VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ KIM OANH
GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ VỚI NHẬP CƯ Ở
LIÊN MINH CHÂU ÂU
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÂU ÂU HỌC
Hà Nội, năm 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ KIM OANH
GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ VỚI NHẬP CƯ Ở
LIÊN MINH CHÂU ÂU
Chuyên ngành: Châu Âu học
Người hướng dẫn khoa học
TS. ĐINH MẠNH TUẤN
Hà Nội, năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự
của cá nhân tôi, những kết luận khoa học của luận án chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, nội dung trình bày
trong luận văn này là hoàn toàn hợp lệ và đảm bảo tuân thủ các quy định
về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Tôi xin chịu trách nhiệm về Luận văn nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn
Lê Thị Kim Oanh
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự nỗ
lực của bản thân, em đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy
đồng nghiệp và gia đình. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc em xin bày tỏ lời
cảm ơn chân thành tới:
Trước tiên, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS Đinh Mạnh Tuấn người
hướng dẫn khoa học của em. Thầy đã hết lòng hướng dẫn về chuyên môn cũng
như động viên, khuyến khích và giúp đỡ em trong suốt thời gian làm và hoàn
thành luận văn tốt nghiệp này.
Em xin cảm ơn Ban lãnh đạo và các thầy, cô trong khoa Khoa học Quốc tế
học, Chuyên ngành Châu Âu học, Học viện Khoa học xã hội. Trong quá trình học
tập, em đã nhận được sự giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi, của rất nhiều thầy,
cô trong khoa.
Cuối cùng xin dành những lời cảm ơn chân thành nhất tới Lãnh đạo viện,
bạn bè đồng nghiệp trong Viện Nghiên cứu Châu Âu, cũng như gia đình em.
Những người luôn tạo điều kiện, giúp đỡ và động viên để em có động lực hoàn
thành luận văn của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn
MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................. 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .................................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................. 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 6 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ....................................................... 7 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ............................................................................... 7 7. Kết cấu của luận văn .......................................................................................... 8 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHẬP CƯ Ở LIÊN MINH CHÂU ÂU .... 9 1.1. Khái niệm về nhập cư ................................................................................... 9 1.2. Các hình thức nhập cư ................................................................................. 9 1.3. Sơ lược quá trình phát triển chính sách nhập cư của EU ....................... 10 1.4. Nguyên nhân của nhập cư ở Liên minh Châu Âu ................................... 16 1.5. Tác động của nhập cư đến EU ................................................................... 23 Tiểu kết chương 1 ............................................................................................... 29 Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ VỚI NHẬP CƯ Ở LIÊN MINH CHÂU ÂU .................................................................................... 30 2.1. Tình hình nhập cư ở Liên minh Châu Âu ................................................ 30 2.2. Giải pháp ứng phó với nhập cư của Liên minh châu Âu ........................ 35 2.2.1. Các giải pháp ngắn hạn: ........................................................................... 36 2.2.2. Các giải pháp trung hạn ............................................................................ 41 2. 2.3. Các giải pháp dài hạn ............................................................................... 52 2.3. Một số thành công và hạn chế của các giải pháp ứng phó với nhập cư ở Liên minh Châu Âu……………. ...................................................................... 57 2.3.1. Thành công................................................................................................. 57 2.3.2. Hạn chế ..................................................................................................... 58 Tiểu kết chương 2 ................................................................................................ 63 Chương 3: DỰ BÁO TÌNH HÌNH NHẬP CƯ Ở LIÊN MINH CHÂU Â….64 3.1. Bối cảnh châu Âu hiện nay......................................................................... 64 3.2. Dự báo tình hình nhập cư ở Liên minh Châu Âu .................................... 69 3.3. Một số kinh nghiệm cho ASEAN ............................................................... 73 Tiểu kết chương 3 ................................................................................................ 78 Kết luận ................................................................................................................ 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... PHỤ LỤC .................................................................................................................
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
ASEAN
Association of Southeast Asian
Hiệp hội các quốc gia Đông
Nations
Nam Á
CEAS
Common European Asylum System Hệ thống tị nạn chung châu
Âu
EASO
European Asylum Support Office
Văn phòng Hỗ trợ tị nạn
châu Âu
EBCG
European Border and Coast Guard
Cơ quan châu Âu về bảo vệ
biên giới và bờ biển
EC
European Commission
Ủy ban châu Âu
EU
European Union
Liên minh châu Âu
EUTF
Emergency Trust Fund for Africa
Quỹ ủy thác châu Phi
EUROSTAT Statistical office of the
Cơ quan thống kê EU
EUROPOL European Police Office
Cảnh sát Châu Âu
EUROJUST EU agency dealing with judicial
Đơn vị Hợp tác tư pháp EU
cooperation in criminal matters
EUROSUR European Border Surveillance System Hệ thống giám sát biên giới
FRONTEX Agency EU border control
Cơ quan Kiểm soát biên giới
EU
ERF
European Refugee Fund
Quỹ tị nạn Châu Âu
IOM
International Organization for
Tổ chức Di cư quốc tế
Migration
JHA
Justice and Home Affairs
Hội đồng Tư pháp và Nội vụ
UNHCR
United Nations High Commissioner
Cao ủy Liên Hợp Quốc về
for Refugees
người tị nạn
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Hình 2.1: Số lượng người di cư từ Syria đến các nước Châu Âu và láng giềng…33
Hình 2.2: Những tuyến đường chính của người di cư tới EU……………............35
Hình 2.3: Kế hoạch phân bổ hạn ngạch người tị nạn..............................................46
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Liên minh Châu Âu có nguồn gốc từ Cộng đồng Than Thép châu Âu từ 6 quốc
gia thành viên ban đầu vào năm 1951. Từ đó cho đến nay, Liên minh Châu Âu đã
lớn mạnh hơn về số lượng cũng như chất lượng thông qua việc tăng cường thẩm
quyền của Liên minh Châu Âu. Vấn đề nhập cư đã trở thành vấn đề của toàn khu
vực buộc các nước EU phải giải quyết ở cả hai cấp độ: liên minh và quốc gia. EU
đã thông qua nhiều hiệp ước quan trọng như hiệp ước Schengen, hiệp ước
Maastricht, hiệp ước Amsterdam, hiệp ước Lisbon… EU vẫn chưa đề ra được một
chính sách nhập cư chung do các nước thành viên vẫn còn nhiều bất đồng về lợi
ích và mục tiêu của chính sách này. Mặc dù tồn tại quan điểm cho rằng, chính
sách nhập cư của EU chưa thực sự thành công, song ở chừng mực nhất định,
chính sách này hiện vẫn đang thúc đẩy một cách khá tích cực sự luân chuyển lao
động trong nội khối; đang góp phần quan trọng vào việc ngăn chặn một cách hiệu
quả dòng nhập cư bất hợp pháp đổ vào EU. Nhập cư là một vấn đề nóng tại các
nước EU, nhất là gần đây tình hình bất ổn ở một số nước Trung Đông và Bắc Phi
như Libi, Tuynidi, … đã gia tăng áp lực nhập cư lên các nước thành viên của EU.
Theo thông báo của Cơ quan giám sát biên giới Liên minh châu Âu
(FRONTEX), số người di cư trái phép vào EU trong 10 tháng đầu năm 2015 là
1,2 triệu người - con số kỷ lục trong lịch sử EU và có 2.887 người chết trên biển
Địa Trung Hải. Họ đến từ những quốc gia đang phải chịu xung đột như Syria,
Afghanistan hay Libya hoặc từ những quốc gia nghèo đói. Để đến được “miền đất
hứa” châu Âu, theo đường biển qua Địa Trung Hải hoặc bằng tuyến đường
Balkan qua Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp. Sự bất đồng quan điểm giữa các nước Tây
Âu với Trung và Đông Âu ngày càng sâu sắc. Trong khi các nước như Đức, Pháp,
Thụy Điển,… sẵn sàng tiếp nhận người tị nạn thì các nước Đông Âu mà điển hình
là Hungary lại kiên quyết phản đối. Những hàng rào thép gai dựng lên để ngăn
cản người tị nạn cũng trở thành những bức tường ngăn cách các quốc gia trong
1
khu vực, đe dọa sự tồn tại của Hiệp ước Schengen mà 26 quốc gia thành viên đã
kí kết. Kế hoạch phân bổ 120.000 người nhập cư theo hạn ngạch cũng lâm vào bế
tắc do sự thiếu đồng thuận giữa các quốc gia. Hungary chỉ trích hệ thống phân bổ
hạn ngạch này sẽ khuyến khích sự gia tăng di cư tới châu Âu.
Trên thực tế, để giải quyết dứt điểm cuộc khủng hoảng di cư hiện nay thì việc
ổn định tình hình nội bộ của các quốc gia thuộc khu vực Trung Đông và Bắc Phi
(đặc biệt là những quốc gia chịu những tác động từ nội chiến và phong trào Mùa
xuân Arab như Iraq, Syria, Libya, Yemen hay Ai Cập). Mặc dù đã có nhiều nỗ lực
đến từ các quốc gia đơn lẻ và cả các hành động phối hợp nhưng cho đến nay các
quốc gia trên thế giới vẫn chưa tìm được một giải căn bản và có tính tổng thể cho
vấn đề người nhập cư. Kế hoạch phân chia hạn ngạch người tị nạn giữa các quốc
gia thành viên dựa trên tiêu chí khách quan và định lượng cũng chưa thực sự được
áp dụng và còn đang gây tranh cãi. Một số quốc gia như Italy, Hy Lạp vẫn tiếp
tục phải đối mặt với làn sóng người nhập cư ồ ạt. Nhiều quốc gia còn khá chậm
chạp khi triển khai một số biện pháp nhằm tiếp nhận, đăng ký và phân chia người
nhập cư.
Vì vậy tác giả đã chọn đề tài: “Giải pháp ứng phó với nhập cư ở Liên minh
Châu Âu” làm luận văn nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay, trên thế giới và ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên
cứu Giải pháp ứng phó với nhập cư ở Liên minh Châu Âu:
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước:
Vấn đề phản ứng chính sách như thế nào đối với tình trạng nhập cư
vào Châu Âu đã được một số công trình nghiên cứu tập trung phân tích, với trọng
tâm là làm rõ những khác biệt và điều chỉnh chính sách của các quốc gia thành
viên mới, sau khi gia nhập EU. Trong bài viết “Chính sách nhập cư của Liên
minh Châu Âu và của một số nước thành viên mới Đông Âu” được đăng trên Tạp
chí Nghiên cứu Châu Âu số 3 (102), năm 2009 của tác giả Nguyễn An Hà đã đề
2
cập tới quá trình phát triển của chính sách nhập cư của Liên minh Châu Âu,
những tác động của chính sách này tới các nước thành viên EU nói chung và tới
các nước thành viên mới Đông Âu và sự điều chỉnh của các nước. “Liên kết trong
chính sách nhập cư của Liên minh Châu Âu và một số gợi mở cho ASEAN, tác giả
Nguyễn An Hà đã chỉ ra quá trình nhất thể hóa Châu Âu đã tạo ra những khái
niệm mới, giá trị mới trong liên kết khu vực như Công dân Châu Âu, Quốc hội
Châu Âu, Ngân hàng Châu Âu, đồng tiền chung Châu Âu… Trong quá trình nhất
thể hóa này chính sách nhập cư của Liên minh Châu Âu và các nước thành viên
có nhiều thay đổi. Tác giả tập trung nghiên cứu quá trình xây dựng chính sách
nhập cư của EU, qua đó rút ra một số gợi mở cho ASEAN trong lộ trình hướng
tới Cộng đồng năm 2015. “Vài nét về chính sách nhập cư của Cộng hòa Séc”, tác
giả Đặng Minh Đức tập trung phân tích quá trình hoàn thiện chính sách nhập cư
và tỵ nạn của Cộng hòa Séc nhằm đáp ứng các quy định chung của EU như: xây
dựng khung pháp lý về chính sách nhập cư, chính sách lao động “thẻ xanh”,
chương trình chống nạn nhập cư bất hợp pháp, xây dựng và tăng cường thẩm
quyền cho cơ quan quản lý của Séc trong chính sách nhập cư và tỵ nạn.
Các nghiên cứu đề cập đến tình hình, những tác động và giải pháp
trong vấn đề nhập cư ở Liên minh Châu Âu trong giai đoạn hiện nay “Nhập
cư ở Liên minh Châu Âu vấn đề và thách thức” của Đặng Minh Đức, “Vấn đề
nhập cư ở EU hiện nay: Thực trạng và chính sách”, tác giả Trần Thị Hương đã
phân tích tình hình nhập cư ở EU những tác động trên nhiều mặt của làn sóng
nhập cư vào các nước Châu Âu, chính sách và những giải pháp của EU và hiệu
quả của các biện pháp này.
2.2. Tình hình nghiên cứu của nước ngoài:
Về chính sách nhập cư của EU:
Bài báo “Illegal Immigration and Fight against Illegal Migration in
Member States of the European Union”, của Kamilla SHERYAZDANOVA - đã
mô tả sự phát triển của các quy định của Liên minh Châu Âu về nhập cư và tị nạn,
3
đồng thời giải quyết các vấn đề chính sách nhập cư nhất định về pháp lý. Kết luận
của nó dựa trên các cuộc thảo luận về quy trình và các quy định pháp luật liên
quan đến tương lai của Châu Âu.
Tác giả Tamara Jonjić and Georgia Mavro trong báo cáo về : “Immigration
in the EU: policies and politics in times of crisis 2007-2012 đã phân tích các hình
thức di cư như: đoàn tụ gia đình; di cư của học sinh; cư dân và hội nhập lâu dài;
di dân. Chỉ ra tính liên kết giữa chính sách nhập cư, việc làm và kinh tế. Qua đó
các tác giả cũng trình bày các vấn đề về chính sách nhập cư.
Vấn đề phản ứng chính sách di dân tại EU có bài viết “Queen’s Papers
on Europeanisation, No 4/2003, Still Beyond Fortress Europe? Patterns and
Pathways in EU Migration Policy” của tác giả Andrew Geddes, đã chỉ ra phản
ứng chính sách di dân tại EU mức độ và cách thức mà địa điểm tổ chức mới của
châu Âu hiện nay góp phần vào sự hình thành các chính sách di dân và chính trị
của châu Âu.
Vấn đề kiểm soát biên giới: tác giả Urszula Lisson “Border Management
and Human Rights” Nghiên cứu này góp phần làm sáng tỏ các nghĩa vụ đối với
quản lý biên giới và luật hàng hải. Điều này bao gồm việc xử lý các nghĩa vụ về
nhân quyền nói chung cũng áp dụng cho việc kiểm soát biên giới tại biên giới đất
liền và sân bay. Ngoài ra, nghiên cứu xem xét các câu hỏi đặc biệt về nhân quyền
và luật hàng hải phát sinh liên quan đến việc bảo vệ biên giới biển. Các nghĩa vụ
về nhân quyền đối với các biện pháp kiểm soát di cư.
Về vấn đề hội nhập của người di cư tại nơi đến và xung đột do nhập cư
có:
“Illegal Immigration and Fight against Illegal Migration in Member States
of the European Union”, của Kamilla SHERYAZDANOVA đã mô tả sự phát
triển của các quy định của Liên minh Châu Âu về nhập cư và tị nạn, đồng thời
giải quyết các vấn đề chính sách nhập cư nhất định về pháp lý. Kết luận của nó
dựa trên các cuộc thảo luận về quy trình và các quy định pháp luật liên quan đến
4
tương lai có thể của Châu Âu.
Dancygier (2010), “Immigration and Conflict in Europe”. Tác phẩm giới
thiệu một lý thuyết giải thích cho việc tại sao chúng ta chứng kiến các cuộc xung
đột giữa người nhập cư và người bản địa ở một số nơi trong khi lại không thấy ở
những nơi khác và tại sao một số thành phố lại chứng kiến sự xung đột giữa người
nhập cư và các nhân tố nhà nước trong khi những thành phố khác lại không xảy
ra. Cuốn sách này xem xét các điều kiện kinh tế có tương tác như thế nào đối với
các động lực bầu cử nhằm giải thích cho xung đột giữa người nhập cư và người
bản địa, người nhập cư và nhà nước thông qua các nhóm và thành phố ở Anh,
Đức và Pháp. Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của các thể chế nhập cư quốc
gia và các nền kinh tế chính trị địa phương trong việc hình thành vị thế kinh tế và
quan điểm chính trị của người nhập cư, làm rõ sức hút kinh tế và bầu cử, chứ
không phải khác biệt về văn hóa, quyết định các đặc điểm của xung đột và hòa
bình.
Về vấn đề nhập cư bất hợp pháp vào EU:
Trong bài viết “Irregular Immigration in the European Union” các tác giả
Pia M. Orrenius and Madeline Zavodny đã nêu lên tình trạng di dân trái phép
đang tăng trở lại ở EU. Mặc dù ước tính chính xác là khó có thể đi qua, gần gũi
với các quốc gia trong hỗn loạn và hứa hẹn của một cuộc sống tốt đẹp hơn đã kéo
hàng trăm ngàn người nhập cư bất thường vào EU trong năm 2014-2015. Bản tóm
tắt chính sách này khảo sát tình trạng nhập cư bất thường vào EU và rút ra những
bài học kinh nghiệm từ Mỹ. Nó tập trung vào khía cạnh kinh tế của nhập cư trái
phép. Có những lợi ích về kinh tế đối với các quốc gia tiếp nhận cũng như đối với
những người di cư trái phép, nhưng những lợi ích đó đòi hỏi người di cư có thể
tiếp cận thị trường lao động và giá cả và tiền lương rất linh hoạt. Trong khi đó,
giảm chi phí tài chính đòi hỏi phải hạn chế tiếp cận các chương trình trợ giúp
công cộng cho người mới đến. Giải quyết thành công việc di dân không thường
5
xuyên có thể đòi hỏi sự phối hợp và chia sẻ chi phí đáng kể giữa các nước thành
viên EU.
Hợp tác với nước thứ ba để giải quyết vấn đề nhập cư EU: Trong bài
báo “EU’s Immigration Policy and EU-Turkey Relation” tác giả Elvan
ÖZDEMİR, Research Assistant , trước khi đặc biệt tập trung vào điều kiện hiện
tại của Thổ Nhĩ Kỳ liên quan đến nhập cư bất hợp pháp, mối quan hệ của Thổ Nhĩ
Kỳ với EU sẽ được xem xét và các chính sách của Thổ Nhĩ Kỳ nhằm chống lại
nhập cư bất hợp pháp, việc áp dụng các chính sách của EU sẽ được nhắc đến. Vấn
đề nhập cư bất hợp pháp của Thổ Nhĩ Kỳ trong bối cảnh quan hệ với EU. Cuộc
chiến chống lại sự nhập cư bất hợp pháp được coi là vấn đề an ninh quốc tế, đánh
giá các mối quan hệ của Liên minh châu Âu Thổ Nhĩ Kỳ liên quan đến đường dây
an ninh toàn cầu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về nhập cư ở Liên minh Châu
Âu, giải pháp ứng phó của Liên minh Châu Âu để giải quyết vấn đề nhập cư ngày
càng gia tăng hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, nghiên cứu khái niệm về nhập cư, các hình thức nhập cư, sơ lược
quá trình phát triển chính sách nhập cư, nguyên nhân, tác động của nhập cư đến
EU.
Thứ hai, phân tích thực trạng và EU đã đưa ra các giải pháp gì để ứng phó
với vấn nạn nhập cư.
Thứ ba, dự báo triển vọng phát triển của tình hình nhập cư ở EU.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các giải pháp ứng phó của Liên minh Châu Âu để giải
quyết vấn đề nhập cư ở EU sau khủng hoảng nhập cư
6
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề nhập cư ở Liên minh
Châu Âu giai đoạn sau khủng hoảng nhập cư ở EU (đặc biệt là làn sóng di cư từ
Bắc Phi và Trung Đông sang Châu Âu).
Về không gian: Luận văn nghiên cứu các vấn đề nhập cư ở trong phạm vi
địa lý của Liên minh Châu Âu.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận của quan điểm chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và quan điểm Liên minh Châu Âu về vấn
đề nhập cư.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
nhiệm vụ chú ý phương pháp so sánh tổng hợp - phân tích thống kê. về khủng
hoảng nhập cư và các giải pháp của EU đối với vấn nạn nhập cư.
Xử lý tài liệu và đánh giá, phân tích rút ra các kết luận khoa học về bản chất,
đặc điểm của vấn đề.
Về phương pháp thu thập tài liệu, nhiệm vụ sẽ tiếp cận với các nguồn tài liệu
thứ cấp như sách, bài viết tạp chí, các bài viết nghiên cứu, tài liệu của các dự án
nghiên cứu, số liệu thống kê chính thức và một số nguồn thông tin tin cậy trên
internet.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Từ những phân tích, đánh giá thực trạng nhập cư ở Liên minh Châu Âu
luận văn sẽ cho thấy thành công và hạn chế của EU trong việc đưa ra và thực
hiện các giải pháp nhằm hạn chế người nhập cư vào EU. Kết quả nghiên cứu của
luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho học tập, nghiên cứu.
7
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, bảng chữ cái viết tắt, mục lục, danh mục tài liệu
tham khảo, đề tài được kết cấu làm 3 phần, cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nhập cư ở Liên minh Châu Âu
Chương 2: Thực trạng và giải pháp ứng phó với nhập cư ở Liên minh Châu Âu
Chương 3: Dự báo tình hình nhập cư ở Liên minh Châu Âu
8
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHẬP CƯ Ở LIÊN MINH CHÂU ÂU
1.1. Khái niệm về nhập cư
Hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa chung về “nhập cư” để có thể áp
dụng một cách phổ biến trên toàn cầu.
Nhập cư là hoạt động di chuyển chỗ ở đến vào một vùng hay một quốc gia
mới. Dân nhập cư là người dân di chuyển từ một vùng đến một vùng khác để định
cư hoặc tạm trú.
Theo Cơ quan thống kê EU (Eurostat), người nhập cư là những người đến
hoặc trở về từ nước ngoài để về sống ở một đất nước trong một thời gian nhất
định, trước đó họ đã cư trú ở một nơi khác [82].
Theo định nghĩa trong từ điển tiếng Anh Oxford dân nhập cư là bộ phận
những người chuyển đến định cư tạm thời, hoặc vĩnh viễn từ một khu vực, quốc
gia tới một nơi khác sinh sống. Có rất nhiều lý do để người ta di cư: lý do kinh tế,
gia đình, học tập, việc làm... - Bất kỳ ai khi rời bỏ một quốc gia để đến một quốc
gia khác được xem là người nhập cư, ngoại trừ vì lý do chiến tranh hay đàn áp
chính trị.
Liên Hợp Quốc định nghĩa - “người nhập cư dài hạn là những người ở lại
nước tiếp nhận trong thời gian hơn một năm, mặc dù họ không liên tục sinh sống
tại nước đó trong vòng hơn một năm” [112].
1.2. Các hình thức nhập cư
Có nhiều loại hình nhập cư khác nhau tùy vào mục đích của người nhập cư
và nhu cầu của nước tiếp nhận có thể phân loại một cách tương đối như sau:
- Dựa vào tính pháp lý: có nhập cư hợp pháp và nhập cư bất hợp pháp.
Nhập cư hợp pháp là loại hình nhập cư được luật pháp của cả nước gốc và nước
nhập cư cho phép. Nhập cư bất hợp pháp là nhập cư trái với luật pháp của nước
gốc hoặc nước tiếp nhận, hoặc trái với luật pháp của cả hai nước [7, tr.299].
- Dựa vào thời gian cư trú: có nhập cư dài hạn và nhập cư ngắn hạn.
9
- Nhập cư với mục đích kinh tế: có các loại hình như nhập cư theo lực
lượng lao động, nhập cư tị người tị nạn nhập cư, nhập cư theo diện đoàn tụ gia
đình, học tập, kinh doanh, du lịch, chữa bệnh…
Có thể nói, các cách phân loại loại hình nhập cư như trên chỉ mang tính
chất tương đối, tùy theo các vấn đề, tình hình, tính chất mỗi nước đưa ra những
tiêu chí phân loại khác nhau. Ở EU có bốn lý do khiến nhiều người mong muốn
được nhập cư vào: vấn đề lao động nhập cư vào EU để làm việc, vấn đề đoàn tụ
gia đình, tị nạn chính trị, học tập là những loại hình nhập cư chủ yếu, có ảnh
hưởng lớn đến đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa của các nước thành viên.
Quyền di cư để làm việc hoặc học tập là một thực tế của nền kinh tế toàn cầu hóa.
Xét về lâu dài, tình trạng nhập cư sẽ ngày càng gia tăng chứ không giảm, xét xu
hướng nhân khẩu học của châu Âu hiện nay. Vì vậy, châu Âu phải tăng cường
đoàn kết và cùng nhau hành động để giải quyết cuộc khủng hoảng di cư.
1.3. Sơ lược quá trình phát triển chính sách nhập cư của EU
Ngay từ Hiệp ước Rome, Hiệp ước sáng lập EC vấn đề nhập cư và cư trú
đã được chú ý. Điều 3(c) của Hiệp định Rome năm 1957 quy định “huỷ bỏ những
trở ngại về việc đi lại tự do cá nhân giữa các nước thành viên”. Tuy nhiên, đến
năm 1993, sự ra đời của thị trường thống nhất và việc mở rộng liên minh sang các
nước Trung và Đông Âu đã gia tăng áp lực lên toàn thể cộng đồng, đòi hỏi EU
phải có một chính sách chung về nhập cư.
Nhằm tăng cường hợp tác giữa các nước thành viên và chống lại những ảnh
hưởng bất lợi của các nhóm nhập cư bất hợp pháp, ngày 14/6/1985, 5 nước gồm
Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan, Lucxemburg đã ký kết Hiệp ước Schengen với mục đích
kiểm soát chặt chẽ dòng người di cư ngay tại cửa khẩu biên giới phía ngoài của
cộng đồng. Hiệp ước cũng kêu gọi xóa bỏ chế độ kiểm tra về hộ chiếu giữa các
nước thành viên. - Khu vực Schengen hiện nay với 22/28 nước là thành viên EU
bao gồm: Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg, Đan Mạch, Hy Lạp, Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha, Áo, Thuỵ Điển, Phần Lan, Cộng hòa Séc, Hungary, Ba
10
Lan, Slovakia, Slovenia, Litva, Latvia, Estonia, Malta. Đối với công dân các nước
ngoài EU chỉ cần được cấp thị thực nhập cảnh của 1 nước trong khu vực
Schengen là có thể đi lại tự do trong toàn khối.
