về xâm hại
tình dục với phụ nữ và trẻ em gái đúng pháp luật.
Thứ hai, để vận hành hiệu quả cơ chế phối hợp giữa các cơ quan tư pháp chính
thức cần hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng với công tác tư pháp. Theo đó cần tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng thông qua đưa ra chủ trương định hướng
cho hoạt động của cơ quan tư pháp. Các cấp ủy đảng cần đẩy mạnh hoạt động triển hai,
giám sát hoạt động thực hiện triển hai các nhiệm vụ CCTP và công tác tư pháp c ng
như thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa cơ quan tư pháp.
Thứ ba, bên cạnh việc xây dựng và thiết lập cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cơ
quan trong thiết chế tư pháp chính thức, để đảm bảo QTCCL cho NNN bị XHTD, cần
thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành để đảm bảo cho tất cả các cơ quan, tổ chức kể cả ở
khu vực công và hu vực tư đều có thể tham gia một cách tích cực và hiệu quả trong
chuỗi tiếp cận công l . Theo đó cần tăng cường các cơ chế hợp tác kết hợp với việc
157
giám sát thực hiện một cách đầy đủ toàn diện có sự hiện diện của các bên liên quan, đảm
bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các thiết chế tư pháp chính thức với người giám hộ, người
đại diện quyền và lợi ích của nạn nhân. Sự phối hợp giữa người thực hiện TGPL, người
bào chữa, bào chữa viên nhân dân với tòa án, viện iểm sát và cơ quan điều tra, thi hành
án trong quá trình tố tụng và hâu thi hành bản án.
Thứ tư, cần đẩy mạnh hoạt động phối hợp giữa các cơ quan và giữa các địa
phương trên cả nước trong quá trình truy tìm bị cáo trong trường hợp đối tượng bỏ trốn
hỏi địa phương. Rất nhiều vụ án liên quan đến XHTD bị đình chỉ hông thể đưa ra x t
xử tìm lại công l cho nạn nhân là do bị cáo bỏ trốn hỏi địa phương. Trong hi đó công
tác phối hợp điều tra truy tìm những đối tượng này hiện còn gặp nhiều hó hăn vướng
mắc. “Các địa phương, các cơ quan thường hông nỗ lực tìm iếm do hông có cơ chế
hen thưởng hay huyến hích họ làm việc này giống như tìm tội phạm bị truy nã. Điều
đó tạo ra hó hăn nhất định trong xử l các vụ án đặc biệt hi đối tượng bỏ trốn” (Trích
biên bản phỏng vấn Cán bộ cơ quan điều tra hình sự Cần Thơ).
4.2.4.2. Nâng cao năng lực tiếp cận công lý cho nạn nhân nữ bị xâm hại tình
dục
Trong bối cảnh hi mà hệ thống tư pháp chính thức được đánh giá còn nhiều hạn
chế như: “Thủ tục rườm rà, phức tạp, hình thức và hay bị trì hoãn; Dễ bị chi phối bởi các
thế lực và quyền lực” [45, tr. 188-189] thì việc hạn chế trong năng lực TCCL sẽ hiến
cho QTCCL của NNN bị XHTD sẽ rất hó được thực thi trong thực tế. Vì thế, để nâng
cao năng lực TCCL của NNN bị XHTD, chính quyền các cấp cần phải thực hiện các nội
dung sau:
Thứ nhất, tuyên truyền nâng cao nhận thức pháp luật cho người dân nói chung,
cho NNN bị XHTD nói riêng.
Việc thiếu hiểu biết về các quyền và nghĩa vụ của mình, hay việc hông hiểu biết,
hông có hả năng vận dụng các quy định pháp luật, thiếu hiểu biết về cơ chế, thủ tục
pháp l sẽ là rào cản lớn hiến cho các nạn nhân chấp nhận sự im lặng hông dám tố cáo
tội phạm c ng như từ bỏ việc hông theo đuổi vụ việc đến cùng. Theo đó cần có nhiều
hình thức để phổ biến thông tin pháp luật, nâng cao hiểu biết cho các nạn nhân để họ tự
tin, mạnh dạn hơn trong việc tố cáo tội phạm. Các cơ quan chức năng và tổ chức của
cộng đồng cần phối hợp để xác định một chiến lược tuyên truyền, giáo dục pháp luật
dựa trên nghiên cứu về nhu cầu và sự hiểu biết pháp luật của từng nhóm dân cư.
Theo kết quả khảo sát thực tiễn cho thấy, người Kinh có hả năng nhận biết đâu là
hành vi vi phạm pháp luật tốt hơn những người thuộc các dân tộc ít người; có đến 21, %
158
người dân tộc thiểu số cho rằng việc quan hệ tình dục hoặc thực hiện hành vi tình dục
với vợ, người yêu dưới 1 tuổi là hông vi phạm pháp luật nhưng con số này ở người
Kinh chỉ là 7%; 5,4% người dân tộc thiểu số cho rằng việc dụ dỗ, p buộc người dưới 1
tuổi sờ, bóp, hôn..vào những bộ phận vùng nhạy cảm (bộ phận sinh dục, ngực, vùng
mặt, đầu, đùi, mông…) trên cơ thể người dụ dỗ, p buộc hoặc người hác hông phải là
hành vi vi phạm pháp luật tuy nhiên con số này ở người inh là 2, %. Do đó với công
tác tuyên truyền cần chú trọng tuyên truyền cho người dân tộc thiểu số, người sinh sống
ở vùng sâu, vùng xa. Các hình thức phổ biến pháp luật cần đáp ứng nhu cầu hiểu biết
pháp luật để giải quyết những vấn đề cụ thể của các nhóm dân cư. Đối với nạn nhân đặc
biệt là nạn nhân ngh o hay các nhóm xã hội dễ bị tổn thương hác cần hết sức hỗ trợ họ
trong tiếp cận thông tin về pháp luật. Phát huy tối đa vai trò của các phương tiện truyền
thông đại chúng, đặc biệt các mạng xã hội để tuyên truyền và hỗ trợ pháp luật cho nạn
nhân một cách thuận tiện, nhanh chóng, hiệu quả và ít tốn m nhất.
Nội dung tuyên truyền cần chú trọng tuyên truyền về các hành vi tình dục bị cấm
theo quy định của luật, tuyên truyền hậu quả, tác động của hành vi xâm XHTD. Tuyên
truyền rộng rãi đến mọi đối tượng đặc biệt là trẻ em gái về cách thức phòng tránh các
tình huống dễ xảy ra XHTD. Dạy cho các em cách ứng phó và xử l hi rơi vào tình
huống đó. Tuyên truyền sâu rộng về các quy trình, thủ tục tố tụng, các bước hay các cơ
quan để nạn nhân và gia đình có thể trình báo vụ việc hay nơi họ có thể nhận được tư
vấn trợ giúp pháp l . Đồng thời chú trọng tuyên truyền để thay đổi những định iến của
người dân đối với cán bộ hay với hoạt động của các thiết chế tư pháp. Nghiên cứu của
tôi cho thấy tất cả các nhân tố như nhận thức của người dân về các quyền và nghĩa vụ,
nhận thức về các thủ tục, hay niềm tin vào sự đúng đắn trong cách giải quyết vụ việc
thông qua con đường tư pháp hình sự đều có sự tác động tới xu hướng lựa chọn hành vi
của người dân xem họ có trình báo vụ việc hay giữ im lặng. Họ sẽ giải quyết vụ việc
thông qua con đường tư pháp hình sự hay con đường thương lượng hòa giải.
Kết quả khảo sát thực tiễn cho thấy tất cả các yếu tố như giới tính, trình độ học
vấn, thành phần dân tộc và địa bàn sinh sống đều có mối quan hệ với việc lựa chọn xử l
vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự. Theo đó nữ giới có xu hướng hông lựa
chọn giải quyết vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự cao hơn nam giới, người
sinh sống ở hu vực nông thôn có xu hướng lựa chọn giải quyết vụ việc thông qua con
đường tư pháp hình sự nhiều hơn người sinh sống ở hu vực đô thị, tỷ lệ người inh lựa
chọn hông giải quyết vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự nhiều hơn người
dân tộc thiểu số, người có trình độ học vấn dưới THPT lựa chọn hông giải quyết vụ
159
việc thông qua con đường tư pháp hình sự nhiều hơn những người có trình độ học vấn
từ cao đẳng đại học trở lên (Bảng 4.2, Phụ lục 4). Do vậy hi lựa chọn đối tượng tuyên
truyền cần chú trọng tuyên truyền cho đối tượng này.
Thứ hai, chính quyền địa phương thực hiện ngay biện pháp tuyên truyền nhằm
thay đổi hành vi, quan điểm, định iến văn hóa làm giảm áp lực, huyến hích nạn nhân
đứng lên tố giác tội phạm c ng như giúp họ ổn định về mặt tinh thần, vượt qua những
hó hăn hi phải đối mặt với vụ việc. Theo đó các cơ quan chức năng cần sử dụng các
phương tiện truyền thông hiện đại, các chương trình ết nối để huyến hích các nạn
nhân ể lại câu chuyện của họ và để các nạn nhân trở thành hạt nhân cho các phong trào
xóa bỏ định iến văn hóa liên quan đến XHTD. Cộng đồng, các tổ chức của chính phủ
hay các tổ chức chính trị - xã hội hác tham gia vào các phong trào xóa bỏ định iến văn
hóa như việc cho rằng nạn nhân của các vụ XHTD bắt nguồn từ chính hành vi thiếu
đứng đắn hay hông iên quyết của nạn nhân. Chúng ta cần xóa bỏ định iến về trinh
tiết hiến nhiều phụ nữ và trẻ em gái phải sống trong cô đơn, sợ hãi hi họ chẳng may
trở thành nạn nhân của tội XHTD.
Thứ ba, cần mở rộng diện bao phủ và nâng cao hiệu qủa hoạt động của các hình
thức TGPL.
Sự tư vấn, TGPL một cách thích hợp được cung cấp cho các nạn nhân của vụ án
có nghĩa vô cùng quan trọng trong việc ngăn chặn việc lặp lại tình trạng nạn nhân
(biến nạn nhân thành nạn nhân thêm một lần nữa) [192]. Đồng thời nếu các NNN bị
XHTD không tiếp cận được sự TGPL, họ có xu hướng bị đối xử bất công, phải chịu
những hành động trái pháp luật và bị đòi hỏi hối lộ. ặc dù có vai trò rất quan trọng
nhưng trên thực tế tỷ lệ các nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở nước ta được tiếp cận, hỗ
trợ về pháp l còn rất thấp.Số liệu điều tra trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt hó hăn do Sở
LĐTBXH tỉnh Kiên Giang thực hiện năm 201 cho thấy chỉ có 18,1% số trẻ em bị
XHTD được trợ giúp tư pháp [143]; ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội năm 2014
cho thấy trong số những người được phỏng vấn từng bị quấy rối tình dục, chỉ có 1,9%
người từng bị quấy rối tình dục tìm kiếm trợ giúp tư pháp chính thức [7].
Theo đó để nâng cao năng lực tiếp cận công l cho NNN bị XHTD, chúng ta cần
đảm bảo tính sẵn có và tính hiệu quả của các dịch vụ hỗ trợ thiết yếu dành cho nạn nhân.
Ngoài ra, chúng ta cần nâng cao năng lực cho các nhà cung cấp dịch vụ để đảm bảo các
dịch vụ hỗ trợ được dựa trên quyền, lấy nạn nhân làm trung tâm và mang tính nhạy cảm
về giới [7]. Theo đó, trong chiến lược CCTP trong giai đoạn tới, Đảng và Nhà nước cần:
xây dựng một chiến lược tư vấn và TGPL cho NNN bị XHTD; phát huy vai trò của
160
MTTQ Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, đặc biệt là Hội luật gia, Liên đoàn Luật sư,
các trung tâm đào tạo luật cung cấp các dịch vụ pháp lý miễn phí và TGPL cho NNN bị
XHTD, kết hợp với phát triển mạng lưới TGPL ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số. Vì thế, để đáp ứng tốt nhu cầu được TGPL ngày một tăng của người dân,
hệ thống trợ giúp và tư vấn pháp lý phải được đầu tư phát triển mạnh mẽ, trong đó đẩy
mạnh xã hội hoá đối đối với hoạt động TGPL.
Kết luận chương 4
Bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là vấn đề hệ trọng trong quá trình xây dựng
NNPQ XHCN và bảo vệ QCN, đặc biệt quyền của phụ nữ và trẻ em. Hoàn thiện CCPL
bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam hiện nay không chỉ nâng cao năng
lực tiếp cận công lý cho NNN bị XHTD, mà còn góp phần vào nâng cao hiệu quả công
tác đấu tranh, phòng ngừa đối với hành vi XHTD ở nước ta hiện nay.
Để thực hiện được yêu cầu này, các ngành, các cấp cần phải thực hiện đồng bộ các
giải pháp: hoàn thiện HTPL về bảo đảm QTCCL cho NNN bị XHTD ở Việt Nam; hoàn
thiện hệ thống các thiết chế pháp lý về bảo đảm QTCCL cho NNN bị XHTD ở Việt
Nam; tăng cường các nguồn lực để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam;
nâng cao năng lực tiếp cận công lý của NNN bị XHTD ở Việt Nam. Thông qua các giải
pháp này, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các tổ chức xã hội ở Việt Nam hiện
nay đáp ứng tốt yêu cầu của PNTEG bị XHTD sử dụng pháp luật và kịp thời tiếp cận,
trình báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tìm kiếm sự khắc phục, bồi thường
thoả đáng những thiệt hại mà họ bị người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện
những hành vi xâm phạm đến quyền tự do và bất khả xâm phạm tình dục của bản thân
mình.
161
KẾT LUẬN
1. Công lý, QTCCL, CCPL, NNN bị XHTD đã được nhiều học giả trong nước và
ngoài nước quan tâm nghiên cứu ở nhiều phương diện hác nhau, trong đó chủ yếu tiếp
cận trên phương diện khoa học pháp lý. Kết quả nghiên cứu của các công trình này được
NCS tiếp thu và sử dụng trong việc xây dựng cơ sở lý luận về QTCCL của NNN bị
XHTD.
2. QTCCL là một trong những quyền cơ bản của con người, đã được pháp luật
quốc tế hiện đại ghi nhận, bảo đảm QTCCL được coi là một trong những nội dung quan
trọng trong xây dựng NNPQ hiện đại. CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là
cách thức vận hành của hệ thống pháp lý trong thực tiễn theo quy định pháp luật nhằm
đáp ứng yêu cầu của PNTEG bị XHTD tìm kiếm sự khắc phục, bồi thường thoả đáng
những thiệt hại mà họ bị người khác xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm và tự do
tình dục của bản thân mình và trừng phạt thích đáng với người XHTD. Cơ chế nào được
cấu thành bởi: thể chế pháp lý về bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD; thiết chế bảo
đảm QTCCL của NNN bị XHTD; các nguồn lực đáp ứng yêu cầu vận hành CCPL bảo
đảm QTCCL của NNN bị XHTD và mối liên hệ giữa yếu tố cấu thành CCPL bảo đảm
QTCCL của NNN bị XHTD. Trên thực tế, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD
ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản đã cho Việt Nam những giá trị tham khảo quý
báu, đặc biệt là hoàn thiện thể chế pháp lý, cải cách hệ thống tư pháp, phát triển mạng
lưới tư vấn, TGPL và phát huy vai trò của các cơ quan giám sát.
3. Việt Nam trong những năm qua, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD
những năm qua đã được cải thiện đáng ể nhờ sự hoàn thiện hông ngừng thể chế pháp
lý, đồng thời và sự hoàn thiện các thiết chế nhằm thực thi pháp luật ngày một tốt hơn
trong thực tế. Các nguồn lực đảm bảo cho sự vận hành CCPL này c ng được cải thiện.
Đội ng cán bộ, công chức được đảm bảo về số lượng cơ cấu và chất lượng; các nguồn
lực hác c ng được tăng cường. Người dân ngày càng hiểu biết pháp luật tốt hơn, tích
cựcthay đổi các tập quán lạc hậu, từ đó đã giúp các NNN bị XHTD có hả năng tốt hơn
trong quá trình theo đuổi vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự.
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD
còn những khuyết điểm nhất định, con đường TCCL của nhiều NNN bị XHTD ở nước
ta còn rất gian nan. Nhiều NNN vẫn hông dám công hai trình báo vụ việc, nhiều vụ
việc được trình báo nhưng vẫn chưa được đưa ra x t xử một cách thỏa đáng do những lỗ
hổng trong hung luật pháp, do những hạn chế trong bộ máy và cơ chế vận hành của bộ
162
máy; sự yếu m trong năng lực thực thi nhiệm vụ của đội ng cán bộ trong các thiết
chế tư pháp chính thức, thiết chế giám sát và hỗ trợ, TGPL, những hạn chế trong năng
lực TCCL của nạn nhân và gia đình nạn nhân. Tất cả những nhân tố nêu trên đã và đang
làm cản trở việc “tìm iếm sự đền bù và hắc phục thỏa đáng” cho những thiệt hại mà
NNN bị XHTD phải chịu đựng ở Việt Nam hiện nay.
4. Bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD là nội dung quan trọng trong quá trình
xây dựng NNPQ XHCN và bảo vệ QCN, đặc biệt quyền của PNTEG.
Hoàn thiện CCPL bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam hiện nay
không chỉ nâng cao năng lực TCCL cho NNN bị XHTD, mà còn góp phần vào nâng cao
hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa đối với tội phạm tình dục ở nước ta hiện nay.
Để thực hiện được yêu cầu này, các ngành, các cấp cần phải thực hiện đồng bộ các giải
pháp: hoàn thiện HTPL về bảo đảm QTCCL cho NNN bị XHTD ở Việt Nam; hoàn
thiện hệ thống các thiết chế pháp lý về bảo đảm QTCCL cho NNN bị XHTD ở Việt
Nam; tăng cường các nguồn lực để bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam;
nâng cao năng lực TCCL của NNN bị XHTD ở Việt Nam. Thông qua các giải pháp này,
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các tổ chức xã hội ở Việt Nam hiện nay đáp
ứng tốt yêu cầu của PNTEG bị XHTD sử dụng pháp luật và kịp thời tiếp cận, trình báo
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tìm kiếm sự khắc phục, bồi thường thoả đáng
những thiệt hại mà họ bị XHTD; đồng thời trừng trị thích đáng người phạm tội XHTD,
qua đó đẩy lùi vấn nạn XHTD PNT G, đặc biệt là XHTD trẻ em gái hiện nay.
163
DANH MỤC CÁC C NG TRÌNH ĐÃ C NG Ố CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Dang Viet Dat (2020), “The Right of Access to Justice in Constitutions of some
Asian Countries and Lessons Learned for Vietnam”, in boo Association for Asian
Constitutional Studies and Vietnam National University, Hanoi, School of Law, 8th
Asian Constitutional Law Forum (International Conference Proceedings): ASIAN
Constitutional Law Recent Developments and Trends, Vietnam National University
Press, Hanoi, Volume, 2, pp. 398-412.
2. Dang Viet Dat (2020), “Complete the nstitutions to ensure the rights for female
victims of sexual abuse in Vietnam”, Journal of Science Hanoi Open University, No. 9,
pp.11-15.
. Dang Viet Dat (2020), “Legal mechanism in ensuring the right to access to
justice of female victims of sexual abuse: Practice and some issues raised in Vietnam”,
Journal of Science Hanoi Open University, No. 3, pp. 26-31.
4. Dang Viet Dat, Truong Ho Hai (2019), “The Relation between Openness,
Transparency and Accountability in State Governance and the Rights of Access to
Justice of Citizens in Vietnam”, in boo Vietnam National University, Hanoi, School
Law, Proceedings of the International Workshop: Openness, Transparency and
Accountability in State Governance and Anti – Corruption in the World and Vietnam,
Judicial Publishing House, Hanoi, pp. 521-547.
5. Đặng Viết Đạt, Trương Hồ Hải (2019), “Nâng cao năng lực tiếp cận công lý của
nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11, tr. 38-44.
. Đặng Viết Đạt (2019), “Hoàn thiện hung pháp l đảm bảo quyền tiếp cận công
lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam”, Tạp chí Pháp luật về Quyền con
người, số 4, tr. 80-97.
7. Đặng Viết Đạt (2018), “Quyền tiếp cận công lý và bảo đảm quyền tiếp cận công
lý ở Việt Nam”, Tạp chí Pháp luật về Quyền con người, số 3, tr. 68-75.
8. Đặng Viết Đạt, Trương Hồ Hải (2018), “Bảo vệ công lý và quyền con người
trong hoạt động xét xử ở Việt Nam hiện nay” trong Đào Trí Úc và V Công Giao, Công
lý và quyền tiếp cận công lý: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr. 187-197.
9. Đặng Viết Đạt, Trương Hồ Hải (2018), “Chỉ số công lý: lý luận và thực tiễn ở
Việt Nam”, trong Đào Trí Úc và V Công Giao, Công lý và quyền tiếp cận công lý: Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 300-315.
164
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Nguyễn Thị Hoài An (2019), Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối với
việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
2. Tâm An, Phụ nữ Nhật Bản chật vật tố giác tội phạm tình dục, tại trang
https://baophapluat.vn/quoc-te/phu-nu-nhat-ban-chat-vat-to-giac-toi-pham-tinh-
duc-386413.html, [truy cập ngày 24/4/2020]
3. Nguyễn Ngọc Anh và Phan Trung Hoài (2019), Bình luật Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Hoàng Anh, “Pháp luật, công lý, lẽ công bằng” trong Đào Trí Úc và V
Công Giao (Đồng chủ biên) (2018), Công lý và quyền tiếp cận công lý: Một số vấn
đề lý luận, thực tiễn, NXB Hồng Đức, Hà Nội.
5. Nguyễn Quang Anh (2015), Hoàn thiện cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền
lực nhà nước ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
6. Nguyễn Thế Anh (2016), Vai trò bảo vệ công lý của Tòa án trong Hiến pháp
2013, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/1598-vai-tro-bao-ve-
cong-ly-cua-toa-an-trong-hien-phap-2013.html, [ngày 17/08/2016]
7. Astrid Bant (2018), Hội thảo “Công lý cho nạn nhân bị bạo lực”, tại trang
https://vietnam.unfpa.org/vi/news/, [truy cập 11/8/2019]
8. Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương (2014), Báo cáo tổng kết năm thực
hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược CCTP đến năm
2020, tại trang https://vbpq.toaan.gov.vn/, [truy cập ngày 20/4/2019]
9. Ban chỉ đạo tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương (2019), Kết quả tổng điều
tra dân số và nhà ở (thời điểm0h ngày 01/4/2019), NXB Thống kê, Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Báo (2016), Bảo đảm quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, NXB
Lý luận chính trị, Hà Nội.
11. Nguyễn Mạnh Bình (2012), Hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối với
thực thi quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
12. V Ngọc Bình, “Quyền tiếp cận công lý cho phụ nữ qua công ước CEDAW” trong
Đào Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên) (2018), Công lý và quyền tiếp cận
công lý: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn, NXB Hồng Đức, Hà Nội.
165
13. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết 08 – NQ/TW về “một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới”, ngày 02/01/2002, Hà Nội.
14. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược CCTP đến năm
2020, ngày 02/6/2005, Hà Nội.