Năm 1993, Hiệp ước Masstricht khẳng định sự ra đời của Liên minh châu
Âu liên kết trên 3 trụ cột: kinh tế, an ninh đối ngoại và tư pháp nội vụ, hướng tới
hoàn thiện thị trường thống nhất và Liên minh Kinh tế - Tiền tệ, thì chính sách di
cư và nhập cư trong khu vực mới thực sự chuyển biến. Một nội dung quan trọng
của Hiệp ước là đã đưa ra khái niệm công dân châu Âu, tạo nên cơ sở pháp lý
quan trọng để người dân châu Âu có thể tự do di chuyển giữa các thành viên,
đồng thời là cơ sở pháp lý cho các cơ quan của EU tham gia vào Hiệp ước
Schengen, đảm bảo các quyền đi lại của công dân EU [3, tr.25]
Hiệp ước Amsterdam chính thức đưa Schengen vào khuôn khổ pháp lý của EU
như là “Schengen acquis”. Bộ luật Schengen bao gồm Hiệp ước Schengen 1985,
Công ước Schengen 1990 cũng như các quyết định và thỏa thuận khác trong quá
trình thực hiện Schengen. Khi hiệp ước Amsterdam có hiệu lực năm 1999, quyền
hạn gia quyết định của Schengen thuộc về Hội đồng Bộ trưởng EU như những
quyền cơ bản, không phân biệt đối xử, tư pháp và đối nội, chính sách xã hội và
việc làm, chính sách đối ngoại và an ninh chung của EU. Hiệp ước Amsterdam
có một số thay đổi căn bản trong hệ thống quản lý của EU như mở rộng phạm vi
áp dụng phương thức bỏ phiếu theo đa số; mở rộng phạm vi áp dụng thủ tục đồng
quyết định; tạo ra thủ tục hợp tác tăng cường và nhấn mạnh đến 4 mục tiêu cơ bản
là coi việc làm và quy công dân là vấn đề trung tâm của EU, xóa bỏ những rào
cản cuối cùng còn lại trong lưu chuyển tự do trên thị trường thống nhất, tạo một
tiếng nói chung có trọng lượng hơn của EU trong các công việc quốc tế và làm
cho thể chế EU hoạt động có hiệu quả hơn. Tất cả nhằm bổ sung khuôn khổ pháp
lý đã được thông qua tại Maastricht về việc sử dụng đồng tiền chung châu Âu
Euro với hai tiêu chuẩn rất quan trọng, đó là các nước thành viên Khu vực đồng
tiền chung (Eurozone) phải đảm bảo nợ công không vượt quá 60% GDP và bội
11
chi ngân sách không vượt quá 3% GDP để xây dựng một Liên minh Kinh tế và
tiền tệ châu Âu (EMU) được thực hiện từ 1/1/1999 với một đồng tiền chung duy
nhất (đồng Euro). Mặc dù Schengen chính thức trở thành một nội dung liên kết
của EU, nhưng không phải áp dụng cho tất cả các nước thành viên.
Hiệp ước Tampere được thông qua ở Phần Lan đã thống nhất yêu cầu
phải thiết lập Chính sách di cư chung và Cơ chế cư trú chính trị chung châu Âu.
Xây dựng các yêu cầu cần thiết cho chính sách nhập cư chung của EU, đó là [58]:
1) Chính sách nhập cư dựa trên phương pháp tiếp cận toàn diện của sự quản lý
nhập cư. 2) Chính sách bao gồm đối xử công bằng các nước thứ 3 nhằm trao các
quyền và nghĩa vụ tương đương càng nhiều càng tốt cho các công dân đến từ các
nước thứ 3 nhập cư ở các nước thành viên. 3) Các chính sách quản lý phải là sự
phát triển quan hệ hữu nghị giữa các nước bao gồm các chính sách hợp tác phát
triển. 4) Bất kỳ chính sách chung nào cho vấn đề tị nạn phải tôn trọng tuyệt đối
các điều khoản của công ước Geneva và nghĩa vụ của các nước thành viên của các
điều ước quốc tế.
Đến tháng 11/2004, Hội nghị Brussel thông qua chương trình cho trụ cột tư
pháp và nội vụ được gọi là chương trình Hague, đưa ra những điều kiện chính trị
cho việc giải quyết các vấn đề nhập cư trong vòng 5 năm, nhưng đã ít tham vọng
hơn so với Hội nghị Tampere. Chương trình Hague nhấn mạnh sự cần thiết phải
trao đổi thông tin và kinh nghiệm nhưng không động chạm tới quyền hạn của các
nước thành viên, mà chỉ kêu gọi các nước thành viên và các thể chế của EU phát
triển những nguyên tắc chung có chú trọng tới tính gắn kết trong khuôn khổ EU
về nhập cư [3]. Cộng đồng chung châu Âu kêu gọi phát triển sâu rộng hơn nữa
Chính sách di cư và cư trú chính trị của EU. Năm 2004, các mục tiêu chính sách
này đã được mở rộng theo Chương trình Hague, nhấn mạnh nhu cầu mạnh mẽ về
chính sách toàn diện của EU trong tất cả các giai đoạn nhập cư, bao gồm xác định
quyền con người và dân sự của người nhập cư và người xin tị nạn.
12
Năm 2005, Hội đồng châu Âu đã thông qua những nguyên tắc cơ bản
chung về Chính sách hội nhập người di cư trong EU (CBPs) và Chương trình
chung cho Hội nhập tạo khung pháp lý cho việc hội nhập những người quốc tịch
thứ ba tại EU.
Năm 2007, EU soạn thảo hai chỉ thị là Chỉ thị về các điều kiện làm việc ở
EU của người lao động có trình độ cao và Chỉ thị về các quyền của người nhập cư
hợp pháp trong lĩnh vực lao động. Nội dung của hai bản chỉ thị này làm tăng tính
hấp dẫn và đảm bảo tất cả lao động nhập cư được đối xử công bằng ở EU, tạo
điều kiện cho họ có quyền cư trú dài hạn (Chỉ thị Hội đồng 2003/109/EC). Đặc
biệt nhằm mở rộng số lượng người nhập cư có trình độ vào EU. Ủy ban châu Âu
đã đưa ra đề xuất thiết lập hệ thống Thẻ Xanh EU (EU Blue Card) với mục đích
ưu tiên cấp giấy phép cư trú và làm việc theo thủ tục nhanh gọn cho các lao động
trình độ cao từ các nước thứ 3 làm việc tại các nước thành viên EU.
Tháng 10/2008, Hiệp ước châu Âu về di cư và cư trú chính trị được Ủy ban
châu Âu thông qua. Bằng Hiệp ước này, quan điểm của EU là hướng tới một nhận
thức chung cho chính sách quản lý di cư hiệu quả của các nước thành viên EU.
Đồng thời khẳng định vị thế và vai trò của người di cư với tư cách là nhân tố phát
triển và đối tác.
Hiệp ước Lisbon có hiệu lực vào năm 2009 tiếp tục mở rộng phạm vi di cư
và luật tị nạn của EU. Điều 67.1 Hiệp ước về chức năng của EU (TFEU) quy định
rằng EU sẽ tạo thành một khu vực tự do, an ninh và công bằng đối với các quyền
cơ bản và các hệ thống pháp luật và truyền thống khác nhau của các nước thành
viên.
Các quốc gia thành viên chịu trách nhiệm chính về việc xác định các thủ
tục cho người nhập cư vào lãnh thổ của họ và về số lượng người nhập cư lao động
họ sẽ thừa nhận. Vai trò của EU là bổ sung và hài hòa các chính sách nhập cư
quốc gia bằng cách tạo ra một khung pháp lý chung. Điều này bao gồm các điều
kiện nhập cảnh và cư trú đối với một số loại người nhập cư nhất định, chẳng hạn
13
như sinh viên, nhà nghiên cứu và công nhân (Ủy ban châu Âu 2014). Cơ sở pháp
lý cho các năng lực của EU được nêu trong các điều 79 và 80 trong Hiệp ước về
chức năng của Liên minh châu Âu (TFEU). Hiệp ước Lisbon tiếp tục củng cố vai
trò của Nghị viện châu Âu, quyền quyết định chung trong lĩnh vực tị nạn và Tòa
án Tư pháp châu Âu [87]:
- Điều 79.1 quy định rằng EU sẽ xây dựng một chính sách nhập cư chung
nhằm đảm bảo, quản lý hiệu quả các luồng di cư, đối xử công bằng với các công
dân nước thứ ba cư trú hợp pháp tại các quốc gia thành viên, tăng cường các biện
pháp chống nhập cư trái phép và nạn buôn bán người [66]. Hiệp ước Lisbon đã
mở rộng áp dụng thủ tục lập pháp thông thường đối với chính sách di cư của EU.
Điều 79 (2) TFEU tạo cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh các điều kiện về nhập
cảnh và cư trú, bao gồm giấy phép cư trú dài hạn và thống nhất gia đình, cũng
như các quyền của các công dân nước thứ ba cư trú hợp pháp tại EU, kể cả phong
trào tự do của họ ở EU. Điều 79 (5) TFEU làm rõ rằng các quốc gia thành viên
chỉ chịu trách nhiệm về việc xác định khối lượng của các công dân nước thứ ba
mà họ thừa nhận cho mục đích làm việc. Đối với các biện pháp liên quan đến việc
nhập cư của người nhập cư hợp pháp, điều 79 (4) quy định năng lực của EU giới
hạn trong việc hỗ trợ hành động của Quốc gia thành viên trong lĩnh vực này mà
không có quyền hài hoà các quy định quốc gia về hội nhập các công dân nước thứ
ba (Điều 2 (5 ) TFEU) [58].
- Điều 80 TFEU yêu cầu nguyên tắc đoàn kết và chia sẻ trách nhiệm công
bằng, bao gồm các tác động tài chính, chi phối tất cả các chính sách được ban
hành theo điều 77-79 (kiểm tra biên giới, tị nạn và nhập cư).
Từ chương trình nghị sự xã hội của EU năm 2006 – 2010, EU đã tập trung
vào 7 ưu tiên chính sách trong đó có đề cập đến: tăng cường tập trung ưu tiên cho
người nhập cư, người khuyết tật. Với mục đích nhằm vượt qua nạn phân biệt
chủng tộc, phân biệt đối xử, tăng cường hợp tác hội nhập các nhóm yếu thế như
người khuyết tật, người dân tộc thiểu số và nhóm người nhập cư.
14
Chương trình Stockholm vạch ra chính sách và chương trình lập pháp cho
EU về di cư, hội nhập của người di cư, tị nạn và kiểm soát biên giới bên ngoài
giai đoạn 2010-2014 và thực hiện các quy định mới về di cư và tị nạn theo Hiệp
ước Lisbon. Các ưu tiên bao gồm: cải thiện quản lý biên giới bên ngoài bằng cách
tăng cường hợp tác giữa các quốc gia EU và tiến hành các biện pháp kiểm soát
biên giới nghiêm ngặt hơn để chống lại nạn nhập cư bất hợp pháp và tội phạm
xuyên biên giới; phát triển chính sách visa của EU để tạo thuận lợi cho việc tiếp
cận pháp lý với châu Âu; đảm bảo rằng những người có nhu cầu bảo vệ quốc tế và
những người dễ bị tổn thương được cấp quyền vào Châu Âu; tạo ra hệ thống tị
nạn chung châu Âu; tăng cường Frontex và điều phối công việc của mình với Văn
phòng Hỗ trợ tị nạn châu Âu (EASO); xây dựng quan hệ đối tác với các nước
không thuộc EU; và thiết kế một chính sách di cư mang lại lợi ích cho các nước
EU, các quốc gia xuất xứ và người di cư và kết hợp cả hai sáng kiến hội nhập và
chính sách hoàn trả [66].
Hơn nữa, Chương trình Stockholm công nhận sự cần thiết phải phát triển
một chính sách di cư toàn diện và linh hoạt, tập trung vào sự đoàn kết và chia sẻ
trách nhiệm, giải quyết tình hình di cư của EU. Các chính sách đảm bảo quyền và
sự hòa nhập của người nhập cư cũng được đưa ra. Một chính sách di cư chung
phải bao gồm một chính sách hoàn trả hiệu quả và bền vững, trong khi công việc
cần phải tiếp tục ngăn chặn, kiểm soát và chống nhập cư “bất hợp pháp”. Tăng
cường quan hệ hợp tác với các nước thứ 3 (cả về quá cảnh và xuất xứ) trong vấn
đề quyết người nhập cư, tăng cường quản lý biên giới và vai trò của Frontex nhằm
tăng khả năng đáp ứng hiệu quả hơn trong việc thay đổi dòng chảy di cư. Một kế
hoạch hành động cung cấp một lộ trình cho việc thực hiện các ưu tiên chính trị
được nêu ra trong Chương trình Stockholm.
Có thể nói, cho đến nay, dù liên tục được điều chỉnh nhằm hướng tới một
chính sách chung của cộng đồng nhưng về cơ bản chính sách nhập cư vẫn chịu sự
điều chỉnh của những văn bản này. Các hiệp ước là cơ sở pháp lý quan trọng nhất
15
mà các nước thành viên cam kết cùng nhau xây dựng Liên minh Châu Âu từ khi
thành lập đến nay. Sự phát triển của chính sách nhập cư chung của EU cũng gắn
liền với các hiệp ước.
1.4. Nguyên nhân của nhập cư ở Liên minh Châu Âu
1.4.1. Nguyên nhân bên ngoài:
- Thứ nhất, khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội ở các nước khu vực Bắc Phi
- Trung Đông được coi là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng nhập cư
châu Âu khiến EU phải điều chỉnh chính sách nhập cư. Phong trào “Mùa xuân
Arab” từ đầu năm 2011 đã kích hoạt các cuộc biểu tình ở Syria đòi chấp dứt gần 5
thập kỷ cầm quyền của Đảng Baath, cũng như yêu cầu Tổng thống Bashar al -
Assad từ chức. Tuy nhiên Chính phủ Syria không chấp nhận thất bại như các quốc
gia Trung Đông và Bắc Phi khác. Syria đã triển khai quân đội để dập tắt các cuộc
nổi dậy, binh sĩ được lệnh nổ súng vào thường dân. Các cuộc biểu tình rầm rộ sau
phát triển thành một cuộc nổi dậy bạo động, lực lượng đối lập thành lập các nhóm
hoạt động có vũ trang và có tổ chức, đồng thời nhận được viện trợ quân sự từ một
số quốc gia bên ngoài. Từ chỗ bắt đầu như một phong trào cải cách và dân chủ,
cuộc khủng hoảng Syria đã mang một chiều hướng toàn cầu. Bạo lực leo thang,
đất nước rơi vào cuộc nội chiến triền miên. Theo Liên hợp quốc, có hơn 250.000
người đã thiệt mạng trong cuộc xung đột Syria. Cuộc xung đột bây giờ không chỉ
dừng lại là một trận chiến giữa Tổng thống Assad và các nhóm nổi dậy, mà chiến
sự xảy ra ở khắp nơi, trên mọi mặt trận, giữa các phe phái với nhau [91]. Bạo lực,
xung đột cũng diễn ra ở nhiều nước thuộc khu vực Trung Đông - Bắc Phi, khiến
người dân phải rời bỏ nhà cửa đi lánh nạn, tạo làn sóng di cư ồ ạt sang châu Âu và
nhiều quốc gia khác trên thế giới. Như hậu quả của hơn 5 năm chiến tranh, hơn 4
triệu người đã trốn khỏi Syria kể từ khi bắt đầu cuộc xung đột, phần lớn là phụ nữ
và trẻ em, đến trú ẩn ở các trại tị nạn (trong số những người tị nạn có tới 1 triệu
trẻ em) các nước láng giềng như Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq, Liban, Jordan và Ai Cập. Các
quốc gia thuộc khối Vùng Vịnh giàu mạnh không hề tiếp nhận dù chỉ 1 người tị
16
nạn. Trung tâm Nghiên cứu Chính sách Syria cho rằng nền kinh tế của Syria đã
“tan vỡ và phân mảnh” [104]. Cuộc khủng hoảng người di cư Syria đã tạo ra một
cuộc khủng hoảng nhân đạo mới tại châu Âu, ước tính có 12,2 triệu người cần trợ
giúp nhân đạo ở Syria, bao gồm 5,6 triệu trẻ em [111].
- Thứ hai, sự can thiệp của các nước phương Tây núp dưới chiêu bài “cải
cách dân chủ” cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn tới khủng hoảng. Kể từ cuộc
Chiến tranh Iraq đến nay, dưới sự xúi giục của Mỹ, các nước EU liên tục lấy dân
chủ làm chiêu bài để can dự vào công việc nội bộ của Trung Đông theo “Đề án
Trung Đông lớn” của Mỹ [9]. Trước khi Mỹ và châu Âu can thiệp vào cuộc xung
đột nội bộ của thế giới Arab năm 2011, Syria đã ở trong tình trạng tốt hơn cả về
kinh tế và xã hội, khiến nước này trở thành một nơi chào đón nhiều người tị nạn
nhất. Vào năm 2012, Mỹ đã chính thức thừa nhận ủng hộ phe đối lập Syria, Pháp
cũng ủng hộ cho phe đối lập tại nước này và đồng thời thúc đẩy Liên minh Châu
Âu thống nhất lập trường chung đối với vấn đề Syria. Bạo lực, xung đột đã diễn
ra ở nhiều nước khu vực Bắc Phi - Trung Đông khiến người dân nơi đây phải rời
bỏ nhà cửa, đất nước đi lánh nạn, tạo làn sóng di cư ồ ạt sang châu Âu và nhiều
quốc gia khác trên thế giới. Phong trào của các phần tử khủng bố xuyên quốc
giam đã thành lập Nhà nước Hồi giáo (IS) - tự xưng, mâu thuẫn giữa chính phủ
quân đội với các lực lượng dân chủ, mâu thuẫn giữa phi tôn giáo và tôn giáo, mâu
thuẫn trong nội bộ các giáo phái, mâu thuẫn giữa các sắc tộc….diễn ra ở khắp nơi.
Ngày 2/8/2015, Tổng thống Cộng hòa Séc, Milos Zeman tuyên bố dòng
người tị nạn đổ xô đến châu Âu thời gian gần đây là do việc các nước phương Tây
triển khai can thiệp quân sự ở Iraq, Libya và Syria gây ra, những hành động này là
nguyên nhân dẫn đến các hoạt động cực đoan của các tổ chức khủng bố tại các
quốc gia nói trên. Chính “Mùa xuân Arab” đã đẩy nhiều nước vào cảnh bạo loạn
và khiến người dân nơi đây phải rời bỏ nhà cửa, đất nước đi lánh nạn, tạo làn sóng
di cư ồ ạt sang châu Âu và nhiều quốc gia khác trên thế giới. Trong bài trả lời
phỏng vấn của giáo sư nổi tiếng chuyên nghiên cứu về Trung Đông của Học viện
17
chính trị Paris, Jean-Pierre Filiu vẫn cho rằng các nước phương Tây thúc đẩy “dân
chủ hóa” đối với các nước Arab chưa triệt để mới dẫn đến các khu vực liên quan
liên tục rối ren, cái kiểu “Chúa cứu thế bằng dân chủ” chính là điểm mấu chốt
khiến họ đánh giá sai về thế giới Arab. Đằng sau quá trình các nhà truyền giáo
“xuất khẩu dân chủ” là việc cương quyết dùng vũ lực để tiêu diệt các nước bị coi
là “thế lực gian ác” độc tài chuyên chế như ở Afghanistan, Iraq, Libya, song về
khách quan các thế lực chính trị này lại tạo thành một bộ phận không thể thiếu
của xã hội Hồi giáo truyền thống bản địa, một khi ở vào tình cảnh bị diệt trừ tận
gốc, xã hội bất ổn, dân chúng lầm than, hoạt động khủng bố của các phần tử cực
đoạn đương nhiên sẽ diễn ra ồ ạt, người tị nạn ắt sẽ trở thành gánh nặng lớn cho
các nước châu Âu [4].
- Thứ ba, các tổ chức khủng bố lợi dụng trà trộn vào dòng người di cư để tới
khủng bố châu Âu. Hiện nay châu Âu đang phải đối mặt với một cuộc khủng
hoảng nhập cư nghiêm trọng, chủ yếu xuất phát từ các nước Trung Đông và Bắc
Phi. Làn sóng này đã và đang làm tăng thêm gánh nặng kinh tế và tiềm ẩn nguy
cơ an ninh cho EU. Làn sóng người nhập cư đã bị tội phạm và khủng bố trà trộn
nhằm tiến vào châu Âu. Châu Âu không còn được coi là mảnh đất bình yên từ sau
loạt vụ tấn công vào Pháp mà đỉnh điểm là vụ tấn công đẫm máu ở Paris ngày
13/11/2015, cướp đi sinh mạng của 130 người. Loạt vụ đánh bom liều chết tại các
địa điểm đông người ở Brussels của Bỉ vào tháng 3/2016, loạt vụ việc mới xảy ra
ở Pháp và Đức lại làm dấy lên mối lo ngại về những hình thức tấn công kiểu mới,
khó đối phó và khó ngăn chặn hơn. Thủ phạm các vụ tấn công đều là người gốc
nhập cư, đang xin tị nạn và đa phần được các phần tử Hồi giáo cực đoan kích
động. Những nguy cơ về an ninh đe dọa làm vỡ kế hoạch nhất thể hóa châu Âu
khi khiến nhiều đảng dân tộc cực đoan có tiếng nói lớn hơn trong chính quyền các
nước. Điều này một lần nữa thổi bùng những tranh cãi gay gắt về những vấn đề
vốn đã gây chia rẽ lâu nay trong nội bộ Liên minh Châu Âu, gióng lên hồi chuông
18
cảnh báo cấp thiết những nguy cơ đe dọa an ninh từ các phần tử cực đoan thuộc
các tổ chức khủng bố kiểu Nhà nước Hồi giáo (IS).
Thứ tư, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, khu vực đang diễn ra mạnh mẽ tác
động đến EU. Ngày 23/6/2016, cử tri Vương Quốc Anh đã bỏ phiếu ủng hộ Brexit
với số phiếu 51,9% và trở thành thành viên đầu tiên của EU mở ra tiến trình “ra
khỏi EU”. Cuộc khủng hoảng di cư còn kéo theo các nguy cơ chính trị. Nguy cơ
cao nhất nổi lên hiện nay là tiến trình Anh rời khỏi EU đã bước vào giai đoạn 2
của cuộc đàm phán và dự kiến chính thức rời EU vào năm 2019. Làn sóng phản
đối người nhập cư ngày càng gia tăng đe dọa củng cố hơn nữa những ý kiến ủng
hộ “Brexit”. Tuy nhiên, thái độ cứng rắn trong việc xét duyệt hồ sơ xin tị nạn
cũng có những nguy cơ riêng bởi Thủ tướng Cameron đang phải dựa vào các
cường quốc như Đức, Pháp và Italy để tạo ảnh hưởng trong việc tái đàm phán
quan hệ Anh-EU trước các cuộc bầu cử [5]. Vấn đề nhập cư là một trong những
quan ngại hàng đầu của các cử tri trong bối cảnh Chính phủ thay đổi mục tiêu ban
đầu là cắt giảm số người nhập cư hàng năm xuống dưới mức 100.000 người...
Vào thời điểm Brexit và sự nổi lên của chủ nghĩa dân túy, chiến lược toàn cầu
nêu rõ lịch trình biến đổi của EU. Mặc dù, dựa trên các nguyên tắc truyền thống
của chính sách đối ngoại châu Âu, tài liệu này mang lại một điều mới lạ thực sự
bởi việc tái tập trung của nó vào các lợi ích thuần túy của EU và của công dân
EU, theo đó, cho phép vượt qua khái niệm quá hạn hẹp của “sức mạnh mềm” và
gắn EU với khái niệm “sức mạnh thông minh”.
1.4.2. Nguyên nhân bên trong của EU
- Thứ nhất, vấn đề kiểm soát biên giới, việc bảo vệ biên giới bên ngoài khu
vực Schengen phụ thuộc vào các nước thành viên. Tại khu vực Schengen, một số
quốc gia bất lực trong việc bảo vệ biên giới bên ngoài bởi thiếu năng lực quản lý
hành chính và tài chính (Hy Lạp đang phải đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế
trầm trọng, Italia thiếu năng lực quản lý biên giới), cùng với những khó khăn về
địa lý như đường bờ biển dài và hiểm trở đã làm xói mòn niềm tin trong việc
19
đương đầu với cuộc khủng hoảng người di cư [37]. Bất chấp các quy định tự do đi
lại của Hiệp ước Schengen, một số các nước thành viên trong khối EU đã đơn
phương áp đặt các quy định thắt chặt kiểm soát biên giới nhằm ngăn chặn làn
sóng người di cư. Bỉ, Áo… cũng gia nhập nhóm các nước đơn phương kiểm soát
biên giới sau khi tuyên bố tạm thời ngừng áp dụng các quy định của Hiệp ước
Schengen đồng thời tăng cường sự hiện diện của lực lượng cảnh sát kiểm soát
đường biên giới của họ. Để đối phó với nhập cư ngày càng ồ ạt vào EU, các hàng
rào kỹ thuật tạm thời và hàng rào chính sách đang được dựng lên ở một số nước
thành viên EU cùng với đó là những bất đồng quan điểm trong nội bộ EU khi xử
lý vấn đề người nhập cư. Trong khi một số nước, như Đức ủng hộ việc thực hiện
phân bổ hạn ngạch người tị nạn cho các quốc gia thành viên EU thì một số quốc
gia khác, như Latvia, Hungary, Romania, Séc và Slovakia lại kiên quyết phản đối.
Hungary, Romania, Séc và Slovakia bỏ phiếu trống, Phần Lan bỏ phiếu trắng
trong cuộc bỏ phiếu thông qua hạn ngạch tiếp nhận người tị nạn tại cuộc họp của
các Bộ trưởng Nội vụ các quốc gia thành viên EU. Hàng trăm nghìn người tị nạn
từ các nước Syria, Afghanistan, Ethiopia, Sudan và Somali, thông qua cửa ngõ
phía nam của EU để hướng tới các nước như Đức, Áo hay Thụy Điển, những nơi
mà họ nghĩ có thể hưởng một cuộc sống sung túc hơn. Làn sóng người di cư
khổng lồ này đã hướng về châu Âu với hy vọng có một cuộc sống tốt hơn, dẫn
đến cuộc khủng hoảng nhập cư tồi tệ nhất tại lục địa này kể từ sau Chiến tranh thế
giới thứ 2. Cuộc khủng hoảng nhập cư châu Âu đang ngày càng leo thang khi mà
mỗi ngày có hàng ngàn người đổ về biên giới các nước thuộc EU.
- Thứ hai, sức ép kinh tế của khủng hoảng nhập cư đối với EU, nhất là trong
bối cảnh cuộc khủng hoảng nợ công Khu vực Đồng tiền chung Châu Âu
(Eurozone) chưa được hóa giải.
Các nền kinh tế châu Âu sẽ phải gánh chịu những tác động tiêu cực trong việc
giải quyết vấn đề người nhập cư trái phép làm gia tăng chi phí ngân sách công của
EU để cung cấp nhu yếu phẩm và nơi ở cho những người nhập cư cũng như xử lý
20
đơn xin tị nạn trong khi đa số các quốc gia thành viên của tổ chức này, đặc biệt là
những nước ở vùng biên giới, cửa ngõ (Hy Lạp, Bungary, Síp, Italia…) đang đối
diện với rất nhiều khó khăn về kinh tế. Đó là, tốc độ tăng trưởng kinh tế của EU
thấp, tỷ lệ thất nghiệp cao, tỷ lệ nợ công ở một số quốc gia vẫn cao; tỷ lệ thâm hụt
ngân sách ở nhiều quốc gia thành viên EU còn vượt ngưỡng cho phép, tỷ lệ lạm
phát quá thấp (ở mức 0,3% so với mục tiêu đề ra là 2%) đe dọa có thể trở thành
thiểu phát cụ thể:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2017, GDP tăng 2,3% trong khu vực đồng
euro và 2,4% trong EU28, so với 1,8% và 2,0% tương ứng trong năm 2016. GDP
tăng mức cao nhất được ghi nhận ở Estonia (+ 2,2%), Slovenia (+ 2,0%) và
Lithuania (+ 1,4%) so với quý III/ 2017, trong khi Hy Lạp và Croatia ghi nhận
mức tăng thấp nhất (+ 0,1%), tiếp theo là Ý và Latvia (cả 0,3%) [61].
Tỷ lệ thất nghiệp khu vực đồng euro (EA19) là 8,4% trong tháng 5 năm 2018,
ổn định so với tháng 4 năm 2018 và giảm từ 9,2% trong tháng 5 năm 2017. Đây là
tỷ lệ thấp nhất được ghi nhận trong khu vực đồng Euro kể từ tháng 12 năm 2008.
Tỷ lệ thất nghiệp EU28 là 7,0% trong tháng 5 năm 2018, ổn định so với tháng 4
năm 2018 và giảm từ 7,7% tháng 5 năm 2017. Đây là tỷ lệ thấp nhất được ghi
nhận trong EU28 kể từ tháng 8 năm 2008 [62].
Trong số các nước thành viên, tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất trong tháng 5 năm
2018 được ghi nhận ở Cộng hòa Séc (2,3%) và Đức (3,4%). Tỷ lệ thất nghiệp cao
nhất được ghi nhận ở Hy Lạp (20,1% vào tháng 3 năm 2018) và Tây Ban Nha
(15,8%). So với một năm trước, tỷ lệ thất nghiệp đã giảm ở tất cả các quốc gia
thành viên. Mức giảm lớn nhất đã được đăng ký tại Síp (từ 11,4% đến 8,4%),
Croatia (từ 11,3% đến 8,9%), Hy Lạp (từ 22,1% đến 20,1% giữa tháng 3/2017 và
tháng 3 năm 2018) và Bồ Đào Nha (từ 9,2% đến 7,3%) [62].
Quý 3 năm 2017, nợ công so với GDP ở Khu vực đồng Euro (EA19) ở mức
88,1%, so với 89,0% vào cuối quý 2 năm 2017. Trong EU28, tỷ lệ này cũng giảm
từ 83,3% đến 82,5% so với quý 3 năm 2016. Tỷ lệ nợ công cao nhất so với GDP
21
vào được ghi nhận ở Hy Lạp (177,4%), Ý (134,1%) và Bồ Đào Nha (130,8%), và
thấp nhất ở Estonia (8,9%), Luxembourg (23,4%) và Bulgaria (25,6%) [65].
Có thể nói, Kinh tế của châu Âu đang phục hồi trở lại, với việc thất nghiệp
trong khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) ở mức thấp nhất kể
từ tháng 12/2008. Tuy vậy những khoản chi ngân sách quá lớn cho việc giải quyết
nạn nhập cư trái phép có thể làm ảnh hưởng đến quá trình tái cơ cấu nền kinh tế
và ngân sách quốc gia.
- Thứ ba, sự xung đột lợi ích và chia rẽ trong nội bộ EU liên quan tới chính
sách và việc giải quyết vấn đề người nhập cư. Sự chia rẽ giữa các nước thành viên
ở Tây Âu và các nước Đông Âu đang làm phức tạp nỗ lực giải quyết cuộc khủng
hoảng di cư ngày càng trầm trọng. Trong khi một số nước Tây Bắc Âu đã đóng
góp rất lớn giúp người nhập cư thì các quốc gia EU thuộc khu vực Đông Âu và
XHCN cũ như Cộng hòa Czech, Rumani, Hungary, Ba Lan… lại phản đối kế
hoạch của EU, không đồng ý tiếp nhận người nhập cư và thậm chí không muốn
các nước EU khác tiếp nhận người nhập cư. Việc phân bổ hạn ngạch tiếp nhận
người tị nạn cho các thành viên cũng như biện pháp cụ thể xử lý cuộc khủng
hoảng khiến nội bộ EU chỉ trích lẫn nhau.
Châu Âu chưa có chính sách thống nhất về giải quyết người tị nạn, mặc dù
việc gia tăng người di cư vào châu Âu đã diễn ra từ ba năm nay và nhiều nước của
châu lục này đã tham gia Công ước quốc tế về người tị nạn; thậm chí một số nước
trong EU còn tham gia Hiệp ước Dublin về quy định trách nhiệm của các quốc gia
thành viên trong việc thực hiện các thủ tục đăng ký tiếp nhận người tị nạn, nhưng
trước áp lực mạnh mẽ của làn sóng người di cư, các quốc gia châu Âu đều bị động
và có quan điểm, chính sách xử lý rất khác nhau. Làn sóng người nhập cư vào
châu Âu đã và đang tạo ra thách thức không nhỏ đối với EU, buộc EU phải đề ra
các giải pháp cấp bách nhằm tháo gỡ những nút thắt của khủng hoảng. Theo đánh
giá của các nhà phân tích, mặc dù có những bất đồng về một chính sách chung đối
với người tị nạn, các nhà lãnh đạo của EU đang cố gắng xây dựng một cơ chế
22
phân bổ người tị nạn cho các nước thành viên. Theo đó, các nước thuộc EU phải
cùng nhau chia sẻ trách nhiệm tiếp nhận người nhập cư trên cơ sở điều kiện kinh
tế của mỗi nước. Thậm chí, EU còn yêu cầu các nước chuẩn bị gia nhập EU chia
sẻ trách nhiệm tiếp nhận người di cư và coi đó như một điều kiện tiên quyết để
gia nhập ngôi nhà chung châu Âu.
Do hậu quả của quá trình già hóa dân số, một số nước, trước hết là Đức, sẵn
sàng tiếp nhận người tị nạn, nhằm dễ dàng tuyển chọn nguồn nhân lực, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế đất nước. Trong khi đó, những quốc gia khác, như:
Italia, Hy Lạp và các nước vùng Balkan (Serbia, Hungary, Croatia) lại không sẵn
sàng tiếp nhận do lo ngại về an ninh và khó khăn kinh tế trong nước. Thay vì thực
hiện các quy định trong Hiệp ước Dublin, các nước “tuyến đầu” này đã kiên quyết
đóng cửa biên giới dẫn đến hỗn loạn và bất ổn ngày càng gia tăng, thậm chí nhiều
nơi đã xảy ra tình trạng bạo lực. Mặt khác, việc các nước sở tại ngăn chặn trên
đường bộ giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp đẩy người di cư vượt Địa Trung Hải để
đến miền đất hứa và các thảm cảnh trên biển đã xảy ra, khiến hàng nghìn người
thiệt mạng. Tuy nhiên, dòng người nhập cư muốn đến được các nước có nhu cầu
tiếp nhận (để tăng cơ hội có việc làm và điều kiện phúc lợi cao hơn) phải đi qua
những nước phản đối chính sách nhập cư. Như vậy, do thiếu một chính sách nhất
quán trong giải quyết vấn đề người di cư, các nước châu Âu đã làm cho cuộc
khủng hoảng vốn đã phức tạp lại càng phức tạp hơn [9].
Chính sách nhập cư là công cụ quan trọng trong việc đảm bảo an ninh mỗi
quốc gia. Trong bối cảnh mới, để đối phó với khủng hoảng người nhập cư ngày
càng tăng đòi hỏi EU và các quốc gia thành viên cũng phải điều chỉnh chính sách
và chiến lược quản lý nhập cư của mình nhằm hạn chế dòng người nhập cư ngày
càng tăng vào EU.
1.5. Tác động của nhập cư đến EU
Kể từ sau Thế chiến Thứ hai, khủng hoảng người di cư và người xin tị nạn
là một thách thức quan trọng nhất mà Liên minh châu Âu phải đối mặt kể từ khi
23
đặt nền móng xây dựng liên minh. Do chiến tranh, cơ hội kinh tế hạn hẹp và sự
bất ổn về chính trị ở Trung Đông, hàng triệu người di cư sang châu Âu để tìm nơi
tị nạn. Cuộc khủng hoảng di cư ở châu Âu đã và đang đặt ra nhiều thách thức đối
với các nước khu vực này, nhất là trong ngắn hạn khi dòng người di cư lên tới
hàng triệu người, kéo theo các khoản chi ngân sách lên tới hàng tỷ Euro mà chính
phủ các nước khu vực phải bỏ ra. Châu Âu sẽ ngày càng bất ổn, hỗn loạn, mất đi
bản sắc, là những nhận định được nhắc nhiều trong thời gian gần đây. Khủng
hoảng di cư ở châu Âu đang đặt ra nhiều bài toán về kinh tế đối với các nước khu
vực này, khi dòng người di cư lên tới hàng triệu người, kéo theo các khoản chi
ngân sách lên tới hàng tỷ Euro mà chính phủ các nước khu vực phải bỏ ra. Tác
động đối với hệ thống an sinh xã hội, tình trạng hỗn loạn về an ninh tại các khu
vực biên giới cũng như ở các thành phố của một số quốc gia EU, thái độ phân biệt
chủng tộc, sắc tộc gia tăng, nguy cơ khủng bố bao trùm khắp châu Âu…
1.5.1. Nhập cư gây sức ép lên nền kinh tế EU:
Khủng hoảng di cư còn tạo ra gánh nặng kinh tế đối với hầu hết các quốc
gia châu Âu, nhất là trong bối cảnh cuộc khủng hoảng nợ công trong khu vực
đồng tiền chung châu Âu chưa được hóa giải. Riêng nền kinh tế một số nước,
như: Hy Lạp, Italia, Hungary,… không chỉ phải chia sẻ nguồn lực cho công tác
cứu trợ nhân đạo về lương thực, y tế cho người tị nạn mà còn thiệt hại nặng nề về
doanh thu ngành du lịch. Ngoài ra, việc tiếp nhận số lượng lớn người tị nạn sẽ đặt
ra nhiều thách thức về giải quyết chỗ ở, việc làm trong khi nạn thất nghiệp ở hầu
hết các nước khu vực đồng tiền chung châu Âu chưa được khắc phục. Mặc dù
người di cư có thể thúc đẩy lực lượng lao động của nước tiếp nhận nhưng nhiều
quan điểm thận trọng vẫn cho rằng với số lượng dân tị nạn lớn từ Trung Đông và
châu Phi đổ về, nhiều người trong số đó không hề được đào tạo hay giáo dục, vì
vậy họ có thể trở thành gánh nặng cho tình hình tài chính công. Nhiều nước đang
phải tiếp nhận dân nhập cư là những nước đang chịu hậu quả suy thoái kinh tế
như Hy Lạp và Ý. Nhóm chống nhập cư cho rằng dòng người nhập cư sẽ tạo thêm
24
áp lực lên các dịch vụ công cộng như hệ thống y tế, nhà ở và giáo dục. Những
quốc gia giàu có ở châu Âu như Đức đang là điểm đến hấp dẫn nhất với người di
cư, nhưng mặc dù những nước này có thể tiếp nhận nhiều người nhập cư hơn để
bổ sung nguồn lao động trong nước, động thái đóng cửa biên giới mới nhất của
Đức cho thấy nước này cũng không muốn tiếp nhận quá nhiều người tị nạn. Do
vậy, cuộc khủng hoảng di cư lúc này thực sự trở thành thách thức lớn đối với EU.
Việc phối hợp chính sách giữa các nước thành viên trở nên không dễ dàng, khi mà
những động thái như siết chặt đường biên giới ở các nước như Đức, Áo hay việc
dựng hàng rào biên giới của Hungary, Hà Lan, ít nhiều đi ngược với Hiệp ước
Schengen. Trong khi đó, việc phân bổ số lượng người tị nạn giữa các nước EU
cũng không đạt được sự đồng thuận do một số nước thành viên không hoan
nghênh, như Hungary, Rumani, Cộng hòa Séc, Slovakia,…vì cho là xâm phạm
quyền tự chủ của mỗi nước. Cộng hòa Áo tuyên bố chỉ cho phép tối đa 6.000
người di cư được vượt qua biên giới mỗi ngày và sẽ dựng hàng rào dây thép gai
dọc biên giới với Slovenia; Hungary đóng cửa biên giới với Croatia, khiến dòng
người di cư từ Croatia chuyển về hướng Slovenia, và để đối phó lại, Slovenia bắt
đầu dựng hàng rào dây thép gai tại biên giới với Croatia. Ngược lên phía bắc,
Phần Lan thông báo không chấp thuận 2/3 tổng số đơn xin tị nạn tại nước này;
Đan Mạch cũng tuyên bố sẵn sàng siết chặt các quy định đối với những người xin
tị nạn; Thụy Điển - nước đầu tiên trong khối Schengen cho biết sẽ tạm thời khôi
phục các biện pháp kiểm soát biên giới. Quyết định này của Thụy Điển khiến EU
quan ngại có thể dẫn tới hiệu ứng “domino” tại nhiều quốc gia khác. Gánh nặng
giải quyết vấn đề người nhập cư trái phép làm gia tăng chi phí ngân sách của EU
trong khi đa số các quốc gia thành viên của tổ chức này, đặc biệt là những nước ở
vùng biên giới, cửa ngõ (Hy Lạp, Bungari, Síp, Italy…) đang đối diện với rất
nhiều khó khăn về kinh tế. Đó là, tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, tỷ lệ thất nghiệp
cao, nhu cầu tiêu dùng nội khối yếu, tỷ lệ nợ công ở một số quốc gia vẫn cao; tỷ
lệ thâm hụt ngân sách ở nhiều quốc gia thành viên EU còn vượt ngưỡng cho phép,
25
tỷ lệ lạm phát quá thấp (ở mức 0,3% so với mục tiêu đề ra là 2%) đe dọa có thể
trở thành thiểu phát .
Theo báo cáo của IMF, giai đoạn 2014 – 2016, ngân sách của các nước EU
dành cho người tị nạn đã tăng lên trông thấy. Cũng theo ước tính của tổ chức này
tính đến cuối năm 2017, GDP ở Áo, Đức và Thụy Điển - ba nước tiếp nhận số
người tị nạn lớn nhất, ngân sách dành cho việc giải quyết vấn đề người tị nạn tăng
lần lượt là 0,5%, 0,3% và 0,4% GDP. Và theo OECD, giai đoạn năm 2016- 2017,
EU sẽ phải tăng ngân sách khoảng 0.1 - 0,2% để bổ sung hỗ trợ người tị nạn [94].
Ủy ban Châu Âu, ngân sách cho khủng hoảng di cư và tăng cường quản lý
người nhập cư trong giai đoạn 2015-2018 đã tăng lên gấp đôi con số 9.6 tỷ Euro,
khoảng 22 tỷ Euro bao gồm các gói cứu trợ bên trong (9,6 tỷ Euro) và bên ngoài
EU (12,4 tỷ Euro) .
1.5.2. Tác động đến hệ thống an sinh xã hội
Tại Bỉ, mức chênh lệch tỉ lệ việc làm giữa người bản xứ (68,6%) và
người nhập cư (40,5%) được coi là cao nhất EU. Báo cáo do Hội đồng cấp cao về
việc làm của Bỉ công bố mới đây nêu rõ “kinh tế Bỉ có thể được hưởng lợi từ
những kỹ năng của những người nhập cư”. Tình trạng già hóa dân số ở Bỉ đang có
chiều hướng tăng lên nhưng số người trong độ tuổi lao động (15-64 tuổi) thì
tăng chậm lại. Sự xuất hiện của người nhập cư sẽ góp phần đảo ngược xu hướng,
giúp nước này giải quyết tình trạng thiếu lao động.
Nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển (OECD) cho thấy số
lượng người nhập cư nhận trợ cấp thất nghiệp cao hơn 1,4 lần người bản xứ, nhận
hỗ trợ về nhà ở cao hơn 1,5 lần và nhận trợ cấp gia đình cao hơn 1,3 lần. Tuy
nhiên theo nhà nghiên cứu Hippolyte d’Albis thuộc Trường Kinh tế Paris, người
nhập cư không làm tăng chi phí xã hội của nước đón tiếp vì lực lượng lao động
nhập cư thường trẻ hơn dân bản xứ, chưa cần đến quỹ an sinh xã hội về dịch vụ y
tế cũng như tiền hưu trí. Về trợ cấp thất nghiệp, nhà nghiên cứu Hippolyte d’Albis
phân tích người nhập cư không được nhận gì trước khi hoàn thành các điều kiện
26
cần thiết, đặc biệt, họ phải làm việc trong một thời gian tối thiểu nào đó. Hơn nữa,
chi phí đào tạo nghề cho nhười nhập cư không có. Do đó, không phải người nhập
cư bị đến EU để hưởng mức trợ cấp xã mà là khả năng tìm kiếm môi trường làm
việc ổn định, có thu nhập cao. Đức và Anh là những quốc gia mà người nhập cư
tìm đến nhiều nhất [2].
Năm 2016, Ủy ban châu Âu đang cam kết đẩy nhanh tiến độ thực hiện
Cơ sở cho người tị nạn ở Thổ Nhĩ Kỳ bằng cách tăng thêm 47 triệu Euro cho các
dự án mới, nâng tổng số tiền hỗ trợ cho Thổ Nhĩ Kỳ là gần 240 triệu Euro. Trong
đó 20 triệu EU được cam kết theo đóng góp cho việc ổn định và hòa bình (ICSP)
trong việc nâng cao năng lực của Cảnh sát biển Thổ Nhĩ Kỳ để thực hiện các hoạt
động tìm kiếm và cứu hộ 27 triệu Euro sẽ tài trợ cho cơ sở hạ tầng giáo dục, đào
tạo kỹ năng và hỗ trợ xã hội cho người tị nạn Syria dưới sự quản lý của Quỹ Ủy
thác khu vực của EU để ứng phó với khủng hoảng Syria. Tài trợ mới cho Thổ Nhĩ
Kỳ tập trung vào hai ưu tiên chính của Tuyên bố chung EU-Thổ Nhĩ Kỳ: cung
cấp học cho tất cả trẻ em và đầu tư vào sinh kế và gắn kết xã hội cho người tị nạn
và cộng đồng, đảm bảo sự ổn định và cung cấp cho những người tị nạn với hy
vọng và quan điểm của một cuộc sống tốt hơn.
1.5.3. Đe dọa an ninh EU
Ngoài sức ép về kinh tế, châu Âu còn đối mặt với những vấn đề an ninh, an
toàn, phúc lợi xã hội nảy sinh, như giải quyết những bất đồng, thái độ nghi kỵ,
quyền lợi,… giữa một bên là một bộ phận người dân nước sở tại với bên kia là
những người mới đến; giảm thiểu sự khác biệt trong ngôn ngữ, văn hóa, lối sống,
tôn giáo… khiến người nhập cư và người bản địa không thể dễ dàng, nhanh chóng
thích nghi với nhau; đó là tình trạng hỗn loạn về an ninh tại các khu vực biên giới
cũng như ở các thành phố của một số quốc gia EU. Ngăn chặn những phần tử của
Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng trà trộn trong dòng người di cư nhằm thực hiện
các hoạt động khủng bố, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh của nhiều nước, nhất là
27
đối với các nước tham gia hoạt động chống Tổ chức Nhà nước Hồi giáo tự xưng
(IS) ở Syria và Iraq.
Liên tiếp các vụ khủng bố năm 2015, 2016 tại các nước Pháp, Bỉ, Đức
được cho là đã lợi dụng cuộc khủng hoảng nhập cư và trà trộn vào dòng người xa
xứ để tiến hành khủng bố. Thảm kịch đánh bom và xả súng đêm 13/11/2015 tại
Paris, Pháp được đánh giá là vụ khủng bố quy mô và có thiệt hại về người lớn
nhất trong 40 năm trở lại đây ở châu Âu. 129 người thiệt mạng và 352 người bị
thương sau các vụ tấn công ở 6 địa điểm đông người. Ngày 22/3/2016 ba vụ đánh
bom liên hoàn xảy ra tại sân bay Zaventem và một ga tầu điện ngầm ở thủ đô
Brussels (Bỉ) làm 35 người thiệt mạng và hàng trăm người khác bị thương. Vụ
khủng bố diễn ra chỉ vài ngày sau khi Bỉ thông báo bắt được Saleh Abdeslam nghi
can chính trong loạt vụ tấn công khủng bố đẫm máu ở Paris năm 2015, xảy ra chỉ
4 tháng trước đó. Năm 2016, nước Đức phải hứng chịu 7 vụ tấn công.
Trong bối cảnh khủng bố liên tiếp xảy ra, EU cần phải cam kết tăng cường
hợp tác nội khối về an ninh quốc phòng để bảo vệ công dân cũng như đóng góp
vào hòa bình và ổn định trong khu vực lân cận. Dù vậy các cuộc tấn công khủng
bố vẫn chưa có dấu hiệu giảm đi mà ngày càng nghiêm trọng, tinh vi hơn. Người
tị nạn đến từ nhiều quốc gia khác nhau, mang đến sự đa dạng về ngôn ngữ, văn
hóa, tôn giáo,… tiềm ẩn nguy cơ xung đột văn hóa, căng thẳng sắc tộc và tôn
giáo, nhất là thách thức đối với việc giữ gìn giá trị châu Âu. Một số quốc gia còn
xảy ra tình trạng kỳ thị, tẩy chay đặc biệt là ở Pháp và Bỉ. Hiện nay, ở Châu Âu có
khoảng hơn 50 triệu người Hồi giáo nhập cư đang sinh sống, phần lớn họ sống
trong cảnh khó khăn về đời sống kinh tế, thất nghiệp, vô gia cư và nghèo đói. IS
tìm thấy một vùng đất mầu mỡ để tuyển mộ những thành phần bất mãn nhất trong
xã hội Châu Âu thành những phần tử khủng bố. Những cuộc biểu tình chống
người Hồi giáo, người Do Thái hay phân biệt sắc tộc biểu hiện rõ nét ở một số
nước EU, dẫn tới sự hình hành và lớn mạnh của các nhóm cực đoan cánh hữu bài
di cư, như ở Đức.
28
Tiểu kết chương 1
Có thể nói, quá trình hình thành chính sách nhập cư của EU gắn liền với
một trong những nguyên lí cơ bản của EU, đó là quyền được tự do đi lại của công
dân các nước thuộc EU. Do vậy, chính sách mà EU đề ra trước hết là nhằm thúc
đẩy sự tự do chu chuyển nội khối, từ đó tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế, sau đó
là nhằm chống lại những ảnh hưởng bất lợi của các nhóm nhập cư bất hợp pháp.
Trong bối cảnh khủng hoảng nhập cư, các nước châu Âu cần thúc đẩy các
nỗ lực kinh tế, ngoại giao,… nhằm giúp các nước khu vực Bắc Phi - Trung Đông
ổn định tình hình, loại trừ khủng bố, chấm dứt xung đột, lập lại hòa bình. Chỉ có
như vậy mới có thể giải quyết cuộc khủng hoảng di cư hiện nay một cách căn bản,
lâu dài, góp phần ổn định tình hình an ninh, kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân
ở khu vực đầy biến động này. Chính sách nhập cư là công cụ quan trọng trong
việc đảm bảo an ninh mỗi quốc gia. Trong bối cảnh mới, để đối phó với khủng
hoảng người nhập cư ngày càng tăng đòi hỏi chính sách và chiến lược quản lý
nhập cư của EU và các quốc gia thành viên đưa ra các giải pháp ứng phó với nhập
cư nhằm hạn chế dòng người nhập cư ngày càng tăng vào EU. Cuộc khủng hoảng
chưa từng có và nghiêm trọng nhất kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, đó là
cách người ta nói về cuộc khủng hoảng di cư ở châu Âu hiện nay. Thủ tướng Đức
Angela Merkel gọi đây là vấn đề lớn nhất mà Liên minh châu Âu phải đối mặt và
nó còn khó khăn hơn cả cuộc khủng hoảng nợ của Hy Lạp.