15. Bộ Công an, Bộ quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ NNPTNT, VKSND tối cao
(2017), Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-
V SNDTC quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc
thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, ngày 29/12/2017
16. Bộ Lao động và Thương binh xã hội, UN C (201 ), Báo cáo phân tích tình hình
trẻ em Việt Nam 201 , tại trang https://www.unicef.org/, [truy cập ngày 23/4/2019]
17. Lê Lan Chi (2019), Bảo đảm quyền của nạn nhân tội phạm và một số nhóm yếu
thế trong tư pháp hình sự từ quy định của pháp luật đến hoạt động của người hành
nghề luật, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
18. Nguyễn Ngọc Chí, “Công lý và tiếp cận công lý trong tố tụng hình sự” trong Đào
Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên) (2018), Công lý và quyền tiếp cận công
lý: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn, NXB Hồng Đức, Hà Nội.
19. Ngô Quốc Chiến (201 ), “Quyền tiếp cận công lý của công dân và nghĩa vụ xét xử
của tòa án”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3.
20. Chính phủ (2013), Nghị định số 1 7/201 /NĐ-CP của Chính phủ về Quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng,
chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình,
ngày 12/11/2013.
21. Phí Thành Chung (2018), “Nhiệm vụ bảo vệ công lý và trách nhiệm chứng minh
của toà án trong hoạt động tố tụng”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2.
22. Dân số, tại trang https://danso.org, [truy cập ngày 12/4/2020]
23. Nguyễn Đăng Dung và Đặng Phương Hải (2015), “Toàn án thực hiện quyền tư
pháp, bảo vệ công l , bảo vệ quyền con người, quyền công dân”, Tạp chí Lý luận
chính trị, số 2.
24. Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên) (2014), Viện kiểm sát nhân dân trong nhà nước
pháp quyền, NXB Tư pháp, Hà Nội.
25. Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên) (2020), Hệ thống Toà án Việt Nam trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
26. Nguyễn Đăng Dung, V Công Giao, Lã Khánh Tùng (2009), Giáo trình lý luận và
pháp luật về quyền con người, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
166
27. Nguyễn Đăng Dung (2015), “Quyền con người và bảo vệ, bảo đảm thực hiện
quyền con người theo Hiến pháp năm 201 ”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 11.
28. Nguyễn Chí D ng (2009), Cơ chế pháp lý giám sát hoạt động tư pháp ở Việt Nam,
Luận án tiến sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
29. Nguyễn Chí D ng và cộng sự (2014), Lệch chuẩn xã hội và tội phạm: Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, NXB Thanh Niên.
30. Lưu Tiến D ng (2012), Độc lập xét xử trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam,
NXB Tư pháp, Hà Nội.
31. Trần Thái Dương (201 ), “Quyền tiếp cận công lý và quyền được trợ giúp pháp lý
của người khuyết tật ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 10.
32. Trần Thái Dương, “Bảo đảm quyền tiếp cận công lý của người huyết tật ở Việt
Nam hiện nay: lý luận, pháp luật và thực tiễn” trong Đào Trí Úc và V Công Giao
(Đồng chủ biên) (2018), Công lý và quyền tiếp cận công lý: Một số vấn đề lý luận,
thực tiễn, NXB Hồng Đức.
33. Đại học kiểm sát Hà Nội, Xâm hại tình dục trẻ em - Dưới góc nhìn từ hoạt động du
lịch tại Việt Nam, tại trang https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/80/811,
[truy cập ngày 16/4/2018]
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (201 ), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức
XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Bùi Tiến Đạt, “Công l thủ tục: Lý luận, kinh nghiệm quốc tế và pháp luật Việt
Nam”, trong Đào Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên) (2018), Công lý và
quyền tiếp cận công lý: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn, NXB Hồng Đức, Hà Nội.
36. Nguyễn inh Đoan (2011), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Nguyễn inh Đoan (Chủ biên) (2016), Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà
nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
38. Nguyễn inh Đoan (Chủ biên) (2018), Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà
nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Lê inh Đức (2020), Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của Luất sư trong
hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính
trị quốc gia, Hà Nội
40. Trần Ngọc Đường (2015), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
167
pháp và tư pháp ở nước ta, Báo cáo khoa học Đề tài khoa học cấp Bộ, Văn phòng
Quốc hội.
41. Eileen Skinnider, Ruth Montgomery, Stephanie Garrett (2017), Xét xử tội hiếp
dâm: Hiểu cách ứng phó của hệ thống tư pháp hình sự đối với bạo lực tình dục ở
Thái Lan và Việt Nam (Ngô Thu Hương dịch), UN Women, UNDP, UNODC,
UNi.
42. V Công Giao, “Các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trên thế giới và việc áp
dụng ở Việt Nam” trong Đặng Minh Tuấn, V Công Giao, Đoàn Đức Lượng, Lê
Thị Nga (Đồng chủ biên) (2019), Các cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà
nước trên thế giới và ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. V Cộng Giao, “Quyền tiếp cận công lý và vai trò của toà án trong việc bảo đảm
quyền này”, trong Đào Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên) (2018), Công lý
và quyền tiếp cận công lý: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn, NXB Hồng Đức, Hà
Nội.
44. V Công Giao - Ngô inh Hương (201 ), Tiếp cận dựa trên quyền con người: Lý
luận và thực tiễn, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
45. V Công Giao (2009), “Tiếp cận công lý và các nguyên lý của nhà nước pháp
quyền”, Tạp chí Khoa học Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 25.
46. V Công Giao và Nguyễn inh Tâm (2015), “Quyền công dân và cơ chế bảo vệ
quyền công dân theo Hiến pháp năm 201 ”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11.
47. Đinh Bích Hà (2007), Bộ luật Hình sự nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, NXB
Tư pháp.
48. Nguyễn Thị inh Hà, “Tiếp cận công lý trong tố tụng hành chính” trong Đào Trí
Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên) (2018), Công lý và quyền tiếp cận công lý:
Một số vấn đề lý luận, thực tiễn, NXB Hồng Đức, Hà Nội.
49. Lê Thu Hà (2015), “Tăng cường hả năng tiếp cận công lý cho người dân từ việc
mở thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự của tòa án trong Bộ luật tố tụng dân sự”,
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4.
50. Nguyễn Hà, Phạm Dung, Phụ nữ, trẻ em bị xâm hại: Im lặng không làm sự việc
qua đi, tại trang https://laodong.vn/lao-dong-doi-song/phu-nu-tre-em-bi-xam-hai-
im-lang-khong-lam-su-viec-qua-di-611418.ldo, [truy cập ngày 11/06/2018]
51. Trương Thị Hồng Hà (2009), “Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng
giám sát của Quốc hội, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
168
52. Trương Thị Hồng Hà (2007), “Xây dựng cơ chế pháp lý đảm bảo cho nhân dân
tham gia hoạt động giám sát và phản biện xã hội”, Tạp chí Cộng sản, số tháng 8,
năm 2007, tr.56-61.
53. Nguyễn Thị Thu Hà (2017), Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người, quyền
công dân trong giải quyết vụ án dân sự tại toà án nhân dân, NXB Lao động, Hà
Nội.
54. Phan Thanh Hà (2016), Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, Luận án
tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
55. Phan Thanh Hà (2017), “ ột số vấn đề cơ chế pháp lý bảo hộ công dân trong
nước ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số tháng 8 ( 52), năm 2017,
tr. 9-15.
56. Trương Hồ Hải (2020), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học
nghiên cứu tổng kết lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và bổ sung,
phát triển vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới, KX.02.11/16-20, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
57. Phạm Hồng Hải (2009), “Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam”, Pháp lý, số 6.
58. Thu Hằng, Phát huy vai tr của luật sư trong công cuộc cải cách tư pháp, tại trang
http://dangcongsan.vn/thoi-su/phat-huy-vai-tro-cua-luat-su-trong-cong-cuoc-cai-
cach-tu-phap-538822.html, [truy cập ngày 21/3/2020]
59. Trần Thị Thu Hằng (2019), Địa vị pháp lý của Hội thẩm ở Việt Nam hiện nay,
Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
60. Chu Thị Thuý Hằng (2018), Cơ chế pháp lý giám sát thực hiện các quy định của
hiến pháp về bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
61. Bạch Hiền, Bắt giữ nghi phạm cuối cùng trong vụ “ph ng chat thứ N” gây rúng
động dư luận Hàn Quốc, tại trang https://www.doisongphapluat.com/tin-the-
gioi/bat-giu-nghi-pham-cuoi-cung-trong-vu-phong-chat-thu-n-gay-rung-dong-du-
luan-han-quoc-a323053.html, [truy cập ngày 27/5/2020]
62. Trần Quang Hiển (2013), Cơ chế pháp lý bảo đảm giải quyết tranh chấp hành
chính ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
63. Phan Chí Hiếu và Nguyễn Văn Cương (Đồng chủ biên) (2019), Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư và những vấn đề pháp lý đặt ra, NXB Tư pháp, Hà Nội.
64. Nguyễn Thị Hiếu, Xâm hại tình dục xuất hiện ngày càng nhiều: nguyên nhân do
đâu? phần 3: nỗi ám ảnh kéo dài, tại trang http://isee.org.vn/xam-hai-tinh-duc-
169
xuat-hien-ngay-cang-nhieu-nguyen-nhan-do-dau-phan-3-noi-am-anh-keo-dai/,
[truy cập ngày 12/5/2019]
65. Đặng Thị Hoa (2020), Bạo lực gia đình ở Việt Nam: Thực trạng và các yếu tố tác
động, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
66. Tô Văn Hoà (2007), Tính độc lập của Toà án: nghiên cứu pháp lý về các khía
cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị đối với Việt
Nam, NXB Lao động, Hà Nội.
67. Nguyễn Quốc Hoàn (2001), Cơ chế điều chỉnh pháp luật, Luận án Tiến sĩ Luật
học, Đại học Luật Hà Nội.
68. Dương Hoán (2019), Cơ chế pháp lý bảo đảm pháp chế trong hoạt động hành
chính nhà nước , Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
69. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Cao cấp lý luận
chính trị (Khối kiến thức thứ tư), tập 14, Các chuyên đề bổ trợ , NXB Lý luận
chính trị, Hà Nội.
70. Trần Thị Hoè (2015), Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người trong
điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
71. Hội đồng thẩm phán TAND tối cao (2019), Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP
hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều 141,142,143,144,145, 146, 147
của BLHS và việc xét xử vụ án XHTD người dưới 18 tuổi, ngày 01/10/2019
72. Hội Luật gia Việt Nam, CECODES, UNDP (2013), Chỉ số công lý - Thực trạng về
Công bằng và Bình đẳng dựa trên ý kiến của người dân năm 2012, Hà Nội.
73. Hội Luật gia Việt Nam, CECODES, UNDP (2016), Chỉ số công lý 2015 – Hướng
tới một nền tư pháp vì dân, Hà Nội.
74. Hoàng Minh Hội (201 ), “Cơ chế pháp lý về giám sát của nhân dân đối với cơ
quan hành chính ở Việt Nam hiện nay – thực trạng và giải pháp”, Tạp chí khoa học
pháp lý, số 7.
75. Hoàng Minh Hội (2019), “Cơ chế pháp lý kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà
nước đối với chính quyền địa phương: Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí nghiên
cứu lập pháp, số 11.
76. Ng Quang Hồng (2011), Nghiên cứu so sánh về điều tra trong Luật tố tụng hình
sự của Trung Quốc và Việt Nam, NXB. Tư pháp, Hà Nội.
77. Trương Việt Hùng, Việt Nam tăng cường tiếp cận tư pháp cho người chưa thành
niên, tại trang https://www.unicef.org/vietnam/vi, [truy cập ngày 22/3/2020]
170
78. Đinh Thế Hưng, “Thực hiện quyền tư pháp nhằm bảo đảm quyền tiếp cận công lý
trong nhà nước pháp quyền” trong Đào Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên)
(2018), Công lý và quyền tiếp cận công lý: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn, NXB
Hồng Đức, Hà Nội.
79. Nguyễn Quang Hưng (2013), “ p dụng mô hình “ ột cửa” trong cải cách thủ tục
hành chính tại tòa án để nâng cao hả năng tiếp cận công l ”, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, số chuyên đề CCTP và pháp luật.
80. Nguyễn Hưng, Phanh phui hàng triệu trẻ bị lạm dụng tình dục ở Trung Quốc, tại
trang http://baovanhoa.vn/the-gioi/artmid/425/articleid/19389/phanh-phui-hang-
trieu-tre-bi-lam-dung-tinh-duc-o-trung-quoc, [truy cập ngày 14/06/2019]
81. Phan Thị Lan Hương (201 ), “Khắc phục rào cản nhằm bảo đảm tiếp cận công lí
cho phụ nữ bị bạo lực tình dục ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 9.
82. Phan Thị Lan Hương (2020), Bảo đảm quyền của nhóm yếu thế khoảng trống
pháp lý và khuyến nghị cho Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. Nguyễn Tuấn Khanh (2014), Cơ chế pháp lý bảo đảm thực hiện quyền khiếu nại
hành chính của công dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Nguyễn Văn Khoa (2017), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ tư pháp trong tiến trình CCTP, NXB Tư pháp, Hà Nội.
85. Khoa Luật Dân sự Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2017), Hội thảo khoa
học quyền tiếp cận công lý trong pháp luật dân sự, thành phố Hồ Chí Minh.
86. Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người (Tập hợp những
bình luận/khuyến nghị chung của các uỷ ban công ước của Liên hợp quốc), NXB
Công an nhân dân, Hà Nội.
87. Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người (Tập hợp những
chuyên đề của Liên hợp quốc), NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
88. Nguyễn Việt Khoa (2020), Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam
hiện nay, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
89. Hoàng Thị Kim Khuyên (2019), Pháp luật về bảo trợ xã hội ở Việt Nam: Những
vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Tư pháp, Hà Nội.
90. Kiểm sát Online (2017), Những quốc gia nào đã áp dụng "thiến hóa học" tội phạm
ấu dâm?, tại trang https://conglyxahoi.net.vn/tu-lieu/nhung-quoc-gia-nao-da-ap-
dung-thien-hoa-hoc-toi-pham-au-dam-1216.html, [truy cập ngày 17/2/2019]
91. Kiểm sát Online (2019), Một số kinh nghiệm giải quyết các vụ án xâm hại tình dục
đối với trẻ em, tại trang https://kiemsat.vn/mot-so-kinh-nghiem-giai-quyet-cac-vu-
an-xam-hai-tinh-duc-doi-voi-tre-em-52247.html, [truy cập ngày 22/4/2020]
171
92. Lê Trung Kiên (2018), Hệ thống hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam và Trung
Quốc, NXB Tư pháp, Hà Nội.
93. Hồng Kiều, Th y Giang khoảng trống trong xử lý xâm hại tình dục trẻ em, tại
trang https://baocantho.com.vn/khoang-trong-trong-xu-ly-xam-hai-tinh-duc-tre-
em-a110725.html, [truy cập ngày 12/2/2020]
94. Đào Hồng Lan, Tăng cường phòng ngừa và giảm thiểu tình trạng trẻ em bị xâm
hại tình dục, tại trang http://www.molisa.gov.vn/, [truy cập ngày 11/3/2002]
95. Hoàng Thế Liên và các cộng sự, (2011), Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hệ
thống tư pháp của năm quốc gia, Trung Quốc, n-do-ne-xia, Nhật Bản, Hàn Quốc
và Nga, NXB Tư pháp.
96. Nguyễn Thị Ngọc Linh (2019), Các tội xâm phạm tình dục trong luật hình sự Việt
Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội.
97. Liên Hợp quốc (1989), Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 19 9, tại
trang https://thuvienphapluat.vn/van-ban/linh-vuc-khac/Cong-uoc-cua-Lien-hop-
quoc-ve-quyen-tre-em-233659.aspx, [truy cập ngày 23/6/2018]
98. Trần Quý Long (2019), Những nghiên cứu xã hội học về trẻ em Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
99. Nguyễn Đình Lục, Sau ba năm thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, tại trang
https://moj.gov.vn/tctccl, [truy cập ngày 22/5/2019]
100. Tạ Thị Minh Lý, “Vai trò của hoạt động luật sự và trợ giúp pháp lý trong việc tăng
cường tiếp cận pháp luật và tiếp cận công lý cho nhóm công dân nghèo và yếu thế”
trong Đào Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên) (2018), Công lý và quyền tiếp
cận công lý: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn, NXB Hồng Đức, Hà Nội.
101. Tạ Thị Minh Lý (2013), Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
trong điều kiện đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Dương Tuyết Miên (1998), “Về các tội phạm tình dục trong luật hình sự Việt
Nam”, Tạp chí Luật học, số 3, tr. 44 – 49.
103. Dương Tuyết Miên (2005), “Những hậu quả về tâm l đối với nạn nhân của tội
hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em và giải pháp khắc phục”, Đặc san về bình đẳng giới, tr.
35-40.
104. Dương Tuyết Miên (2019), Tội phạm học đương đại (tái bản lần thứ nhất), NXB
Tư pháp, Hà Nội.
105. Nguyễn Hữu Minh (2016), Phương pháp nghiên cứu xã hội học, NXB hoa học
xã hội, Hà Nội
172
106. Quang Minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an giao ban công tác 9 tháng
đầu năm 2019, tại trang http://bocongan.gov.vn, [truy cập trang 22/3/2020]
107. Trần Văn Nam (2017), Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình hình thành, phát
triển và đổi mới theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam, NXB Trẻ, thành phố Hồ Chí
Minh.
108. Chu Thị Ngọc (2017), “Bảo đảm quyền tiếp cận công lý - một yêu cầu trong việc
bảo đảm quyền con người của tòa án”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà
Nội: Luật học, Tập 33, số 1.
109. Hoàng Thị Bích Ngọc, V Cộng Giao, “Tiếp cận công lý theo quan điểm của Liên
hiệp quốc”, trong Đào Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên) (2018), Công lý
và quyền tiếp cận công lý: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn, NXB Hồng Đức, Hà
Nội.
110. Trần Thảo Nguyên (2006), Triết học kinh tế trong Lí thuyết về công lý của Nhà
triết học Mĩ - John Rawls, NXB Thế giới, Hà Nội.
111. Tiến Nguyên, Hà Nội: Kẻ hiếp dâm bé gái 10 tuổi ở Chương Mỹ chấp nhận án
chung thân, tại trang https://dantri.com.vn/phap-luat, [truy cập ngày 22/3/2020]
112. Nguyễn Hải Ninh (2017), “Nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự - nền tảng cho
việc bảo vệ công lý của toà án khi thực hiện quyền tư pháp”, Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp, số 4.
113. Nguyễn Minh Phương và V Thị Thu Hằng, “Quyền tiếp cận công lý trong hoạt
động công vụ Việt Nam” trong Đào Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên)
(2018), Công lý và quyền tiếp cận công lý: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn, NXB
Hồng Đức, Hà Nội.
114. Nguyễn Thị Pha, Trợ giúp pháp lý ở Hàn Quốc, tại trang https://trogiupphaply.gov.vn,
[truy cập ngày 15/4/2020]
115. Nguyên Phạm, Hàn Quốc: “thiến hóa học” kẻ cưỡng hiếp trẻ em, tại trang
https://tuoitre.vn, [truy cập ngày 20/7/2019]
116. Hoàng Phê (Chủ biên) (1994), Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
117. Hoàng Phê (Chủ biên) (2007), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
118. Nguyễn Huy Phượng (2013), Giám sát xã hội đối với hoạt động của các cơ quan
tư pháp theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
NXB Tư pháp, Hà Nội.
119. Plato – Xenophon (2006), Socrates tự biện (Nguyễn Văn hoa dịch và chú thích),
NXB Tri Thức, Hà Nội.
173
120. Trần Thế Quân (2019), “Phương hướng hoàn thiện chế độ bổ trợ tư pháp giai đoạn
sau năm 2020”, Ban Chỉ đạo Đề án tổng kết Nghị quyết số 49-NƯ/TW, Kỷ yếu hội
thảo khoa học Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ
Chính trị ( hoá X); phương hướng nhiệm vụ CCTP giai đoạn sau năm 2020, Hà
Nội.
121. Đinh Văn Quế (2018), Chuyện pháp đình (Bình luận án), NXB Thông tin và
truyền thông, Hà Nội.
122. Hoàng Thị Kim Quế, “Công bằng, bình đẳng, công l , nhân đạo, đạo đức, pháp
luật và quyền con người – Sự phân định tương đối và mối quan hệ tất yếu”, trong
Đào Trí Úc và V Công Giao (2018), Công lý và quyền tiếp cận công lý, NXB
Hồng Đức, Hà Nội.
123. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
124. Quốc hội (2006), Luật Bình đẳng giới năm 2006, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
125. Quốc hội (2006), Luật Trợ giúp pháp lý năm 200 , NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
126. Quốc hội (2007), Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
127. Quốc hội (2012), Bộ luật Lao động năm 2012, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
128. Quốc hội (2014), Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 201 ,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
129. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
130. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
131. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
132. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
133. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
134. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
135. Quốc hội (2016), Luật Trẻ em năm 201 , NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
136. Quốc hội (2016), Luật Điều ước quốc tế năm 201 , NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
174
137. Quốc hội (2017), Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
138. Quốc hội (2017), Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
139. Quốc hội (2019), Bộ luật Lao động năm 2019, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
140. Lương Xuân Quỳ (Chủ biên) (1996), Cơ chế thị trường và vai trò của nhà nước
trong nền kinh tế thị trường Việt Nam, NXBThống kê.
141. Tào Thị Quyên (2012), Cơ chế bảo vệ hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Lý luận chính trị - Hành chính, Hà Nội.
142. Nguyễn Văn Quyền và Nguyễn Tất Viễn (Đồng chủ biên) (2018), Quyền tư pháp
trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội.
143. Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Kiên Giang (2017), Báo cáo số liệu điều
tra trẻ em có hoàn cảnh đặc bệt khó khăn năm 201 , số 181/BC-SLĐTBXH ngày
12/1/2017.
144. Tạp chí Toà án điện tử, Tọa đàm về Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy
định của BLHS năm 2015 về các tội xâm hại tình dục, tại trang
https://tapchitoaan.vn, [truy cập ngày 15/3/2020]
145. Lê Minh Tâm (2014) “Hệ thống pháp luật Việt Nam trước yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, trong sách Nguyễn Văn Hiển (Chủ biên), Bàn
về hệ thống pháp luật, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
146. Phan Nhật Thanh, “Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người ở Việt
Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6.
147. Chu Hồng Thanh (2012), “Hiến pháp với việc xác lập, bảo đảm quyền con người
và quyền công dân”, Tạp chí Luật học, số 1, tr. 36-39.
148. Nguyễn Tiến Thành (2016), Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hà Nội.
149. Trịnh Đức Thảo (2017), Giải pháp đột phá xác định cơ chế phân công, phối hợp
và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp ở nước ta hiện nay, Báo cáo khoa học Đề tài khoa học cấp
Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
150. Nguyễn Bích Thảo, “Công lý và tiếp cận công lý trong tố tụng dân sự” trong Đào
Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên) (2018), Công lý và quyền tiếp cận công
lý: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn, NXB Hồng Đức, Hà Nội.
151. Trần Quyết Thắng (2016), “Công lý theo ết quả công lý theo thủ tục và liên hệ
với nền tư pháp Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4/2016.
175
152. Lê Thoa, Hàn Quốc sẽ thiến nhiều loại tội phạm tình dục, tại trang https://nld.com.vn,
[truy cập ngày 12/4/2019]
153. Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 18/CT-TTg về việc tăng cường giải pháp phòng,
chống bạo lực, xâm hại trẻ em, ngày 16/5/2017
154. Lê Thị Thục, Lê Thúy Hằng, Nguyễn Thị Thanh Hải, Chu Thị Thị Thúy Hằng
(2015), Tiếp cận công lý trong hệ thống pháp lý đa kênh: Nghiên cứu điển hình về
bạo lực gia định đối với phụ nữ ở Việt Nam, NXB Lao động, Hà Nội.