Như vậy, có thể nói, sau hơn ba năm kể từ khi cuộc khủng hoảng bắt đầu,
làn sóng di cư vẫn tiếp tục để lại những tấm bi kịch trên con đường di cư và trong
các trại tị nạn, gây nhiều tác động về an ninh, kinh tế và xã hội cho các nước phát
triển, nhất là tại châu Âu.
29
Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ VỚI NHẬP CƯ Ở LIÊN MINH
CHÂU ÂU
2.1. Tình hình nhập cư ở Liên minh Châu Âu
Vấn đề nhập cư không phải là vấn đề mới phát sinh ở Châu Âu mà sự gia
tăng đáng kể của nhập cư vào lục địa này đã bắt đầu từ sau chiến tranh thế giới
thứ II. Trong giai đoạn 1950 – 1990, tổng số người nước ngoài vào EU tăng gấp 4
lần từ 3,8 triệu (1,7% dân số) trong năm 1950 lên đến 10,9 triệu (3,3% dân số)
vào năm 1970 và 15 triệu (4,5% dân số) vào năm 1990. Số lượng người nhập cư
trong giai đoạn này tăng mạnh nhất ở Anh và Pháp vốn là hai Đế quốc với lãnh
thổ thuộc địa rộng lớn và khi kết thúc chiến tranh, hai nước này đã đón nhận một
lượng không nhỏ những người nhập cư, tị nạn đến từ các thuộc địa cũ [93].
Bước sang thế kỷ XXI, thực trạng nhập cư vào EU vẫn đang tiếp tục gia
tăng chưa có dấu hiệu giảm. Từ năm 2001 đến năm 2007, mỗi năm trung bình có
khoảng 2 triệu người nhập cư vào EU. Theo số liệu của Trung tâm cải cách châu
Âu, tính đến năm 2006, số lượng người nhập cư vào EU là khoảng 18,5 triệu
người, chiếm 3,8% tổng dân số EU, nhiều nhất là từ Thổ Nhĩ Kỳ, Maroc, Albani
Algérie [27, tr.59-60]. Số lượng người nhập cư tăng do các nước ban hành hàng
chục nghìn giấy phép nhập cư mỗi năm cho các mục đích đoàn tụ gia đình (gần
80% trong số 58.700 người đã được chấp nhận cho nhập cư tại Anh vào năm
2007 là phụ nữ và trẻ em) và các mục đích phục vụ lao động có tay nghề cao.
Từ năm 2008 đến năm 2009, EU đón hàng nghìn người nhập cư từ châu
Phi. Theo số liệu từ cơ quan thống kê châu Âu (Eurosat), riêng năm 2008, EU đón
khoảng 3,8 triệu người nhập cư, chủ yếu là từ các nước Bắc Phi. Đến năm 2009
con số này tuy có giảm nhưng vẫn ở con số khá cao khoảng 3 triệu người nhập cư
vào các nước thành viên của EU. Từ năm 2010 đến nay dân số EU đã vượt qua
ngưỡng 500 triệu người. Riêng năm 2011, Eurostat cho biết dân số EU đã tăng 1,4
triệu người (từ 499,7 triệu người lên 501,1 triệu người) và 63% của việc tăng dân
30
số này (tương ứng với 900.000 người) là người di cư và nhập cư, phần còn lại là
từ sinh nở [24].
Những con số về khủng hoảng nhập cư tại EU trong năm 2015 và năm
2016:
Cuộc khủng hoảng về người di cư ở châu Âu đang gia tăng mạnh, Cơ quan
quản lý biên giới châu Âu (Frontex) thống kê, có khoảng 340 000 người di cư từ
các nước Syria, Iran, Afghanistan, châu Phi đến châu Âu năm 2015, trong đó
tháng 7/2015 là 137000 người. Số người di cư trái phép vào EU trong 10 tháng
đầu năm 2015 là 1,2 triệu người - con số kỷ lục trong lịch sử EU. Hy Lạp, Italia
là những quốc gia có số lượng người di cư nhiều nhất, được xem là “cửa ngõ” của
châu Âu. Tại Hy Lạp, con số 473.000 người di cư, tăng gần 10 lần so với cả năm
2014, quốc gia “đầu tàu” của EU là Đức đã tiếp nhận 500.000 người tị nạn [100].
UNHCR công bố những con số kỷ lục: từ ngày 8 - 14/8/2015, gần 21.000 người
nhập cư vào Hy Lạp, tức là gần bằng 1 nửa số người vượt Đại Tây Dương vào
nước này trong cả năm 2014. Italia và Hungary cũng chung số phận khi cùng thời
điểm này cũng phải tiếp nhận tới 20.000 và 34.000 người nhập cư mỗi nước. Hơn
17.000 người di cư đã đến Croatia chỉ từ ngày 16/9 – 20/9/2015, thời điểm
Hungary phong tỏa đường biên giới với Serbia, quốc gia cũng được xem là nơi
trung chuyển để người di cư đi vào các nước Tây Âu. Ngày 18/9/2015, Hungary
đã chặn đoàn tàu chở người di cư từ Croatia vào nước này sau vụ hơn 4.000 người
vượt qua khu vực biên giới giữa hai nước. Trong bối cảnh một loạt quốc gia thuộc
khu vực Balkan tuyên bố đóng cửa biên giới, đồng nghĩa việc phong tỏa các lộ
trình của dòng người di cư tìm cách vào các nước Tây Âu. Khu vực biên giới
Croatia - Hungary và Slovenia đang trở thành điểm nóng mới trong cuộc khủng
hoảng người nhập cư. Theo thống kê của Tổ chức di dân Quốc tế (IOM), đầu
tháng 10/2015 có 541.297 người di cư tới châu Âu và có 2.887 người chết trên
biển Địa Trung Hải.
31
Hơn 31.000 người đã nhập cư vào châu Âu bằng đường biển thông qua Địa
Trung Hải kể từ đầu năm 2016 với đa số người dân đến từ Syria, Afghanistan và
Iraq, theo IOM số lượng người đổ về châu Âu trong tháng 1/2016 gấp 21 lần so
với năm 2015. Tháng 5/2016, đã có khoảng 189.414 người tị nạn và nhập cư đến
Châu Âu con số người chết trên đường di là 1357 người giảm so với người chết
năm 2015 [79]. Trong năm 2017, số người nhập cư bất hợp pháp vào EU giảm
xuống còn khoảng 204.300 người, giảm 500.000 người trong năm 2016 [68].
Một thỏa thuận giữa EU và Thổ Nhĩ Kỳ đã cho phép “vô hiệu hóa” tuyến
đường biển chính nối Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp, góp phần quan trọng trong việc
ngăn chặn lượng lớn người di cư tới châu Âu bằng đường biển. Trên một tuyến
đường biển khác, nối Bắc Phi với Italy, số người di cư sang châu Âu có giảm
nhưng mức độ giảm ít hơn. Theo số liệu của Bộ Nội vụ Italy, có 119.310 người di
cư đã tới châu Âu theo tuyến đường này trong năm 2017, giảm 1/3 so với con số
ghi nhận trong năm 2016 [17].
32
Hình 2.1: Số lượng người di cư từ Syria đến các nước Châu Âu và láng giềng
Số lượng người Syria (triệu)
Các nước Trung Đông và Bắc Phi Các nước ở Liên minh Châu Âu
Các quốc gia không thuộc Liên minh Châu Âu
33
Nguồn: United Nations High Commissioner for Refugees (2016), “Syria Regional
Refugee Response: interagency information-sharing portal” and National Audit
Office (2016), “The response to the Syrian refugee crisis –an international
comparison”, UK, SEPTEMBER 2016.
Tuyến đường chính của người di cư đến châu Âu [92]:
- Trung Địa Trung Hải (Italy và Malta): Hơn 120.000 người di cư và người
tị nạn đã tới châu Âu qua Địa Trung Hải Trung giữa tháng Giêng và tháng
Chín. Hầu hết họ đi trên những chiếc thuyền buôn lậu khởi hành từ Libya,
Tunisia, Ai Cập hay. Đây là tuyến đường cực kì nguy hiểm và là nơi xảy ra thảm
kịch người di cư trong tháng 10/2013 và tháng 4/2015, khiến cho EU phải kêu gọi
các nước đưa ra một phản ứng khẩn cấp để đối phó với tình trạng này. Sang năm
2015, tuyến đường này đã bớt được sử dụng do tình trạng bất ổn gia tăng ở
Libya, nhưng vẫn là tuyến đường chính để vào châu Âu của dân di cư ở phía Nam
Sahara.
- Đông Địa Trung Hải (Hy Lạp / Aegean Sea): Đông Địa Trung Hải đã trở
thành các tuyến đường hàng hải chủ yếu của người dân di cư trong năm 2015.
Hơn 350.000 người đã vượt qua từ Thổ Nhĩ Kỳ đến Hy Lạp (phần lớn các hòn
đảo Hy Lạp như Lesbos và Kos gần bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ) trong chín tháng đầu
năm 2015. Sự thay đổi hướng di chuyển đến Đông Địa Trung Hải là do dân di cư
của Syria tìm thấy một con đường mới dễ dàng hơn và an toàn hơn đến châu Âu
qua Thổ Nhĩ Kỳ cho Hy Lạp. Chuyến hành trình ngắn từ Thổ Nhĩ Kỳ đến những
hòn đảo Hy Lạp chỉ mất một vài dặm và lại an toàn hơn so với các tuyến đường ở
Trung Địa Trung Hải. Một số báo cáo chỉ ra rằng những người tị nạn có thể tự
mình thực hiện cuộc hành trình tự mà không cần dựa vào những kẻ buôn lậu.
- Tây Balkan (Hungary): Hơn 155.000 người vượt Serbia để đi vào
Hungary giữa tháng Giêng và tháng Tám. Hai nhóm chính đi tuyến đường này đó
là: người dân ở khu vực Tây Balkan, đặc biệt là từ Kosovo và Albania và người di
cư và tị nạn xuất phát từ Hy Lạp để sang các nước còn lại của Liên minh châu Âu.
34
Hình 2.2: Những tuyến đường chính của người di cư tới EU
Nguồn: Natalia Banulescu, Bogdan and Susan Fratzke (2015), “Europe’s
Migration Crisis in Context: Why Now and What Next”? ,
http://www.migrationpolicy.org/article/europe-migration-crisis-context-why-now-
and-what-next, tải 2/9/2017.
2.2. Giải pháp ứng phó với nhập cư của Liên minh châu Âu
Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng người nhập cư diễn ra ngày càng trầm
trọng việc EU thắt chặt chính sách nhập cư là dễ hiểu. Các biện pháp thắt chặt
nhập cư đã bắt đầu từ cuối năm 2015 và được nhiều nước áp dụng trong năm
2016. Điều này tạo áp lực buộc EU sẽ phải thay đổi một số nội dung Hiệp ước
liên quan đến việc tự do đi lại, cư trú và kiểm soát biên giới trên lãnh thổ các quốc
gia thành viên trong khu vực Schengen.
35
Tuy nhiên, việc kiểm soát biên giới trong khối Schengen sẽ là bước đầu
dẫn đến sự sụp đổ của khối tự do đi lại lớn nhất thế giới - một biểu tượng đoàn
kết, tự do và thịnh vượng của châu Âu. Trong đó, cho phép người dân ở các quốc
gia nội khối tự do đi lại, không cần thị thực. Các nhà lãnh đạo châu Âu đã tổ chức
nhiều cuộc họp thượng đỉnh để tìm lời giải cho bài toán người nhập cư, những
điều chỉnh chính sách nhập cư nhằm hạn chế dòng người di cư đang đổ bộ vào
EU. Những giải pháp ứng phó với nhập cư của EU sẽ góp phần quản lý tốt dòng
người nhập cư, giải quyết các vấn đề an ninh tại các khu vực và trong lòng EU,
giải quyết những bất đồng chia sẽ trong EU về vấn đề người nhập cư.
2.2.1. Các giải pháp ngắn hạn:
Liên minh châu Âu (EU) đã tiến hành nhiều cuộc họp khẩn cấp nhằm giải
quyết cuộc khủng hoảng nhập cư. Nhưng cho đến nay, lãnh đạo các quốc gia
thành viên EU vẫn chưa đạt đồng thuận để đưa ra một chiến lược chung đầy tham
vọng.
Trước làn sóng người nhập cư ngày càng vượt tầm kiểm soát, Ngày
20/4/2015, cuộc họp chung của Ngoại trưởng và Bộ trưởng Nội vụ châu Âu tổ
chức tại Luxembourg, đã đưa ra một kế hoạch 10 điểm về các giải pháp trước mắt
mà EU thực hiện để đối phó với cuộc khủng hoảng người nhập cư ở Địa Trung
Hải với mục đích ngăn chặn tình trạng nhập cư trái phép vào châu Âu gồm [72]:
1) Tăng cường các hoạt động chung ở Địa Trung Hải, cụ thể là chiến dịch
tuần tra Triton và Poseidon, bằng cách tăng nguồn tài chính và số lượng tài sản,
mở rộng phạm vi hoạt động, cho phép can thiệp thêm, trong nhiệm vụ của
Frontex; Cơ quan Frontex đã phá vỡ nhiều tổ chức buôn bán người hoạt động rất
tinh vi, đưa người từ Tây Phi, Afghanistan và Trung Đông vào EU. Để làm được
điều này việc chia sẻ thông tin tình báo giữa các cơ quan cảnh sát và an ninh của
các nước là điều rất quan trọng. Europol, cơ quan cảnh sát của EU đã nỗ lực tập
trung vào vấn đề buôn bán người qua biên giới. EU cần hợp tác tốt hơn với các
36
nước bên ngoài, nơi có nhiều hoạt động buôn bán người qua biên giới hoặc là nơi
trung chuyển của hoạt động này như Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Nga [100].
Các nước xuất xứ của người tị nạn và các nước tiếp nhận quá cảnh cũng
phải tính đến những biện pháp kiên quyết để tránh những làn sóng di cư đang ồ ạt
vào châu Âu. Chính phủ các nước EU phải tăng cường các biện pháp phối hợp
với cơ quan Frontex, hỗ trợ tài chính cho các chương trình cứu hộ, đấu tranh lâu
dài với các tổ chức buôn người và tạo ra những con đường hợp pháp để hội nhập
EU. Với một cái nhìn để ngăn chặn di cư bất thường, để đảm bảo rằng mỗi quốc
gia EU kiểm soát hiệu quả phần riêng của mình bên ngoài biên giới của EU và
xây dựng lòng tin vào tính hiệu quả của hệ thống quản lý di cư của EU cần phải:
Thiết lập một cơ chế đánh giá để xác minh các ứng dụng chính xác của các acquis
Schengen; Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan giám sát biên giới (đó là mục
đích của hệ thống giám sát biên giới châu Âu - Eurosur); Xem xét việc thành lập
một hệ thống xuất nhập cảnh châu Âu, đảm bảo rằng dữ liệu của các công dân
không thuộc EU có sẵn để kiểm soát tại biên giới. Một chương trình du lịch đã
đăng ký cho phép công dân ngoài EU sử dụng một hệ thống tự động kiểm soát
biên giới khi vào EU.
EU thành lập hai cơ quan bảo vệ biên giới mới: Trong năm 2015 có 1,83
triệu người di cư bất hợp pháp tại biên giới bên ngoài của EU. Con số này giảm
xuống còn 504.000 trong năm 2016. Phản ứng của EU đối với cuộc khủng hoảng
di cư bao gồm các biện pháp tăng cường kiểm soát biên giới của EU và giải quyết
hiệu quả hơn với các đơn xin tị nạn [59]. Việc tăng cường kiểm soát đối với biên
giới bên ngoài của EU là một mục tiêu chính đáng và cần thiết. Vào tháng
12/2015, Ủy ban Châu Âu (EC) đã đưa ra một đề xuất thành lập thành lập một Cơ
quan biên giới và cảnh sát biển với quyền lực lớn để đảm bảo an ninh biên giới
khối Schengen và xử lý khủng hoảng tị nạn [83]. Cơ quan mới này bằng cách kết
hợp lực lượng quản lý biên giới các nước khối Schengen với cơ quan biên giới
hiện tại của EU là Frontex [44]. Bộ Lực lượng biên phòng và Cảnh sát châu Âu
37
được thành lập vào tháng 10/2016 với hơn 550 nhân viên tham gia để hỗ trợ các
quốc gia thành viên ở ngoài biên giới, ngoài 100.000 biên phòng hiện có tại các
quốc gia thành viên. Nó sẽ nhận được 322 triệu euro tiền vào năm 2020 và sẽ có
nhiều quyền hạn hơn, bao gồm lực phản ứng nhanh [41]. Ủy ban châu Âu cũng
đã đề xuất rằng cơ quan mới cũng sẽ chịu trách nhiệm trục xuất người tị nạn,
những người không đủ điều kiện cho châu Âu xin tị nạn theo tiêu chí của mình.
Biện pháp này nhằm tăng cường quản lý và đảm bảo an ninh biên giới bên
ngoài của Liên minh châu Âu (EU) trước làn sóng ngày càng gia tăng của người
di cư từ khu vực Trung Đông và Bắc Phi. EC sẽ trực tiếp quản lý cơ quan biên
giới mới này và sẽ có quyền ra quyết định triển khai lực lượng biên phòng tới
biên giới một quốc gia thành viên nếu xác định nước đó không kiểm soát an ninh
biên giới một cách hiệu quả. Cao ủy Di trú EU, Dimitris Avramopoulos khẳng
định giải pháp của EC là cần thiết bởi chính phủ các nước khối Schengen đang bị
“ngộp” với làn sóng người di cư và tị nạn khổng lồ tràn vào châu Âu. Ngoài ra,
các thành viên cũng đã ủng hộ một đề xuất để tăng cường văn phòng Hỗ trợ tị nạn
châu Âu hiện tại (EASO), mà sẽ trở thành Cơ quan tị nạn EU. Nó sẽ có trách
nhiệm tăng cường hợp tác giữa các quốc gia thành viên, cung cấp các nước quá
tải với sự hỗ trợ kỹ thuật và nhân lực, và theo dõi sự phân bố công bằng của
những người tị nạn giữa các quốc gia thành viên. EASO được hỗ trợ bởi
EUROPOL trong việc thực hiện các chức năng vận hành và cùng nhau tạo thành
Nhóm hỗ trợ quản lý di chuyển (MMST). Theo hệ thống Dublin, hai tổ chức này
sẽ hỗ trợ các cơ quan chức năng quốc gia tại các nước tiếp nhận đầu tiên trong
phạm vi kiểm tra của EU và đăng ký xin tị nạn [95].
Ngoài ra, EU nhằm tăng cường vai trò của EUROPOL như một trung tâm
tình báo để tháo dỡ mạng lưới tội phạm và các hoạt động chính sách an ninh và
quốc phòng chung ở Địa Trung Hải để nắm bắt tình hình và tháo dỡ các tàu
thuyền buôn lậu người di cư sang châu Âu.
38
EU đã hỗ trợ Hy Lạp và Ý để thành lập các điểm nóng giúp các cơ quan
chức năng tại các quốc gia này quản lý tốt hơn các luồng di cư đến, gửi các
chuyên gia từ các quốc gia thành viên để xác định và đăng ký những người đến và
thông báo cho họ về quyền của họ khi áp dụng quyền bảo vệ quốc tế.
EU cần tăng cường các biện pháp kiểm soát chặt các đường biên giới, tăng
cường lực lượng và phương tiện cho cơ quan kiểm soát biên giới Frontex; tăng
cường chia sẻ thông tin hợp tác về an ninh giữa các nước thành viên EU cũng như
với các nước có đường biên giới với EU. Đồng thời EU cần nỗ lực và mạnh tay
hơn nữa trong cuộc chiến chống lại nạn buôn người lợi dụng vấn đề nhập cư đưa
người vào châu Âu.
2) Các tổ chức Cảnh sát Châu Âu (EUROPOL), FRONTEX, Văn phòng hỗ
trợ Di dân Châu Âu (EASO) và Đơn vị Hợp tác tư pháp EU (EUROJUST) sẽ họp
thường xuyên và hợp tác chặt chẽ để thu thập thông tin về các phương thức điều
hành buôn lậu, để theo dõi và để hỗ trợ cho việc điều tra của họ, tăng cường kiểm
soát biên giới và bờ biển; Nhằm giảm dòng người di cư vào khu vực Châu Âu,
EU đã tăng cường gấp ba lần lực lượng bảo vệ biên giới nhằm hỗ trợ cứu sống
người tị nạn cũng như giải quyết nạn buôn người. Các số liệu thống kê cho thấy,
với hơn 5.000 người di cư bị thiệt mạng trên Địa Trung Hải, năm 2016 là năm có
nhiều người thiệt mạng nhất - vượt 1.300 người so với năm 2015. Kể từ đầu năm
2017 đến nay đã có khoảng 1.800 người di cư thiệt mạng trên biển. Chỉ tính riêng
trong tháng 6/2017, số người di cư chết và mất tích trên biển lên tới 1.622 người
[13]. EU đã thực hiện các hoạt động tìm kiếm và cứu hộ ở Địa Trung Hải, tăng
gấp ba lần các lực lượng làm việc trên biển để cứu hơn 400,000 mạng sống vào
năm 2015 và 2016. Hơn 2.000 kẻ buôn người và buôn lậu đã bị bắt và 375 tàu bị
tiêu hủy [51]. Trong 3 năm qua, lực lượng hải quân của Italy và châu Âu đã tăng
cường tuần tra trên biển, giáp ranh với các đường lãnh hải Libya. Tuy nhiên, các
lực lượng này không thể vượt qua ranh giới cũng như không thể “tuyên chiến”
trực tiếp với bọn buôn lậu, cũng như không thể tấn công trang thiết bị hoặc căn cứ
39
của bọn buôn người.
3) Tịch thu và tiêu hủy các tàu vận chuyển người nhập cư trái phép;
4) Liên minh châu Âu và các nước thành viên đã tiến hành thực hiện công tác
lập hồ sơ và quản lý chặt chẽ người nhập cư bằng cách lấy dấu vân tay và quản lý
trên hệ thống với người nhập cư khi họ đến Châu Âu;
5) Triển khai cán bộ xuất nhập cảnh liên lạc (ILO) tại các nước thứ ba quan
trọng, để thu thập thông tin tình báo về các luồng di cư và tăng cường vai trò của
các phái đoàn EU.
6) Triển khai các đội của EASO đến Italia và Hy Lạp để xử lý các đơn xin tị
nạn;
7) Xem xét các lựa chọn cho cơ chế di chuyển khẩn cấpvà một cơ chế tái cư
khẩn cấp;
8) Thiết lập một chương trình hoàn trả mới để nhanh chóng đưa người nhập
cư bất hợp pháp về đất nước họ do Frontex điều phối từ các nước thành viên
tuyến đầu;
9) Cam kết với các láng giềng của Libya thông qua nỗ lực phối hợp giữa Ủy
ban và Cơ quan Hành động đối ngoại Châu Âu (EEAS);
10) EU triển khai một dự án tái định cư thí điểm trên cơ sở tự nguyện nhằm
cung cấp nơi ở cho những đối tượng cần được bảo vệ;
Có thể nói, Kế hoạch 10 điểm là một công cụ giúp các chính phủ và các bên
liên quan khác kết hợp các cân nhắc về bảo vệ người tị nạn. Kế hoạch 10 điểm
bao gồm 10 điểm hành động, mỗi đề xuất về các công cụ và chiến lược thực tiễn,
công cụ bảo vệ được thông qua như một phần của phản ứng hiệu quả của nó.
Trọng tâm của Kế hoạch 10 điểm là các hoạt động ở các nước quá cảnh và điểm
đến, dựa trên nền tảng hợp tác và chia sẻ gánh nặng giữa các quốc gia quan tâm
và các bên liên quan khác. Nó kết hợp cả hai hoạt động bảo vệ truyền thống cũng
như các đề xuất cụ thể để bảo vệ người tị nạn và những người xin tị nạn đi du
lịch. Tuy nhiên, kế hoạch này không giải quyết được nguyên nhân gốc rễ của
40
cuộc khủng hoảng di cư ở châu Âu hiện nay. Trong những năm gần đây, dòng
người nhập cư đổ vào EU rất đông đảo, bao gồm cả những người chạy tỵ nạn từ
Bắc Phi do chiến tranh và những người nhập cư bất hợp pháp đến từ nhiều khu
vực khác nhau đến EU, chính sách đối với những đối tượng này thu hút sự quan
tâm lớn.
2.2.2. Các giải pháp trung hạn
2.2.2.1. Kiểm soát biên giới nội bộ EU
Năm 1985, năm nước EU đầu tiên (Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan, Lucxembourg) đã
ký hiệp định Schengen với mục đích xóa bỏ các chế độ kiểm tra về hộ chiếu, và
các kiểm soát khác giữa các nước tham gia và thiết lập một đường biên giới
chung với bên ngoài. Các nước khác cũng bắt đầu tham gia vào Schengen sau đó
(trừ Anh). Hiệp ước Schengen là hiệp ước về đi lại tự do và thiết lập một đường
biên giới chung với bên ngoài do một số nước Châu Âu ký kết. Hiệp ước quy
định:
- Đối với người nước ngoài, muốn vào Vùng Schengen phải xin một thị
thực đồng nhất gọi là thị thực Schengen tại sứ quán hay lãnh sự quán của một
nước mà mình muốn tới đầu tiên, sau đó có thể tự do đi lại trong Vùng Schengen.
Loại thị thực này thường chỉ có thời hạn tối đa là 3 tháng.
- Hiệp ước Schengen còn quy định rõ về một công dân mang quốc tịch EU
và một công dân ngoài EU. Đối với người mang quốc tịch EU, các nước thành
viên của khu vực Schengen cho phép công dân của một nước thứ 3 (trong khu vực
này) tự do di chuyển với điều kiện có giấy phép cư trú hoặc thị thực du lịch, nghỉ
dưỡng trong vòng 3 tháng (90 ngày) và thị thực có thời hạn 6 tháng (180 ngày).
Riêng những công dân nước thứ 3 cư trú bất hợp pháp nhưng nếu đã vào các nước
này một cách hợp pháp thì thời gian còn lại sẽ được tính theo khoảng thời gian
cho phép ở trên.