155. Anh Thư, Các nước phạt tội phạm ấu dâm, dâm ô nghiêm khắc ra sao?, tại trang
https://tuoitre.vn, [truy cập ngày 3/4/2019]
156. Hoàng Thư (2017), Bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn nhân bị bạo lực giới,
tại trang http://baophapluat.vn, [truy cập ngày 16/9/2017].
157. Trần Văn Thưởng, (2018), Các tội xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn miền
Đông Nam Bộ, tình hình nguyên nhân và giải pháp ph ng ngừa, Luận án tiến sỹ
luật học, Học viện hoa học xã hội, Hà Nội.
158. Tòa án nhân dân Tối cao (1967), Bản tổng kết số 329/HS2 ngày 11/5/1967, Hà
Nội.
159. Tòa án nhân dân Tối cao (1995), Công văn số 73/TK ngày 02/3/1995 về việc
đường lối xét xử về loại tội phạm tình dục trẻ em, Hà Nội.
160. Tòa án nhân dân tối cao (2010), Quyền con người trong thi hành công lý, NXB
Lao động - xã hội, Hà Nội.
161. Tòa án nhân dân Tối cao (2010), Báo cáo thực tiễn công tác xét xử các vụ án xâm
hại tình dục đối với phụ nữ và trẻ em tại Tòa án các cấp giai đoạn 2006-2010, số
237/BC-TA, ngày 26/12/2010, Hà Nội.
162. Tòa án nhân dân Tối cao (2014), Báo cáo thực tiễn công tác xét xử các vụ án xâm
hại tình dục đối với phụ nữ và trẻ em tại Tòa án các cấp giai đoạn 2011-2014, số
376/BC-TA, ngày 23/12/2014, Hà Nội.
163. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Báo cáo thuyết minh về đề nghị điều chỉnh, bổ
sung Thẩm phán sơ cấp cho Tòa án nhân dân huyện, quận, thi xã, thành phố
thuộc tỉnh và tương đương, số 423/BC-CA ngày 18 tháng 7 năm 2018, Hà Nội.
164. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC quy định chi
tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi
thuộc thẩm quyền của t a gia đình và người chưa thành niên, ngày 21/9/2018, Hà
Nội.
176
165. Toà án nhân dân tối cao (2018), Báo cáo tổng kết công tác năm 201 và nhiệm vụ
trọng tâm công tác năm 2019 của các toà án, số 368/BC-TA, ngày 23/12/2018,
Hà Nội.
166. Toà án nhân dân tối cao (2019), Báo cáo tóm tắt công tác tòa án từ đầu nhiệm kỳ
đến nay và năm 201 và nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới, ngày 14/1/2019, Hà
Nội.
167. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
phòng, chống tội phạm về xâm hại tình dục đối với phụ nữ và trẻ em gái, tại trang
http://hvta.toaan.gov.vn/, [truy cập ngày 20/7/2019]
168. Toà án nhân dân tối cao (2019), Báo cáo tổng hợp những hạn chế, thiết sót trong
công tác chuyên môn nghiệp vụ năm 201 của các toà án thông qua công tác kiểm
tra, số 15/BC-TA ngày 15/3/2019, Hà Nội.
169. Tòa án nhân dân Tối cao (2019), Báo cáo thực tiễn công tác xét xử các vụ án xâm
hại tình dục đối với phụ nữ và trẻ em tại Tòa án các cấp giai đoạn 2014-2019, số
411/BC-TA ngày 25/12/2019, Hà Nội.
170. Toà án nhân dân tối cao (2020), Báo cáo tổng kết công tác năm 2019 và nhiệm vụ
trọng tâm công tác năm 2020 của các toà án, số 01/BC-TA, ngày 09/1/2020, Hà
Nội.
171. Tổng Cục thống kê (2020), Niên giám thống kê năm 2019, NXB Thống kê, Hà
Nội.
172. Nguyễn Trà, Con bị dâm ô, mẹ suốt đêm tìm nơi giám định, tại trang
https://plo.vn/an-ninh-trat-tu, [truy cập ngày 21/4/2019]
173. Ngô Ngọc Trai (2019), Hành trình minh oan cho tử t Hàn Đức Long, NXB Hội
nhà văn, Hà Nội
174. Uyên Trinh, Bị cáo dâm ô khiến nữ sinh lớp 5 tự tử lãnh 7 năm t , tại trang
https://tuoitre.vn, [ngày 20/3/2020]
175. Thanh Trịnh, Sơ lược một số nội dung về Trợ giúp pháp lý trên thế giới, tại trang
https://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/so-luoc-mot-so-noi-dung-ve-tro-
giup-phap-ly-tren-the-gioi, [truy cập ngày 23/8/2019]
176. Trần Nguyên Tú (2020), Trợ giúp pháp lý cho trẻ em bị xâm hại, thực trạng và
kiến nghị, tại trang https://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/tro-giup-
phap-ly-cho-tre-em-bi-xam-hai-thuc-trang-va-kien-nghi, [truy cập ngày
24/5/2020]
177. Nguyễn Văn Tuân (2019), Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam: thực trạng và định hướng
phát triển, NXB. Lao động, Hà Nội.
177
178. Nguyễn Văn Tuân (2018), Quyền bào chữa và vai trò của luật sư trong tố tụng
hình sự, NXB Dân trí, Hà Nội.
179. Nguyễn Xuân Tùng (2012), Về khái niệm “công lý” trong chiến lược CCTP đến
năm 2020 tại Việt Nam, tại trang http://www.sotuphap.hochiminhcity.gov.vn, [truy
cập ngày 12/10/2012]
180. Nguyễn Xuân Tùng (2013), Công lý được xác định là giá trị căn bản trong hiến
pháp nhiều quốc gia trên thế giới, tại trang http://moj.gov.vn/qt/tintuc, [truy cập
ngày 16/12/2013]
181. Nguyễn Xuân Tùng (2013), “Về khái niệm “công l ” trong Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp năm 1992”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 11.
182. Nguyễn Xuân Tùng (2014), “Tòa án nhân dân và nhiệm vụ “bảo vệ công l ””, Tạp
chí Tổ chức nhà nước, số 12.
183. Nguyễn Xuân Tùng (201 ), “Công l là một giá trị căn bản chế độ xã hội ta cần
hướng tới và bảo vệ”, Tạp chí Tổ Chức nhà nước, số 3.
184. Nguyễn Minh Tuấn (2004), “Khi pháp luật là hiện thân của công l ”, Tạp chí Tia
sáng, số 11/2014.
185. Nguyễn Thanh Tuấn (2015), Bảo đảm công lý trong thể chế pháp quyền, tại trang
http://www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập ngày 20/03/2015]
186. Phạm Quý Tỵ (2019), “Phương hướng, nhiệm vụ, xây dựng, hoàn thiện chế độ bổ
trợ tư pháp giai đoạn sau năm 2020”, Ban Chỉ đạo Đề án tổng kết Nghị quyết số
49-NƯ/TW, Kỷ yếu hội thảo khoa học Đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết số
49-NQ/TW của Bộ Chính trị ( hoá X); phương hướng nhiệm vụ CCTP giai đoạn
sau năm 2020, Hà Nội.
187. Đào Trí Úc (2017), “Vị trí, vai trò của tòa án trước yêu cầu xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản: chuyên đề cơ sở, số 129.
188. Đào Trí Úc, “Bản chất, đặc điểm và các nguyên tắc chủ đạo của quyền tư pháp”
trong Đào Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên) (2014), CCTP vì một nền tư
pháp liêm chính, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
189. Đào Trí Úc và V Công Giao (Đồng chủ biên) (2014), CCTP vì một nền tư pháp
liêm chính, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
190. Đào Trí Úc và Võ Khánh Vinh (Đồng chủ biên) (2003), Giám sát và cơ chế giám
sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, NXB Công an Nhân
dân, Hà Nội.
191. UNIFEM (2009), Tuyển chọn các khuyến nghị chung của CEDAW, tại trang
http://nhanquyen.vn, [truy cập ngày 11/5/2019]
178
192. UNODC và UNDP (2014), Tiếp cận sớm trợ giúp pháp lý trong các quá trình tố
tụng hình sự: Sổ tay cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà thực tiễn, tại
trang https://www.unodc.org/documents/, [truy cập ngày 12/3/2019]
193. UNODC và UN WOMEN, (2013), Đánh giá tình hình phụ nữ trong hệ thống tư
pháp hình sự Việt Nam, tại trang https://www.unodc.org/documents/, [truy cập
ngày 15/1/2020]
194. Nguyễn Thị Tố Uyên (2017), Cơ chế pháp lý về sự tham gia của các tổ chức xã
hội trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
195. Văn phòng ban chỉ đạo CCTP Trung ương, “Báo cáo tình hình triển hai thực hiện
Chiến lược CCTP thời gian qua, đề xuất mục tiêu, quan điểm, phương hướng và
nhiệm vụ CCTP giai đoạn sau năm 2020” trong Ban Chỉ đạo Đề án tổng ết Nghị
quyết số 49-NƯ/TW, ỷ yếu hội thảo khoa học Đánh giá tình hình thực hiện Nghị
quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ( hoá X); phương hướng nhiệm vụ CCTP
giai đoạn sau năm 2020, Hà Nội, ngày 1 /10/201.
196. Trịnh Tiến Việt (Chủ biên), Lý thuyết kiểm soát xã hội đối với tội phạm và ứng
dụng ở Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội.
197. Võ Khánh Vinh (2005), “Các giải pháp và cơ chế pháp lý trực tiếp đấu tranh
phòng ngừa và chống tham nh ng”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 20, tr. 2-4.
198. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2009), Cơ chế giám sát Hiến pháp với việc bảo đảm
quyền con người, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
199. Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2019), Hội thảo khoa học: Tiếp tục đổi
mới tư duy pháp lý phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước, Hà Nội.
200. Viện Khoa học Pháp lý – Bộ Tư pháp (200 ), Từ điển Luật học, NXB Từ điển
Bách hoa và NXB Tư pháp.
201. Viện Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh (2005), Tài liệu tham khảo Luật Quốc tế về quyền con người, NXB Lý
luận chính trị, Hà Nội
202. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018), Thực hiện tinh giản biên chế trong ngành
kiểm sát nhân dân từ năm 201 -2021, số 111/KH-VKSTC ngày 19 tháng 09 năm
2018
203. Kiều Anh V , (2019), Dự thảo hướng dẫn xử lý các tội về tình dục: Thiếu và chưa
rõ!, tại trang https://tuoitre.vn, [truy cập ngày 14/ /2020]
204. Trịnh Thị Xuyến (Chủ biên) (2014), Cơ chế tham gia của người dân trong phòng,
chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
179
205. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa - thông
tin, Hà Nội.
206. Bảo Yến, Cần hoàn thiện các quy định của pháp luật trong hoạt động tố tụng
nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh ph ng, chống tội phạm xâm hại tình dục trẻ
em, tại trang http://quochoi.vn, [truy cập ngày 12/4/2019]
207. Mai Thảo Yên, Trước vấn nạn xâm hại tình dục: Những định kiến tai hại, tại trang
https://cuoituan.tuoitre.vn, [truy cập ngày 13/04/2019]
II. Tài liệu tiếng nước ngoài
208. Abraham H.Maslow (1954), Motivation and Personality, Published by Harper &
Row Publishers. Inc.
209. Amartya Sen (2009), The Idea of Justice, Harvard University Press.
210. Bryant G.Garth and Mauro Cappelletti (1978), Access to Justice: The Newest
Wave in the Worldwide Movement to Make Rights Effective, Articles by Maurer
Faculty, https://www.repository.law.indiana.edu, [truy cập ngày 24/3/2020]
211. Bryan Strong, Chiristime De Vault, Barbara W.Sayad, Wiliam L.Yarber (2005),
Human Sexuallity, Published by Diversity in Contemporary America.
212. Cambridge Dictionary, tại trang https://dictionary.cambridge.org, [truy cập ngày
12/9/2019]
213. Charles E.F. Rickett and Thomas G.W. Telfer (2003), International Perspectives
on Consumers’ Access to Justice, Cambrigde University Press.
214. Charles W. Eliot (1901), Blaise Pascal Thoughts (translated by W. F. Trotter, M.
L. Booth and O. W, Wight), Published by P. F. Collier & Son Corporation, New
York.
215. China (People’s Republic of)'s Constitution of 1982 with Amendments through
1998, 1999, 2004, 2018, tại trang constituteproject.org, [truy cập ngày 11/102019]
216. Committee on the Elimination of Discrimination against Women (2015), General
recommendation on women’s access to justice, tại trang
https://tbinternet.ohchr.org/Treaties/CEDAW, [truy cập ngày 14/3/2019]
217. David Johnston (2011), A brief History of Justice, Published by John Wiley &
Sons Ltd.
218. Deborah L. Rhode (2004), Access to Justice, Oxford University Press
219. Dictionnaire Larousse (1964), Éditions Larousse.
220. Donna Vandiver, Jermy Braithwaite, Mark Stafford, (2017), Sex Crimes and sex
Offenders research and realities, Published by Routledge, New York.
180
221. Evalyn G. Ursua (2014), Access to Justice for Women in Plural Legal Systems in
South East Asia, tại trang https://www.aidsdatahub.org, [truy cập ngày
11/10/2018].
222. Francesco Francioni (2007), Access to Justice as a Human Right, Oxford
University Press.
223. Gabriela Bernal, South Korea Telegram Case & Gaps in the Legal System, tại
trang http://novasiagsis.com, [truy cập ngày 8/4/2020]
224. Grace Yang , China Sexual Harassment Protections and Employer Obligations, tại
trang https://www.chinalawblog.com, [truy cập ngày 15/11/2018]
225. Ineke van de Meene and Benjamin van Rooij (2008), Access to Justice and Legal
Empowerment - Making the Poor Central in Legal Development Co-operation,
Leiden University Press.
226. International Covenant on Civil and Political Rights 1966, tại trang
https://treaties.un.org/doc/publication/unts/volume%20999/volume-999-i-14668-
english.pdf, [truy cập ngày 01/10/2019]
227. James Bernard Murphy (2005), The Philosophy of Positive Law: Foundations of
Jurisprudence, Yale University Press.
228. Japan's Constitution of 1946, tại trang constituteproject.org, [truy cập ngày
10/10/2019]
229. Japanese Law Translation Database System, Child Welfare Act ịn Japan, tại trang
http://www.japaneselawtranslation.go.jp/law, [truy cập ngày 14/5/2019]
230. John Peysner (2014), Access to Justice: A Critical Analysis of Recoverable
Conditional Fees and No-Win No-Fee Funding, Published by Palgrave Macmilan.
231. John Rawls (1999), A theory of Justice, Belknap Press of Harvard University
Press.
232. Jung Eun-ju, Sexual crimes occur at rate of 3.4 per hour in South Korea, tại trang
http://english.hani.co.kr/arti/english_edition, [ truy cập ngày 20/3/2019]
233. Kim Da-sol, Government seeks to expand chemical castration, tại trang
http://www.koreaherald.com/view.php?ud=20170718000955, [truy cập ngày
15/3/2019]
234. Knoema, https://knoema.com [truy cập 2/4/2020]
235. Korea (Republic of)'s Constitution of 1948 with Amendments through 1987, tại
trang constituteproject.org, [truy cập ngày 10/10/2019]
236. Korea Legislation Research Institute, Criminal Act, tại trang
https://elaw.klri.re.kr/eng_service/lawView, [truy cập ngày 12/01/2020]
181
237. Law info China, Law of the People's Republic of China on the Protection of
Women's Rights and Interests (2005 Amendment), tại trang
http://www.lawinfochina.com/display.aspx?lib=law&id=4492&CGid=, [truy cập
ngày 29/5/2020]
238. Lennard Jbavis (2017), The disability studies reader, 711 third Avenue, New
York, NY 10017.
239. Lewis Silkin, Employment law in the Republic of Korea – an overview, tại trang
https://www.lexology.com/, [truy cập ngày 10/9/2020]
240. María José Falcón y Tella (2014), Justice and Law, Published by Brill Nijhoff.
241. Marjorie Mayo, Gerald Koessl, Matthew Scott and Imogen Slater (2014), Access
to justice for disadvantaged communities, Policy Press.
242. Michael Harris and Martin Partington (1999), Administrative Justice in the
21st Century, Published by Hart Publishing.
243. Michael Sandel (2009), Justice: What’s the right thing to do?, Published by Farrar,
Straus and Giroux.
244. Nathan Roscoe Pound (1951), Justice according to law, Yale University Press.
245. Raymond Wacks (2006), Philosophy of Law: A Very Short Introduction, Oxford
University Press.
246. Rebecca L. Sandefur (2009), Access to Justice, Published by Emerald Group
Publishing Limited.
247. Ronald L.Conhen (1986), Justice - Views from the Social Sciences, Published by
Plenum Press
248. Rudolf Stammler (1925), The theory of justice, Published by Macmilan.
249. Sayuri Umeda, Japan: Sex Crime Law to Be Amended, tại trang https://www.loc.gov/law/,
[truy cập ngày 11/12/2020]
250. Sahar Maranlou (2015), Access to Justice in Iran - Women, Perceptions, and
Reality, Cambridge University Press.
251. Sophie Richardson, China’s Victims of Sexual Harassment Denied Justice, tại
trang https://www.hrw.org/news/2018/07/31/chinas-victims-sexual-harassment-
denied-justice#, [truy cập ngày 17/4/2019]
252. Statista, tại trang https://www.statista.com/statistics/629302/south-korea-number-
of-arrests-for-sexual-assault/, [truy cập ngày 20/5/2020]
253. Stefan Wrbka, Steven Van Uytsel and Mathias Siems (2012), Collective Actions
Enhancing access to justice and reconciling multilayer interests?, Cambridge
University Press.
182
254. Stefan Wrbka (2015), European consumer access to justice revisited, Cambridge
University Press.
255. Sutatip Yuthayotin (2015), Access to Justice in Transnational B2C E-Commerce -
A Multidimensional Analysis of Consumer Protection Mechanisms, Published by
Springer.
256. The Magna Carta (The Great Charter), tại trang https://www.constitution.org/,
[truy cập ngày 5/92019]
257. The National Law Information Center, Act on the Protection of Children and
Youth against Sex Offenses, tại trang http://law.go.kr, [truy cập ngày 1/7/2019]
258. The House of Representative, Japan, Law to partially revise the criminal law, tại trang
http://www.shugiin.go.jp/internet/itdb_housei.nsf/html/housei/19320170623072.htm,
[truy cập ngày 11/12/2020]
259. Timothy S. Rich, Understanding perceptions of harassment in South Korea, tại trang
https://theasiadialogue.com/2019/04/04/understanding-perceptions-of-harassment-in-
south-korea/, [ truy cập ngày 12/3/2020]
260. UNDP (2004), Access to Justice: Practice Note, tại trang https://www.undp.org/,
[truy cập ngày 7/10/2019]
261. UNDP (2005), Programming for Justice: Access for All A Practitioner’s - Guide
to a Human Rights-Based Approach to Access to Justice, (UNDP Regional Centre
in Bangkok, 2005), tại trang https://www.un.org/ruleoflaw, [truy cập ngày
15/9/2019]
262. UNICEF Vietnam, (2019), Child sexual abuse recommended reforms, tại trang
https://www.unicef.org/vietnam, [truy cập ngày 22/8/2019]
263. United Nations Universal Declaration of Human Rights 1948, tại trang
https://www.ohchr.org/en/udhr/documents/, [truy cập ngày 10/10/2019]
264. William Penn (1905), Some Fruits of Solitude, Published by Headley.
265. World Justice Project, tại trang http://data.worldjusticeproject.org/, [truy cập ngày
22/1/2020]
266. Zoe Osborne, 'Shame and pain': Vietnam starts to grapple with child abuse
epidemic, tại trang https://www.theguardian.com, [truy cập ngày 19/7/2019]
267. Wikia, tại trang https://psychology.wikia.org/wiki/Stigma [truy cập ngày
15/8/2019]
183
PHỤ LỤC
600.0
30000
511.2
495.4
457.2
500.0
25000
424.3
416.6
415.9
373.2
361.6
400.0
20000
300.0
15000
25609
25363
23272
21553
20918
20873
200.0
10000
18585
17936
100.0
5000
0.0
0
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
Số vụ
Tỷ lệ/100.000 dân
Phụ lục 1
Biểu đồ 2. 1: Số vụ tấn công tình dục ở Hàn Quốc bị bắt
Nguồn: Dân số (2020) [22] và Statista (2020) [252]
Bảng 2. 1: Số vụ tấn công tình dục và hiếp dâm ở Nhật Bản
Tấn công tình dục Năm
Số vụ - - 60299 64989 62952 60126 26574 26647 25928 28058 27864 26653 25183 24365 Tỷ lệ/100.000 dân - - 47 50.6 49 46.8 20.7 20.7 20.2 21.9 21.7 20.8 19.7 19.1 Số vụ 2472 2176 2076 1948 1766 1592 1417 1293 1193 1265 1409 1250 - - Hiếp dâm Tỷ lệ/100.000 dân 2 1.7 1.6 1.5 1.4 1.3 1.1 1 0.9 1 1.1 1 - - 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Nguồn: Knoema (2020) [234]
184
Phụ lục 2
Bảng 3. 1: Số ụ án liên quan đến HT PNTEG giai đoạn 2 14-2019)
Năm Tổng số ụ Tổng số nạn nhân
Tỷ lệ ụ XHTD trẻ em gái (%) 70,8% 86,1% 68,1% 75,0% 81,4% 83,2% 77,227% 76,207% Nạn nhân là trẻ em gái 1.544 1.687 1.373 1.421 1.269 1.799 9.093 7.500 2.174 1.951 2.012 1.893 1.555 2.157 11.742 9.759 2.181 1.961 2.016 1.895 1.558 2.163 11.774 9.837 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2014-2019 2008-2013
Tỷ lệ số Số ụ nạn nh n là XHTD trẻ em gái trẻ em (%) gái 70,8% 1.539 86,1% 1.679 68,1% 1.370 75,0% 1.420 81,4% 1.266 83,2% 1.794 77,232% 9.068 76,239% 7.437 Nguồn: Tổng hợp của NCS từ báo cáo của TAND tối cao (2020) [161;162;168]
Bảng 3. 2: Số ụ án à nạn nh n theo tội anh cả nước được t sơ th m
liên quan đến HT PNTEG trong giai đoạn 2 14-2019
Hiếp m
Hiếp m trẻ em
Cưỡng dâm
Giao cấu ới trẻ em
m ô trẻ em
Cưỡng m trẻ em
Năm
Số ụ 624 258 637 469 286 358
Nạn nhân 626 259 638 469 287 359
Số ụ 571 536 514 580 513 626
Nạn nhân 573 539 515 581 514 628
Số ụ 11 14 5 4 3 5
Nạn nhân 11 14 5 4 3 5
Nạn nhân 4 4 1 9 6 8
Số ụ 671 832 609 590 512 783
Nạn nhân 673 836 610 591 513 785
Số ụ 293 307 246 241 235 377
Nạn nhân 294 309 246 241 235 378
Số ụ 4 4 1 9 6 8
32
2.632 2.639 3.340 3.349
42
42
32
3.997 4.008 1.699 1.704
2.291 2.306 3.424 3.454
31
31
25
25
2.824 2.847 1.164 1.173
2014 2015 2016 2017 2018 2019 2014- 2019 2008- 2013
Nguồn: Tổng hợp của NCS từ báo cáo của TAND tối cao (2020) [161;162;168]
Bảng 3. 3: Hệ thống thể chế liên quan đến đảm ảo QTCCL của NNN bị
XHTD ở Việt Nam
Văn ản pháp luật
Các qu định liên quan đến đảm ảo QTCCL của NNN ị HT Đưa ra huôn hổ pháp lý rộng rãi về các quyền con Hiến pháp năm 201 người trong đó có quyền PNTEG
Luật Trẻ em 2016 Quy định các quyền của trẻ em và biện pháp bảo đảm; quy định trách nhiệm của các bên có liên quan trong việc thực hiện các quyền của trẻ em
Nghị định số 5 /2017/NĐ- Quy định về chính sách trợ giúp xã hội cho trẻ em bị xâm
185
CP của chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em
hại và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đang được bảo vệ khẩn cấp theo quy định tại khoản 1 Điều 31 Nghị định này; quy định về việc hỗ trợ, can thiệp đối với trường hợp trẻ em bị xâm hại, quy định việc tiếp nhận, xử lý thông tin, thông báo, tố giác hành vi xâm hại trẻ em
Đưa ra các quy định, định nghĩa về tội liên quan đến xâm phạm tình dục, hung hình phạt và các quy định tố tụng
Quy định về thủ tục tố tụng quy định trong x t xử Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) Bộ luật Tố Tụng hình sự 2015
Nghị quyết số 06/2019/NQ- HĐTP ngày 20/9/2019 Đưa ra các hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của BLHS, hướng dẫn giải quyết các vướng mắc trong thực tiễn xét xử và việc tổ chức xét xử vụ án XHTD người dưới 18 tuổi.
tịch số tư liên
Quy định về bảo mật thông tin, bí mật riêng tư của trẻ em; hỗ trợ, bảo vệ PNTEG là nạn nhân của các vụ XHTD.