- Đối với công dân không phải là thành viên EU, các nước trong khu vực
Schengen sẽ đưa ra các quy định chung về lưu trú ngắn hạn bao gồm các chính
41
sách thị thực chung về việc công nhận lẫn nhau và điều kiện cấp thị thực. Các
nước trong Schengen sẽ không cấp thị thực cho phép ở lại lâu dài cũng như giấy
phép cư trú hoặc tự do đi lại cho công dân ngoài EU. Những vấn đề này sẽ được
điều chỉnh bởi luật pháp của các quốc gia thành viên. Tuy nhiên, các nước thành
viên Schengen cũng sẽ có những điều kiện và cấp giấy phép cư trú đối với một số
trường hợp đặc biệt được bảo vệ quốc tế hay nằm trong diện tị nạn với lí do nhân
đạo.
- Tuy vậy, năm 2015, Đức, Áo, Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch thuộc khu
vực Schengen đã áp dụng biện pháp kiểm soát biên giới khẩn cấp sau khi hơn một
triệu người tị nạn và di cư tràn vào châu Âu. Theo điều 29 của Hiệp ước, trong
các tình huống biên giới Schengen bị đe dọa, các nước có thể tái áp đặt kiểm soát
biên giới tối đa tới 2 năm với mỗi giai đoạn áp dụng kéo dài 6 tháng. Ủy ban châu
Âu, các cơ quan của EU và các nước sẽ cùng thành lập một cơ quan mới nhằm
đánh giá và giám sát việc tuân thủ các quy tắc kiểm tra biên giới. Những chuyến
thị sát này sẽ không được báo trước với mục đích ngăn chặn việc kiểm soát đường
biên giới nội bộ một cách bất hợp pháp, trái với quy định Hiệp ước Schengen.
Đức đã kiểm soát biên giới nội bộ từ ngày 13/9/2015 cho đến ngày
13/5/2016 , tập trung đặc biệt ở biên giới Đức - Áo.
Áo đã kiểm soát kể từ ngày 16/9/2015 đến 16/5/2016 tại biên giới nội bộ,
với sự tập trung đặc biệt trên đất Áo - Slovenia và Áo - Hungary. Thụy Điển đã
kiểm soát từ ngày 12/11/2015 đến tháng 8/2016, Na Uy đã kiểm soát kể từ
26/11/2015 đến 12/5/2016, Đan Mạch đã kiểm soát kể từ 04/1/2016 cho đến
02/6/2016 tại tất cả biên giới nội bộ của mình. Vấn đề tị nạn và nhập cư đã buộc
các nước này phải bỏ lợi ích chung của EU để đảm bảo lợi ích riêng của nước
mình.
Theo các quy định của Hiệp ước Schengen về tự do đi lại tại châu Âu, việc
kiểm soát biên giới có thể được tiến hành nếu có quan ngại về an ninh. Vì vậy
tháng 4/2018, Đức, Pháp, Áo, Thụy Điển, Đan Mạch và Na Uy [20] quyết định
42
kéo dài việc kiểm soát biên giới thêm sáu tháng nữa, sẽ chính thức có hiệu lực từ
ngày 12/5/2018. Năm 2017, các nước này đã nhất trí kéo dài việc kiểm soát biên
giới bên trong châu Âu đến giữa tháng 5/2018 trong nỗ lực đảm bảo an ninh cho
châu Âu. Các biện pháp kiểm soát biên giới mới hoặc tạm thời chống lại nạn di cư
(Bungari); lắp đặt thiết bị bảo vệ biên giới tạm thời (Croatia); Hơn nữa, năm quốc
gia thành viên đã tiến hành các chiến dịch thông tin và nâng cao nhận thức ở các
nước thứ ba thông qua các phương pháp truyền thông khác nhau như tờ rơi, áp
phích, hội thảo, truyền hình, trang web, chương trình phát thanh và các bài báo.
Đặc biệt là các kênh truyền thông về các vấn đề xã hội dành cho công dân
Afghanistan, Iraq và Somali thông qua Facebook, YouTube và Instagram [56].
Có thể nói, các nước này cùng một số thành viên khác có những động thái
như vậy để vừa bảo vệ mình vừa tăng áp lực buộc EU phải nhanh chóng nhất trí
về việc điều chỉnh chính sách nhập cư của EU. Vì vậy, EU sẽ gặp nhiều khó khăn
khi thách thức mới xuất hiện hơn, bất đồng nội bộ sâu sắc về định hướng chính
sách lâu dài.
Ngoài ra, các biện pháp chính trị và an ninh đã được thực hiện để giải
quyết mối lo ngại về an ninh ở châu Âu sau cuộc tấn công Paris vào tháng 11 năm
2015. Ủy ban Châu Âu kêu gọi thành lập một cơ quan tình báo EU. Các Bộ
trưởng Châu Âu đồng ý tăng cường an ninh biên giới và thắt chặt kiểm soát biên
giới, đàm phán khẩn cấp tại Brussels để siết chặt kiểm tra tất cả các du khách ở
biên giới của khu vực Schengen .
Tóm lại, các nước thành viên EU đang thực hiện các biện pháp để thắt chặt
kiểm soát trên biên giới của họ. Sự di chuyển tự do của con người, vốn và hàng
hóa và dịch vụ được coi là yếu tố cơ bản của hội nhập châu Âu. Giữa những lo
ngại về di cư và an ninh gia tăng, miễn hộ chiếu trong khu vực Schengen đã tạo ra
những thách thức cho EU. Bộ trưởng Nội vụ Vương quốc Anh lưu ý rằng hệ
thống Schengen đã gia tăng di cư bất thường tại EU. Thụy Điển, Hungary, Phần
Lan và Áo đã áp dụng kiểm tra tạm thời trên biên giới để kiểm soát dòng người
43
nhập cư. Hungary đã thực hiện các bước nghiêm ngặt để đặt hàng rào dây thép gai
và tuyên bố tình trạng khẩn cấp ở các khu vực biên giới. Đức cũng tăng cường
kiểm tra tại biên giới với Áo. Kiểm soát biên giới giả định một khía cạnh khác khi
chính phủ mới của Ba Lan yêu cầu kiểm soát quốc gia lớn hơn đối với biên giới
của các nước thành viên. Sự căng thẳng trong thỏa thuận Schengen đã nổi lên, và
khu vực Schengen có nguy cơ sụp đổ.
2.2.2.2. Điều chỉnh kế hoạch phân bổ hạn ngạch người nhập cư
Ngày 13/5/2015, Chương trình nghị sự châu Âu về di cư được Ủy ban châu
Âu công bố để phác thảo các biện pháp ngay lập tức và dài hạn để quản lý di cư
tốt hơn. Chiến lược mới đặt nền móng cho EU và các quốc gia thành viên của
mình để giải quyết các thách thức trước mắt và lâu dài về quản lý các luồng di
chuyển một cách hiệu quả và toàn diện. Cùng với các hành động ngay lập tức để
đối phó với tình trạng khẩn cấp của cuộc khủng hoảng đang diễn ra, Chương trình
nghị sự châu Âu về di cư đã giới thiệu các đề xuất cải cách cơ cấu để quản lý di
cư trong tất cả các khía cạnh của nó trong dài hạn. Chúng được chia thành bốn trụ
cột: 1. Giảm các ưu đãi cho di dân bất thường; 2. Cứu mạng sống và bảo đảm
biên giới bên ngoài; 3. Hoàn thành một chính sách tị nạn phổ biến mạnh; 4. Xây
dựng chính sách mới về di cư hợp pháp [67].
Vào tháng 10 năm 2015, Ủy ban châu Âu đã tuyên bố thành lập một số điểm
nóng tại Ý và Hy Lạp, nơi EASO, Frontex và EUROPOL sẽ làm việc trên nền
tảng với các lực lượng đặc nhiệm của các nước thành viên tuyến đầu để nhanh
chóng xác định, đăng ký và nhập dấu vân tay, tiến hành sàng lọc người tị nạn và
điều phối trở lại. Ý tưởng cốt lõi là ba cơ quan làm việc bổ sung hỗ trợ nhau, với
các nhóm hỗ trợ EASO giúp xử lý các trường hợp tị nạn nhanh chóng; Frontex
giúp các nước thành viên bằng cách điều phối sự trở lại của những người di cư bất
thường; Europol và Eurojust hỗ trợ các nước thành viên ngăn chặn nạn buôn lậu
và buôn người.
Ngày 27/5/2015, đề xuất di dời khẩn cấp được Ủy ban châu Âu đưa ra để di
44
chuyển 40.000 người cần bảo vệ từ Hy Lạp và Ý sang các nước thành viên EU
khác, yêu cầu các nước thành viên tái định cư 20.000 người tị nạn từ bên ngoài
EU, một kế hoạch hành động của EU chống buôn lậu di dân, hướng dẫn về dấu
vân tay và tham vấn cộng đồng về tương lai của chỉ thị thẻ xanh đã được đề xuất
[109].
Để chia sẻ số lượng người nhập cư vào các nước EU tuyến đầu như Hy Lạp,
Italia, EU đã đưa ra hạn ngạch nhập cư cho mỗi nước trên sơ sở dân số và GDP
của họ và nhận được sự nhất trí của các thành viên. Ngày 9/9/2015, gói đề xuất
giải quyết cuộc khủng hoảng tị nạn do Ủy ban châu Âu công bố, bao gồm đề nghị
tái định cư khẩn cấp thứ hai (120.000 người từ các nước tiền tuyến), Quỹ Ủy thác
khẩn cấp EU cho châu Phi và cơ chế tái định cư vĩnh viễn. Một danh sách châu
Âu về các quốc gia xuất xứ an toàn đã được phát triển. Kế hoạch được chia làm
hai giai đoạn. Trong 120.000 người di cư, 66.000 người ở Hy Lạp và Italia sẽ
được phân bổ cho các nước EU. Người nhập cư phản đối sẽ bị đưa trả về nước sở
tại. 54.000 người còn lại (cũng ở Hy Lạp và Italia) sẽ được phân bổ sau. EU sẽ lập
các trung tâm đăng ký người xin tị nạn ở Hy Lạp và Italia do EU quản lý để phân
loại người di cư.
Kế hoạch phân bổ người di cư gồm Đức: 17.036 người, Pháp: 12.962, Tây
Ban Nha: 8.113, Ba Lan: 5.082, Hà Lan: 3.900, Rumani: 2.475, Bỉ: 2.448, Thụy
Điển: 2.397, Áo: 1.953, Bồ Đào Nha: 1.642, Cộng hòa Czech: 1.591, Phần Lan:
1.286, Bungary: 852, Slovakia: 802, Croatia: 568, Litva: 416, Slovenia: 337,
Latvia: 281, Luxembourg: 237, Estonia: 199, Cyprus: 147, Malta: 71 người [44].
Mặc dù cơ chế phân chia thường xuyên người nhập cư để chia sẻ với những
nước “tuyến đầu” là cần thiết, nhưng số lượng người tị nạn ở từng quốc gia đang
lên tới con số vượt giới hạn định ra trong năm 2015, cùng với đó là chi phí phát
sinh quá lớn, khiến ngay cả nền kinh tế hàng đầu EU là Đức cũng phải đầu hàng.
Trong năm 2015, Đức tiếp nhận đến 1 triệu người tị nạn, gấp 5 lần so với con số
của năm 2014. Theo IOM, cho biết tính đến ngày 12/10/2016 số người nhập cư
45
và tị nạn tới được châu Âu là hơn 317.200 người. Trong đó, hơn 168.000 người
đã tới Hy Lạp, gần 145.000 tới Italia và hơn 3.800 người khác lựa chọn con
đường tới châu Âu qua Tây Ban Nha hoặc Syprus (xem hình dưới).
Hình 2.3: Kế hoạch phân bổ hạn ngạch người tị nạn của EU
Nguồn: European Commission 2015 and Dinoj K Upadhyay (2016), “Migrant
Crisis in Europe: Causes, Responses and Complexities”, Indian Council of World
Affairs, Sapru House, New Delhi.
Vào tháng 9 năm 2015, J - C. Juncker trong bài phát biểu đầu tiên với tư cách
là Chủ tịch Ủy Ban Châu Âu đã đề xuất chính sách nhập cư mới bao gồm 4 điểm
chính [78]: 1) Kiến tạo một cơ chế tái cư khẩn cấp và một cơ chế tái cư thường
trực. 2) Quản lý tốt vùng biên giới ngoài bằng tăng cường công cụ Frontex kèm
theo việc tạo dựng sự kiểm soát bờ biển và biên giới. 3) Tăng cường thực thi cơ
chế chế tị nạn chung qua việc đánh giá Quy tắc Dublin II, tăng cường vai trò của
Văn phòng hỗ trợ cư trú tị nạn, tạo dựng các lối vào châu Âu đảm bảo cho những
người di cư thực sự cần bảo vệ, buộc về nước những người nhập cư tự do không
đáp ứng các điều kiện. 4) Thiết lập cơ chế tái cư thường trực kết hợp với cơ chế
phối hợp với các nước láng giềng gần châu Âu. Chủ tịch EC đã có đề xuất phân
chia 160.000 người tị nạn ngay từ tháng 9/2015 [11] EU đã phát triển Chương
trình nghị sự Châu Âu về nhập cư, được thông qua ngày 13/5/2015,
46
2.2.2.3. Thỏa thuận EU – Thổ Nhĩ Kỳ về vấn đề nhập cư
Tăng cường hợp tác quốc tế là biện pháp quan trọng và hữu hiệu nhất nhằm
thúc đẩy nhập cư hợp pháp, an toàn; ngăn ngừa nhập cư trái phép, bảo vệ quyền
của người nhập cư cũng như giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình di cư.
Hợp tác với các nước láng giềng nhằm bảo vệ biên giới bên ngoài khu vực là một
ưu tiên của EU hiện nay. EU đã thông qua Chương trình Hague vào tháng
11/2004 với nội dung: đưa ra những điều kiện chính trị cho việc giải quyết các
vấn đề nhập cư trong vòng 5 năm, nhưng đã ít tham vọng hơn so với Hội nghị
Tampere. Chương trình Hague nhấn mạnh sự cần thiết phải trao đổi thông tin và
kinh nghiệm nhưng không động chạm tới quyền hạn của các nước thành viên, chỉ
kêu gọi các nước thành viên và các thể chế của EU phát triển những nguyên tắc
chung có chú trọng tới tính gắn kết trong khuôn khổ EU về nhập cư. Cộng đồng
chung châu Âu kêu gọi phát triển sâu rộng hơn nữa Chính sách di cư và cư trú
chính trị của EU.
Mục đích của Chương trình hỗ trợ nước thứ ba, với đối tác đầy đủ, sử dụng
các quỹ hiện có của Cộng đồng nhằm quản lý dòng người nhập cư, bảo vệ người
tị nạn, ngăn chặn và chống lại người nhập cư hợp pháp, thông báo số lượng người
nhập cư, giải quyết một cách tốt nhất số người tị nạn ở EU, kiểm soát có hiệu quả
đường biên giới và hồi hương người tị nạn. Chương trình đưa ra chính sách ưu
tiên nhằm quản lý người nhập cư như tăng cường hợp tác và hành động giữa các
nước thành viên về vấn đề nhập cư, hỗ trợ tài chính, đàm phán với các nước châu
Phi và láng giềng về hỗ trợ quản lý và tị nạn, buôn bán người bất hợp pháp và hỗ
trợ tài chính kỹ thuật cho các nước trong vấn đề quản lý người nhập cư .
EU chú trọng tăng cường quan hệ với Thổ Nhĩ Kỳ, một đối tác chính của EU
trong việc quản lý dòng người nhập cư hiện nay. Quốc gia này hiện đón tiếp một
số lượng lớn người tị nạn Syria và rất nhiều người xin tị nạn đang tạm trú tại Thổ
Nhĩ Kỳ để vào châu Âu. EU và Thổ Nhĩ Kỳ đã ký thỏa thuận chung nhằm ngăn
chặn dòng người nhập cư vào châu Âu vào ngày 18/3/2016 có hiệu lực từ ngày
47
20/4/2016.
Tất cả những di dân nhập cảnh Hy Lạp bất hợp pháp từ Syria và những nơi
khác, bao gồm những người đã ở Thổ Nhĩ Kỳ, sẽ bị gửi trả về Thổ Nhĩ Kỳ sau khi
họ được đăng ký và đơn xin tị nạn ở châu Âu của họ được xem xét. Các biện pháp
cần được xem xét cẩn thận để đảm bảo tuân thủ đầy đủ luật pháp của EU và luật
pháp quốc tế, đảm bảo các biện pháp bảo vệ người tị nạn sẽ tiếp tục được tôn
trọng. Ưu tiên dành cho những người di cư chưa từng nhập cảnh hoặc cố gắng
vào EU bất hợp pháp, trong khuôn khổ các cam kết hiện có. Việc thực hiện đầy
đủ chương trình One for One (1: 1) này là điều cần thiết để giảm bớt người nhập
cư ở Thổ Nhĩ Kỳ và cho thấy EU cam kết hoàn thành trách nhiệm của mình trong
việc cung cấp cơ sở pháp lý cho các nạn nhân của cuộc khủng hoảng Syria, hơn
1,2 triệu di dân chủ yếu đã đổ bộ xuống các bờ biển của Hy Lạp và Ý kể từ tháng
đầu năm 2015 và khoảng 4.000 người đã bị chết đuối khi đang cố vượt biển
Aegea giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp. Hàng nghìn người khác, trong đó có nhiều trẻ
em bị chết đuối ở Địa Trung Hải nguy hiểm sau khi trả tiền cho những kẻ buôn
người [45].
Đổi lại, hàng nghìn người tị nạn chạy sang Thổ Nhĩ Kỳ và xin bảo hộ tị nạn
hợp pháp sẽ được tái định cư đồng đều khắp 28 nước thành viên EU.
Thổ Nhĩ Kỳ đã đưa ra nhiều điều kiện trong việc hợp tác với EU, đặc biệt là
khoản hỗ trợ trị giá 3 tỉ EUR để quản lý người tị nạn. Hai bên nhất trí thông qua
kế hoạch hành động chung, theo đó, Thổ Nhĩ Kỳ sẽ thực hiện các cam kết giúp
kiểm soát dòng người tị nạn. Đổi lại, EU sẵn sàng mở rộng hợp tác với Thổ Nhĩ
Kỳ và tăng cường hỗ trợ về mặt chính trị, tài chính trong khuôn khổ đã định [74].
Vấn đề đặt ra là Thổ Nhĩ Kỳ không đồng ý tiếp nhận người di cư lâu dài vì Thổ
Nhĩ Kỳ không phải là “trại tập trung” cho người tị nạn.
Điều kiện EU đưa ra đối với Thổ Nhĩ Kỳ khá rõ ràng: siết chặt tuần tra biên
giới, tăng cường hợp tác với nhà chức trách Hy Lạp và Bungary; thắt chặt hạn chế
visa đối với những công dân từ Pakistan hay Bangladesh qua Thổ Nhĩ Kỳ để tìm
48
cách đến châu Âu; cải thiện chỗ ở cho những người Syria không ở trong các trại tị
nạn, nâng cao khả năng tiếp cận thị trường lao động cho họ và tạo điều kiện để
con em họ được đến trường.
EU muốn Thổ Nhĩ Kỳ kiểm soát tốt hơn biên giới trên biển của nước này với
Hy Lạp. Về phần mình, Ankara cho rằng để người Syria có thể ở lại Thổ Nhĩ Kỳ
cũng như hội nhập ở đây, không chỉ cần có thêm “nơi ăn, chốn ở” mới, mà còn
cần nâng cấp cơ sở hạ tầng tại các vùng miền có người nhập cư, do vậy EU cần
cung cấp hỗ trợ lớn hơn. Thổ Nhĩ Kỳ đang muốn tận dụng cuộc khủng hoảng này
để gây sức ép buộc EU tăng thêm tiền viện trợ và đẩy nhanh tiến trình đàm phán
kết nạp nước này làm thành viên. EU tăng khoản tiền hỗ trợ người tị nạn lên 6,8
tỷ USD, đẩy nhanh quá trình xem xét để Thổ Nhĩ Kỳ trở thành thành viên EU
cũng như miễn thị thực đi lại cho công dân nước này đến khu vực Schengen ở
châu Âu từ tháng 6.
Tại báo cáo lần thứ 7 của tuyên bố EU – Thổ Nhĩ Kỳ (9.2017), cả hai bên tái
khẳng định cam kết sẽ thực hiện Tuyên bố EU-Thổ Nhĩ Kỳ.
EU vẫn cam kết theo đuổi việc thực hiện đầy đủ Tuyên bố EU-Thổ Nhĩ Kỳ về
tất cả các khía cạnh của nó và đối với tất cả các quốc gia thành viên, như được
quy định bởi Hội đồng châu Âu ngày 22-23 tháng 6 năm 2017. Từ khi thỏa thuận
được ký kết, khoảng 2,9 triệu người Syria và hàng trăm nghìn người Afghanistan
và Iraq vẫn phải ở lại Thổ Nhĩ Kỳ [52]. Khoảng 10% số đó đang ở trong các trại
của Liên hợp quốc, trong khi đa số sống tạm bợ ở Istanbul hoặc các thị trấn ở phía
Đông Nam, gần biên giới Syria. Thổ Nhĩ Kỳ hiện có số lượng người tị nạn lớn
nhất thế giới.
Đến cuối tháng 9/2017 có 535 609 đơn xin tị nạn đã được thực hiện tại EU và
các quốc gia liên quan, so với 1 010 839 trong năm 2016. Trong nửa đầu năm
2017 có 275 710 quyết định tị nạn tích cực đầu tiên đã được ban hành, so với
quyết định 293 315 được thực hiện trong năm 2016.
49
Có thể nói, việc thực hiện Tuyên bố EU-Thổ Nhĩ Kỳ đã tiếp tục đóng một vai
trò quan trọng trong việc đảm bảo rằng thách thức di cư ở phía Đông Địa Trung
Hải được giải quyết một cách hiệu quả và liên kết giữa EU và Thổ Nhĩ Kỳ. Nó
tiếp tục cung cấp các kết quả cụ thể trong việc giảm các giao cắt bất thường và
nguy hiểm và cứu sống ở Biển Aegean. Ngoài ra, thông qua cơ sở dành cho người
tị nạn ở Thổ Nhĩ Kỳ, Tuyên bố cung cấp hỗ trợ thiết thực cho người tị nạn Syria
và cộng đồng chủ nhà ở Thổ Nhĩ Kỳ, cũng như đảm bảo tái định cư của người
Syria từ Thổ Nhĩ Kỳ đến châu Âu. Việc thực hiện đầy đủ và bền vững tuyên bố
đòi hỏi nỗ lực liên tục và quyết tâm chính trị từ mọi phía.
2.2.2.4. Khung đối tác với các nước thứ ba: nhằm tạo lập các trung tâm phân
loại ở các nước trung chuyển bên ngoài biên giới EU để xem xét đơn xin tị nạn
của những người di cư. Dựa trên các ưu tiên được thiết lập trong Chương trình
nghị sự di cư châu Âu, Liên minh châu Âu đã quyết định đẩy mạnh công việc hợp
tác với các nước thứ ba để giải quyết vấn đề di cư ngược dòng.
Là quốc gia vận chuyển quan trọng nhất đối với người di cư tìm cách đến
châu Âu từ châu Phi, Niger và Libya được EU quan tâm đặc biệt thông qua các
hiệp định phát triển và quản lý di cư. Tuyên bố Malta của Hội đồng châu Âu ngày
3/2/2017 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hợp tác với Libya, trong khi Báo
cáo tiến độ thứ hai của Ủy ban về Khung Đối tác với các nước thứ ba trong
Chương trình nghị sự châu Âu về Di cư nêu bật Niger là quốc gia hợp tác ưu tiên.
Các nhà lãnh đạo các nước châu Âu và châu Phi gồm Pháp, Đức, Tây Ban
Nha, Italy, Niger, Chad, Libya và Đại diện cấp cao về chính sách an ninh và đối
ngoại của Liên minh châu Âu (EU) F. Mogherini đã gặp nhau để bàn biện pháp
ngăn chặn dòng người di cư từ châu Phi sang châu Âu và giảm thiểu số người
thiệt mạng trên hành trình vượt Địa Trung Hải. Đề xuất thành lập các trung tâm
sàng lọc người tị nạn tại Niger và Cộng hòa Chad, những nước vốn là điểm trung
chuyển quan trọng của người di cư đổ về châu Âu.
50
Các trung tâm này sẽ không thay thế, mà bổ sung cho các trung tâm có chức
năng tương tự hiện đã được thiết lập ở một số nước EU. Sau khi tiếp nhận và xem
xét, các trung tâm này sẽ quyết định chấp nhận đơn xin tị nạn hay buộc người di
cư phải hồi hương. Các trung tâm này sẽ tạo ra điểm đến an toàn tuyệt đối gần
quê hương của những người tị nạn, từ đó giúp ngăn chặn những người liều lĩnh
đến khu vực nguy hiểm trước khi lên thuyền vượt Địa Trung Hải. Cao ủy Liên
hợp quốc về người tị nạn (UNHCR) sẽ chịu trách nhiệm tiến hành sàng lọc dòng
người tị nạn. Quá trình này sẽ cho phép người di cư hợp pháp sang châu Âu nếu
họ có trong danh sách đủ điều kiện do cơ quan tị nạn Liên hợp quốc cung cấp và
đăng ký với chính quyền ở Niger và Chad [71].