Thông 06/2018/TTLT- VKSNDTC-TANDTC- BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018
Luật Phòng chống bạo lực gia đình 2007
Xác định và xử phạt tất cả các hình thức bạo lực gia đình đối bao gồm bạo lực tình dục với thành viên trong gia đình, trong đó có PNTEG. Luật bao phủ tất cả các khía cạnh về phòng ngừa và ứng phó với bạo lực gia đình, trong đó có các dịch vụ bảo vệ và hỗ trợ cho các nạn nhân
Quy định về Quấy rối tình dục tại nơi làm việc Bộ luật Lao động năm 2012 và 2019
Luật Tổ chức tòa án nhân dân 2014
Quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân; về Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác trong Tòa án nhân dân; về bảo đảm hoạt động của TAND - cơ quan có chức năng x t xử vụ án liên quan đến XHTD.
Luật Tổ chức Viện kiểm sát năm 2014
Quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của VKSND; về Kiểm sát viên và các chức danh khác trong VKSND; về bảo đảm hoạt động của VKSND- cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
tịch số tư liên
Thông số 01/2017/TTLT-BCA- BQP-BTC-BNN&PTNT- VKSNDTC ngày 29 /12/2017 Quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong đó có tiếp nhận, giải quyết tin báo về các vụ việc liên quan XHTD PNTEG.
Luật Trợ giúp pháp l năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Luật này quy định về người được TGPL; tổ chức thực hiện trợ giúp pháp l ; người thực hiện trợ giúp pháp lý; hoạt động trợ giúp pháp lý; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với hoạt động trợ giúp pháp l trong đó có trợ giúp pháp l đối với NNN bị XHTD
Luật tổ chức cơ quan điều “Luật này quy định về nguyên tắc tổ chức Điều tra hình
186
tra hình sự 2015
sự; tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan Điều tra; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Điều tra viên và các chức danh hác trong Điều tra hình sự; quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát trong hoạt động Điều tra hình sự; bảo đảm Điều kiện cho hoạt động Điều tra hình sự và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.”
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015
Luật này quy định về “hoạt động giám sát của QH, UBTV QH, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu QH, đại biểu QH và HĐND, Thường trực HĐN, Ban của HĐND, Tổ đại biểu HĐND, đại biểu HĐND; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát, cơ quan, tổ chức và cá nhân hác có liên quan đến hoạt động giám sát”, trong đó bao gồm cả hoạt động giám sát thực hiện chính sách, pháp luật về phòng chống XHTD.
Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản hướng dẫn
Luật này quy định về tổ chức, hoạt động thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân, nhằm “nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý HVVP pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản l nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”, trong đó bao gồm cả việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ về bảo vệ PNTEG không bị XHTD.
Luật này quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ trong quản lý và phát triển KT-XH, trong đó thực hiện các “biện pháp ngăn ngừa và chống mọi hành vi bạo lực, xúc phạm nhân phẩm đối với phụ nữ và trẻ em”.
Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), Nghị định số 12 /201 /NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ và các văn bản hướng dẫn.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2019)
Luật này quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của HĐND, UBND các cấp trong việc thực hiện các biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các HVVP pháp luật khác, phòng, chống quan liêu, tham nh ng trong phạm vi được phân quyền; biện pháp bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ chức, bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân trên địa bàn do mình quản l , trong đó bao gồm cả các biện pháp bảo đảm QTCCL của NNN bị XHTD.
Nguồn: Tổng hợp của NCS cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật (2020)
187
Bảng 3. 4: Đánh giá của người n à cán ộ thuộc các thiết chế tư pháp ề
một số nhận định liên quan đến năng lực thực thi nhiệm ụ cán ộ tư pháp
Các nhận định Đồng Rất đồng Đơn vị: Số người và tỷ lệ 2 hông ình đồng thường Rất hông đồng
62 (5,6%) 209 (19%) 280 (25,45%) 264 (24%) 39 (3,54%)
51 (4,63%) 415 (37,72%) 206 (18,72%) 152 (13,81%) 30 (2,72%)
9 (3%) 174 (58%) 32 (10,7%) 78 (26%) 5 (2,3%)
5 (1,7%) 95 (31,7%) 49 (16,3%) 144 (48%) 7 (2,3%) 1. Các cán bộ tiếp nhận, giải quyết vụ việc liên quan đến XHTD thường ứng xử thiếu sự đồng cảm với nạn nhân 2. Các cán bộ tiếp nhận, giải quyết vụ việc liên quan đến XHTD thường không nhạy cảm với những trải nghiệm, thương trấn tâm lý mà nạn nhân bị XHTD phải chịu đựng . Khi tiếp nhận, xử l vụ việc liên quan đến XHTD, còn hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ của các cơ quan công quyền 4. Còn hiện tượng n tránh, đùn đẩy án giữa các cơ quan x t xử
Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)
Bảng 3. 5: m hại tình ục theo quan điểm của cán ộ các thiết chế tư pháp
Nhận định Đồng Đồng 1 phần hông đồng
14,7% 80% 5,3%
XHTD xảy ra một phần do lỗi của nạn nhân (ăn mặc quá hở hang, hông iên quyết chống lại hành vi xâm hại; tin theo lời dụ dỗ, nạn nhân hơi dậy sự ham muốn ở hung thủ).
Các vụ XHTD xảy ra là do nạn nhân thiếu cảnh giác 18,7% 55,7% 25,7% với những kẻ lạ/nguy hiểm
26% 10,7% 63,3% PNTEG hi đã bị xâm hại tình dục hông còn trinh tiết thì đã mất đi “giá trị”, hó có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc
2 Nhận định số 1 và 2 số người đánh giá là 1100 người (800 người dân và 00 cán bộ tư pháp); Nhận định số và 4 chỉ có 00 cán bộ tư pháp đánh giá
Việc công bố công hai vụ việc liên quan đến 54,3% 34,7% 11,0% XHTD chỉ làm nạn nhân tổn thương thêm
188
34% 20,7% 45,3%
Tố giác với các cơ quan chức năng về việc người thân trong gia đình như (ông, cha, anh chị em) có hành vi xâm hại, lạm dụng tình dục đối với mình hay với người hác sẽ làm ảnh hưởng đến thanh danh, hạnh phúc của gia đình
16% 43,3% 40,7% Nạn nhân bị XHTD hi ể lại câu chuyện của mình phải thể hiện sự sợ hãi, bất lực hoặc phải có những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ
Những người ể lại việc bị XHTD một cách bình 22,0% 18,0% 60,0% tĩnh, mạch lạc, rõ ràng thì hông đáng tin cậy
Khi đã ết hôn thì phải luôn sẵn sàng quan hệ tình 33,3% 25% 41,7% dục với người bạn đời của mình
Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)
Bảng 3. 6: Đánh giá của người n à của cán ộ tư pháp ề tính hiệu quả
của các thiết chế tư pháp trong ảo đảm QTCCL của NNN ị HT
Điểm người n đánh giá Điểm cán ộ tư pháp đánh giá
Cơ quan, tổ chức
Điểm trung bình 3 2,9 Độ lệch chuẩn 0,875 0,791 Điểm trung bình 3,5 3,5 Độ lệch chuẩn 0,834 0,921
3 0,957 3,5 0,844
3 0,933 3 0,834
3 0,823 3 0,921
3 0,827 2,5 0,844
3 0,872 2,3 0,944
TAND các cấp VKSND Các cơ quan điều tra, tiếp nhận tin báo, tin tố giác tội phạm Các cơ quan thi hành án Các cơ quan quản l nhà nước có chức năng bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em Các cơ quan tư vấn trợ giúp pháp l ngoài hệ thống tòa án Hội luật sư; các công ty luật… Các tổ chức phi chính thức có chức năng bảo vệ lợi ích nạn nhân bị XHTD như (tổ hòa giải; các hiệp hội, các công đoàn, các nhóm tương trợ, các hội nghề nghiệp, các tổ chức truyền thống tại cộng đồng)
Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)
Bảng 3. 7: Đánh giá của cán ộ tư pháp ề số lượng à cơ cấu của đội ng cán
ộ tại các ộ phận lý vụ án HT tại cơ quan đơn ị nơi họ đang công tác
Các nội ung đánh giá
Rất ph hợp 5,3% Ph hợp 17% ình thường 65,7% hông ph hợp 12%
5,7% 36% 57% 1,3% Số lượng cán bộ, công chức viên chức Cơ cấu về độ tuổi của đội ng cán bộ công chức, viên chức
189
6,7% 32% 49,3% 12%
6,0% 69,7% 17,7% 6,7%
Cơ cấu về giới tính của đội ng cán bộ công chức viên chức Cơ cấu về trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ của đội ng cán bộ công chức viên chức Cơ cấu về thành phần dân tộc của đội ng cán bộ công chức, viên chức
5,3% 41,3% 44,0% 9,3%
Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)
Bảng 3. 8: Đánh giá của cán ộ tư pháp ề năng lực của đội ng cán ộ làm
nhiệm ụ x lý vụ án HT tại cơ quan đơn ị nơi họ đang công tác
Các năng lực chính Rất tốt Tốt ình thường hông tốt
Khả năng hiểu biết, nắm rõ các quy định 19,3% 46,0% 7,3% 27,3% pháp luật
Khả năng áp dụng các quy định pháp luật 16,7% 45,0% 11,0% 27,3% vào giải quyết vụ việc cụ thể
Năng lực thực hiện các ỹ năng, nghiệp 11,0% 44,0% 15% 30% vụ của ngành
Khả năng nắm bắt diễn biến tâm l , cảm 6,3% 24% 34,0% xúc của nạn nhân và người phạm tội
7,0% 49,0% 35,7% 8,7% 35,3%
Sự nhiệt tình, trách nhiệm với công việc Sự trung thực, đúng đắn trong thực hiện 6,7% 44,3% 15% 34% nhiệm vụ
Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)
Bảng 3. 9: Đánh giá của cán ộ tư pháp ề nguồn lực ật chất phục ụ cho
iệc giải quyết các vụ HT tại cơ quan công tác
Nguồn lực vật chất
Đầ đủ hông đầ đủ 83.5% 89.3% 89.3% 16.7% 10.7% 10.7% Kinh phí cho thực thi nhiệm vụ chuyên môn Cơ sở vật chất (trụ sở làm việc) Trang thiết bị phục vụ cho việc thực thi nhiệm vụ chuyên môn
Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)
Bảng 3. 10: Số ị cáo à số ụ án liên quan đến HT đã thụ l à giải qu ết
trên địa àn cả nước trong giai đoạn 2014-2019
Thụ l
Đình chỉ
t sơ th m
Tỷ lệ t /thụ l (%)
Năm
Giải qu ết Điều tra ổ sung
Vụ
ị cáo Vụ ị cáo Vụ ị cáo
Vụ
ị cáo
Vụ
2402 2151 2228 2108
2734 2355 2386 2186
12 14 12 9
15 15 13 9
241 213 215 228
2174 1951 2012 1893
2478 2127 2158 1949
90,5 90,7 90,3 89,8
ị cáo 90,6 90,3 90,4 89,2
216 186 204 206
2014 2015 2016 2017
190
1741 2401
1810 2546
11 13
14 16
175 231
184 254
1555 2157
1612 2276
89,3 89,8
89,1 89,4
13.031 14.017
71
82
1.218 1.335 11.742 12.600
90,1
89,9
10.885 12.485
75
82
1.851 1.819
8.959 10.584
82,3
84,8
2018 2019 2014- 2019 2008- 2013
Nguồn: Xử lý từ báo cáo của TAND tối cao (2020) [161;162;168]
Bảng 3. 11: Xét x phúc th m các vụ án HT trên địa àn cả nước trong
giai đoạn 2014-2019
Thụ l Giải qu ết Tỷ lệ t phúc th m/sơ th m (%) Tỷ lệ giải qu ết/thụ l (%) Năm
Vụ ị cáo Vụ ị cáo Vụ ị cáo Vụ
689 587 633 563 500 663 790 652 682 577 516 705 600 496 566 525 405 591 690 551 601 538 424 623 87,1 84,5 89,4 93,3 81,0 89,1 ị cáo 87,3 84,5 88,1 93,2 82,2 88,4 27,6 25,4 28,1 27,7 26,0 27,4 27,8 25,9 27,8 27,6 26,3 27,4
3.635 3.922 3.183 3.427 87,6 87,4 27,1 27,2
2.649 3.141 2.430 2.849 91,7 90,7 24,9 25,5 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2014- 2019 2008- 2013
Nguồn: Xử lý từ báo cáo của TAND tối cao (2020) [161;162;168]
Bảng 3. 12: Đánh giá của người dân và của cán bộ tư pháp về tính hiệu quả trong hoạt
động bảo vệ QTCCL của NNN bị XHTD của các thiết chế tư pháp
Cơ quan, tổ chức Điểm Người n đánh giá
Điểm cán ộ tư pháp đánh giá Độ lệch chuẩn Độ lệch chuẩn
Điểm trung bình 3 2,9 0,875 0,791 Điểm trung bình 3,5 3,5 0,834 0,921
TAND các cấp VKSND các cấp Các cơ quan điều tra, tiếp nhận tin báo, 0,957 3,5 3 0,844 tin tố giác tội phạm
0,933 3 3 0,834
Các cơ quan thi hành án Các cơ quan quản l nhà nước có chức 0,823 3 3 0,921 năng bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em
0,827 2,5 0,844 3 Các cơ quan tư vấn trợ giúp pháp l ngoài hệ thống tòa án Hội luật sư; các công ty luật…
191
3 0,872 2,3 0,944
Các tổ chức phi chính thức có chức năng bảo vệ lợi ích nạn nhân bị xâm hại tình dục như (tổ hòa giải; các hiệp hội, các công đoàn, các nhóm tương trợ, các hội nghề nghiệp, các tổ chức truyền thống tại cộng đồng)
Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)
Bảng 3. 13: Nhận thức của người n ề các hành i được ác định là i phạm
pháp luật theo LHS
Hành i Vi phạm pháp luật hông i phạm pháp luật
97,5% 2,5%
Dùng v lực, đe dọa dùng v lực để cọ sát, đưa bộ phận sinh dục, hoặc bất cứ vật dụng nào hác tiếp xúc với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm hác trên cơ thể người hác
96,6% 3,4%
Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của ai đó nhằm cọ sát, đưa bộ phận sinh dục hay bất cứ vật dụng nào hác vào bộ phận sinh dục hay bộ phận nhạy cảm trên cơ thể người hác trái với ý muốn của họ
98% 2%
Lợi dụng tình trạng người dưới 1 tuổi đang ở trong tình trạng say xỉn, hôn mê để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của họ;
94,6% 5,4%
A Lợi dụng tình trạng quẫn bách về inh tế của B, dùng tiền để mua chuộc, p buộc B phải miễn cư ng giao cấu hoặc miễn cư ng thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với A
95,8% 4,3% A biết được thông tin bí mật nào đó của B, p buộc B phải miễn cư ng giao cấu hoặc miễn cư ng thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với A
95,4% 4,6% Sờ, bóp, hôn vào những bộ phận, vùng nhạy cảm (ví dụ: bộ phận sinh dục, ngực, vùng mặt, đầu, đùi, mông…) trên cơ thể người dưới 16 tuổi
97,1% 2,9%
Dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi sờ, bóp, hôn… vào những bộ phận, vùng nhạy cảm (ví dụ: bộ phận sinh dục, ngực, vùng mặt, đầu, đùi, mông…) trên cơ thể người dụ dỗ, p buộc hoặc người khác
Quan hệ tình dục, thực hiện hành vi tình dục hác 91,6% 8,4% với vợ, người yêu dưới 1 tuổi
Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)
192
13859
12821
11942
10914
120.25% 138.09%
9915
9064
105.15%
87.49%
70.33%
55.71%
16000 14000 12000 10000 8000 6000 4000 2000 0
160.00% 140.00% 120.00% 100.00% 80.00% 60.00% 40.00% 20.00% 0.00%
2014
2015
2016
2017
2018
2019
Số luật sư
Tỷ lệ gia tăng so với 2010 (%)
Biểu đồ 3. 1: Số lượng luật sư Việt Nam giai đoạn 201-2019
Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động của Liên đoàn Luật sư Việt Nam giai đoạn
2014-2019, dẫn theo Lê inh Đức (2020) [39, tr. 104]
100
84.1
84.1
78.5
72
80
60
28
40
21.5
15.9
15.6
20
0
Giữ bí mật
Giải quyết thông qua toà án
Giải quyết vụ việc thông qua thiết phi chính thức
Tìm cách thương lượng, hoà giải với kẻ phạm tội
Tỷ lệ người lựa chọn
Tỷ lệ người không lựa chọn
(Tỷ lệ )
Biểu đồ 3. 2: Lựa chọn cách thức giải qu ết ụ iệc của người n hi họ ha
người th n của họ ị HT
0.74
80
58.9
54.5
0.722
0.72
60
49.3
46.3
43.1
0.706
0.7
40
0.7
0.695
0.68
20
9
8.6
8.6
8.5
0.688 8.4
0.66
0
2015
2016
2017
2018
2019
Thu nhập trung bình đầu người (triệu đồng)
Số năm đi học bình quân (năm)
Chỉ số phát triển con người
Nguồn: Kết quả xử l số liệu tác giả điều tra xã hội học (2020)
Biểu đồ 3. 3: Thu nhập bình quân, số năm đi học và chỉ số phát triển con người ở Việt Nam
Nguồn: Tổng Cục thống kê (2020) [171, tr. 821]
193
Bảng 3. 14: Lựa chọn hành động của người n nếu bị XHTD
Các tình huống hác
Giữ ín chu ện nà
Tìm iếm sự tư ấn giúp đỡ của người thân Tìm cách thương lượng h a giải ới người đó để được đền Trình áo ụ iệc cho các cơ quan chức năng (công an)
1,6% 19,9% 3,5% 75% 0
2,6% 30,4% 8% 57% 2,1%
2,1% 20% 6,8% 70,8% 0,4%
3,4% 25,8% 12,8% 56,9% 1,3%
2% 15% 8,4% 73,8% 0,9%
Bị người lạ dùng v lực, đe dọa dùng v lực để cọ sát, đưa bộ phận sinh dục của họ, hay bất cư vật dụng nào hác tiếp xúc với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm hác trên cơ thể mình, người thân của mình Bị người thân trong gia đình, hoặc người mình có quen biết dùng v lực đe dọa dùng v lực đưa, bộ phận sinh dục hay bất cứ vật dụng nào hác vào bộ phận sinh dục hay bộ phận nhạy cảm hác trên cơ thể mình Bị người lạ, người mình quen biết lợi dụng tình trạng lệ thuộc của mình hoặc lợi dụng tình trạng quẫn bách của mình buộc mình phải miễn cư ng giao cấu hoặc miễn cư ng thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với họ Bị người thân trong gia đình hoặc người yêu mình lợi dụng tình trạng lệ thuộc của mình hoặc lợi dụng tình trạng quẫn bách của mình buộc mình phải miễn cư ng giao cấu hoặc miễn cư ng thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với họ Bị người lạ sờ, bóp, hôn vào bộ phận sinh dục hay dùng tay, chân, miệng, lư i hoặc các bộ phận hác trên cơ thể để tiếp xúc (trực tiếp hoặc qua lớp quần áo) vào bộ phận sinh dục, hậu môn, háng, đùi, mông, ngực, miệng của mình trái với muốn của mình Bị người lạ dụ dỗ, p buộc sờ, bóp, 14,9% 6,9% 75,6% 1%
1,6%
194
hôn... vào những bộ phận, vùng nhạy cảm ( bộ phận sinh dục, ngực, vùng mặt, đầu, đùi, mông...) trên cơ thể họ Bị người thân, người mình biết dụ dỗ, ép buộc sờ, bóp, hôn... vào những bộ phận, vùng nhạy cảm (ví dụ: bộ phận sinh dục, ngực, vùng mặt, đầu, đùi, mông...) trên cơ thể họ
3,1% 25,6% 10,8% 59,5% 1%
Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)
Bảng 3. 15: Tỷ lệ phụ nữ từ 20-24 tuổi kết hôn lần đầu trước 15 tuổi và trước
18 tuổi
Trước 15 tuổi Trước 18 tuổi
Các vùng Tổng Thành thị Nông thôn Tổng
0,4 0,5 0,1 Thành thị 3,7 9,1 Nông thôn 12,5
1,3 1,5 0,3 6,3 21,5 24,4
0,1 0,1 0,0 3,0 6,0 7,9
0,3 0,3 0,1 3,5 7,7 9,5
Cả nước Trung du MTPB ĐBSH BTB và DHMT Tây nguyên ĐNB ĐBSH 0,9 0,1 0,3 0,3 0,1 0,2 18,1 4,0 9,7 1,2 0,2 0,3 21,8 7,2 11,0
7,4 2,7 6,5 Nguổn: Tổng Cục thống kê (2020) [9, tr. 69]
Bảng 3. 16: Mức độ hiểu iết của người n ề các thủ tục để ảo ệ qu ền
lợi của mình thông qua con đường tư pháp hình sự
Các nội ung
iết rất r 10,3% iết sơ qua 39% hông iết 50,8%
6,8% 34,9% 58,4%
10,3% 50,6% 39,1%
6,8% 41,5% 51,8%
Các thủ tục phải làm để nạn nhân bị XHTD có thể trình báo vụ việc của mình cho cơ quan chức năng Các thủ tục phải làm để nạn nhân bị XHTD được cơ quan chức năng đưa đi giám định phám y Những việc cần phải làm để lưu giữ bằng chứng, dấu vết trong trường hợp chúng ta là nạn nhân bị XHTD Các thủ tục phải làm để nạn nhân bị XHTD bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình thông qua cơ chế phi chính thức như (tổ hòa giải, các tổ chức do người dân lập ra) Những việc nạn nhân bị XHTD phải làm để được hỗ trợ, tư vấn pháp l Các thủ tục nạn nhân bị XHTD cần phải tiếp cận hoặc áp dụng hi tham gia tố tụng hình sự ( hi xử 8,1% 3,8% 48,9% 37,1% 43% 59,1%
195
l vụ việc thông qua tòa án)
Các quy định pháp luật liên quan đến XHTD 9,8% 47,9% 42,4%
Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)
Bảng 3. 17: Đánh giá của cán ộ tư pháp C à người n N ề chi phí
mà NNN ị HT phải chi trả trong quá trình x lý vụ án
Đơn vị: %
Mức độ đánh giá Chi phí chính thức để thực hiện thủ tục tố tụng Chi phí nạn nh n, gia đình nạn nh n ị mất o nghỉ làm để có thời gian theo đuổi ụ iệc Chi phí cho iệc đi lại, ăn nghỉ để theo đuổi ụ iệc
Cao
Bình thường Thấp
Không mất phí Rất cao CB ND CB ND CB ND CB ND Rất thấp CB ND CB ND 1,3 6,3 5,3 37,2 24,3 39,7 2,7 6,9 1,3 2,0 65 7,9 3,0 8,8 15 42,4 50,7 37,9 18 7,4 12,7 2,2 0,7 1,3
Chi phí phi chính thức để ụ iệc của mình được quan t m, t thỏa đáng 8,3 1,7 15,5 10,8 8,0 4,5 41,3 40,3 5,3 23,7 33,9 38,6 19,3 2,7 6,7 5,4 10 1,3 2 1,3 0,7 25,7 0,5 3,6 Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)
Bảng 3. 18: Quan điểm của người dân về tác động của yếu tố ăn hóa đến
XHTD
Nhận định
Đồng Đồng 1 phần hông đồng
27,9% 48,4% 23,5%
43,4% 40,9% 15,8%
22,9% 30% 46,9%
33,1% 46,4% 20,3% XHTD xảy ra một phần do lỗi của nạn nhân (ăn mặc quá hở hang, hông iên quyết chống lại hành vi xâm hại; tin theo lời dụ dỗ, nạn nhân hơi dậy sự ham muốn ở hung thủ ) Các vụ XHTD xảy ra là do nạn nhân thiếu cảnh giác với những kẻ lạ/nguy hiểm Phụ nữ, trẻ em gái hi đã bị XHTD hông còn trinh tiết thì đã mất đi “giá trị”, hó có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc Việc công bố công hai vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục chỉ làm nạn nhân tổn thương thêm
196
31,8% 38% 30,3%
Tố giác với các cơ quan chức năng về việc người thân trong gia đình như (ông, cha, anh chị em) có hành vi xâm hại, lạm dụng tình dục đối với mình hay với người hác sẽ làm ảnh hưởng đến thanh danh, hạnh phúc của gia đình Rất hó để có thể nói với người hác hay trình báo với cơ quan chức năng về việc chồng hay người yêu của mình bắt mình quan hệ, thực hiện hành vi tình dục trái với muốn của mình
34% 42,1% 23,9%
Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)
Bảng 3. 19: Vai tr ảnh hưởng của các nhóm nh n tố tác động đến lựa chọn
giải qu ết ụ iệc thông qua con đường tư pháp hình sự
ST T
iến
B
EXP(B)
Vị trí ảnh hưởng
Tốc độ tăng giảm %
ác suất an đầu p0=21,5% P1 22,37%
0,87%
Tuổi
0,032
1,033
6
X1 X2
-0,151
0,860
19,06%
2,44%
5
1 2 Mức độ tin tưởng sự đúng đắn của pháp luật hình sự
3 Mức độ hiểu biết pháp
X3
-0,728
0,483
11,68%
9,82%
2
4
X4
-0,710
0,492
11,87%
9,63%
3
luật hình sự Định iến văn hóa, tâm l
X5
0,539
1,714
43,53%
22,03%
1
6
X6
0,181
1,198
26,9%
5,5%
4
5 ức độ hiểu biết về thủ tục tố tụng hình sự Tin tưởng vào thực thi pháp luật hình sự
Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)
197
Phụ lục 3
Hộp 3. 1: Vụ án XHTD bé gái 4 tuổi ở phường 14, quận Tân Bình thành phố
Hồ Chí Minh năm 2 19
Ngày 14/4/2019, tại phường 14 Quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh xảy ra vụ XHTD. Nạn nhân là bé gái N 5 tuổi.