2.2.2.5. Điều chỉnh Hiệp ước Dublin:
Những nước châu Âu như Hy Lạp, Italia, Tây Ban Nha và những thành vên
mới gia nhập có nền kinh tế kém phát triển hơn như Hungary, Bungary vốn đã
chịu thiệt hại nặng nề nhất từ cuộc khủng hoảng nợ công năm 2008 – 2009, thất
nghiệp tăng cao, thâm hụt ngân sách lớn, nay lại là điểm dừng chân chính của
những người nhập cư và tị nạn khi họ từ bỏ quê hương đến châu Âu. Xuất phát từ
cơ chế bảo vệ biên giới châu Âu, theo Điều 13, Hiệp ước Dublin qui định rằng
người tị nạn có mặt đầu tiên ở một quốc gia thành viên nào (trong đó có cả những
nước không phải là thành viên EU) thì nước đó phải có trách nhiệm thực hiện các
thủ tục đăng ký tị nạn cho họ [26]. Qui định này trở nên không còn phù hợp đối
với qui mô của cuộc khủng hoảng người nhập cư năm 2015 – 2017 nữa. Hiệp ước
này đang bị vi phạm do các nước Schengen đã không thực thi đúng cam kết của
mình mặc dù có những bất đồng về một chính sách chung đối với người tị nạn,
các nhà lãnh đạo của EU đang cố gắng xây dựng một cơ chế phân bổ người tị nạn
cho các nước thành viên.
Ngày 22/6/2016, EU đã đưa ra thỏa thuận thành lập Cơ quan châu Âu về
bảo vệ biên giới và bờ biển (EBCG) có thể can thiệp vào các nước ở vị trí “tiền
tuyến” như Hy Lạp và Italy nhằm hạn chế dòng người di cư. EBCG thay thế Cơ
51
quan giám sát biên giới EU (Frontex) với thẩm quyền lớn hơn, có mục tiêu hợp
nhất các phương tiện của các nước thành viên EU để kiểm soát tốt hơn các đường
biên giới ngoại vi. Trong năm 2017, EBCG đã có 500 nhân viên, kinh phí hoạt
động tăng từ 238 triệu euro từ năm 2016 lên 281 triệu euro vào năm 2017 [84].
Tới năm 2020, EBCG dự kiến sẽ có kinh phí hoạt động khoảng 322 triệu euro,
1.000 nhân viên chính thức và 1.500 nhân viên dự bị. Một cơ quan khác, Văn
phòng hỗ trợ cư trú châu Âu (EASO) có trụ sở tại Malta cũng đang có những điều
chỉnh tương tự để trở thành Cơ quan tị nạn mới của EU. Nhân viên và ngân sách
của EASO theo đó cũng sẽ tăng lên. Ngân sách của EASO đã tăng từ 53 triệu
euro trong năm 2016 lên 87 triệu euro vào năm 2017, dự kiến sẽ tăng lên 114
triệu euro vào năm 2020. Quy mô nhân viên dự kiến sẽ tăng từ 125 người trong
năm 2016 lên 500 người vào năm 2020 [12]. Cơ quan này có nhiệm vụ thu thập
và phân tích thông tin về các quốc gia xuất xứ của người tị nạn, cơ quan này sẽ
thiết lập khung cơ cấu cho các hoạt động chung do các nước thành viên tiến hành,
chẳng hạn như việc chọn lọc và phát hiện vấn đề, việc kiểm tra y tế, giám sát việc
đi lại hay cấp thị thực cho người tái định cư.
2. 2.3. Các giải pháp dài hạn
2.2.3.1. Thiết lập một chính sách nhập cư chung cho toàn EU:
EU đã thực hiện chương trình “Biên giới thông minh” [22] được đề xuất đầu năm
2016, gồm hệ thống quét hai lớp sinh trắc học đối với những người nhập cư bất
hợp pháp vào EU - chương trình du lịch đã đăng ký (RTP) và một hệ thống xuất
nhập cảnh (EES). EES sẽ ghi lại thông tin điện tử về thời gian và địa điểm xuất
cảnh và nhập cảnh của các công dân nước thứ ba băng qua biên giới bên ngoài
của EU, xác lập thời gian lưu trú ngắn hạn được ủy quyền và gửi dữ liệu đến cơ
quan quản lý và kiểm soát biên giới.
Chính sách nhập cư là công cụ quan trọng trong việc đảm bảo an ninh mỗi
quốc gia. Trong bối cảnh mới, để đối phó với khủng hoảng người nhập cư ngày
càng tăng đòi hỏi EU và các quốc gia thành viên cũng phải điều chỉnh chính sách
52
và chiến lược quản lý nhập cư của mình nhằm hạn chế dòng người nhập cư ngày
càng tăng vào EU.
2.2.3.2 Tái hồi hương những người di cư:
Để giải quyết vấn đề ngày càng tăng của dòng chảy di cư trên biển Địa
Trung Hải, tại Hội nghị Thượng đỉnh giữa EU và châu Phi (Malta, tháng
11/2015), EU và các nước châu Phi đã thông qua Kế hoạch hành động chung giải
quyết cuộc khủng hoảng người người nhập cư. EU sẽ chi 1,8 tỷ Euro (1,9 tỷ
USD) giúp châu Phi tập trung giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của vấn đề người
di cư, chống các nhóm buôn người, tăng cường hợp tác giữa các nước trong vấn
đề nhập cư hợp pháp và bảo vệ người tị nạn, cũng như hồi hương những người di
cư không đủ điều kiện ở lại để xin tị nạn tại các nước EU [114].
Hội nghị thượng đỉnh Liên minh châu Âu - châu Phi (11/2015, Valletta -
Malta), đặt ra năm lĩnh vực hợp tác ưu tiên: (1) giải quyết nguyên nhân gốc rễ của
việc di cư bất thường và phát triển lợi ích của di cư; (2) thúc đẩy di cư và di
chuyển hợp pháp; (3) tăng cường các chính sách bảo vệ và tị nạn; (4) đấu tranh
chống buôn người và buôn lậu; và (5) tăng cường hợp tác để tạo thuận lợi cho sự
trở lại và tái hòa nhập của những người di cư bất thường [36]. Thành lập Quỹ Ủy
thác châu Phi, tiền tài trợ của châu Âu chủ yếu được rót qua quỹ với mục đích
“giải quyết những thách thức của di cư bất hợp pháp”. Quỹ đã nhận 3,2 tỷ Euro
thông qua các quỹ phát triển châu Âu. Từ năm 2015, có 478 triệu euro được giải
ngân với mục đích “cải thiện quản lý di cư”, gồm các hoạt động như đào tạo cảnh
sát, thẩm phán, thiết lập hệ thống sinh trắc học, cung cấp trang thiết bị bảo vệ biên
giới. Hội nghị này được đánh giá là đã đánh dấu quá trình thể chế hóa việc
chuyển giao quản lý biên giới châu Âu thông qua việc lấy các quỹ phát triển phục
vụ cho kiểm soát nhập cư [36].
Ở Niger, quốc gia quá cảnh ở Tây Phi EU, hợp tác với UNHCR và IOM,
thành lập “trung tâm điều phối khu vực” tại thủ đô Khartum (Sudan) với kinh phí
5 triệu Euro nhằm đào tạo các lực lượng biên phòng và phát triển hợp tác giữa các
53
quốc gia trong cuộc chiến chống buôn lậu người qua biên giới và đề xuất các lựa
chọn thay thế cho việc di chuyển bất thường thông qua kết hợp cung cấp thông
tin, các cơ hội bảo vệ và tái định cư địa phương cho những người có nhu cầu. Một
cách hiệu quả, trung tâm này nhằm ngăn chặn người di cư trước khi họ đến biên
giới của châu Âu, như là một phần của nỗ lực gia tăng gánh nặng cho việc quản lý
di cư ở các quốc gia xuất xứ và quá cảnh [67]. Trong khi đó, Liên minh châu Âu
đã giải ngân 140 triệu euro thông qua Quỹ Ủy thác châu Phi, cũng hoạt động hết
công suất tại Niger và trong đó có ít nhất 36 triệu USD để tăng cường các dịch vụ
an ninh, chưa tính đến 596 triệu Euro thuộc các hiệp định tài trợ song phương
[36].
Đức đang đàm phán với các nước châu Phi để chấp nhận công dân của họ,
những người không đủ tiêu chuẩn xin tị nạn trong nước. Một số quốc gia -
Algeria, Morocco và Tunisia đã đề nghị hỗ trợ cho sáng kiến này. Các nước khác
như Benin, Senegal, Guinea-Bissau, Niger, Nigeria và Sudan được yêu cầu lấy lại
công dân của họ, những người có thể không nhận được tị nạn ở Đức [102]. Tại
cuộc họp của Hội đồng châu Âu, các nhà lãnh đạo EU nhấn mạnh rằng các điểm
hội nghị của Vallenta nên được thực hiện.
Tuyên bố Malta ngày 3/2/2017, Ủy ban sẽ đóng góp thêm 200 triệu EUR
vào Quỹ Ủy thác EU cho châu Phi để trang trải các nhu cầu cấp vốn khẩn cấp
nhất trong suốt năm 2017, đặc biệt đối với Bắc Phi nhằm giải quyết nguyên nhân
gốc rễ của di cư bất hợp pháp của ở các nước châu Phi đến EU. Các dự án liên
quan đến di cư Libya sẽ được ưu tiên [36]. Ngoài ra để giải quyết tận gốc vấn đề
di cư EU đã làm việc với năm quốc gia nơi xuất phát điểm của người di cư và
chuyển tiếp ở Châu Phi (Ethiopia, Mali, Niger, Nigeria và Senegal). Ví dụ, hợp
tác với Niger của EU đang giúp giảm lưu lượng vận chuyển qua Sahara, với
nguồn tài chính của EU hỗ trợ việc làm tự do trong các khu vực quá cảnh và sáu
trung tâm di cư cho người di cư dễ bị tổn thương cũng như hỗ trợ của EU trên mặt
đất giúp giải quyết vấn đề này buôn lậu và buôn bán người. Sau khoản tài trợ 10
54
triệu Euro vào quý IV năm 2017, Niger sẽ tiếp tục nhận khoản hỗ trợ tiếp theo
nhằm tăng cường tuần tra, kiểm soát để ngăn chặn những người di cư bất hợp
pháp tới châu Âu qua Agadez - là trung tâm vận chuyển, đưa những người có nhu
cầu vào châu Âu thông qua nước láng giềng Libya. Tương tự tại Niger, EU cũng
bắt đầu huấn luyện, đào tạo và trang bị cho hàng chục đơn vị tuần tra của Libya
để thực hiện nhiệm vụ chặn dòng người di cư từ xa.
Giải quyết cuộc khủng hoảng di cư và tị nạn là nghĩa vụ chung, đòi hỏi một
chiến lược toàn diện, những nỗ lực lâu dài và kiên quyết, trên tinh thần đoàn kết,
có trách nhiệm, theo đó, các nước EU cần thống nhất các bước tiếp theo nhằm
giải quyết cuộc khủng hoảng di cư và tị nạn đang trở nên “cấp bách”. Tuy nhiên,
các nước EU chưa thực sự đạt được nhiều kết quả do còn thiếu sự đồng thuận cao
trong việc triển khai các phương sách.
2.2.3.3 Ổn định tình hình Bắc Phi nhằm ngăn chặn di cư
Vấn đề di cư đến các nước EU là những cuộc trốn chạy khỏi các cuộc nội
chiến, xung đột vũ trang, đói nghèo từ các nước Trung Đông, Bắc Phi, như Libya,
Syria, Iraq, Afghanistan….nhằm tìm kiếm cơ hội sống tốt hơn. Do chiến tranh, cơ
hội kinh tế hạn hẹp và sự bất ổn về chính trị ở Trung Đông, hàng triệu người di cư
sang châu Âu để tìm nơi tị nạn. Bất chấp mọi hiểm nguy trên hành trình vượt biển
hay trên tuyến đường bộ vượt biên giới, dòng người di cư tiếp tục tăng lên đến
chóng mặt, gần như không thể kiểm soát. Từ khi tình hình Syria thay đổi, càng
nhiều người di cư lựa chọn việc đi vào trong biên giới Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng cùng
với việc Thổ Nhĩ Kỳ tăng cường kiểm soát chặt chẽ biên giới, điều này buộc dân
di cư chỉ có thể từ Địa Trung Hải đến Hy Lạp bằng tàu biển, sau đó từ biên giới
trực tiếp vượt biên vào nước Châu Âu mà mình mong muốn. EU cần phối hợp với
cộng đồng quốc tế ổn định tình hình Bắc Phi, chấm dứt chiến sự ở Sirya nhằm
ngăn chặn dòng người di cư vào Châu Âu. Tăng trưởng kinh tế nhanh hơn ở châu
Phi theo thời gian sẽ làm giảm đáng kể áp lực mà châu Âu phải đối mặt. Sự phát
triển lâu dài của châu Phi tất yếu sẽ đòi hỏi sự ổn định chính trị và hòa bình hơn.
55
Các nước châu Âu cần thúc đẩy các nỗ lực kinh tế, ngoại giao,… nhằm giúp các
nước khu vực Bắc Phi - Trung Đông ổn định tình hình, loại trừ khủng bố, chấm
dứt xung đột, lập lại hòa bình. Chỉ có như vậy mới có thể giải quyết cuộc khủng
hoảng di cư hiện nay một cách căn bản, lâu dài, góp phần ổn định tình hình an
ninh, kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân ở khu vực đầy biến động này. EU cho
rằng, việc giải quyết tận gốc vấn người di cư đòi hỏi mối quan hệ đối tác với châu
Phi phải hướng tới sự chuyển biến đáng kể đối với kinh tế - xã hội của châu lục
này. Đây là giải pháp lâu dài và khó thực hiện.
EU đang thực hiện các sáng kiến để kiểm soát buôn lậu người di cư, cung
cấp hỗ trợ kinh tế cho các quốc gia có liên quan, làm việc để phát triển khuôn khổ
khu vực có chứa dòng người nhập cư lớn. EU có biện pháp phòng ngừa buôn lậu
và phá vỡ mạng lưới tội phạm. EU dự kiến sẽ tăng cường hợp tác với các nước
xuất xứ và quá cảnh, tăng cường chia sẻ thông tin tình báo, khả năng điều tra và
truy tố để kiểm soát các mạng buôn lậu di cư [54]. Phù hợp với chính phủ các
nước thành viên khác, EU cũng có kế hoạch chứa người di cư thông qua cải thiện
điều kiện kinh tế xã hội ở những nơi xuất xứ [42]. Cuộc khủng hoảng ở Syria vẫn
chưa được giải quyết triệt để. Ổn định các nền kinh tế và chính trị ở Trung Đông,
và tránh các tác động tràn lan đối với châu Âu là những cân nhắc chính đối với
EU trong việc đối phó với Trung Đông.
EU cần tránh đánh giá quá cao khả năng hỗ trợ phát triển để giải quyết
nguyên nhân gốc rễ của những thiếu sót kinh tế của các nước đối tác. Các vấn đề
kinh tế của châu Phi bắt nguồn từ rất nhiều nguyên nhân: năng lượng và nguồn
nước, thiếu môi trường kinh doanh, mạng lưới giao thông không đồng đều và hệ
thống thông tin liên lạc, tham nhũng, luật lệ yếu, quản trị yếu kém, dân chủ không
ổn định, và nhiều thử thách khác [98]. Những điều này sẽ không được giải quyết
dễ dàng, các nguồn lực sẵn có của EU sẽ không đủ dồi dào để tài trợ cho tất cả
các hành động cần thiết cải thiện tình hình ở Châu Phi.
56
EU cũng nên đánh giá chính xác tình hình châu Phi hiện nay. Tăng trưởng
kinh tế đang được cải nhưng không tạo ra đủ công ăn việc làm cho những người
trẻ đang di chuyển vào thị trường lao động Châu Phi với số lượng ngày càng tăng.
An ninh là một nguồn quan tâm cho hầu hết các chính phủ châu Phi khi họ phải
đối mặt với một mối đe dọa ngày càng tăng từ các nhóm thánh chiến cấp tiến [98]
Đây là những thách thức châu Phi hiện nay mà châu Âu phải thể hiện sự sẵn sàng
để hỗ trợ và tham gia giải quyết.
2.3. Một số thành công và hạn chế của các giải pháp ứng phó với nhập
cư ở Liên minh Châu Âu
2.3.1. Thành công
Chương trình nghị sự châu Âu về di cư vào tháng 5/2015, trong đó đặt ra
cách EU quản lý di cư bằng cách sử dụng các công cụ chính sách đối ngoại và cải
cách hệ thống tị nạn của EU, bằng cách làm việc cùng bốn trụ cột: giảm các ưu
đãi cho di dân bất thường; tăng cường kiểm soát biên giới bên ngoài; tăng cường
chính sách tị nạn chung; xây dựng chính sách mới về di cư hợp pháp. Với
Chương trình di cư châu Âu, EU sáp nhập các công cụ tài trợ nội bộ và bên ngoài
và các mục tiêu chính sách, dưới biểu ngữ của một “cách tiếp cận toàn diện”. Do
đó, chương trình nghị sự châu Âu về di cư tạo thành một sự thay đổi lớn trong
cách tiếp cận và di cư của EU và sau khi thông qua một danh sách dài các tài liệu
chính sách, quyết định tài chính, các hành động lập pháp được Ủy ban châu Âu
đưa ra với tốc độ rất nhanh trong suốt năm 2015 và 2016. Một số quan trọng nhất
đối với chính sách đối ngoại và hợp tác phát triển của EU là Quỹ Tín thác châu
Phi (EUTF), Kế hoạch hành động Valetta, Tuyên bố EU-Thổ Nhĩ Kỳ và Khung
Đối tác EU với các nước thứ ba.
Lực lượng cứu hộ bờ biển của Tây Ban Nha ngày 27/5/2018 cho biết đã
giải cứu 408 người di cư trên biển Địa Trung Hải. Năm 2017 là một bước ngoặt
khi số người di cư vượt biển đến châu Âu qua nước này đã giảm mạnh, gần 70%
kể từ giữa năm 2017.
57
Số lượng người di cư bất thường tại EU giảm đáng kể trong năm 2017
xuống còn khoảng 204.300 người, so với hơn 500.000 người trong năm 2016.
Trong ba quý đầu năm 2017, 164.300 người ần đầu tiên xin tị nạn. Mặc dù người
đến và xin tị nạn ở EU giảm nhưng không đều, trong năm 2017, các đơn xin tị
nạn giảm ở Áo, Bulgaria, Đan Mạch, Phần Lan, Đức, Hungary, Hà Lan, Ba Lan
và Thụy Điển. Người di cư đến Pháp, Hy Lạp, Ý và Tây Ban Nha lại tăng cao, ở
Pháp, 100.412 đơn xin tị nạn được nộp tại 2017, tăng 17% so với năm 2016. Tại
Tây Ban Nha, năm 2017, lượng người di cư bằng đường biển và đường bộ cao
hơn 90% so với năm 2016 . IOM, Cơ quan Di cư LHQ, báo cáo rằng 58.158
người di cư và tị nạn vào châu Âu bằng đường biển ngày 1/8/2018 [113].
Có thể nói, EU đã đưa ra nhiều các giải pháp nhằm đối phó với dòng người
di cư trái phép thời gian qua, như tăng cường kiểm soát cửa khẩu, đóng cửa biên
giới, siết chặt các điều kiện xét đơn tị nạn, tuy có thể giảm áp lực người di cư,
nhưng lại gây ra mâu thuẫn với các nước láng giềng. EU khẩn trương cần đưa ra
một chiến lược thống nhất, lâu dài và toàn diện nhằm tối đa hóa lợi ích của việc di
cư và giảm thiểu chi phí con người và kinh tế, bao gồm cả nỗ lực quốc tế để quản
lý di cư toàn cầu.
2.3.2. Hạn chế
Có thể nói, cuộc khủng hoảng người nhâp cư ở châu Âu đưa đến nhiều hệ quả
trong quá trình điều chỉnh chính sách nhập cư như:
- Xét ở cấp độ chính sách giữa EU và giá trị quốc gia, có thể thấy những căng
thẳng, bất đồng, thậm chí là mâu thuẫn giữa một bên là tư tưởng thống nhất châu
Âu với các giá trị phổ quát như tự do đi lại theo Hiệp ước Schengen, chủ nghĩa
nhân đạo nhân văn và một bên là giá trị quốc gia được tỏ rõ hơn [11].
- Sự chia rẽ giữa các nước thành viên ở Tây Âu và các nước Đông Âu đang
làm phức tạp nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng di cư ngày càng trầm trọng.
Cho đến nay, các nhà lãnh đạo châu Âu đã tổ chức nhiều cuộc họp thượng đỉnh để
tìm lời giải cho bài toán người nhập cư. Tuy nhiên, EU chưa thể đưa ra một giải
58
pháp chung để giải quyết cuộc khủng hoảng người tị nạn lớn nhất khu vực do sự
mâu thuẫn quá lớn. Vướng mắc lớn nhất hiện nay giữa các nước là kế hoạch phân
bổ tiếp nhận người nhập cư nhằm thể hiện tình đoàn kết và chia sẻ gánh nặng với
các nước tuyến đầu trong cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng di cư đang dần
phá vỡ những giá trị và lợi ích cơ bản của châu Âu khi các nước trong khu vực
bất đồng xung quanh vấn đề giải pháp. Và thật sự, thách thức đầu tiên đặt ra là
làm thế nào để EU tìm được tiếng nói chung. Không một cá nhân hay quốc gia
nào có thể tự xử lý được khủng hoảng di cư này nếu thiếu sự nhất trí thực hiện các
luật chung của châu Âu về việc tiếp nhận và tạo công ăn việc làm cho người tị
nạn. Bên cạnh những nước sẵn sàng tiếp nhận người nhập cư như Đức, hay lên
tiếng kêu gọi sự đoàn kết giữa các quốc gia thành viên như Anh, Pháp... các quốc
gia khác thờ ơ với dòng người nhập cư ngày càng tăng lên ở Châu Âu. Phản ứng
của một số quốc gia Châu Âu đối với nạn nhập cư trái phép điển hình là:
Đức: ngoài nỗ lực để giải quyết những vấn đề nổi bật nhất, không có thay đổi
lớn nào đối với hệ thống tị nạn của Đức. Trong tình huống này, giải pháp duy
nhất có thể giải quyết được là Đức sẽ thoái thác một số cam kết về “người tị nạn”
để chuyển sang các nước EU khác. Trên thực tế, điều này có nghĩa là những nỗ
lực của Berlin nhằm đưa ra một hệ thống hạn ngạch và chuyển các nhóm người
nhập cư đến tất cả các nước EU khác theo một số hạn ngạch nhất định. Berlin
đang thách thức các quy định hiện tại (Dublin III) và thúc đẩy các nước thành
viên khác của EU đồng ý thông qua luật mới. Các phát ngôn công khai liên quan
đến sự sẵn sàng giúp đỡ (nhằm tăng cường hình ảnh của Angela Merkel và Đức),
sự chia rẽ giữa các quốc gia EU sẵn sàng đối mặt với thách thức (Đức, Áo, Thụy
Điển) và phần còn lại của EU, sẽ được sử dụng để thuyết phục các thành viên
khác của EU cùng tham gia chia sẻ gánh nặng. Có thể nói, cuộc khủng hoảng
nhập cư hiện nay đang thử thách sự đoàn kết và hợp tác của EU.
Italia: đã phản ứng với dòng người nhập cư bằng cách tung ra một hoạt động
quy mô lớn để cứu người di cư trên biển (Chiến dịch Mare Nostrum) và bằng
59
cách phân biệt đối xử bất hợp pháp. Ý đã liên tục kêu gọi EU hỗ trợ và tuyên bố
rằng không công bằng và không khả thi khi nước này phải xử lý dòng người di cư
và tị nạn. Ý đã nhận được hỗ trợ tài chính từ EU và hỗ trợ hợp tác từ Văn phòng
Hỗ trợ tị nạn châu Âu (EASO) để xử lý dòng, nhưng điều này vẫn chưa đủ
(ECRE 2013). Vào tháng 5 năm 2014 Bộ trưởng Nội vụ Italy Angelino Alfano đe
dọa sẽ gửi người xin tị nạn trên khắp châu Âu và ngăn chặn các quy định tị nạn
của EU nếu Liên minh không hỗ trợ thêm về tuần tra biên giới (AFP 2014). Thủ
tướng Matteo Renzi nhắc lại mối đe dọa này vào tháng 6 năm 2015 [87]. Trước
cuộc họp giữa các bộ trưởng EU tại Brussels, Renzi nói rằng ông sẽ có hành động
đơn phương nếu Italy không nhận được hỗ trợ đầy đủ (đề cập đến một hệ thống
chia sẻ gánh nặng được đề xuất bởi Ý, Đức, Hy Lạp, Malta, Thụy Điển và Áo).
Một lựa chọn theo “kế hoạch B” của anh ta sẽ dành cho những người xin tị nạn ở
Ý nhận được thẻ cư trú ba tháng cho phép họ đi lại hầu hết EU. Một lựa chọn
khác là các điều khoản đưa ra trong Thỏa thuận Dublin từ năm 2003.
- Về mặt tổ chức, tuy EU là thực thể được gắn kết tương đối chặt chẽ,
nhưng khả năng, tiềm lực kinh tế và nhu cầu tiếp nhận người nhập cư của mỗi
thành viên không giống nhau nên rất cần một cơ chế điều hành linh hoạt cả ở
trong và ngoài Liên minh. Vì vậy, nhiều nhà lãnh đạo ở các quốc gia châu Âu cho
rằng, trước hết, EU phải có cơ chế, chính sách để các nước giàu giành thêm nguồn
lực hỗ trợ cho các hoạt động tiếp nhận và tạo điều kiện cho người di cư hòa nhập
vào cộng đồng của châu lục theo hướng: hỗ trợ hội nhập vào cộng đồng sở tại và
tìm việc làm. Đồng thời, tăng cường cung cấp tài chính cho những quốc gia ở gần
nguồn dân di cư; hỗ trợ các hoạt động quản lý biên giới ngoài của EU; xây dựng
hệ thống pháp lý để tái định cư những người tỵ nạn và thu hút nhân lực có trình
độ phù hợp. Ngoài ra, việc huy động các nỗ lực của cộng đồng quốc tế, nhất là vai
trò của Liên hợp quốc trong giải quyết cuộc khủng hoảng di cư hiện nay đóng vai
trò rất quan trọng. Tuy nhiên, các giải pháp trên mới chỉ giải quyết phần ngọn mà
chưa đi vào gốc dễ của vấn đề di cư.
60
- Cuộc khủng hoảng người tị nạn bùng phát năm 2015, hàng loạt biện pháp,
kể cả trên quy mô toàn EU lẫn trong nội bộ từng nước thành viên đã được áp
dụng nhằm hạn chế dòng người nhập cư trái phép đổ về châu Âu. EU đã huy động
thêm lực lượng, chi những khoản tiền lớn, từ củng cố biên giới ngoại khối đến tài
trợ kinh tế cho các nước liên quan để đổi lại sự hợp tác. Thêm vào đó, các chiến
dịch truy quét, phá hủy tàu thuyền của các tổ chức buôn người, các hoạt động
tuần tra thường xuyên trên các tuyến đường biển của châu Âu cũng bắt đầu phát
huy tác dụng. Tuy nhiên, những phương cách được đưa ra dù khá tốn kém, song
mới chỉ có tác dụng tạm thời trong ngắn hạn chứ chưa giải quyết được tận gốc
cuộc khủng hoảng đang là nguyên nhân gây bất đồng không chỉ giữa các nước EU
mà còn xuất hiện ngay trong nội bộ từng nước thành viên [12].
- Việc đóng của tuyến biên giới Balkan đã chặn con đường của người nhập cư
vào các nước Bắc Âu, làm cho khoảng hơn 8000 người bị mắc kẹt ở khu vực biên
giới Hy Lạp. Liên minh Châu Âu vẫ chưa có một giải pháp chung nào trong việc
giải quyết người nhập cư, buộc các quốc gia thành viên phải tự đưa ra các biện
pháp riêng lẻ để giải quyết vấn nạn này. Để ngăn chặn nạn nhập cư trái phép một
số quốc gia đã tiến hành siết chặt kiểm soát biên giới như ở Áo, Slovakia, Hà Lan,
Đức hay việc xây dựng hàng rào biên giới ở Hungary. Những biện pháp tạm thời
của các nước thành viên EU đã đi ngược lại những quy định của công ước
Schengen. Chủ nghĩa chủ quyền trong việc kiểm soát biên giới quốc gia đang lên,
đe dọa sự đổ vỡ của hiệp ước Schengen về việc tự do đi lại trong EU.
- Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, trong bài phát biểu về tầm nhìn cho tương
lai châu Âu trước Nghị viện châu Âu (EP) ngày 17/4/2018, Tổng thống Pháp E.
Macron so sánh những chia rẽ trong lòng châu Âu hiện nay như là hình thức mới
của một cuộc “nội chiến”. Ông cũng bày tỏ mong muốn xây dựng một quỹ tài trợ
của châu Âu cho các cộng đồng tiếp nhận người tị nạn. EU cần tiến lên phía
trước, còn những người không ủng hộ con đường này sẽ phải chấp nhận ở “bên
lề” của châu Âu Tổng thống Pháp cũng cảnh báo về sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân
61
tộc, kêu gọi bảo vệ công dân châu Âu khỏi mối đe dọa của chiến tranh và chế độ
độc tài. [12].
Hungary tiếp tục đặt sự phản đối mạnh mẽ đối với dòng người nhập cư. Thủ
tướng Viktor Orban đã chỉ trích nghiêm túc chính sách châu Âu cho phép người
di cư ở EU. Tổng thống Cộng hòa Séc, Milos Zeman gọi là dòng người nhập cư là
“cuộc xâm lược có tổ chức” ở châu Âu. Trước đó, ông cũng cảnh báo rằng những
người di cư sẽ là mầm mống của khủng bố đến châu Âu. Chính phủ Séc cũng giữ
người di cư bất hợp pháp trong các trại giam và bị cáo buộc đã đối xử tàn tệ với
họ. Trưởng ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc, Zeid Ra'ad al-Hussein đã chỉ trích
chính phủ Séc vì đã giam giữ người tị nạn trong tối đa 90 ngày [108]. Vì đa số
người Séc chống lại người nhập cư và sợ người nhập cư Hồi giáo có thể tạo ra
căng thẳng xã hội.
- EU và Thổ Nhĩ Kỳ đều nhận thức rõ vai trò của nước này trong giải quyết
khủng hoảng nhập cư. Thổ Nhĩ Kỳ đã đạt được thỏa thuận với EU về việc ngăn
chặn dòng người nhập cư đang ồ ạt đổ vào châu Âu để đổi lấy những ưu đãi về
chính trị cũng như tài chính. Trải qua hơn 3 năm, phản ứng chung của EU trước
cuộc khủng hoảng nhập cư vẫn là các giải pháp tình thế và mới tập trung vào việc
kiểm soát các đường biên giới hơn là bảo vệ quyền của người di cư và tị nạn.
Trong khi các đảng dân tộc chủ nghĩa đang trỗi dậy ở nhiều nước EU, cùng với
mối lo ngại về chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo bao trùm khắp khu vực, châu Âu vẫn
bế tắc trong việc tìm lối ra cho cuộc khủng hoảng này [15].
Châu Âu hiện nay vẫn chưa tìm ra được lối thoát cho cuộc khủng hoảng
người nhập cư, khi vừa làm hài hòa những giá trị nhân đạo, vừa thực hiện một
chính sách thực tế nhằm kiểm soát cuộc khủng hoảng đang kéo căng toàn xã hội
châu Âu, vốn nổi tiếng với mạng lưới an sinh xã hội tiến bộ, sẽ chưa thể kết thúc
trong một sớm một chiều. Để giải được bài toán di cư hóc búa, điều mà châu Âu
cần làm là tìm được một tiếng nói chung, và lấy mục tiêu “hội nhập châu Âu toàn
diện” làm cơ sở để cùng nhau giải quyết thách thức chung đang đặt r
62
Tiểu kết chương 2
Qua nghiên cứu thực trạng và giải pháp ứng phó với nhập cư của Liên
minh Châu Âu tác giả rút ra một số kết luận sau:
Thứ nhất, làn sóng di cư vào châu Âu đã và đang tạo ra thách thức không
nhỏ đối với EU, buộc Liên minh này phải đề ra các giải pháp cấp bách, nhằm tháo
gỡ những nút thắt của khủng hoảng. Trong đó, EU đã đưa ra một số các giải pháp
ngắn hạn, trung hạn và giải pháp dài hạn nhằm ngăn chặn tình trạng nhập cư ngày
càng gia tăng ở EU.
Theo đánh giá của các nhà phân tích, mặc dù có những bất đồng về một
chính sách chung đối với người tỵ nạn, các nhà lãnh đạo của Liên minh châu Âu
đang cố gắng xây dựng một cơ chế phân bổ người tỵ nạn cho các nước thành
viên. Theo đó, các nước thuộc EU phải cùng nhau chia sẻ trách nhiệm tiếp nhận
người nhập cư trên cơ sở điều kiện kinh tế của mỗi nước. Thậm chí, EU còn đề ra
yêu cầu đối với các nước chuẩn bị gia nhập Liên minh này chia sẻ trách nhiệm
tiếp nhận người di cư và coi đó như một điều kiện tiên quyết để gia nhập ngôi nhà
chung châu Âu.
Thứ hai, khi dòng người di cư từ khu vực Trung Đông - châu Phi vẫn tiếp
tục tràn vào châu Âu và không cơ quan chức năng nào có thể kiểm soát được đâu
là người nhập cư chạy trốn chiến tranh và đói nghèo thực sự, đâu là những kẻ
khủng bố. Cho đến nay, dù đã trải qua rất nhiều cuộc họp cấp cao trong nội bộ
Liên minh châu Âu và giữa Liên minh châu Âu với các đối tác khác như Thổ Nhĩ
Kỳ, Libya,… nhưng Liên minh châu Âu vẫn chưa tìm ra được giải pháp để ngăn
chặn dòng người di cư vào châu lục này. Điều này cũng cho thấy mức độ nghiêm
trọng của nguy cơ khủng bố từ những kẻ cực đoan trà trộn trong cộng đồng người
nhập cư, đồng thời cũng chỉ ra những chia rẽ, rạn nứt trong nội bộ Liên minh châu
Âu về những vấn đề gai góc của châu lục. Phải chăng “nhập cư” và “khủng bố”
đang đặt ra những thách thức kép cho châu Âu?.
63
Chương 3
DỰ BÁO TÌNH HÌNH NHẬP CƯ Ở LIÊN MINH CHÂU ÂU
3.1. Bối cảnh châu Âu hiện nay
- Liên minh Châu Âu đang phải đối mặt với tác động của cuộc khủng
hoảng nợ công. Cuộc khủng hoảng nợ công làm bùng phát chủ nghĩa dân tộc của
các nước thành viên giữa một bên là quốc gia thuộc khu vực đồng tiền chung
Eurozone và một bên là các quốc gia khác trong Liên minh châu Âu. Bất đồng
giữa các nước trong việc giải cứu khủng hoảng nợ tại một số quốc gia thành viên
dẫn tới không ít quan ngại về tiến trình nhất thể hóa về mặt chính trị của Liên
minh châu Âu. Khủng hoảng với những tác động nặng nề về kinh tế, xã hội đã
gây ra những xáo trộn trong hệ thống chính trị của các nước thành viên cũng như
chia rẽ phân hóa giữa các nước, làm rạn nứt liên kết của EU. Khủng hoảng nợ
công ở EU bắt đầu từ năm 2010 làm bộc lộ những khiếm khuyết trong mô hình
liên kết và đang là liều thuốc thử kiểm tra độ bền vững của liên kết EU, cụ thể là
trường hợp của Hy Lạp [1, tr. 9].
Năm 1997, nợ công của Hy Lạp vẫn còn ở mức 127% GDP. Khi gia nhập
Liên minh Kinh tế - Tiền tệ, nợ công của Hy Lạp vẫn ở gần 100% GDP, tức là
dưới chuẩn theo qui định của Hiệp ước Tăng trưởng và Ổn định. Đến tháng
6/2015, Chính phủ Hy Lạp đứng trước nguy cơ vỡ nợ, hoặc hoãn trả nợ, hoặc có
nguy cơ rời khỏi Eurozone. Vì thế Hy Lạp đề nghị các chủ nợ kéo dài thời gian
cứu trợ cho nước này thêm 5 tháng. Đề nghị này cũng bao gồm việc giải phóng
khoản vay trị giá 15,5 tỷ Euro cho nước này, trong đó có khoảng 1,8 tỷ có thể sử
dụng ngay. Ngược lại phía Hy Lạp phải chấp nhận tái cơ cấu, với các điều khoản
sẽ được thảo luận trong các cuộc họp của các bộ trưởng tài chính Châu Âu. Tuy
nhiên, Chính phủ Hy Lạp đã quyết định trưng cầu ý dân vào ngày 5/7/2015 về
việc thực hiện chính sách thắt lung buộc bụng hay không. Cuộc trưng cầu đã dẫn
đến nguy cơ Hy Lạp vỡ nợ và rời khỏi khu vực Eurozone là rất cao. Nếu điều này
xảy ra sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới kinh tế châu Âu và thế giới. Sau khi người
64
dân Hy Lạp nói không với chính sách thắt lung buộc bụng mà các nước chủ nợ
yêu cầu trước đó, ngày 12/7/2015 EU đã đứng ra giải cứu cho Hy Lạp sau nhiều
giờ đàm phán với khoản vay lên đến 86 tỷ Euro. Đi kèm với khoản vay, các chủ
nợ đòi hỏi Chính phủ Hy Lạp tiếp tục thực hiện chính sách cải cách toàn diện nền
kinh tế, đồng thời tránh nguy cơ Hy Lạp sẽ rút khỏi khu vực Eurozone [1, tr 9-
10].
- Bất đồng trong phân bổ hạn ngạch tiếp nhận người di cư bắt buộc, việc
phải tiếp nhận một số lượng lớn người nhập cư trái phép đã khiến tình hình chính
trị-xã hội tại nhiều nước EU trở nên bất ổn, đồng thời cũng đào sâu thêm những
khác biệt trong chính sách tiếp nhận người di cư của các thành viên EU. Sự gia
tăng mạnh về số lượng người di cư qua Địa Trung Hải từ Thổ Nhĩ Kỳ đến Hy Lạp
trong năm 2015 đã đẩy EU vào tình trạng hỗn loạn. Vào tháng 8/2015, Thủ tướng
Đức Angela Merkel đã thông báo rằng Đức sẽ xử lý yêu cầu tị nạn của những
người đã quá cảnh qua các nước EU khác, yêu cầu những người xin tị nạn phải
xin tị nạn quốc gia EU đầu tiên họ nhập. Nhưng Hungary đã dựng lên một hàng
rào dây thép gai dọc theo biên giới với Serbia và Croatia để ngăn chặn người di
cư vào lãnh thổ của họ, và thỏa thuận Schengen không biên giới bị đình chỉ, vì
các biện pháp kiểm soát biên giới được thiết lặp lại tại Áo, Hungary, Đức, Đan
Mạch và Thụy Điển ( và ở nơi khác). Áp lực từ Áo và các quốc gia EU khác sau
đó đã dẫn đến việc đóng cửa biên giới khác dọc theo tuyến đường Balkans phía
tây. Tháng 3/2016, EU, dẫn đầu là Đức, đã ký thỏa thuận với Thổ Nhĩ Kỳ để ngăn
chặn người nhập cư đi qua Hy Lạp. Đổi lại, EU đã đề nghị đưa một số người tị
nạn từ các trại ở Thổ Nhĩ Kỳ, hỗ trợ Thổ Nhĩ Kỳ và tự do hóa thị thực và tăng tốc
các cuộc đàm phán gia nhập EU của Thổ Nhĩ Kỳ. Vì vậy, chính sách của Merkel
để mở Đức cho những người tị nạn đã bị đảo ngược [85].
Các biện pháp thắt chặt biên giới nhằm đối phó với dòng người nhập cư có
thể khiến hiệp ước Schengen và cả những giá trị có tính chất tôn chỉ của EU như
dân chủ, nhân đạo mất hiệu lực. Chính sách áp đặt chỉ tiêu tiếp nhận người di cư
65
của Brussels cho thấy một bất cập nữa của EU trong quản lý vĩ mô trước những
khác biệt về trình độ phát triển của các thành viên [6].
Thủ tướng Đức Angela Merken đã tuyên bố cả hệ thống này (Schengen) đang
đứng trước rủi ro nếu Liên minh Châu Âu không thể đạt được sự đồng thuận về
chính sách cho người tị nạn và nhập cư. Trong khi chờ đợi sự thống nhất ý kiến
về những hướng cải tiến Hiệp ước Schengen, nhiều quốc gia đang tự động tăng
cường kiểm soát an ninh bên trong và các trục giao thông với bên ngoài. Nhiều
nước khác, như tại Bắc Âu, soạn thảo dự luật khắt khe hơn cho di dân - không cho
nhận trợ cấp xã hội - để khỏi thu hút người tị nạn và tránh các phần tử khủng bố
ngay trong thành phần này. Có các biện pháp hạn chế việc đoàn tụ gia đình, giảm
bớt thời hạn và cắt các lợi ích về nhà ở. Cảnh sát Đan Mạch đã được ủy quyền
tịch thu tiền mặt và đồ vật có giá trị từ người tị nạn để đóng góp vào chi phí của
họ. Chính phủ Phần Lan, về phần mình, đã phân loại Iraq, Afghanistan và
Somalia là nước xuất xứ an toàn. Phần lớn những người tị nạn được chấp nhận ở
Phần Lan đều có nguồn gốc từ ba nước này. Nghị viện Thụy Điển đã thông qua
một loạt các biện pháp vào tháng 6/2016, nhằm hạn chế quyền lợi, thời gian cư
trú và gia đình đoàn tụ, và cho phép trục xuất nhanh hơn những dòng người nhập
cư [107].
Nếu muốn Schengen được bền vững, cần phải phát triển nó theo hướng thiết
lập một cơ quan có thẩm quyền chung chịu trách nhiệm bảo đảm vững chắc biên
giới bên ngoài khu vực, trong khi cũng cần củng cố khuôn khổ an ninh nội địa.
Những gì khu vực Schengen cần lúc này là một lực lượng tuần tra bờ biển đích
thực với nguồn ngân sách, tàu thuyền và lực lượng riêng. Vùng Địa Trung Hải dự
đoán sẽ tiếp tục chịu nhiều thách thức về an ninh bởi tình trạng nhập cư bất hợp
pháp và vị trí địa lý gần kề với các tổ chức khủng bố. Do đó, sẽ rất hợp lý khi lực
lượng tuần tra bờ biển mới được hỗ trợ ngân quỹ của EU triển khai tại đây. Lực
lượng tuần tra là công cụ linh hoạt để phân bổ nguồn lực chống lại nạn di cư bất
hợp pháp. Các thành viên của khối Schengen nhận ra rằng, lý do an ninh là căn
66
nguyên của việc bãi bỏ biên giới nội địa. Mỗi thành viên trong khối Schengen vừa
duy trì quyền tự do đi lại vừa bảo đảm được an ninh và tương hỗ. Các nước trong
khối Schengen cần thiết lập các hình thức kiểm soát biên giới hợp lý trong thời
gian sớm nhất nếu không muốn Hiệp ước Schengen bị đổ vỡ.
- EU đang đối mặt với vấn đề già hóa dân số, nhập cư, di cư, tội phạm
xuyên quốc gia, trong vấn đề giải quyết an sinh xã hội [1]... Làn sóng di cư không
thể kiểm soát từ Trung Đông và châu Âu lên tới hàng triệu người đã và đang đặt
ra bài toán nan giải cho EU trong việc duy trì một đường biên giới chung - điều
được xem là giá trị cốt lõi của một liên minh thống nhất. Tình trạng này buộc
Liên minh châu Âu phải nhanh chóng thích ứng, tìm ra biện pháp đối phó. Bởi vì
làn sóng di cư ồ ạt đã làm xuất hiện tư tưởng bài ngoại và khiến nhiều quốc gia
“thay đổi cách nhìn”. Hungary đã lập hàng rào ngăn chặn người tị nạn ở biên giới;
còn Thụy Điển, vốn nổi tiếng với mô hình xã hội công bằng, cũng đã ban hành
nhiều biện pháp thắt chặt kiểm soát ở biên giới. Chính phủ Đan Mạch thậm chí
còn có dự án tịch thu trang sức và các đồ có giá trị khác của người nhập cư, với lý
do bù lại phần nào chi phí đón tiếp họ. Các cuộc di cư quy mô lớn để tránh chiến
tranh khiến cho hàng triệu người đổ vào châu Âu gây ra những vấn đề kinh tế xã
hội nghiêm trọng. Chưa hết, những nguy cơ “chết người” không thể dự đoán
trước từ cuộc khủng hoảng nhập cư cũng sẽ tăng lên. Các vụ tấn công khủng bố
đẫm máu gây ra hiệu ứng lan tỏa, khiến nỗi sợ hãi bao trùm toàn bộ người dân.
Các nhà lãnh đạo buộc phải xem xét khả năng chấm dứt hoặc tạm ngưng Hiệp
ước Schengen, trong đó quy định người dân các nước EU được tự do di chuyển
giữa các quốc gia mà không cần kiểm soát. Các biện pháp đối phó của châu Âu
chỉ có thể giảm được phần nào làn sóng nhập cư, và trong năm 2016, vấn đề di
dân vẫn là một trong những hồ sơ gai góc đối với châu Âu.
- Quyết định rời bỏ EU của nước Anh (Brexit) sau 43 năm gắn bó mới
thực sự khiến EU thay đổi về mọi mặt. Anh là một trong tứ trụ của EU với đóng
góp ròng hàng năm khoảng từ 8-10 tỷ bảng, 53% nhập khẩu của Anh là từ EU.
67
Anh cũng là một trong bốn thành viên châu Âu của NATO có ngân sách quốc
phòng hơn 2%/năm, vì thế Brexit đương nhiên sẽ khiến EU mất đi một chỗ dựa
quan trọng trên cả phương diện kinh tế lẫn an ninh. Brexit còn gây nên những xáo
trộn khó tránh tại các thể chế chính trị của EU, như Nghị viện châu Âu hay Hội
đồng châu Âu, đồng thời còn kích hoạt những tư tưởng cực hữu bài EU. Tổng thể,
Brexit khiến lộ trình nhất thể hóa theo hiệp ước Lisbon của EU bị đảo lộn hoàn
toàn. Khi tham gia vào một tổ chức hay liên kết quốc tế, quốc gia nào cũng hy
vọng sẽ thu lượm được những lợi ích phục vụ cho mục tiêu an ninh và phát triển
của mình, vì thế Brexit buộc các nhà lãnh đạo EU phải xem lại toàn bộ mô hình
liên kết theo kiểu “một siêu nhà nước”.
- Xu hướng dân túy, hoài nghi châu Âu: Chiến thắng của ông V. Orban
trong cuộc bầu cử Quốc hội Hungary ngày 08/4/2018 là mối lo mới của EU đối
với vấn đề nhập cư. Chính tư tưởng “Hungary trên hết” và đường lối cứng rắn
chống người nhập cư trái phép đã giúp ông V. Orban chiến thắng trong cuộc bầu
cử ở Hungary. Quan điểm chống nhập cư của Thủ tướng V. Orban đã nhận được
sự ủng hộ của một số giới chức chính trị Đức và nhiều nước châu Âu như Ba Lan,
Italy, CH Séc, Áo và. Kết quả của các cuộc bầu cử ở châu Âu, sự thất bại của liên
minh cầm quyền ở Đức trong cuộc bầu cử cấp liên bang năm 2017, và sự thắng
thế của các đảng cực hữu chống người di cư trên chính trường nhiều nước châu
Âu, cho thấy xu hướng dân túy, dân tộc chủ nghĩa, hoài nghi châu Âu đang ngày
càng phát triển tại châu lục này [12].
68
3.2. Dự báo tình hình nhập cư ở Liên minh Châu Âu
Trong khi năm 2016 đã giảm đáng kể số lượng người nhập cư vào EU
thông qua tuyến đường phía tây từ Thổ Nhĩ Kỳ đến Hy Lạp; nhập cảnh qua tuyến
đường trung tâm, từ Libya đến Ý, tiếp tục tăng. Các kịch bản này xem xét các
quyết định chính sách trong tương lai và tình hình an ninh ở Libya. Các kịch bản
này tập trung chủ yếu vào tình hình di cư thông qua Libya, tuyến đường Trung
tâm và phía Tây Địa Trung Hải:
Kịch bản 1: Người nhập cư vào Châu Âu tiếp tục tăng, EU sẽ làm việc với
các nước mà người di cư xuất phát đầu tiên để tìm cách ngăn chặn người dân rời
bỏ quê hương họ ngay từ đầu cũng như triệt phá các tổ chức buôn người đưa
người di cư vào châu Âu. Số người vào Italy từ Libya đã giảm trong năm 2017,
nhưng những rắc rối về nạn di cư của lục địa vẫn chưa kết thúc. Sau cùng, Libya
vẫn bất ổn về chính trị, và có thể không có khả năng hợp tác với châu Âu để ngăn
chặn dòng người di cư dọc các biên giới của họ. Hơn nữa, người di cư đã bắt đầu
sử dụng các điểm khởi hành mới, như Tunisia và Algeria, trên đường tới châu Âu.
Kịch bản 2: Buộc đóng cửa tuyến đường trung tâm Địa Trung Hải
Để ngăn chặn một sự leo thang của cuộc khủng hoảng di cư, EU áp dụng
các biện pháp khắc nghiệt hơn để phá vỡ các hoạt động buôn lậu ở Libya và ngăn
chặn người di cư băng qua Ý qua tuyến Địa Trung Hải. Số lượng khách đến Ý
giảm đáng kể . nhưng bắt đầu tăng vào cuối năm khi những kẻ buôn lậu di chuyển
qua các quốc gia Bắc Phi khác, liên quan đến hành trình dài hơn và nguy hiểm
hơn. Số người di cư ngày càng gia tăng ở Libya. Việc quân sự hóa biên giới biển
Libya dẫn đến nhiều cái chết và mất tích trên biển khi những kẻ buôn lậu và di cư
làm cho các nỗ lực tiếp cận châu Âu ngày càng không an toàn và các hoạt động
tìm kiếm cứu nạn giảm do việc di cư giảm [18].
Kịch bản 3: Cải thiện an ninh nội bộ ở Libya
EU và các nước thành viên nên đẩy mạnh hơn cho hòa bình ở Libya, điều
này sẽ đòi hỏi một thỏa thuận giữa General Haftar, lực lượng kiểm soát miền
69
đông Libya và lực lượng dân quân của Misrata, những người ủng hộ chính phủ
Quốc gia có trụ sở tại Tripoli [86]. EU nên tìm sự đồng thuận về chiến lược và
sau đó làm việc với Đặc phái viên Liên Hợp Quốc, Hoa Kỳ và Nga để đảm bảo
kết quả ổn định, thỏa thuận chia sẻ quyền lực dẫn đến hiến pháp mới và bầu cử
tổng thống cho Libya . Hòa bình cũng sẽ giúp EU giúp Libya tăng cường kiểm
soát biên giới, đặc biệt là ở phía nam của EU.Ngoài Libya, EU nên tập trung vào
Thổ Nhĩ Kỳ, Liban và Jordan. Ba quốc gia này hiện đang lưu trữ hàng triệu người
tị nạn Syria. Nếu điều kiện cho người tị nạn ở những nước này xấu đi, họ có thể
tìm cách di cư sang EU [85].
Cuộc khủng hoảng di cư tiếp tục thống trị chương trình nghị sự chính trị
của EU dẫn đến nỗ lực tăng cường ổn định Libya. Sau khi thực hiện thành công
thỏa thuận Ý - Libya, các thỏa thuận giữa các nước xuất xứ và quá cảnh của EU,
và đầu tư bổ sung của EU vào Libya, an ninh và quản trị được cải thiện ở Libya.
Tiếp cận nhân đạo cải thiện trong khi cải thiện an ninh nội bộ và kiểm soát biên
giới hạn chế các hoạt động buôn lậu từ Libya thông qua tuyến đường trung tâm
Địa Trung Hải. Con đường pháp lý mở ra cho những người tìm kiếm tị nạn ở Bắc
Phi. Số lượng người di cư bị mắc kẹt ở Libya tiếp tục tăng, mặc dù điều kiện bắt
đầu cải thiện và nhiều người di cư quyết định ở lại Libya [18]. Phát biểu chuyến
thăm Mỹ ngày 14/7/2015, Thủ tướng Italia nhấn mạnh: “Giải pháp duy nhất hiện
nay- khủng hoảng nhập cư - là hòa bình (tại Libya) và sự ổn định của các định chế
tại nước này” [14].