Lợi dụng lúc chị T - mẹ cháu N vắng nhà, Ổng C làm nghề xe ôm ở gần nhà đã có hành vi xâm hại cháu N, khiến vùng kín của cháu bị sưng đỏ. Về thấy con như vậy, chị T uất ức đi trình báo và quyết đi tìm công l cho con, đưa ẻ có hành vi xấu ra trước pháp luật.
Khi mẹ cháu b đưa con đến công an phường 14 (Q.Tân Bình) để trình báo vụ việc thì công an phường đã hông hướng dẫn đầy đủ các quy trình thủ tục giúp nạn nhân trình báo và giải quyết vụ việc. Sau hi gia đình nạn nhân quyết tâm xử l thì lại huyên gia đình nạn nhân giải quyết bằng con đường tự thỏa thuận thương lượng bồi thường.
Trong vụ việc này mẹ cháu b đã phải ôm con đi lòng vòng suốt từ 4 giờ chiều đến 12 giờ đêm chỉ để tìm nơi giám định. Khi chị đem con đến bệnh viện theo hướng dẫn của công an phường thì bệnh viện nói phải đến Trung tâm pháp y vì bệnh viện hông có chức năng thu thập chứng cứ pháp y. Khi đến Trung tâm pháp y thì cán bộ Trung tâm pháp y nói chị phải có công an quận dẫn đi thì mới làm giám định được. Hai mẹ con tiếp tục về công an quận, được anh công an gác cổng hướng dẫn phải có hồ sơ từ phường lên. Cả hai lại chở nhau về lại công an phường và công an phường lại cần chờ triệu tập hội phụ nữ rồi mới lấy lời hai.
Nguồn: Nguyễn Trà (2019) [172]
Hộp 3. 2: Vụ án dâm ô nữ sinh lớp 5 ở huyện Trần Văn Thời, Cà Mau
Tháng 8-2016, bà Hữu Thị Lợi (mẹ cháu K.) và cháu K. nhiều lần có đơn tố giác ông Hữu Bê (hàng xóm) có hành vi xâm hại tình dục cháu.
Ngày 30-9-2016, bà Lợi nhận thông báo kết luận giám định, màng trinh cháu bé rách nhưng Cơ quan CSĐT quyết định không khởi tố vụ án vì "chỉ có lời khai của K., không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh ông Bê có hành vi hiếp dâm trẻ em và dâm ô đối với trẻ em".
Đến ngày 10-2-2017, cháu K. uống thuốc tự tử để lại bức thư tuyệt mệnh. Bà Lợi cầm đơn đi êu cứu khắp các cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh Cà Mau và TP.HCM.
Tháng 3-2017, Cơ quan CSĐT thông báo đã hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự và ra quyết định khởi tố vụ án để điều tra ông Hữu Bê về hai tội danh hiếp dâm trẻ em và dâm ô đối với trẻ em. Tháng 9-2017, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phê chuẩn khởi tố bị can, tạm giam Hữu Bê để điều tra hành vi dâm ô đối với trẻ em.
Tháng 11-2017, Bộ Công an đã quyết định cách chức phó thủ trưởng cơ quan điều tra đối với thượng tá Trần Hồng Lộc - người ký vào quyết định không khởi tố vụ án hình sự hồi tháng 9-2016 và cách chức đội trưởng, điều tra viên trung cấp đối với trung tá Đỗ Tấn Đạt. Hai cán bộ điều tra này còn bị cảnh cáo về mặt Đảng, bị điều chuyển công tác khác. Trước đó, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ c ng văn bản truyền đạt ý kiến
198
chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Công an, UBND tỉnh Cà Mau chỉ đạo các lực lượng chức năng hẩn trương điều tra để xử l nghiêm minh theo quy định của pháp luật vụ việc này.
Đồng thời xem xét trách nhiệm của Công an tỉnh Cà au trong quá trình điều tra và quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Nguồn: Uyên Trinh (2018) [174]
Hộp 3. 3: Vụ án hiếp dâm bé gái 10 tuổi ở Chương Mỹ, Hà Nội
Sáng 24/2/2019, đối tượng Trình điều khiển xe máy đi từ Thanh Xuân về thị trấn Chúc Sơn để về nhà. Trên đường đi, Trình gặp cháu Q đang đi một mình. Thấy đoạn đường vắng Trình tiếp cận và nói mình là bạn của cha bé gái, ngỏ ý muốn đ o về nhà. Do tin tưởng, cháu Q lên xe thì bị Trình chở tới một vườn chuối ở xã Hoàng Diệu.Tại đây, Trình sờ và bóp ngực Q, khi nạn nhân phản kháng, gã trai này bóp miệng và bóp cổ để Q không thể kêu la.Tiếp đó, Trình bẻ tay nạn nhân khiến gãy 1/ dưới xương quay phải để thực hiện hành vi đồi bại. Hậu quả của hành vi bóp mồm cháu Q của Trình khiến cháu bị gãy răng hàm, chảy máu bên trong miệng. Thấy cháu Q bị chảy nhiều máu, la h t và giãy đạp, Trình sợ bị mọi người phát hiện nên đã bỏ mặc cháu tại vườn chuối rồi chạy xe về nhà mình.
Về phần nạn nhân, sau khi bị xâm hại, Q gắng sức đi bộ ra đường và nhờ người đưa về nhà. Gia đình Q đã trình báo sự việc tới nhà chức trách ngay sau đó. Kết luận giám định xác định, cháu Q bị thương tích gãy răng số , gãy 1/ xương tay quay phải, tổn thương ở nhiều vị trí vùng kín; tỉ lệ tổn hại sức khỏe là 9%. Ngoài bị thương về cơ thể, hành vi của Trình đã hiến nạn nhân tổn thương nghiêm trọng về mặt tinh thần.
Tuy nhiên ban đầu Cơ quan điều tra Công an huyện Chương ỹ đã hởi tố bị can đối với Trình về hành vi Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, đồng thời áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi hỏi nơi cư trú.Quyết định này đã vấp phải sự phản ứng của dư luận, cho rằng hành vi của Trình đã cấu thành tội hiếp dâm. Việc cơ quan công an cho Trình tại ngoại có thể ảnh hưởng tới quá trình điều tra vụ án nếu Trình bỏ trốn.
Trước sự việc, Công an TP.Hà Nội đã rút hồ sơ vụ án để điều tra, đổi tội danh từ tội Dâm ô với người dưới 16 tuổi sang tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi đối với Nguyễn Trọng Trình, đồng thời tạm giam ngay đối tượng này. Sáng 10/9/2019, tại TAND TP Hà Nội diễn ra phiên xét xử đối với bị cáo Nguyễn Trọng Trình (SN 1989, trú tại xã Hoà Chính, huyện Chương ỹ, Hà Nội) về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” với an tù chung thân.
Nguồn: Tiến Nguyên (2019) [111]
199
Phụ lục 4
Bảng 4. 1: Mức độ tham gia các hóa đào tạo ồi ưỡng của cán ộ thuộc các
thiết chế tư pháp
(Số người và tỷ lệ )
Các hóa học, tập huấn
Cập nhập, iến thức, văn bản pháp luật
Thường xuyên 161 (53,7%) 120 (40%) 8 (2,7%) Thỉnh thoảng 134 (44,7%) 162 (54,0%) 96 (32%) Rất hiếm 4 (1,3%) 17 (5,7%) 115 (38,3%) Chưa đào tạo, tập huấn 1 (0,3%) 1 (0,3%) 81 (27%) Đào tạo, tập huấn các, iến thức, ỹ năng chuyên môn Đào tạo ỹ năng, hiểu biết nắm bắt tâm l nạn nhân và người phạm tội
7 (2,3%) 75 (25%) 135 (45%) 83 (27,7%) Đào tạo iến thức ỹ năng giao tiếp, tiếp xúc với nạn nhân, người phạm tội
Đào tạo hác (ghi rõ 4 (1,3%) 25 (8,3%) 28 (9,3%) 243 (81%)
Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)
Bảng 4. 2: Các nh n tố tác động đến lựa chọn giải qu ết ụ iệc thông qua
con đường tư pháp hình sự của người n nếu họ là nạn nh n ị HT
(*p<0.05)
Ph n tích đơn iến ảng ch o Đặc điểm
Tỷ lệ
Chung
Ph n tích đa iến ới mô hình hồi qu nhị ph n Hệ số hồi qu của iến độc lập -417* Giới*
-823*
216* Thành phần dân tộc* Địa bàn sinh sống*
-247 Trình độ học vấn* Số người 172 66 106 160 12 114 58 6 8 66 76 8 21,5 16,9 25,9 22,0 16,2 21,0 22,5 23,1 22,2 29,2 18,9 17,4
12,5 8
Nam Nữ Kinh Dân tộc thiểu số Nông thôn Đô thị Chưa tốt nghiệp tiểu học Tốt nghiệp tiểu học Tốt nghiệp THCS Tốt nghiệp THPT Tốt nghiệp TC, CĐ Tốt nghiệp đại học và trên đại học Nguồn: Kết quả xử l số liệu điều tra xã hội học của NCS (2020)
200
Phụ lục 5
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
ã số
(Dành cho người dân)
Kính thưa Ông/Bà! Để có căn cứ khoa học cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp l đảm bảo quyền tiếp cận công l của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam. Tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Cơ chế pháp lý đảm bảo quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam”. Ý iến đóng góp của ông bà sẽ giúp ích cho tôi trong việc hoàn thiện đề tài nghiên cứu của mình. ong ông (bà) vui lòng trả lời một số thông tin cơ bản trong bảng hỏi đã chuẩn bị sẵn. Thông tin mà Ông/Bà cung cấp chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học ngoài ra không sử dụng vào mục đích nào hác. Các thông tin hoàn toàn được lưu giữ dưới dạng huyết danh.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của ông/bà! A. MỘT SỐ THÔNG TIN CÁ NHÂN A1. Giới tính: 1. Nam 2. Nữ A2. Năm sinh:………… A3. Trình độ học ấn cao nhất ở thời điểm hiện tại
1. Chưa tốt nghiệp tiểu học
4. Tốt nghiệp THPT
2. Tốt nghiệp tiểu học 3. Tốt nghiệp THCS
5. Tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng . Tốt nghiệp đại học hoặc trên đại học
A4. Thành phần n tộc
1. Kinh
2. Các dân tộc thiểu số hác
A5.Tỉnh/thành phố đang sinh sống hiện nay: ......... A . hu ực/địa àn ông/ à đang sinh sống 1. Nông thôn
2. Đô thị
. ĐÁNH GIÁ VỀ N NG LỰC TIẾP CẬN C NG LÝ 1. Theo ông/ à những hành i nào sau đ được em là i phạm pháp luật Ông/
bà đánh dấu vào ô tương ứng
Hành i
Vi phạm pháp luật
hông i phạm pháp luật
Dùng v lực, đe dọa dùng v lực để cọ sát, đưa bộ phận sinh dục, hoặc bất cứ vật dụng nào hác tiếp xúc với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm hác trên cơ thể người hác Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của ai đó nhằm cọ sát, đưa bộ phận sinh dục hay bất cứ vật dụng nào hác vào bộ phận sinh dục hay bộ phận nhạy cảm trên cơ thể người hác trái với ý muốn của họ Lợi dụng tình trạng người dưới 1 tuổi đang ở trong tình trạng say xỉn, hôn mê để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của họ; A Lợi dụng tình trạng quẫn bách về inh tế của B, dùng tiền để mua chuộc, p buộc B phải miễn cư ng giao cấu
201
hoặc miễn cư ng thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với A A biết được thông tin bí mật nào đó của B, p buộc B phải miễn cư ng giao cấu hoặc miễn cư ng thực hiện hành vi quan hệ tình dục hácvới A Sờ, bóp, hôn vào những bộ phận, vùng nhạy cảm (ví dụ: bộ phận sinh dục, ngực, vùng mặt, đầu, đùi, mông…) trên cơ thể người dưới 16 tuổi Dụ dỗ, ép buộc người dưới 1 tuổi sờ, bóp, hôn… vào những bộ phận, vùng nhạy cảm (ví dụ: bộ phận sinh dục, ngực, vùng mặt, đầu, đùi, mông…) trên cơ thể người dụ dỗ, p buộc hoặc người khác Quan hệ tình dục, thự hiện hành vi tình dục hác với vợ, người yêu dưới 1 tuổi 2. hi ông à ha người th n của ông à gặp phải những tình huống sau đ ông
à s lựa chọn hành động như thế nào ng bà đánh dấu X vào ô phù hợp)
Các tình huống
hác
Giữ ín chu ện
Tìm iếm sự tư ấn/ giúp đỡ của người thân
Trình áo ụ iệc cho các cơ quan chức năng
Tìm cách thương lượng h a giải ới người đó để được đền
Bị người lạ dùng v lực, đe dọa dùng v lực để cọ sát, đưa bộ phận sinh dục của họ, hay bất cư vật dụng nào hác tiếp xúc với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm hác trên cơ thể mình, người thân của mình Bị người thân trong gia đình, hoặc người mình có quen biết dùng v lực đe dọa dùng v lực đưa, bộ phận sinh dục hay bất cứ vật dụng nào hác vào bộ phận sinh dục hay bộ phận nhạy cảm hác trên cơ thể mình Bị người lạ, người mình quen biết lợi dụng tình trạng lệ thuộc của mình hoặc lợi dụng tình trạng quẫn bách của mình buộc mình phải miễn cư ng giao cấu hoặc miễn cư ng thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với họ Bị người thân trong gia đình hoặc người yêu mình lợi dụng tình trạng lệ thuộc của mình hoặc lợi dụng tình trạng quẫn bách của mình buộc mình phải miễn cư ng giao cấu hoặc miễn cư ng thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với
202
họ Bị người lạ sờ, bóp, hôn vào bộ phận sinh dục hay dùng tay, chân, miệng, lư i hoặc các bộ phận hác trên cơ thể để tiếp xúc (trực tiếp hoặc qua lớp quần áo) vào bộ phận sinh dục, hậu môn, háng, đùi, mông, ngực, miệng của mình trái với muốn của mình Bị người lạ dụ dỗ, p buộc sờ, bóp, hôn... vào những bộ phận, vùng nhạy cảm ( bộ phận sinh dục, ngực, vùng mặt, đầu, đùi, mông...) trên cơ thể họ Bị người thân, người mình biết dụ dỗ, p buộc sờ, bóp, hôn... vào những bộ phận, vùng nhạy cảm (ví dụ: bộ phận sinh dục, ngực, vùng mặt, đầu, đùi, mông...) trên cơ thể họ
3. Theo ng/ à nạn nh n ị m hại tình ục phải đến đ u để trình áo ụ iệc
ông/bà ghi các cơ quan ông bà biết nếu hông biết ghi hông biết
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
4. ng à iết ở mức độ nào ề một số nội ung sau
Các nội ung
iết rất r
iết sơ qua
hông iết
Các thủ tục phải làm để nạn nhân bị xâm hại tình dục có thể trình báo vụ việc của mình cho cơ quan chức năng
Các thủ tục phải làm để nạn nhân bị xâm hại tình dục được cơ quan chức năng đưa đi giám định phám y Những việc cần phải làm để lưu giữ bằng chứng, dấu vết trong trường hợp chúng ta là nạn nhân bị xâm hại tình dục Các thủ tục phải làm để nạn nhân bị xâm hại tình dục bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình thông qua cơ chế phi chính thức như (tổ hòa giải, các tổ chức do người dân lập ra) Những việc nạn nhân bị xâm hại tình dục phải làm để được hỗ trợ, tư vấn pháp l
Các thủ tục nạn nhân bị xâm hại tình dục cần phải tiếp cận hoặc áp dụng hi tham gia tố tụng hình sự. ( hi xử l vụ việc thông qua tòa án) Các quy định pháp luật liên quan đến xâm hại tình dục
5. Theo ông à có những cơ quan, tổ chức nào thực hiện chức năng trợ giúp à tư vấn pháp l cho nạn nh n ị ị m hại tình ục ông bà ghi các cơ quan tổ chức ông bà biết nếu hông biết ghi hông biết
203
……………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
. ng à đánh giá như thế nào ề tính s n có của các cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng tư ấn trợ giúp pháp l cho nạn nh n ị m hại tình ục tại địa phương nơi ông à sinh sống
3. Có rất ít các cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng này 4. Không biết
1. Có nhiều cơ quan tổ chức thực hiện chức năng này 2. Không có cơ quan tổ chức nào thực hiện chức năng này tại địa phương
. ng à ự đoán/đánh giá như thế nào ề chi phí mà các nạn nh n ị m hại tình ục phải ỏ ra nếu s ụng ịch ụ tư ấn trợ giúp pháp l của cơ quan tổ chức thực hiện chức năng nà
Chi phí há cao Chi phí vừa phải có thể chấp nhận được với mức thu nhập trung bình của người
dân Việt Nam
Chi phí rất thấp Không phải mất phí cho dịch vụ này Khác (ghi rõ)…………………………..
8. ng à có quan điểm như thế nào ề các nhận định sau đ
Nhận định
Đồng
Đồng 1 phần
hông đồng
Xâm hại tình dục xảy ra một phần do lỗi của nạn nhân (ăn mặc quá hở hang, hông iên quyết chống lại hành vi xâm hại; tin theo lời dụ dỗ, nạn nhân hơi dậy sự ham muốn ở hung thủ ) Các vụ xâm hại tình dục xảy ra là do nạn nhân thiếu cảnh giác với những kẻ lạ/nguy hiểm Phụ nữ, trẻ em gái hi đã bị xâm hại tình dục hông còn trinh tiết thì đã mất đi “giá trị”, hó có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc Việc công bố công hai vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục chỉ làm nạn nhân tổn thương thêm Tố giác với các cơ quan chức năng về việc người thân trong gia đình như (ông, cha, anh chị em) có hành vi xâm hại, lạm dụng tình dục đối với mình hay với người hác sẽ làm ảnh hưởng đến thanh danh, hạnh phúc của gia đình Rất hó để có thể nói với người hác hay trình báo với cơ quan chức năng về việc chồng hay người yêu của mình bắt mình quan hệ, thực hiện hành vi tình dục trái với muốn của mình
C. ĐÁNH GIÁ VỀ CƠ CHẾ PHÁP LÝ ĐẢM ẢO QUYỀN TIẾP CẬN C NG LÝ
CỦA NẠN NH N Ị M HẠI TÌNH ỤC
C1. ng à đánh giá như thế nào ề mức độ hoàn thiện của các qu định pháp luật
liên quan đến m hại tình ục hiện nay?
204
Các qu định
Hoàn thiện
ình thường
hông iết
Chưa hoàn thiện
Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định thế nào là hiếp dâm Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định thế nào là cư ng dâm Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 1 đến dưới 16 tuổi Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định hành vi dâm ô Các quy định về hung hình phạt đối với các tội liên quan đến xâm hại tình dục Các quy định liên quan đến tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích hiêu dâm. Các quy định pháp luật về quấy rối tình dục Các quy định pháp luật về xử l thông tin tố giác, tin báo tội pham liên quan đến xâm hại tình dục Các quy định pháp luật liên quan đến thủ tục pháp l trong giải quyết vụ án xâm hại tình dục Các quy định pháp luật về bảo vệ nạn nhân trong quá trình thu thập chứng cứ liên quan đến vụ xâm hại tình dục Các quy định pháp luật hác liên quan đến xâm hại tình dục
C2. ng à đồng ới mức độ nào ề các nhận định sau đ
Các nhận định
Đồng
ình thường
hông đồng
Rất đồng
Rất hông đồng
Các cán bộ tiếp nhận, giải quyết vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục thường ứng xử thiếu sự đồng cảm với nạn nhân Các cán bộ tiếp nhận, giải quyết vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục thường không nhạy cảm với những trải nghiệm, thương trấn tâm lý mà nạn nhân bị xâm hại tình dục phải chịu đựng
C3. ng à đánh giá như thế nào ề tính hiệu quả trong hoạt động ảo ệ qu ền à lợi ích hợp pháp của nạn nh n nữ ị m hại tình ục của các cơ quan, tổ chức sau đ (Ông bà đánh giá th o thang điểm t 1 đến t ong đ : 1 là ất hông hiệu quả 2 là Không hiệu quả là Bình thường là iệu quả là ất hiệu quả
Cơ quan, tổ chức
Tòa án các cấp Viện Kiểm sát, cơ quan Kiểm sát các cấp
Điểm
205
Các cơ quan điều tra, tiếp nhận tin báo, tin tố giác tội phạm (công an, cảnh sát) Các cơ quan thi hành án Các cơ quan quản l nhà nước có chức năng bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em Các cơ quan tư vấn trợ giúp pháp l , Hội luật gia; các công ty luật… Các tổ chức phi chính thức có chức năng bảo vệ lợi ích nạn nhân bị xâm hại tình dục như (tổ hòa giải; các hiệp hội, các công đoàn, các nhóm tương trợ, các hội nghề nghiệp, các tổ chức truyền thống tại cộng đồng)
C4. ng à ự đoán hoặc đánh giá như thế nào ề hoạt động t các ụ án liên quan đến m hại tình ục của hệ thống t a án tại địa phương Ông bà đánh giá th o thang điểm t 1 đến t ong đ : 1. ất hông tốt 2. Không tốt . Bình thường . Tốt . ất tốt Hoạt động t các ụ án m hại tình ục của t a án tỉnh
X t xử đúng pháp luật X t xử thấu tình đạt l X t xử đảm bảo tính công bằng Các nạn nhân được đền bù một cách thỏa đáng Tính nghiêm minh, đúng đắn trong các phán quyết của tòa
Điểm
C5. ng à ự đoán hoặc đánh giá như thế nào ề các chi phí chính thức à chi phí hông chính thức mà các nạn nh n ị m hại tình ục phải ỏ ra để ụ iệc của mình được t ởi t a án
Các chi phí
Cao
Thấp
Rất cao
ình thường
Rất thấp
hông mất phí
Chi phí chính thức để thực hiện thủ tục tố tụng Chi phí phi chính thức để vụ việc của mình được quan tâm, x t xử thỏa đáng Chi phí phải bỏ ra cho việc đi lại, ăn nghỉ để theo đuổi vụ việc Chi phí nạn nhân, gia đình nạn nhân bị mất do nghỉ làm để có thời gian theo đuổi vụ việc
C . ng à ự đoán hoặc đánh giá như thế nào ề thời gian l ụ iệc liên quan
đến m hại tình ục của các thiết chế sau
Lâu
Nhanh
Thời gian l ụ iệc ằng các cơ chế
Rất lâu
Rất nhanh
ình thường có thể chấp nhận được
Giải quyết vụ việc thông qua cơ chế chính thức của nhà nước (tòa án) Giải quyết vụ việc thông qua cơ chế phi chính thức (tổ hòa giải, công đoàn, tổ chức truyền thống tại cộng đồng) Tự thương lượng hòa giải giữa hai bên (nạn nhân và người phạm tội)
206
C . ng/ à ự đoán hoặc đánh giá như thế nào ề thời gian thực thi các phán qu ết của t a trong giải qu ết ụ án liên quan đến m hại tình ục ông bà đánh dấu hoặc hoanh t n vào 1 đáp án ph hợp
Nhanh chóng
Bình thường
Chậm chạp
Rất chậm chạp
Rất nhanh chóng
C8. Giả s ông/ à ha người th n của ông à hông ma trở thành nạn nh n của ụ án liên quan đến m hại tình ục ông/ à lựa chọn giải qu ết ụ iệc theo hướng nào sau đ Ông bà được lựa chọn nhiều phương án bằng cách hoanh t n hoặc đánh dấu vào đáp án ph hợp
Giữ bí mật chuyện này nhằm bảo vệ thanh danh gia đình, hạnh phúc về sau cho nạn nhân Tìm cách thương lượng, hòa giải với ẻ phạm tội để được đền bù thỏa đáng và để giữ ín việc này nhằm đảm bảo hạnh phúc, yên ổn cho nạn nhân đồng thời chấm dứt nỗi đau một cách nhanh chóng Trình báo vụ việc cho các cơ quan công quyền, giải quyết thông qua tòa án
Giải quyết vụ việc thông qua thiết chế phi chính thức như tổ hòa giải, công đoàn, các tổ chức truyền thống tại cộng đồng Khác( ghi rõ)
Trân trọng cảm ơn qu ông/ à!
207
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
ã số
(Dành cho cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp)
Kính thưa Ông/Bà! Để có căn cứ khoa học cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp l đảm bảo quyền tiếp cận công l của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam. Tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Cơ chế pháp lý đảm bảo quyền tiếp cận công lý của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam”. Ý iến đóng góp của ông bà sẽ giúp ích cho tôi trong việc hoàn thiện đề tài nghiên cứu của mình. ong ông (bà) vui lòng trả lời một số thông tin cơ bản trong bảng hỏi đã chuẩn bị sẵn. Thông tin mà Ông/Bà cung cấp chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học ngoài ra không sử dụng vào mục đích nào hác. Các thông tin hoàn toàn được lưu giữ dưới dạng huyết danh.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của ông/bà! A. MỘT SỐ THÔNG TIN CÁ NHÂN A1. Giới tính: 1. Nam 2. Nữ A2. Năm sinh: ………… A3. Trình độ học ấn cao nhất ở thời điểm hiện tại
1. Tốt nghiệp THPT 2. Tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng
. Tốt nghiệp đại học hoặc trên đại học 4. Khác (ghi rõ)..
A4. Thành phần n tộc
1. Kinh
2. Các dân tộc thiểu số hác (ghi rõ)
A5.Tỉnh/thành phố đang sinh sống hiện nay: ......... A6. Khu ực/địa àn ông/ à đang sinh sống
1. Nông thôn
2. Đô thị
A . Cơ quan, đơn ị nơi ông à đang công tác
4. Tòa án các cấp
1. Công an 2. Cơ quan thi hành án
3. Viện iểm sát 5. Khác
. NHỮNG NHẬN ĐỊNH CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN M HẠI TÌNH ỤC 1. ng à có quan điểm như thế nào ề các nhận định sau đ
Nhận định
Đồng
Đồng 1 phần
hông đồng
Xâm hại tình dục xảy ra một phần do lỗi của nạn nhân (ăn mặc quá hở hang, hông iên quyết chống lại hành vi xâm hại; tin theo lời dụ dỗ, nạn nhân hơi dậy sự ham muốn ở hung thủ ) Các vụ xâm hại tình dục xảy ra là do nạn nhân thiếu cảnh giác với những kẻ lạ/nguy hiểm Phụ nữ, trẻ em gái hi đã bị xâm hại tình dục hông còn trinh tiết thì đã mất đi “giá trị”, hó có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc Việc công bố công hai vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục chỉ làm nạn nhân tổn thương thêm Tố giác với các cơ quan chức năng về việc người thân trong gia đình như (ông, cha, anh chị em) có hành vi xâm hại, lạm dụng tình dục đối với mình hay với người hác sẽ làm ảnh hưởng đến thanh danh, hạnh phúc của gia đình
208
Nạn nhân bị xâm hại tình dục hi ể lại câu chuyện của mình phải thể hiện sự sợ hãi, bất lực hoặc phải có những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ Những người ể lại việc bị xâm hại tình dục một cách bình tĩnh, mạch lạc, rõ ràng thì hông đáng tin cậy Khi đã ết hôn thì phải luôn sẵn sàng quan hệ tình dục với người bạn đời của mình
2. Theo ông à nạn nh n ị m hại tình ục nên lựa chọn giải qu ết ụ iệc theo hướng nào sau đ Ông bà được lựa chọn nhiều phương án bằng cách hoanh t n hoặc đánh dấu vào đáp án ph hợp
STT
1
2
3
4
5
Cách giải qu ết ụ iệc Giữ bí mật chuyện này nhằm bảo vệ thanh danh gia đình, hạnh phúc về sau cho nạn nhân Tìm cách thương lượng, hòa giải với ẻ phạm tội để được đền bù thỏa đáng và để giữ ín việc này nhằm đảm bảo hạnh phúc, yên ổn cho nạn nhân và chấm dứt nỗi đau một cách nhanh chóng Trình báo vụ việc cho các cơ quan công quyền, giải quyết thông qua con đường tư pháp hình sự Giải quyết vụ việc thông qua thiết chế phi chính thức như tổ hòa giải, công đoàn, các tổ chức truyền thống tại cộng đồng Khác( ghi rõ) ………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………..
C. ĐÁNH GIÁ VỀ HUNG PHÁP LÝ ĐẢM ẢO QUYỀN TIẾP CẬN C NG LÝ
CỦA NẠN NH N Ị M HẠI TÌNH ỤC
C1. ng à đánh giá như thế nào ề mức độ hoàn thiện của các qu định pháp luật liên quan đến m hại tình ục trước hi Nghị qu ết số /2 19/NQ-HĐTP của Hội đồng th m phán T a án nh n n tối cao được an hành ngày 01/10/2019 (có hiệu lực 5/11/2019)?
Các qu định
Hoàn thiện
ình thường
Chưa hoàn thiện
Không iết
Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định thế nào là hiếp dâm Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định thế nào là cư ng dâm Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định hành vi dâm ô Các quy định về hung hình phạt đối với các tội liên quan đến xâm hại tình dục Các quy định liên quan đến tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích hiêu dâm. Các quy định pháp luật về quấy rối tình dục Các quy định pháp luật về xử l thông tin tố
209
giác, tin báo tội pham liên quan đến xâm hại tình dục Các quy định pháp luật liên quan đến thủ tục pháp l trong giải quyết vụ án xâm hại tình dục Các quy định pháp luật về bảo vệ nạn nhân trong quá trình thu thập chứng cứ liên quan đến vụ xâm hại tình dục Các quy định pháp luật liên quan đến sự vận hành của bộ máy (tổ chức) thực hiện pháp luật đảm bảo quyền tiếp cận công l cho nạn nhân bị xâm hại tình dục Các quy định pháp luật hác liên quan đến xâm hại tình dục
. ĐÁNH GIÁ VỀ THIẾT CHẾ TỔ CHỨC Ộ MÁY ĐẢM ẢO QUYỀN TIẾP
CẬN C NG LÝ CHO NẠN NH N NỮ Ị M HẠI TÌNH ỤC
1. ng à đánh giá như thế nào ề các thiết chế, tổ chức ộ má trong iệc đảm
ảo qu ền của nạn nh n nữ ị m hại tình ục của nước ta hiện na
Các nội ung đánh giá
Ph hợp
ình thường
Rất ph hợp
hông ph hợp
Rất hông ph hợp
Tổ chức bộ máy liên quan đến đảm bảo quyền của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục Vị trí, chức năng của các cơ quan trong bộ máy đảm bảo quyền của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy đảm bảo quyền của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục Cơ chế vận hành các thiết chế đảm bảo quyền của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục Sự phối hợp hoạt động của các cơ quan trong bộ máy đảm bảo quyền tiếp cận công l của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục
2. ng à đánh giá như thế nào ề tính hiệu quả trong hoạt động ảo ệ qu ền à lợi ích hợp pháp của nạn nh n nữ ị m hại tình ục của các cơ quan, tổ chức sau đ (Ông bà đánh giá th o thang điểm t 1 đến t ong đ : 1 là ất hông hiệu quả 2 là Không hiệu quả là Bình thường là iệu quả là ất hiệu quả
Cơ quan, tổ chức
Điểm
Tòa án các cấp Viện Kiểm sát, cơ quan Kiểm sát các cấp Các cơ quan điều tra, tiếp nhận tin báo, tin tố giác tội phạm (công an, cảnh sát) Các cơ quan thi hành án Các cơ quan quản l nhà nước có chức năng bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em Các cơ quan tư vấn trợ giúp pháp l ngoài hệ thống tòa án Hội luật sư; các công ty luật…
210
Các tổ chức phi chính thức có chức năng bảo vệ lợi ích nạn nhân bị xâm hại tình dục như (tổ hòa giải; các hiệp hội, các công đoàn, các nhóm tương trợ, các hội nghề nghiệp, các tổ chức truyền thống tại cộng đồng)
3. ng à đánh giá như thế nào ề hoạt động phối hợp giữa các cơ quan tổ chức sau trong ảo đảm qu ền của nạn nh n nữ ị m hại tình ục Ông bà đánh giá th o thang điểm t 1 đến t ong đ : 1 là ất hông hiệu quả 2 là Không hiệu quả là Bình thường là iệu quả là ất hiệu quả
Phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức
Điểm
Phối hợp trong hệ thống Tòa án các cấp với nhau Phối hợp giữa tòa án với các cơ quan tư pháp hác Phối hợp trong hệ thống Viện iểm sát Sự phối hợp giữa viện iểm sát với các cơ quan tư pháp hác Sự phối hợp trong hệ thống các cơ quan điều tra, tiếp nhận tin báo, tin tố giác tội phạm (công an, cảnh sát) Sự phối hợp giữa các các cơ quan điều tra, tiếp nhận tin báo, tin tố giác tội phạm (công an, cảnh sát) với cơ quan tư pháp hác Sự phối hợp trong hệ thống các cơ quan thi hành án Sự phối hợp giữa cơ quan thi hành án với cơ quan tư pháp hác Sự phối hợp trong hệ thống các cơ quan quản l nhà nước có chức năng bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em Sự phối hợp giữa các cơ quan quản l nhà nước có chức năng bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em với các cơ quan tư pháp
4. ng à ự đoán hoặc đánh giá như thế nào ề hoạt động t các ụ án liên quan đến m hại tình ục của hệ thống t a án tại địa phương Ông bà đánh giá th o thang điểm t 1 đến t ong đ : 1. ất hông tốt 2. Không tốt . Bình thường . Tốt . ất tốt
Hoạt động t các ụ án m hại tình ục của t a án tỉnh
X t xử đúng pháp luật X t xử thấu tình đạt l X t xử đảm bảo tính công bằng Các nạn nhân được đền bù một cách thỏa đáng Tính nghiêm minh, đúng đắn trong các phán quyết của tòa
Điểm
D5. ng à ự đoán hoặc đánh giá như thế nào ề các chi phí chính thức à chi phí phi chính thức mà các nạn nh n ị m hại tình ục phải ỏ ra để ụ iệc của mình được t ởi t a án
Cao
Thấp
Các chi phí
Rất cao
ình thường
Rất thấp
hông mất phí
Chi phí chính thức để thực hiện thủ tục tố tụng Chi phí phi chính thức để vụ việc của mình được quan tâm, x t xử thỏa đáng Chi phí phải bỏ ra cho việc đi lại, ăn nghỉ để theo đuổi vụ việc Chi phí nạn nhân, gia đình nạn nhân bị
211
mất do nghỉ làm để có thời gian theo đuổi vụ việc
. ng à ự đoán hoặc đánh giá như thế nào ề thời gian l ụ iệc liên quan
đến m hại tình ục của các thiết chế sau
Thời gian l ụ iệc
Rất l u Lâu
Nhanh
ình thường
Rất nhanh
Giải quyết vụ việc thông qua cơ chế chính thứccủa nhà nước ( tòa án) Giải quyết vụ việc thông qua cơ chế phi chính thức (tổ hòa giải, công đoàn, tổ chức truyền thống tại cộng đồng) Tự thương lượng hòa giải giữa hai bên (nạn nhân và người phạm tội)
. ng/ à ự đoán hoặc đánh giá như thế nào ề thời gian thực thi các phán qu ết của t a trong giải qu ết ụ án liên quan đến m hại tình ục ông bà đánh dấu hoặc hoanh t n vào 1 đáp án ph hợp
Nhanh chóng Bình thường
Chậm chạp
Rất nhanh chóng
Rất chậm chạp
ĐÁNH GIÁ VỀ NGUỒN LỰC ĐẢM ẢO QUYỀN TIẾP CẬN C NG LÝ CHO
NẠN NH N Ị M HẠI TÌNH ỤC
.1 ng à đánh giá như thế nào ề số lượng à cơ cấu của đội ng cán ộ tại các ộ phận có chức năng nhiệm ụ đảm ảo qu ền cho nạn nh n nữ ị m hại tình ục tại cơ quan đơn ị nơi ông à đang công tác
Các nội ung đánh giá
Ph hợp
ình thường
Rất ph hợp
hông ph hợp
Rất hông ph hợp
Số lượng cán bộ, công chức viên chức Cơ cấu về độ tuổi của đội ng cán bộ công chức, viên chức Cơ cấu về giới tính của đội ng cán bộ công chức viên chức Cơ cấu về trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ của đội ng cán bộ công chức viên chức Cơ cấu về thành phần dân tộc của đội ng cán bộ công chức, viên chức
E2. ng à đánh giá như thế nào ề năng lực thực thi nhiệm ụ của đội ng cán ộ, công chức làm nhiệm ụ thực hiện pháp luật ảo ệ nạn nh n nữ ị m hại tình ục tại cơ quan đơn ị nơi ông à công tác trên các hía cạnh sau
Các năng lực chính
Tốt
Rất tốt
ình thường
hông tốt
Rất hông tốt
Khả năng hiểu biết, nắm rõ các quy định pháp luật Khả năng áp dụng các quy định pháp luật vào giải quyết vụ việc cụ thể Năng lực thực hiện các ỹ năng, nghiệp
212
vụ của ngành Khả năng nắm bắt diễn biến tâm l , cảm xúc của nạn nhân và người phạm tội Sự nhiệt tình, trách nhiệm với công việc Sự trung thực, đúng đắn trong thực hiện nhiệm vụ
E3. ng à đồng ới mức độ nào ề các nhận định sau đ
Các nhận định
Đồng
ình thường
hông đồng
Rất đồng
Rất hông đồng
Các cán bộ tiếp nhận, giải quyết vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục thường ứng xử thiếu sự đồng cảm với nạn nhân Các cán bộ tiếp nhận, giải quyết vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục thường không nhạy cảm với những trải nghiệm, thương trấn tâm lý mà nạn nhân bị xâm hại tình dục phải chịu đựng Khi tiếp nhận, xử l vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục, Còn hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ của các cơ quan công quyền Còn hiện tượng n tránh, đùn đẩy án giữa các cơ quan x t xử
4. Theo ông/ à đ u là những hó hăn trong giải qu ết ụ iệc liên quan đến m hại tình ục đối ới phụ nữ à trẻ em gái ở nước ta những năm qua ông/ à có thể lựa chọn nhiều đáp án 1Hệ thống quy phạm pháp luật về bảo vệ quyền của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục chưa hoàn thiện Cơ cấu tổ chức bộ máy thực hiện chức năng nhiệm vụ này còn chưa phù hợp Đội ng cán bộ trong các cơ quan công quyền có chức năng thực hiện nhiệm vụ này thiếu số lượng Cơ cấu của đội ng cán bộ trong các cơ quan công quyền có chức năng thực hiện nhiệm vụ này còn chưa hợp l Năng lực thực hiện nhiệm vụ của đội ng cán bộ trong các cơ quan công quyền có chức năng thực hiện nhiệm vụ này hạn chế Còn hiện tượng tiêu cực, tham nh ng trong tiếp nhận xử l vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục Thiếu các nguồn lực vật chất ( inh phí, trụ sở, trang thiết bị hác)phục vụ cho hoạt động chuyên môn của các cơ quan công quyền có chức năng thực thi nhiệm vụ này? Khác (ghi rõ):
5. ng/ à đánh giá ề mức độ thường u ên của iệc tham gia các hóa, đào tạo tập huấn n ng cao năng lực thực thi nhiệm ụ của đội ng cán ộ công chức, iên chức những người thực hiện pháp luật ảo ệ qu ền của nạn nh n nữ ị m hại tình ục tại cơ quan ông/ à Các hóa học, tập huấn
Thường xuyên
Thi thoảng
Rất hiếm
Cập nhập, iến thức, văn bản pháp luật Đào tạo, tập huấn các, iến thức, ỹ năng chuyên
Chưa đào tạo, tập huấn
213
môn Đào tạo ỹ năng, hiểu biết nắm bắt tâm l nạn nhân và người phạm tội Đào tạo iến thức ỹ năng giao tiếp, tiếp xúc với nạn nhân, người phạm tội Đào tạo hác (ghi rõ)……………… …………………………………………..
. ng/ à đánh giá ề hiệu quả của các hóa, đào tạo tập huấn n ng cao năng lực thực thi nhiệm ụ của đội ng cán ộ công chức, iên chức những người thực hiện pháp luật ảo ệ qu ền của nạn nh n nữ ị m hại tình ục tại cơ quan ông/ à
Các hóa học, tập huấn
Hiệu quả
ình thường
hông hiệu quả
Rất hiệu quả
Rất hông hiệu quả
Cập nhập, iến thức, văn bản pháp luật Đào tạo, tập huấn các, iến thức, ỹ năng chuyên môn Đào tạo ỹ năng, hiểu biết nắm bắt tâm l nạn nhân và người phạm tội Đào tạo iến thức ỹ năng giao tiếp, tiếp xúc với nạn nhân, người phạm tội Đào tạo hác (ghi rõ)……………… …………………………………………
. ng/ à đánh giá như thế nào ề nguồn lực ật chất phục ụ cho iệc thực thi nhiệm ụ của các đơn ị thực hiện chức năng ảo ệ qu ền của nạn nh n nữ ị m hại tình ục tại cơ quan ông/ à
Đầ đủ
hông đầ đủ
Kinh phí cho thực thi nhiệm vụ chuyên môn Cơ sở vật chất (trụ sở làm việc) Trang thiết bị phục vụ cho việc thực thi nhiệm vụ chuyên môn
Trận trọng cảm ơn qu ng/ à!
214
Phụ lục 6
1. Phương pháp ác định cỡ mẫu
Để thực hiện nghiên cứu định lượng, mẫu hảo sát sẽ được lựa chọn thông qua
phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, với dữ liệu ban đầu, NCS có được là tổng số người
cả nước năm 2019 là 9 .484.000 người [171, tr. 821].
“Lựa chọn mức nghĩa là 95% (r); tỷ lệ ước lượng trước 0,5 (p); chọn hoảng tin
cậy .5% (m), sử dụng công thức tính mẫu hi ước lượng tỷ lệ (%), chọn không lặp và
không biết trước p như sau:
Ký hiệu trong công thức:
: hệ số tin cậy ứng với mức tin cậy r định trước
nếu r = 0.95 thì = 1.96; nếu r = 0.99 thì = 2.58
c tổng thể N:
p: tỷ lệ cần ước lượng, ví dụ 0.34. Nếu không biết thì lấy 0.5
m: phạm vi sai số ước lượng (khoảng tin cậy = p m).
n: c mẫu” [105, tr. 81-82]
Thay thế các số liệu vào công thức trên, c mẫu cần phải điều tra là:
NCS tiến hành điều tra chọn mẫu bằng phiếu hỏi với c mẫu là 784 người, thêm
16 người điều tra dự phòng, nên tổng mẫu thực tế điều tra là 800 người dân ở sáu vùng
KT-XH của cả nước. Đối với việc điều tra các bộ tư pháp, quy mô mẫu được NCS chọn
ngẫu nhiên là 300 cán bộ làm việc tại toà án, viện iểm sát, cơ quan điều tra của công an
để tiến hành điều tra, vì quy mô tổng thể (N) hông thể xác định chính xác được nên
hông thể tính chính xác c mẫu cần điều tra. Các cán bộ này được điều tra tại các cơ
quan tư pháp đóng trên các địa bàn tiến hành điều tra người dân.
2. Phương pháp chọn mẫu
Địa bàn tiến hành khảo sát là: (1) Trung du và miền núi phía Bắc (gồm 14 tỉnh:
Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La,
Yên Bái, Hòa Bình, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ); (2) Đồng bằng sông
Hồng (gồm 11tỉnh/thành: Hà Nội, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hải
Phòng, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình); (3) Bắc Trung Bộ và
215
Duyên hải miền Trung (gồm 14 tỉnh/thành: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định,
Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận); (4) Tây Nguyên (gồm 05 tỉnh: Kon
Tum, Gia Lai, Đắk Lắ , Đắ Nông, Lâm Đồng); (5) Đông Nam Bộ (gồm 06 tỉnh/thành:
Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - V ng Tàu, TP Hồ Chí Minh);
( ) Đồng bằng sông Cửu Long (gồm 13 tỉnh thành: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà
Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng,
Bạc Liêu, Cà Mau).
ẫu hảo sát sẽ được lựa chọn thông qua phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân
tầng bốn giai đoạn:
- Giai đoạn 1: chọn các tỉnh thành. Từ vùng KT-XH nêu trên với phương pháp
chọn mẫu có chủ đích, NCS chọn mỗi vùng 2 tỉnh/ thành có tình trạng XHTD với phụ
nữ và trẻ em gái diễn ra nhiều nhất trong những năm qua. Theo đó các tỉnh thành được
chọn là:
+ Trung du và miền núi phía Bắc, chọn 2 tỉnh: Lạng Sơn, Lào Cai;
+ Đồng bằng sông Hồng, chọn 2 tỉnh/thành: Hà Nội và Hải Phòng
+ Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung chọn: Đà Nẵng và Thừa Thiên Huế
+ Tây Nguyên, chọn: Đắ Nông và Lâm Đồng
+ Đông Nam Bộ, chọn: Thành phố Hồ Chí inh và Bình Dương
+ Tây Nam Bộ, chọn: Cần Thơ và Kiên Giang.
- Giai đoạn 2: Chọn các điểm điều tra (các quận, huyện). Điểm điều tra được chọn
ra theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng với 1 địa bàn hu vực nông thôn
và một địa bàn ở hu vực đô thị.
- Giai đoạn : Chọn các phường và xã. Các phường và xã được lựa chọn theo
phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản, mỗi quận chọn ra một phường và mỗi
huyện chọn ra 1 xã.
- Giai đoạn 4: Chọn đơn vị điều tra. Từ các phường và xã được chọn, NCS tiếp tục
sử dụng phương pháp chọn mẫu định mức để xác định các đơn vị điều tra. Với phương
pháp chọn mẫu định mức, NCS phân các cá nhân tại các địa bàn nghiên cứu thành các
nhóm theo lứa tuổi sau đó dùng phương pháp chọn mẫu thuận tiện, mẫu có chủ đích để
chọn các đối tượng để tiến hành điều tra.
Cơ cấu mẫu sẽ phản ánh đúng cơ cấu của tổng thể theo đó bảng cơ cấu mẫu như
sau:
216
ảng 1: Mẫu điều tra đối tượng người n
Phân bổ mẫu điều tra
Số người
Tỷ lệ
V ng inh tế- ã hội
Các địa phương chọn mẫu
1. Trung du miền núi phía bắc Lạng Sơn
13%
2. Đồng bằng sông Hồng
23%
. Bắc Trung Bộ
21%
4. Tây Nguyên
6%
5. Đông Nam Bộ
19%
Lào Cai Hà Nội Hải Phòng Đà Nẵng Thừa Thiên Huế Đă Nông Lâm Đồng TP. Hồ Chí inh Bình Dương
6. Đồng bằng sông Cửu Long Cần Thơ
18%
Kiên Giang
Tổng Đặc điểm mẫu điều tra
1. Giới tính
2. Thành phần dân tộc
3. Địa bàn sinh sống
4. Trình độ học vấn
52 52 92 92 84 84 24 24 76 76 72 72 800 Số người 390 410 726 74 542 258 26 36 226 402 46 69
100% Tỷ lệ 48,8% 51,3% 90,8% 9,3% 67,8% 32,3% 3,3% 4,5% 28,3% 50,3% 5,8% 8,0%
Nam Nữ Kinh Dân tộc thiểu số Nông thôn Đô thị Chưa tốt nghiệp tiểu Học Tốt nghiệp tiểu học Tốt nghiệp trung học cơ sở Tốt nghiệp trung học phổ thông Tốt nghiệp Trung cấp, Cao đẳng Tốt nghiệp đại học, trên đại học Nguồn: Tổng hợp của tác giả (2020)
217
Phụ lục 7
Một số kết quả ph n tích iểm định các nh n tố tác động đến qu ết định lựa
chọn giải quyết vụ án bằng con đường tư pháp hình sự của NNN bị XHTD ở Việt
Nam
1. iểm định chất lượng thang đo ằng hệ số Cron ach Alpha
Dựa trên nền tảng l thuyết, tác giả xác định các nhóm nhân tố chính tác động đến
việc lựa chọn cách giải quyết vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục thông qua con
đường tư pháp hình sự, mỗi nhóm nhân tố sẽ được đo lường bằng các chỉ báo cấp độ
nhỏ hơn. Tác giả iểm định độ tin cậy của các biến quan sát thông qua hệ số Cronbach
Alpha (Bảng 1).
ảng 1: Tổng hợp ết quả ph n tích thang đo ằng hệ số Cron ach Alpha
TT
Nhóm iến
Số iến
Cronbach Alpha 0.890 0.768
8 8
0.794
4
1 ức độ hiểu biết về các quyền và lợi ích hợp pháp 2 ức độ hiểu biết về cách thức tìm kiếm sự đền bù, khắc phục khi các quyền và lợi ích đó bị vi phạm 3 Khả năng chi trả cho các chi phí hi tham gia vào tố
tụng hay các chi phí hác
0.699 0.853
6 29
4 Định iến văn hóa, rào cản về tâm l 5 ức độ tin tưởng vào tính đúng đắn của luật pháp và việc thực thi pháp luật của các cơ quan công quyền
Nguồn: Kết quả xử l số liệu tác giả điều tra xã hội học (2020)
Kết quả iểm định chất lượng thang đo cho thấy các biến quan sát đều có hệ số
tương quan tổng biến phù hợp 0. ; hệ số Cronbach Alpha tại Bảng 1 đều 0. 99
điều đó cho thấy các biến quan sát đều đạt yêu cầu về độ tin cậy.
2. Ph n tích nh n tố hám phá
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. Bartlett's Test of Sphericity
Approx. Chi-Square df Sig.
.891 21914.031 703 .000
ảng 2: iểm định MO à artlett s
Nguồn: Kết quả xử l số liệu tác giả điều tra xã hội học (2020)
Kết quả phân tích nhân tố cho thấy: Hệ số KMO = 0.891 điều này chứng tỏ dữ liệu
dùng để phân tích nhân tố là hoàn toàn thích hợp. Kết quả kiểm định Barlett’s là
21914.031 với mức nghĩa Sig. 0.000 0.05, điều đó cho thấy các biến quan sát
hông có tương quan với nhau trong tổng thể (Bảng 2).
218
Initial Eigenvalues
Extraction Sums of Squared Loadings
Component
Cumulative % Total
Cumulative %
Total
Total
% of Variance
Rotation Sums of Squared Loadings % of Variance
% of Variance
24.008 13.321 9.920 8.571 6.216 4.614
24.008 37.329 47.250 55.820 62.036 66.651
8.210 4.842 4.244 3.644 2.600 1.787
21.605 12.741 11.169 9.590 6.843 4.703
Cumulative % 21.605 34.346 45.515 55.105 61.948 66.651
9.123 5.062 3.770 3.257 2.362 1.753 .963 .878 .771 .740 .694 .647 .624 .582 .555 .503 .494 .430 .409 .377 .355 .346 .326 .304 .285 .273 .255 .245 .237 .214 .204 .189 .172 .154 .139 .114 .105 .090
24.008 13.321 9.920 8.571 6.216 4.614 2.535 2.311 2.028 1.947 1.827 1.703 1.643 1.531 1.461 1.323 1.300 1.130 1.076 .993 .933 .911 .858 .800 .749 .719 .670 .646 .624 .563 .538 .497 .453 .404 .365 .299 .276 .236
24.008 9.123 37.329 5.062 47.250 3.770 55.820 3.257 62.036 2.362 66.651 1.753 69.185 71.497 73.525 75.472 77.299 79.002 80.645 82.176 83.637 84.961 86.260 87.391 88.467 89.460 90.393 91.305 92.162 92.962 93.711 94.430 95.100 95.746 96.370 96.933 97.471 97.967 98.420 98.824 99.189 99.488 99.764 100.000
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38
Extraction Method: Principal Component Analysis.
ảng 3: Tổng phương sai được giải thích (Total Variance Explained)
Nguồn: Kết quả xử l số liệu tác giả điều tra xã hội học (2020)
Kết quả phân tích nhân tố khám phá (EFA) trong Bảng 3 cho thấy có 6 nhóm nhân
tố được trích rút với 38 biến quan sát. Phương sai trích của nhóm này đạt 66.651%, thể
hiện rằng nhân tố được trích rút giải thích được 66.651% sự biến thiên của dữ liệu.
219
Component
2
3
4
5
6
1 .913 .903
.891
.881
.878 .872
.871
.869
.869
.858
.537
.837 .827 .825 .761 .759 .749 .738
.674
.815
.777
.773
.753
.730
.719
.695
.889
.867 .839 .800 .772
.848
.839
.803
.652
.777
Các quy định pháp luật về bảo vệ nạn nhân Các quy định pháp luật về xử l thông tin tố giác Các quy định về hung hình phạt đối với các tội liên quan đến xâm hại tình dục Các quy định liên quan đến tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích hiêu dâm Các quy định pháp luật liên quan đến thủ tục pháp l Các quy định pháp luật về quấy rối tình dục Các quy định pháp luật hác liên quan đến xâm hại tình dục Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định tội Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định hành vi dâm ô Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định thế nào là hiếp dâm Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định thế nào là cư ng dâm Dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi Lợi dụng tình trạng người dưới 1 tuổi A biết được thông tin bí mật nào đó của B Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được A Lợi dụng tình trạng quẫn bách về inh tế của B Sờ, bóp, hôn vào những bộ phận nhạy cảm Dùng v lực, đe dọa dùng v lực để cọ sát Quan hệ tình dục, thự hiện hành vi tình dục hác với vợ, người yêu dưới 1 tuổi Các thủ tục phải làm để nạn nhân bị xâm hại tình dục bảo vệ quyền Các thủ tục nạn nhân bị xâm hại tình dục cần phải tiếp cận Các thủ tục phải làm để nạn nhân bị xâm hại tình dục được cơ quan chức năng đưa đi giám định pháp y Những việc nạn nhân bị xâm hại tình dục phải làm để được hỗ trợ, tư vấn pháp l Các quy định pháp luật liên quan đến xâm hại tình dục Những việc cần phải làm để lưu giữ bằng chứng Các thủ tục phải làm để nạn nhân bị xâm hại tình dục có thể trình báo vụ việc của mình cho cơ quan chức năng Tính nghiêm minh, đúng đắn trong các phán quyết của tòa X t xử đảm bảo tính công bằng Các nạn nhân được đền bù một cách thỏa đáng X t xử đúng pháp luật X t xử thấu tình đạt l Chi phí phải bỏ ra cho việc đi lại, ăn nghỉ để theo đuổi vụ việc Chi phí phi chính thức để vụ việc của mình được quan tâm, x t xử thỏa đáng Chi phí nạn nhân, gia đình nạn nhân bị mất do nghỉ làm để có thời gian theo đuổi vụ việc Chi phí chính thức để thực hiện thủ tục tố tụng Các vụ xâm hại tình dục xảy ra là do nạn nhân thiếu cảnh giác với những kẻ lạ/nguy hiểm Phụ nữ, trẻ em gái hi đã bị xâm hại tình dục
.743
ảng 4: Ma trận nhân tố với phương pháp oa Varima
220
.720
Xâm hại tình dục xảy ra một phần do lỗi của nạn Extraction Method: Principal Component Analysis. Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization. a. Rotation converged in 5 iterations.
Nguồn: Kết quả xử l số liệu tác giả điều tra xã hội học (2020)
Các hệ số tải nhân tố trong Bảng 4 đều lớn hơn 0.5 và hông có trường hợp biến
nào cùng lúc tải lên cả hai nhân tố với hệ số tải gần nhau điều đó cho thấy các nhân tố
đảm bảo được giá trị hội tụ và phân biệt khi phân tích EFA. Ngoài ra không có sự xáo
trộn các nhân tố, nghĩa là câu hỏi của nhân tố này không bị nằm lẫn lộn với câu hỏi của
nhân tố ia. Do vậy, sau hi phân tích nhân tố thì các nhân tố độc lập này được giữ
nguyên, không bị tăng thêm hoặc giảm đi nhân tố.
3. Ph n tích sự tác động của các nhóm nh n tố đến qu ết định lựa chọn giải
qu ết XHTD ằng mô hình hồi qu nhị ph n inar Logistic
Do biến phụ thuộc là biến nhị phân nhận 2 giá trị là: 0 nếu hông lựa chọn giải
quyết vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự và là 1 nếu lựa chọn giải quyết vụ
việc thông qua con đường tư pháp hình sự nên chúng tôi sử dụng mô hình hồi quy nhị
phân để phân tích sự tác động của các nhóm nhân tố đến biến phụ thuộc. Sau hi chạy
thử nhiều mô hình và loại bỏ các biến có mức nghĩa thống ê lớn hơn 0.05 chúng tôi
chọn được mô hình phù hợp nhất đánh giá sự tác động của các nhóm nhân tố đến việc
lựa chọn giải quyết vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự. ức độ dự báo chính
xác của toàn mô hình đạt 84.1%.
ảng 5: iểm định các nh n tố tác động đến lựa chọn giải qu ết ụ iệc thông qua con
B
S.E.
Wald
df
Sig.
Exp(B)
.032
.009
11.995
1
.001
1.033
-.151
.101
2.267
1
.032
.860
-.728 -.710
.765 .206
.905 11.817
1 1
.042 .001
.483 .492
Step 1a
.539
.226
5.695
1
.017
1.714
Tuổi Không tin tưởng sự đúng đắn của pháp luật hình sự Không hiểu biết pháp luật hình sự Định iến văn hóa, tâm l ức độ hiểu biết về thủ tục tố tụng hình sự Tin tưởng vào thực thi pháp luật hình sự Constant
.181 -1.939
.169 1.224
1.136 2.510
1 1
.027 .113
1.198 .144
a. Variable(s) entered on step 1: Tuổi, Không tin tưởng sự đúng đắn của pháp luật, hông hiểu biết pháp luật, Định iến văn ho a và tâm l , mức độ hiểu biết về thủ tục tố tụng, Tin tưởng vào thực thi pháp luật
đường tư pháp hình sự ằng mô hình hồi qu nhị ph n Binary Logistic)
Nguồn: Kết quả xử l số liệu tác giả điều tra xã hội học (2020)
Như vậy mô hình hồi quy tổng quát có dạng:
Ln(odds)= -1.939+ 0.32*X1 -0.151*X2 -0.728*X3 -0.710*X4 +0.0539*X5 +
0.18*X6
221
ảng 6: Vai tr ảnh hưởng của các nhóm nh n tố tác động đến lựa chọn giải qu ết
ụ iệc thông qua con đường tư pháp hình sự
STT
iến
B
EXP(B) ác suất an
Vị trí ảnh hưởng
Tốc độ tăng giảm %
đầu p0=21,5% P1 22.37%
0.87%
6
.032
1.033
X1
1 2
19.06%
2.44%
5
-.151
.860
X2
11.68% 11.87%
9.82% 9.63%
2 3
-.728 -.710
.483 .492
X3 X4
3 4 5
1
.539
1.714
43.53%
22.03%
X5
6
4
.181
1.198
26.9%
5.5%
X6
Tuổi Không tin tưởng sự đúng đắn của pháp luật hình sự Không hiểu biết pháp luật hình sự Định iến văn hóa, tâm l ức độ hiểu biết về thủ tục tố tụng hình sự Tin tưởng vào thực thi pháp luật hình sự
Nguồn: Kết quả xử l số liệu tác giả điều tra xã hội học (2020)
Từ mô hình này chúng ta xác định được vai trò ảnh hưởng của các nhân tố đến lựa
chọn giải quyết vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự của NNN bị XHTD như
sau: mức độ hiểu biết về thủ tục TTHS (X5) có vị trí ảnh hướng cao nhất (nếu nạn nhân hay người thân của nạn nhân bị XHTD có thêm sức độ hiểu biết về thủ tục tố tụng hình
sự thì xác suất lựa chọn con đường tư pháp hình sự để giải quyết vụ án của họ tăng lên
22.03%) và yếu tố tuổi (X1) có vị trí ảnh hưởng thấp nhất (Bảng 6). Vì thế, để gia tăng xác suất lựa chọn giải quyết vụ việc thông qua con đường tư pháp hình sự của của NNN
bị XHTD cần phải năng cao mức độ hiệu biết về PLHS và pháp luật về TTHS.
222
Phụ lục 8
IÊN ẢN PHỎNG VẤN BÁN CẤU TRÚC (Dành cho cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp, cơ quan hành chính)
Kính thưa Ông/Bà! Để có căn cứ khoa học cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp l đảm
bảo quyền tiếp cận công l của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam. Tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Cơ chế pháp lý đảm bảo quyền tiếp cận công lý của nạn nhân
nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam”. Ý iến đóng góp của ông bà sẽ giúp ích cho tôi trong việc hoàn thiện đề tài nghiên cứu của mình. Mong ông (bà) vui lòng trao đổi về những vấn đề cơ bản liên quan đến quyền tiếp cận công l của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục. Thông tin mà ng/Bà cung cấp chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học ngoài ra không sử dụng vào mục đích nào hác. Các thông tin hoàn toàn được lưu giữ
dưới dạng huyết danh.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của ông/bà!
A. MỘT SỐ TH NG TIN CÁ NH N NGƯỜI THAM GIA PHỎNG VẤN A1. Giới tính: 1. Nam 2. Nữ A2. Năm sinh: …………
A3. Trình độ học ấn cao nhất ở thời điểm hiện tại
. Tốt nghiệp đại học hoặc trên đại học
1. Tốt nghiệp THPT 2. Tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng 4. Khác (ghi rõ)..
A4. Thành phần n tộc
1. Kinh 2. Các dân tộc thiểu số hác (ghi rõ)
A5.Tỉnh/thành phố đang sinh sống hiện nay: .........
A . hu ực/địa àn ông/ à đang sinh sống
1. Nông thôn 2. Đô thị
A . Cơ quan, đơn ị nơi ông/ à đang công tác 1. Cơ quan điều tra 2. Viện iểm sát 3. Tòa án các cấp
3. Cơ quan thi hành án 4. Khác
. NHỮNG NHẬN ĐỊNH CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN M HẠI TÌNH
ỤC
1. ng à đánh giá như thế nào ề quan điểm sau: 1. Xâm hại tình dục xảy ra một phần do lỗi của nạn nhân (ăn mặc quá hở hang, hông iên quyết chống lại hành vi xâm hại; tin theo lời dụ dỗ, nạn nhân hơi dậy sự
ham muốn ở hung thủ).
2. Phụ nữ, trẻ em gái hi đã bị xâm hại tình dục hông còn trinh tiết thì đã mất đi
“giá trị”, hó có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc.
223
. Việc công bố công hai vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục chỉ làm nạn
nhân tổn thương thêm.
4. Tố giác với các cơ quan chức năng về việc người thân trong gia đình như (ông,
cha, anh chị em) có hành vi xâm hại, lạm dụng tình dục đối với mình hay với người
hác sẽ làm ảnh hưởng đến thanh danh, hạnh phúc của gia đình.
5. Nạn nhân bị xâm hại tình dục hi ể lại câu chuyện của mình phải thể hiện sự sợ
hãi, bất lực hoặc phải có những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ.
. Những người ể lại việc bị xâm hại tình dục một cách bình tĩnh, mạch lạc, rõ
ràng thì hông đáng tin cậy.
7. Khi đã ết hôn thì phải luôn sẵn sàng quan hệ tình dục với người bạn đời của
mình.
2. Một số nạn nh n hi ị m hại tình ục thường lựa chọn giữ í mật
nhằm ảo ệ thanh anh gia đình, hạnh phúc ề sau cho ản th n, ông/ à đánh giá như thế nào ề sự lựa chọn nà
3 Theo ông/ à nạn nh n có nên tìm cách thương lượng, h a giải ới ẻ
phạm tội để được đền thỏa đáng à để giữ ín iệc nà nhằm đảm ảo hạnh phúc, ên ổn à chấm ứt nỗi đau một cách nhanh chóng
B4. Theo ông/ à nạn nh n ị m hại tình ục nên làm gì để giải qu ết ụ
iệc
C. ĐÁNH GIÁ VỀ HUNG PHÁP LÝ ĐẢM ẢO QUYỀN TIẾP CẬN
C NG LÝ CỦA NẠN NH N Ị M HẠI TÌNH ỤC
C1. ng à đánh giá như thế nào ề mức độ hoàn thiện của các qu định
pháp luật liên quan đến m hại tình ục trước hi Nghị qu ết số 06/2019/NQ-
HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng th m phán T a án nh n n tối cao được
an hành?
1. Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định thế nào là hiếp dâm.
2. Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định thế nào là cư ng dâm.
. Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định tội giao cấu hoặc thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 1 đến dưới 16 tuổi.
4. Các quy định pháp luật liên quan đến việc xác định hành vi dâm ô. 5. Các quy định về hung hình phạt đối với các tội liên quan đến xâm hại tình dục. . Các quy định liên quan đến tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích hiêu
dâm.
7. Các quy định pháp luật về quấy rối tình dục. 8. Các quy định pháp luật về xử l thông tin tố giác, tin báo tội pham liên quan đến
xâm hại tình dục.
224
9. Các quy định pháp luật liên quan đến thủ tục pháp l trong giải quyết vụ án xâm
hại tình dục.
10. Các quy định pháp luật về bảo vệ nạn nhân trong quá trình thu thập chứng cứ
liên quan đến vụ xâm hại tình dục.
11. Các quy định pháp luật liên quan đến sự vận hành của bộ máy (tổ chức) thực
hiện pháp luật đảm bảo quyền tiếp cận công l cho nạn nhân bị xâm hại tình dục.
12. Các quy định pháp luật hác liên quan đến xâm hại tình dục.
. ĐÁNH GIÁ VỀ THIẾT CHẾ TỔ CHỨC Ộ MÁY ĐẢM ẢO QUYỀN
TIẾP CẬN C NG LÝ CHO NẠN NH N NỮ Ị M HẠI TÌNH ỤC
Hiện tại các thiết chế đảm bảo quyền của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở nước
ta bao gồm: (1) Các thiết chế tư pháp như: t a án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án; (2) Các thiết chế giám sát (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân); (3) Các thiết chế hỗ trợ và trợ giúp pháp
lý.
D1. ng à đánh giá như thế nào ề các thiết chế trong iệc đảm ảo qu ền
của nạn nh n nữ ị m hại tình ục của nước ta hiện na
1. Đánh giá về tổ chức bộ máy liên quan đến đảm bảo quyền của nạn nhân nữ bị
xâm hại tình dục.
2. Đánh giá về vị trí, chức năng của các cơ quan trong bộ máy đảm bảo quyền của
nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục.
. Đánh giá về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy đảm bảo quyền
của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục.
4. Đánh giá về cơ chế vận hành các thiết chế đảm bảo quyền của nạn nhân nữ bị
xâm hại tình dục.
5. Đánh giá về sự phối hợp hoạt động của các cơ quan trong bộ máy đảm bảo
quyền tiếp cận công l của nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục.
D2. Ông/ à đánh giá như thế nào ề tính hiệu quả trong hoạt động ảo ệ
qu ền à lợi ích hợp pháp của nạn nh n nữ ị m hại tình ục của các cơ quan, tổ chức sau đ
1. Tính hiệu quả trong hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp. 2. Tính hiệu quả trong hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân các cấp. . Tính hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan điều tra. 4. Tính hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan thi hành án.
5. Tính hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan quản l nhà nước có chức năng
bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em.
. Tính hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan tư vấn trợ giúp pháp l
225
7. Tính hiệu quả trong hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
8. Tính hiệu quả trong hoạt động của ặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
3. ng à đánh giá như thế nào ề hoạt động phối hợp giữa các thiết chế
sau trong ảo đảm qu ền tiếp cận công lý của nạn nh n nữ ị m hại tình ục
1. Sự phối hợp trong hệ thống Tòa án các cấp với nhau.
2. Sự phối hợp trong hệ thống Viện iểm sát với nhau. 3. Sự phối hợp trong hệ thống cơ quan điều tra với nhau.
3. Sự phối hợp giữa Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra và cơ quan thi hành
án.
4. Sự phối hợp trong hệ thống các cơ quan quản l nhà nước có chức năng bảo vệ
quyền của phụ nữ, trẻ em.
5. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản l nhà nước có chức năng bảo vệ quyền của
phụ nữ, trẻ em với các cơ quan tư pháp.
6. Sự phối hợp giữa cơ quan tư pháp với Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp.
D4. Ông/ à đánh giá như thế nào ề hoạt động t các ụ án liên quan đến
m hại tình ục của hệ thống t a án tại địa phương
1. X t xử đúng pháp luật.
2. X t xử thấu tình đạt l .
. X t xử đảm bảo tính công bằng.
4. Các nạn nhân được đền bù một cách thỏa đáng những thiệt hại mà họ phải gánh
chịu đựng.
5. Tính nghiêm minh, đúng đắn trong các phán quyết của tòa.
D5. Ông/ à đánh giá như thế nào ề các chi phí chính thức à chi phí phi
chính thức mà các nạn nh n nữ ị m hại tình ục phải ỏ ra để ụ iệc của mình
được t ởi t a án
1. Chi phí chính thức để thực hiện thủ tục tố tụng.
2. Chi phí phi chính thức để vụ việc của mình được quan tâm, x t xử thỏa đáng.
3. Chi phí phải bỏ ra cho việc đi lại, ăn nghỉ để theo đuổi vụ việc. 4. Chi phí nạn nhân, gia đình nạn nhân bị mất do nghỉ làm để có thời gian theo
đuổi vụ việc.
D6. ng/ à đánh giá như thế nào ề thủ tục và thời gian giải quyết ụ iệc
liên quan đến m hại tình ục của các thiết chế tư pháp chính thức (Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nh n n, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án ?
1. Tính đơn giản dễ thực hiện của thủ tục 2. Tính rõ ràng của thủ tục
226
3. Sự phù hợp về thời gian giải quyết thủ tục của từng công đoạn (tiếp nhận và giải
quyết tin tố giác tội phạm; khởi tố; điều tra; truy tố; xét xử; thi hành án)
. ng/ à đánh giá như thế nào ề thời gian thực thi các phán qu ết của t a
trong giải qu ết ụ án liên quan đến m hại tình ục
E. ĐÁNH GIÁ VỀ NGUỒN LỰC ĐẢM ẢO QUYỀN TIẾP CẬN C NG
LÝ CHO NẠN NH N NỮ Ị M HẠI TÌNH ỤC
E1. Ông/ à đánh giá như thế nào ề số lượng à cơ cấu của đội ng cán ộ tại
các ộ phận có chức năng nhiệm ụ đảm ảo qu ền cho nạn nh n nữ ị m hại tình ục tại cơ quan đơn ị nơi ông à đang công tác
1. Số lượng cán bộ, công chức viên chức.
2. Cơ cấu về độ tuổi của đội ng cán bộ, công chức, viên chức. . Cơ cấu về giới tính của đội ng cán bộ, công chức, viên chức.
4. Cơ cấu về trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ của đội ng cán bộ, công
chức, viên chức.
5. Cơ cấu về thành phần dân tộc của đội ng cán bộ công chức, viên chức.
E2. Ông/ à cho iến đánh giá ề năng lực thực thi nhiệm ụ của đội ng cán ộ,
công chức làm nhiệm ụ thực hiện pháp luật ảo ệ nạn nh n nữ ị m hại tình ục
tại cơ quan đơn ị nơi ông à công tác trên các hía cạnh sau 1. Khả năng hiểu biết, nắm rõ các quy định pháp luật.
2. Khả năng áp dụng các quy định pháp luật vào giải quyết vụ việc cụ thể.
. Năng lực thực hiện các ỹ năng, nghiệp vụ của ngành.
4. Khả năng nắm bắt diễn biến tâm l , cảm xúc của nạn nhân và người phạm tội.
5. Sự nhiệt tình, trách nhiệm với công việc.
. Sự trung thực, đúng đắn trong thực hiện nhiệm vụ.
E3. Ông/ à đánh giá như thế nào ề các nhận định sau đ 1. Các cán bộ tiếp nhận, giải quyết vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục thường
ứng xử thiếu sự đồng cảm với nạn nhân.
2. Các cán bộ tiếp nhận, giải quyết vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục thường không nhạy cảm với những trải nghiệm, sang chấn tâm lý mà nạn nhân bị xâm hại tình dục phải chịu đựng.
. Khi tiếp nhận, xử l vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục, còn hiện tượng đùn
đẩy trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ của các cơ quan công quyền.
4. Còn hiện tượng n tránh, đùn đẩy án giữa các cơ quan và cấp xét xử.
E4. Ông/ à cho iến đánh giá ề các hóa, đào tạo tập huấn n ng cao năng lực thực thi nhiệm ụ cho những người thực hiện bảo đảm qu ền tiếp cận công lý
của nạn nh n nữ ị m hại tình ục mà ông/ à đã tham gia?
227
1. Cập nhập, iến thức, văn bản pháp luật.
2. Đào tạo, tập huấn các, iến thức, ỹ năng chuyên môn. . Đào tạo ỹ năng, hiểu biết nắm bắt tâm l nạn nhân và người phạm tội.
4. Đào tạo iến thức ỹ năng giao tiếp, tiếp xúc với nạn nhân, người phạm tội.
5. Đào tạo hác (ghi rõ).
E5. Ông/ à đánh giá như thế nào ề nguồn lực ật chất phục ụ cho iệc thực
thi nhiệm ụ của các đơn ị có chức năng bảo đảm quyền tiếp cận công lý của nạn
nh n nữ ị m hại tình ục
1. Kinh phí cho thực thi nhiệm vụ chuyên môn.
2. Cơ sở vật chất (trụ sở làm việc).
. Trang thiết bị phục vụ cho việc thực thi nhiệm vụ chuyên môn.
Trận trọng cảm ơn qu ng/ à!
228
Phụ lục 9
DANH SÁCH CÁN BỘ TRẢ LỜI PHỎNG VẤN BÁN CẤU TRÚC
STT ĐƠN VỊ CÔNG TÁC
Kiểm sát viên VKSND huyện Phú Tân, Cà Mau Kiểm sát viên trung cấp VKSND thành phố Cần Thơ Cán bộ Sở LĐTBXH tỉnh Kiên Giang Thẩm phán TAND TP Rạch Giá, Kiên Giang Thẩm phán trung cấp TAND tỉnh Cà Mau Cán bộ cơ quan điều tra hình sự Cần Thơ Thẩm phán trung cấp TAND tỉnh Hải Dương 1 2 3 4 5 6 7 THỜI GIAN PHỎNG VẤN 7/03/2019 21/4/2019 4/5/2019 6/7/2019 20/9/2019 12/11/2019 05/01/2020
229
Phụ lục 10
1. Lý thuyết tiếp cận dựa trên quyền con người Lý thuyết tiếp cận dựa trên quyền con người lấy các tiêu chuẩn về quyền con
người làm cơ sở để xác định kết quả mong đợi và lấy các nguyên tắc về quyền con
người làm điều kiện, khuôn khổ cho quá trình đạt được kết quả đó.
Sử dụng các tiêu chuẩn và nguyên tắc về quyền con người làm cơ sở và mục tiêu
cho hoạt động là đích mà cách tiếp cận dựa trên quyền con người hướng tới. Khác với
cách tiếp cận khác, tiếp cận dựa trên quyền con người không chỉ quan tâm tới việc đạt
được mục tiêu mà còn quan tâm thích đáng tới quy trình, cách thức được lựa chọn để đạt
được những mục tiêu đó với mục đích hỗ trợ người dân tham gia tích cực vào phát triển, chứ không phải chỉ là người hưởng lợi thụ động từ các chính sách của nhà nước. Tiếp
cận dựa trên quyền con người có nội dung cơ bản sau:
- Sử dụng những tiêu chuẩn và nguyên tắc cơ bản về quyền con người làm tiêu chí
hướng dẫn quá trình hoạch định và thực thi chính sách c ng như các chương trình và dự
án phát triển. Bởi lẽ, các tiêu chuẩn và nguyên tắc về quyền con người phản ánh những giá trị chung nhất được thừa nhận trong các điều ước quốc tế cơ bản về quyền con
người. Do đó, các tiêu chuẩn và nguyên tắc về quyền con người sẽ là cơ sở pháp lý cho
việc xây dựng các mục tiêu phát triển, c ng như cho hoạt động để đạt được các mục tiêu
đó.
- Làm rõ mối quan hệ tương ứng giữa chủ thể của quyền và chủ thể có nghĩa vụ
thực hiện quyền. Về nguyên tắc, nhà nước có nghĩa vụ chính trong việc đảm bảo quyền
con người cho tất cả mọi người. Tuy nhiên trên thực tế, vì nhiều lý do khác nhau, vẫn có
những quyền của cá nhân hay nhóm xã hội nào đó chưa thể được thực hiện. Do đó, tiếp
cận dựa trên quyền nhấn mạnh đến việc xác định các quan hệ quyền và trách nhiệm giữa
các chủ thể, xác định vai trò của các cá nhân, nhóm xã hội trong việc đòi hỏi được đáp
ứng các quyền của họ; đồng thời nhấn mạnh vai trò của bên có trách nhiệm trong việc
thực hiện các quyền của cá nhân, nhóm xã hội một cách công khai, minh bạch mà không có sự phân biệt đối xử...
- Phân tích và đánh giá năng lực của chủ thể quyền và chủ thể có nghĩa vụ thực hiện quyền. Đối với chủ thể quyền, các năng lực quan trọng nhất gồm: năng lực nhận thức, năng lực hành vi và năng lực về vị thế xã hội, nếu thiếu một trong các năng lực trên sẽ là trở ngại để họ thực hiện các quyền của mình. Đối với chủ thể có nghĩa vụ thực
hiện quyền, các năng lực quan trọng nhất gồm: năng lực nhận thức, năng lực tổ chức, năng lực con người (lãnh đạo, quản lý, công chức, nhân viên), năng lực về tài chính... Phân tích, đánh giá năng lực của các chủ thể là khâu quan trọng then chốt để xác định
230
năng lực nào mà chủ thể quyền đang thiếu hụt; năng lực nào mà chủ thể có nghĩa vụ
thực hiện quyền đang thiếu hụt, từ đó xây dựng các chiến lược hành động cụ thể, đề xuất các biện pháp sửa đổi, bổ sung hoàn thiện sự thiếu hụt đó để hỗ trợ họ hoàn thành tốt
quyền và nghĩa vụ của mình.
- Chú quan tâm đến nhóm dễ bị tổn thương, đặc biệt nhóm người bị thiệt thòi
nhất và bị loại ra khỏi quá trình phát triển. Mục tiêu của phương pháp tiếp cận dựa trên quyền là bảo đảm các quyền nhiều hơn cho mọi người. Đó c ng là yêu cầu của tiến bộ
và công bằng xã hội. Vì vậy, lẽ tự nhiên nó phải hướng đến nhóm người dễ bị tổn
thương và bị thiệt thòi nhiều nhất trong đời sống xã hội, như người nghèo, phụ nữ, trẻ
em, người khuyết tật, người nhiễm HIV/AIDS, v.v.. Do vậy, trách nhiệm của các nhà
hoạch định chính sách phải “làm hết sức mình để đảm bảo các quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa cho những người bị thiệt thòi nhất và đảm bảo sự tham gia của họ trong quá
trình ra quyết định” [201].
2. Lý thuyết kỳ thị xã hội và lý thuyết rào cản tâm lý L thuyết ỳ thị xã hội (Stigma theory) của rving Goffman đã cho thấy rằng:
“các cá nhân với sự ỳ thị hay bị ỳ thị bởi các quy chuẩn, chuẩn mực chung sẽ hông hành động giống người bình thường. Sự ỳ thị, phân biệt đối xử sẽ hạn chế cơ hội sống
của người bị ỳ thị bởi những người này sẽ tự ti do lỗi sợ hãi vì mình hác biệt so với số
đông, hay rơi vào tình trạng bị thù hận” [238, tr. 133]. Cùng quan điểm với E. Goffman,
l thuyết rào cản tâm l của Gerhard Falk chỉ ra rằng “chúng ta và tất cả các xã hội sẽ
luôn kỳ thị một số điều kiện và một số hành vi bởi vì làm như vậy tạo ra sự đoàn ết của
nhóm bằng cách phân định người ngoài cuộc với người trong cuộc” [267].
Các lý thuyết này là những chỉ dẫn về mặt lý luận nhằm l giải sự tác động của yếu tố tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội (yếu tố văn hoá) tác động đến việc thực hiện pháp luật, c ng như tính hiệu quả trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức.
231
Phụ lục 11 SO SÁNH VÀ ĐỐI CHIẾU LHS N M 1999 SỬA ĐỔI N M 2 9 VÀ LHS N M 2 15 SỬA ĐỔI N M 2 1
STT
LHS 1999 SĐ 2 9
LHS 2 15 SĐ 2 1
Điều 111. Tội hiếp m 1. Người nào dùng v lực, đe dọa dùng v lực hoặc lợi dụng tình trạng hông thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn hác giao cấu với nạn nhân trái với muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
Điều 141. Tội hiếp m 1. Người nào dùng v lực, đe dọa dùng v lực hoặc lợi dụng tình trạng hông thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn hác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác trái với muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức; b) Đối với người mà người phạm tội có trách
a) Có tổ chức; b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo
dục, chữa bệnh;
Tội hiếp m
nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; c) Nhiều người hiếp một người; d) Phạm tội nhiều lần; đ) Đối với nhiều người; e) Có tính chất loạn luân; g) Làm nạn nhân có thai; h) Gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà tỷ
c) Nhiều người hiếp một người; d) Phạm tội 02 lần trở lên; đ) Đối với 02 người trở lên; e) Có tính chất loạn luân; g) Làm nạn nhân có thai; h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức hỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 1% đến 0%;
i) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
lệ thương tật từ 1% đến 0%; i) Tái phạm nguy hiểm. . Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân4:
a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức hỏe hoặc gây rối loạn tâm
a) Gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà tỷ
thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 1 % trở lên;
lệ thương tật từ 1% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm H V mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 4. Phạm tội đối với người từ đủ 1 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt
tù từ 05 năm đến 10 năm.
b) Biết mình bị nhiễm H V mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 4. Phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 1 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ năm năm
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại hoản 2 hoặc
232
đến mười năm.
hoản Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các hoản đó.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại hoản 2 hoặc hoản Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các hoản đó.
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Điều 142. Tội hiếp m người ưới 1 tuổi 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù
từ 07 năm đến 15 năm:
Điều 112. Tội hiếp m trẻ em 1. Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 1 tuổi đến dưới 1 tuổi, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:
a) Dùng v lực, đe dọa dùng v lực hoặc lợi dụng tình trạng hông thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn hác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với người từ đủ 1 tuổi đến dưới 1 tuổi trái với muốn của họ;
b) Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với người
a) Có tính chất loạn luân; b) Làm nạn nhân có thai; c) Gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà tỷ
dưới 1 tuổi.
lệ thương tật từ 1% đến 0%;
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
d) Đối với người mà người phạm tội có trách
từ 12 năm đến 20 năm:
Tội hiếp m trẻ em
nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; đ) Tái phạm nguy hiểm. . Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Có tính chất loạn luân; b) Làm nạn nhân có thai; c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức hỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 1% đến 0%; d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo
dục, chữa bệnh;
a) Có tổ chức; b) Nhiều người hiếp một người; c) Phạm tội nhiều lần; d) Đối với nhiều người; đ) Gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà tỷ
đ) Phạm tội 02 lần trở lên; e) Đối với 02 người trở lên; g) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
lệ thương tật từ 1%trở lên;
20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
e) Biết mình bị nhiễm H V mà vẫn phạm tội; g) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 4. ọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 1 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội
a) Có tổ chức; b) Nhiều người hiếp một người; c) Đối với người dưới 10 tuổi; d) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức hỏe hoặc gây rối loạn tâm
233
thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 1% trở lên;
bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
đ) Biết mình bị nhiễm H V mà vẫn phạm tội; e) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Điều 113. Tội cưỡng m 1. Người nào dùng mọi thủ đoạn hiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cư ng giao cấu, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
Điều 143. Tội cưỡng m 1. Người nào dùng mọi thủ đoạn hiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cư ng giao cấu hoặc miễn cư ng thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ 0 năm đến 10 năm:
đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm: a) Nhiều người cư ng dâm một người; b) Cư ng dâm nhiều lần; c) Cư ng dâm nhiều người; d) Có tính chất loạn luân; đ) Làm nạn nhân có thai; e) Gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà tỷ
a) Nhiều người cư ng dâm một người; b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) Đối với 02 người trở lên; d) Có tính chất loạn luân; đ) Làm nạn nhân có thai; e) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức hỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 1 % đến 60%;
Tội cưỡng dâm
lệ thương tật từ 1% đến 0%; g) Tái phạm nguy hiểm. . Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười tám năm:
g) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
a) Gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà tỷ
từ 10 năm đến 18 năm:
lệ thương tật từ 1% trở lên;
a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức hỏe hoặc gây rối loạn tâm
thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 1% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm H V mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 4. Cư ng dâm người từ đủ 1 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ
b) Biết mình bị nhiễm H V mà vẫn phạm tội; c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 4. Cư ng dâm người chưa thành niên từ đủ 1 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
02 năm đến 07 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại hoản 2 hoặc hoản Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các hoản đó.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại hoản 2 hoặc hoản Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các hoản đó.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
234
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Điều 114. Tội cưỡng m trẻ em 1. Người nào cư ng dâm trẻ em từ đủ 1 tuổi đến
dưới 1 tuổi, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
Điều 144. Tội cưỡng m người từ đủ 13 tuổi đến ưới 1 tuổi 1. Người nào dùng mọi thủ đoạn hiến người từ đủ 1 tuổi đến dưới 1 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cư ng giao cấu hoặc miễn cư ng thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tính chất loạn luân; b) Làm nạn nhân có thai; c) Gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà tỷ
a) Có tính chất loạn luân; b) Làm nạn nhân có thai; c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức hỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 1% đến 60%;
lệ thương tật từ 1% đến 0%; d) Tái phạm nguy hiểm. . Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
Tội cưỡng m trẻ em
d) Phạm tội 02 lần trở lên; đ) Đối với 02 người trở lên; e) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
a) Nhiều người cư ng dâm một người; b) Phạm tội nhiều lần; c) Đối với nhiều người; d) Gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà tỷ
từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
lệ thương tật từ 1% trở lên;
a) Nhiều người cư ng dâm một người; b) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức hỏe hoặc gây rối loạn tâm
thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 1% trở lên;
đ) Biết mình bị nhiễm H V mà vẫn phạm tội;. e) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
c) Biết mình bị nhiễm H V mà vẫn phạm tội; d) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Điều 145. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành i quan hệ tình ục
hác ới người từ đủ 13 tuổi đến ưới 1 tuổi
Điều 115. Tội giao cấu ới trẻ em 1. Người nào đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 1 tuổi đến dưới 1 tuổi, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
Tội giao cấu ới trẻ em
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục hác với người từ đủ 1 tuổi đến dưới 1 tuổi, nếu hông thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
a) Phạm tội nhiều lần;
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
235
từ 0 năm đến 10 năm:
b) Đối với nhiều người; c) Có tính chất loạn luân; d) Làm nạn nhân có thai; đ) Gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà tỷ
lệ thương tật từ 1% đến 0%.
. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
a) Phạm tội 02 lần trở lên; b) Đối với 02 người trở lên; c) Có tính chất loạn luân; d) Làm nạn nhân có thai; đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà
đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 1% đến 0%;
a) Gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà tỷ
e) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo
lệ thương tật từ 1% trở lên;
dục, chữa bệnh.
b) Biết mình bị nhiễm H V mà vẫn phạm tội.
. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ 07 năm đến 15 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức hỏe của nạn nhân mà
tỷ lệ tổn thương cơ thể 1% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm H V mà vẫn phạm tội. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Điều 11 . Tội m ô đối ới trẻ em 1. Người nào đã thành niên mà có hành vi dâm ô
đối với trẻ em, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
Điều 14 . Tội m ô đối ới người ưới 1 tuổi 1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 1 tuổi hông nhằm mục đích giao cấu hoặc hông nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục hác, thì bị phạt tù từ 0 tháng đến 0 năm.
đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm:
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ 0 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội nhiều lần; b) Đối với nhiều trẻ em; c) Đối với trẻ em mà người phạm tội có trách
nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
Tội m ô đối ới trẻ em
a) Phạm tội có tổ chức; b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) Đối với 02 người trở lên; d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo
dục, chữa bệnh;
đ) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 1% đến 0%;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng; đ) Tái phạm nguy hiểm. . Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười hai năm.
e) Tái phạm nguy hiểm. . Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ 07 năm đến 12 năm:
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ
236
tổn thương cơ thể 1% trở lên; b) Làm nạn nhân tự sát. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Điều 14 . Tội s ụng người ưới 1 tuổi ào mục đích hiêu
dâm
1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà lôi o, dụ dỗ, p buộc người dưới 1 tuổi trình diễn hiêu dâm hoặc trực tiếp chứng iến việc trình diễn hiêu dâm dưới mọi hình thức, thì bị phạt tù từ 0 tháng đến 0 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ 0 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội có tổ chức; b) Phạm tội 02 lần trở lên; c) Đối với 02 người trở lên; d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo
dục, chữa bệnh;
đ) Có mục đích thương mại; e) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn
Tội s ụng người ưới 1 tuổi ào mục đích hiêu dâm
thương cơ thể từ 1% đến 0%;
g) Tái phạm nguy hiểm. . Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ 07 năm đến 12 năm:
a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 1% trở lên;
b) Làm nạn nhân tự sát. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Nguồn: Tổng hợp của NCS cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật (2020)