Những ưu tiên chính sách cho giai đoạn tiếp theo của chương trình nghị sự
châu Âu về di cư [105]:
Ưu tiên 1: Các phản ứng chính sách của EU cần chuyển từ trọng tâm an
ninh sang hướng tiếp cận chính sách đa ngành đảm bảo một sự cân bằng ưu tiên
giữa tất cả các lĩnh vực chính sách liên quan như hợp tác phát triển, đối ngoại,
thương mại, kinh tế cũng như đảm bảo tập trung tuân thủ các quyền con người cơ
70
bản, để tác động của chúng đối với cá nhân và cuộc sống được ưu tiên đúng đắn
và có hệ thống đối với các cân nhắc và lợi ích của chính sách ngành khác.
Ưu tiên 2: Hệ thống Dublin của EU cần được xem xét lại cơ bản và được
thay thế bằng một chế độ phân phối lại trách nhiệm mới dựa trên các tiêu chí
chính mới. Những tiêu chí này nên kết hợp các yếu tố số, cũng như các cá nhân,
gia đình và hoàn cảnh cá nhân và sở thích của người xin tị nạn. Vấn đề không chỉ
là về việc di chuyển những người tìm kiếm tị nạn xung quanh mà còn về việc đảm
bảo rằng các điều kiện tiếp nhận thích hợp được thực hiện ở khắp mọi nơi trên
khắp Liên minh. Chìa khóa cho sự thành công của các hệ thống tị nạn và biên giới
châu Âu trong tương lai sẽ thúc đẩy việc chia sẻ trách nhiệm pháp lý bằng cách
tăng cường năng lực thể chế. EU nên kêu gọi thành lập một dịch vụ tị nạn châu
Âu chung với thẩm quyền hỗ trợ các nước thành viên trong việc đánh giá các đơn
xin tị nạn, xây dựng năng lực trong nước của họ về tiếp nhận và quyết định phân
phối lại các đơn xin tị nạn dựa trên các tiêu chí mới.
Ưu tiên 3: Ủy ban cần phối hợp chặt chẽ với Nghị viện châu Âu, giám sát
hiệu quả hơn và thực thi đúng các tiêu chuẩn về luật tị nạn và biên giới của các
nước thành viên EU cũng như tuân thủ các nguyên tắc quy định tại Điều 2 TEU.
Ưu tiên 4: Tương lai của chính sách chung về biên giới của EU cũng là một
vấn đề trọng tâm.
Năm 2018, EU sẽ nghiên cứu các lựa chọn để giải quyết vấn đề nhập cư từ
châu Phi và Trung Đông bằng cách cải cách quy định nhập cư của mình. Quyết
định gây tranh cãi nhất mà khối này phải đưa ra là liệu có thực hiện một cơ chế để
phân phối người xin tị nạn theo tỷ lệ tương xứng hơn trên khắp châu lục - một
động thái mà cuối cùng không có khả năng thực hiện.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh EU diễn ra ở Brussel (Bỉ), ngày 28/6/2018, lãnh
đạo các quốc gia thành viên EU đã thống nhất một số vấn đề sau:
Một là, thúc đẩy việc triển khai các trung tâm tiếp nhận người tị nạn ở cả
trong và ngoài khu vực. Theo giới lãnh đạo EU, các trung tâm này sẽ có nhiệm vụ
71
sàng lọc người tị nạn, theo đó chỉ những người tị nạn chiến tranh, trốn tránh xung
đột mới được xử lý hồ sơ còn các dạng tị nạn kinh tế sẽ bị gạt bỏ và bị trả lại ngay
lập tức các nước xuất phát. Đây được xem là một điểm đột phá so với các biện
pháp trước kia, bởi việc lập ra các điểm tiếp nhận này, hay còn được gọi là các
“điểm nóng”, trước đây vốn bị nhiều nước phản đối. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là
mặc dù đồng ý về mặt nguyên tắc, nhưng những trạm tiếp nhận này sẽ đặt ở đâu
thì EU vẫn chưa có câu trả lời [12].
Hai là, tăng cường các hoạt động bảo vệ biên giới, những nỗ lực ngăn chặn
những kẻ buôn lậu hoạt động ở Libya hoặc các nơi khác nên được tiếp tục tăng
cường. Đẩy mạnh hỗ trợ cho khu vực Sahel, Coast, Libya, các cộng đồng ven
biển và miền Nam, điều kiện tiếp nhận nhân đạo, hợp tác với các nước xuất xứ và
quá cảnh khác, cũng như tái định cư tự nguyện [51]. Tất cả các tàu hoạt động tại
Địa Trung Hải phải tôn trọng các luật hiện hành và không cản trở hoạt động của
Bộ phận bảo vệ bờ biển Libya. Hội đồng châu Âu một lần nữa khẳng định, điều
kiện tiên quyết để thực thi chính sách của EU phụ thuộc cách tiếp cận toàn diện
với vấn đề di cư, bao gồm việc kiểm soát hiệu quả hơn đường biên giới bên ngoài
khối… Đây không chỉ là thách thức đối với từng nước thành viên EU mà còn cả
châu Âu. Ngoài ra, Hội đồng châu Âu bày tỏ quyết tâm ngăn chặn lặp lại tình
trạng dòng người di cư tràn vào châu Âu một cách mất kiểm soát trong năm 2015
và tình trạng di cư trái phép thông qua mọi tuyến đường. Hỗ trợ lẫn nhau giữa các
nước thành viên trong việc đưa lên bờ những người được giải cứu trong các hoạt
động tìm kiếm và cứu nạn.
Ba là, tăng cường phối hợp trong việc quản lý khủng hoảng nhập cư, đẩy
mạnh việc thực thi đầy đủ thỏa thuận giữa EU - Thổ Nhĩ Kỳ và các thỏa thuận
thừa nhận song phương không phân biệt đối xử đối với tất cả các quốc gia thành
viên. Hợp tác và hỗ trợ cho các đối tác ở khu vực Tây Balkans nhằm trao đổi
thông tin về dòng di cư, ngăn chặn việc di cư bất hợp pháp, tăng khả năng bảo vệ
biên giới và cải thiện thủ tục trả lại. Trước sự gia tăng của dòng người nhập cư
72
theo tuyến Tây Địa Trung Hải, EU sẽ hỗ trợ tài chính và mọi nỗ lực của các nước
thành viên, đặc biệt là Tây Ban Nha, đối với các nước là điểm xuất phát hoặc là
trung chuyển như Maroc để ngăn chặn di cư bất hợp pháp [51].
Bốn là, giải quyết vấn đề di cư ở cốt lõi đòi hỏi sự hợp tác với châu Phi
nhằm chuyển đổi kinh tế xã hội quan trọng của việc xây dựng lục địa châu Phi
theo các nguyên tắc và mục tiêu theo định nghĩa của các nước châu Phi trong
Chương trình nghị sự 2063. Các nước châu Âu cần thúc đẩy các nỗ lực kinh tế,
ngoại giao,… nhằm giúp các nước khu vực Bắc Phi - Trung Đông ổn định tình
hình, loại trừ khủng bố, chấm dứt xung đột, lập lại hòa bình, cần tập trung đặc
biệt vào giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng, đổi mới, quản trị tốt và trao quyền cho phụ
nữ. Hợp tác giữa Liên minh châu Âu và Liên minh châu Phi là một yếu tố quan
trọng trong mối quan hệ này. Việc giải quyết tận gốc vấn người di cư đòi hỏi mối
quan hệ đối tác với châu Phi phải hướng tới sự chuyển biến đáng kể đối với kinh
tế - xã hội của châu lục này. Chỉ có góp phần ổn định tình hình an ninh, kinh tế -
xã hội và đời sống nhân dân ở Châu Phi thì mới có thể giải quyết cuộc khủng
hoảng di cư Châu Âu hiện nay một cách căn bản, lâu dài được. EU tăng nguồn tài
trợ chuyển 500 triệu euro từ Quỹ Phát triển châu Âu (EDF) lần thứ 11 sang Quỹ
Ủy thác Châu Âu cho Châu Phi. Các nước thành viên được tiếp tục kêu gọi đóng
góp hơn nữa cho Quỹ Ủy thác của EU cho châu Phi nhằm mục đích bổ sung.
3.3. Một số kinh nghiệm cho ASEAN
Như vậy, qua nghiên cứu về các giải pháp ứng phó với nhập cư của Liên
minh Châu Âu. Tuy EU, trải qua 3 năm với hàng loạt biện pháp, kể cả trên quy
mô toàn EU lẫn trong nội bộ từng nước thành viên đã được áp dụng nhằm hạn chế
dòng người nhập cư trái phép đổ về châu Âu. EU đã bước đầu đưa ra các giải
pháp trước mắt nhằm hạn chế tình trạng nhập cư, còn về lâu dài cần sự giúp sức
của cộng đồng quốc tế. Đây cũng là những gợi mở quan trọng cho ASEAN trước
vấn nạn nhập trái phép của khu vực này cụ thể:
73
Thứ nhất, các quốc gia thành viên ASEAN phải cùng nhau hợp tác nhằm tăng
cường công tác quản lý di cư và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người di cư.
Có nhiều khuôn khổ và diễn đàn để tạo cơ hội và thúc đẩy việc ban hành các
chính sách tốt hơn về phối hợp và đối thoại nhằm tăng cường sự bảo vệ đối với
người di cư. Những điều này được đề cập trong Tuyên bố ASEAN về Bảo vệ
Quyền của Lao động di cư, Diễn đàn ASEAN về lao động di cư...
ASEAN đã có nhiều nỗ lực hợp tác nhằm tìm ra các nguyên nhân, giải pháp
để quản trị tốt các cuộc khủng hoảng di cư. Hội nghị thượng đỉnh ASEAN thực
hiện Tuyên bố ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy quyền của lao động di cư lần thứ 3
(ACMW3) ngày 19/5/2010 đã tập trung thảo luận bốn chủ đề chính: (1) Tăng
cường bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao động di cư chống bóc lột và ngược
đãi; (2) Đẩy mạnh bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao động di cư thông qua
tăng cường quản lý lao động di cư của các nước thành viên; (3) Hợp tác khu vực
ASEAN chống nạn buôn bán người; (4) Phát triển văn kiện ASEAN về bảo vệ và
thúc đẩy quyền của người lao động di cư [10].
Tại Hội nghị Bộ trưởng Lao động ASEAN lần thứ 24 họp từ ngày 11-
12/5/2016 tại Viêng Chăn (Lào) và Hội nghị quan chức cấp cao về lao động
ASEAN lần thứ 12, đại diện các nước thành viên ASEAN và Ban Thư ký
ASEAN đã trao đổi nội dung dự thảo Tuyên bố Viêng Chăn về chuyển đổi từ việc
làm phi chính thức sang việc làm chính thức trong khu vực ASEAN hướng tới
thúc đẩy việc làm bền vững. Hội nghị thảo luận về việc thực hiện Tuyên bố
ASEAN về trao đổi nội dung hợp tác với các đối tác quốc tế, bảo vệ và thúc đẩy
quyền của người lao động di cư, nhằm mở rộng mạng lưới an sinh xã hội và tăng
năng suất lao động, tăng cường tính cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kỹ năng cho
người lao động, đẩy mạnh hợp tác kinh tế khu vực. Đây là những nội dung được
các thành viên các nước ASEAN quan tâm nhiều nhất.
Thứ hai, Hiện nay các nước ASEAN đã công nhận lẫn nhau đối với công dân
có hộ chiếu phổ thông và hộ chiếu công vụ, ngoại giao không cần phải xin visa
74
vào các nước (tối đa thường không quá 3 tuần đối với hộ chiếu phổ thông và 1
tháng đối với hộ chiếu công vụ, ngoại giao. Vì vậy, ASEAN cần tăng cường kiểm
soát biên giới chung nhằm kiểm soát và đảm bảo quyền tự do đi lại giữa công
dân. Điều này tạo thuận lợi cho du lịch, công việc ngắn của người dân ASEAN.
Nhưng các cam kết này chủ yếu là các cam kết song phương giữa các nước với
nhau, cần đặt ra lộ trình để hướng tới các thỏa thuận ở cấp độ khu vực [3].
Thứ ba, Việc hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN thông qua việc đảm bảo
tự do lưu chuyển các yếu tố như hàng hóa, dịch vụ, vốn và lao động giữa các
nước thành viên sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế, phân bổ nguồn lực, nâng cao
năng xuất lao động, tạo nhiều việc làm, thu hút nhiều nguồn đầu tư nước ngoài, và
khả năng cạnh tranh ... của ASEAN [3]. Tiến tới thiết lập một chính sách nhập cư
chung để đảm bảo cho việc thực hiện di chuyển tự do lao động.
Thứ tư, tăng cường kiểm soát biên giới trên biển. Nhiều người tị nạn từ Trung
Đông đã chết vì cố vượt biển Địa Trung Hải tới châu Âu. Với ASEAN, Nhiều
người tị nạn từ Trung Đông đã chết vì cố vượt biển Địa Trung Hải tới châu Âu.
Với ASEAN, trong năm 2014 và đầu năm 2015, hàng nghìn người vượt biển (bao
gồm người Rohingya và Bangladesh) từ Vịnh Bengal và Biển Andaman của bờ
biển phía tây Myanmar ở các nước lân cận như Thái Lan, Malaysia. Do vậy,
ASEAN phải tiến hành kiểm soát chặt chẽ an ninh biên giới biển thay vì tuyên bố
có hay không chấp nhận người tị nạn khi họ đổ bộ vào lãnh thổ đất liền [40].
Thứ năm, ASEAN phải hướng tới xây dựng chính sách về người tị nạn một
cách hợp lý. Năm 1999, ra đời Chính sách di cư chung và Cơ chế cư trú chính trị
chung châu Âu. Xây dựng các yêu cầu cần thiết cho chính sách nhập cư chung
của EU và thành lập Hệ thống tị nạn nhân đạo của Cộng đồng chung châu Âu
(Common European Asylum System). Hơn nữa, EU cũng tiến hành một loạt các
biện pháp hài hòa các tiêu chuẩn pháp lý tối thiểu chung cho người tị nạn, trong
đó có quy định Dublin I, II và III. Song song với đó, các thành viên của Liên
minh tiến hành cải thiện khuôn khổ nội luật hiện hành để phù hợp với luật chung
75
[40]. Trong khi ASEAN vẫn còn thiếu một chính sách đối với người tị nạn. Do
vậy, khi vấn đề liên quan tới người tị nạn xảy ra, các nước mới cùng ngồi lại với
nhau để giải quyết trên tinh thần tự nguyện và linh hoạt theo vấn đề. Ví dụ như
trước một số cuộc khủng hoảng tị nạn khu vực từ năm 1975 đến 1995, kết quả của
cuộc chiến là khoảng 1,4 triệu người tị nạn đã rời khỏi Campuchia và Việt Nam,
tìm kiếm sự tị nạn ở các nước láng giềng. ASEAN đã đưa ra Kế hoạch Hành động
toàn diện (CPA) và sau đó các nước thành viên đã đồng ý cung cấp quy chế tị nạn
tạm thời [40].
Thứ sáu, ngăn chặn chủ nghĩa khủng bố đang lan tràn vào, khủng hoảng di cư
làm gia tăng khủng bố quốc tế ở Châu Âu, ngoài sức ép về kinh tế, châu Âu còn
đối mặt với những vấn đề an ninh, an toàn, phúc lợi xã hội nảy sinh, như giải
quyết những bất đồng, thái độ nghi kỵ, quyền lợi,… giữa một bên là một bộ phận
người dân nước sở tại với bên kia là những người mới đến; giảm thiểu sự khác
biệt trong ngôn ngữ, văn hóa, lối sống, tôn giáo… khiến người nhập cư và người
bản địa không thể dễ dàng, nhanh chóng thích nghi với nhau; đó là tình trạng hỗn
loạn về an ninh tại các khu vực biên giới cũng như ở các thành phố của một số
quốc gia EU. Ngăn chặn những phần tử của Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng trà
trộn trong dòng người di cư nhằm thực hiện các hoạt động khủng bố, ảnh hưởng
trực tiếp đến an ninh của nhiều nước, nhất là đối với các nước tham gia hoạt động
chống Tổ chức Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) ở Syria và Iraq.
Đông Nam Á là khu vực có dân số theo Hồi giáo khá đông, IS đang tăng
cường hoạt động ở Đông Nam Á, những kẻ tuyển mộ của IS đang hoạt động ở
Indonesia, Malaysia và Philippines. Khủng bố Hồi giáo là mối đe dọa đối với tất
cả các quốc gia, Việt Nam cũng như tất cả các nước và các dân tộc, tất cả những
người yêu hòa bình, ổn định và dân chủ cần phải thống nhất nỗ lực để đấu tranh
chống nguy cơ này.
Thứ bảy, EU đã bị chỉ trích vì tập trung quá ít vào tìm hiểu nguyên nhân
gốc rễ vấn đề người tị nạn. Nếu EU có một chính sách đối ngoại thuận lợi, giúp
76
giảm nhiệt bất ổn chính trị ở Syria thì dòng người tị nạn ở nước này sẽ giảm đi
đáng kể. Tương tự như vậy, ASEAN cần có một chính sách đối ngoại đồng bộ,
tập trung vào sự phát triển cũng như điều kiện sống của người Rohingya ở
Myanmar. Trong một cuộc họp khẩn cấp của các nước ASEAN về vấn đề người tị
nạn, Indonesia đã đề xuất hợp tác với Myanmar để giải quyết vấn đề này. Đây là
một đề xuất tốt, cần được hỗ trợ bởi các nước thành viên ASEAN khác. Việc giải
quyết vấn đề người tị nạn không chỉ nằm ở khâu quản lý dòng người mà còn ở
khâu xử lý nguyên nhân sâu xa của cuộc xung đột khiến dòng chảy người tị nạn
ngày càng nhiều hơn [40].
Thứ tám, ASEAN cần phải có sự đồng thuận trong việc nhìn nhận vấn đề
di cư của người Rohingya thiểu số ở Myanmar vượt biển ra nước ngoài tỵ nạn.
Trong đó Malaysia và Indonesia là những điểm đến, Thái Lan là điểm trung
chuyển đầu tiên của các đường dây buôn người trong khu vực. Cơ quan chuyên
trách về người tỵ nạn của Liên Hợp quốc (UNHCR) ước tính có khoảng 120
nghìn người Rohingya đã theo nhiều cách khác nhau rời bỏ Myanmar trong ba
năm qua, trong đó rất nhiều người đi theo đường biển, qua trung gian là bọn buôn
người. Ngày 29/5/2015, Thái Lan đã tổ chức hội nghị thượng đỉnh nhằm tìm kiếm
tiếng nói chung trong hợp tác, giải quyết vấn đề trên. Tuy nhiên, trước khi hội
nghị diễn ra, Myanmar đã kịch liệt phản đối và phủ nhận quốc gia này là nguyên
nhân chính dẫn đến khủng hoảng di cư ở Đông Nam Á, đồng thời tuyên bố sẽ
không tham dự cuộc họp nếu từ “Rohingya” nhạy cảm được đề cập trong lời mời
[10]. Như vậy, để giải quyết vấn đề di cư của người Rohingya thiểu số ở
Myanmar rất cần có sự hợp tác, chia sẻ của nhiều quốc gia trong khu vực và các
tổ chức quốc tế.
77
Tiểu kết chương 3
Hiện nay, vấn đề tị nạn sẽ là một vấn đề nan giải và việc quản lý nó cần sự
nỗ lực không ngừng của các quốc gia. Trong những thập kỷ mà ngọn lửa chủ
nghĩa khu vực được thổi bùng lên, các nước phải quản lý các cuộc khủng hoảng
bằng chính sức mạnh và tinh thần khu vực. Dù EU có thành công hay không trong
nỗ lực giải quyết vấn đề này, những gợi mở trên vẫn sẽ là kinh nghiệm cho
ASEAN trong việc giải quyết vấn đề người tị nạn.
78
Kết luận
Thực hiện luận văn nghiên cứu giải pháp ứng phó với nhập cư ở Liên minh
châu Âu tác giả rút ra một số kết luận sau:
1. Tình trạng nhập cư đang diễn biến phức tạp đã và đang đặt ra câu hỏi liệu
có nên thắt chặt Hiệp ước Schengen hay không khi mà việc tự do đi lại trong khối
là quyền cơ bản của công dân EU. Khu vực miễn thị thực giữa 22 quốc gia thành
viên Liên minh Châu Âu (Schengen) đang đứng trước nguy cơ quá tải bởi làn
sóng di cư vẫn tiếp tục đổ vào cửa ngõ Hy Lạp, Italia, Thổ Nhĩ Kỳ, Bungary…
2. Liên minh châu Âu đã đưa ra nhiều các giải pháp ứng phó với nhập cư
như: kế hoạch 10 điểm về các giải pháp trước mắt mà EU thực hiện để đối phó
với tình trạng nhập cư trái phép vào Châu Âu. Bên cạnh đó, EU đã đưa ra các
biện pháp trung hạn như: kiểm soát biên giới nội bộ EU, Điều chỉnh kế hoạch
phân bố hạn ngạch người nhập cư, Thỏa thuận EU – Thổ Nhĩ Kỳ về vấn đề nhập
cư, hợp tác với các nước thứ ba, Điều chỉnh Hiệp ước Dublin. Muốn giải quyết
triệt để tình trạng di cư hiện nay cần có những giải pháp sâu xa hơn mà trước hết
là thiết lập một chính sách nhập cư chung cho toàn EU, thứ hai là tái hồi hương
những người nhập cư, thứ ba là ổn định tình hình Bắc Phi nhằm giải quyết tình
trạng xung đột sắc tộc, phân biệt đối xử; giải quyết tận gốc nguy cơ chiến tranh,
bạo lực. Những người di cư có thể sống trong hòa bình, có việc làm, có cuộc sống
tốt hơn và ổn định để họ không còn muốn rời xa quê hương và phải liều mình ra
đi tìm kiếm một miền đất hứa với tương lai vô định. Ngoài ra, các quốc gia cần
hợp lực tăng cường việc thực thi pháp luật nhằm đối phó với tình trạng buôn bán
người, tăng cường hợp tác trong việc xoá bỏ các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia,
tăng cường luật pháp và các kênh di dân an toàn, phù hợp giữa các nước liên quan
nhằm ngăn chặn các hoạt động di cư trái phép, vấn nạn buôn người – yếu tố khiến
cuộc khủng hoảng di cư trở nên trầm trọng như hiện nay
3. Tác giả cũng phân tích những thành công ban đầu trong việc thực hiện các
giải pháp ứng phó với nhập cư và những hạn chế của nó.
79
4. Những dự báo và ưu tiên chính sách cho giai đoạn tiếp theo của chương
trình nghị sự về di cư cũng được đưa ra. Tại Hội nghị Thượng đỉnh EU ngày
28/6/2018 đã thống nhất một số vấn đề như: Thúc đẩy việc triển khai các trung
tâm tiếp nhận người tịn nạn ở trong và ngoài khu vực EU; Tăng cường các hoạt
động bảo vệ biên giới, chống nạn buôn bán người; Tăng cường phối hợp trong
việc quản lý khủng hoảng nhập cư, đẩy mạnh thực thi thỏa thuận EU- Thổ Nhĩ
Kỳ; Các nhà lãnh đạo châu Âu phải giải quyết nguyên nhân gốc rễ của di cư: giúp
kết thúc cuộc nội chiến Syria, khôi phục ổn định cho Libya và hỗ trợ viện trợ cho
châu Phi cận Sahara. Ngăn chặn một giải pháp chính trị cho các cuộc khủng
hoảng khu vực này, châu Âu sẽ tiếp tục đấu tranh với dòng chảy nhập cư.
5. Trải qua hơn 3 năm với hàng loạt các biện pháp được thực hiện ở cấp độ
EU và nội bộ các nước thành viên nhằm kiểm soát và hạn chế dòng người nhập
cư vào EU. Những kinh nghiệm quý báu của EU trong việc thực thi các giải pháp
ứng phó với nhập cư là những gợi mở quan trọng cho ASEAN trong việc giải
quyết nạn nhập cư trái phép ở khu vực này.
80
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
Lê Thị Kim Oanh (2017), “Một số điều chỉnh chính sách nhập cư của Liên minh Châu Âu”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, Số 6 (201), tr.68-79.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Đặng Minh Đức (2015), “Một số điều chỉnh chính sách đối ngoại của Liên
minh châu Âu trong bối cảnh mới”, Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, số 7 (178),
tr 11-12.
2. Hương Giang (2015), “Người nhập cư, động lực tăng trưởng kinh tế châu
Âu”,
http://bnews.vn/nguoi-nhap-cu-dong-luc-tang-truong-kinh-te-chau-
au/2912.html, tải ngày 1/12/2015.
3. Nguyễn An Hà (2013), “Liên kết trong chính sách nhập cư của Liên minh
châu Âu và một số gợi mở cho ASEAN”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 12
(159), tr 22-33.
4. Khổng Hà (2015), “Vòng luẩn quẩn cuộc khủng hoảng di cư Châu Âu”,
http://cand.com.vn/Binh-luan-quoc-te/Vong-luan-quan-cuoc-khung-hoang-di-
cu-chau-au-365400/ tải ngày 2/1/2015.
5. Ngân Hà (2017), “Hệ lụy từ cuộc khủng hoảng di cư với châu Âu”,
http://www.baohaiquan.vn/Pages/He-luy-tu-cuoc-khung-hoang-di-cu-voi-
chau-Au.aspx, tải ngày 15/11/2017.
6. Đỗ Sơn Hải (2018), “EU: Tương lai sau 60 năm tồn tại”,
http://www.nhandan.com.vn/thegioi/goc-nhin-thu-hai/item/32540002-eu-
tuong-lai-sau-60-nam-ton-tai.html tải ngày 7/5/2018.
7. Trần Thị Hương (2012), “Vấn đề nhập cư ở EU hiện nay: thực trạng và chính
sách”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 4 (91), tr.229.
8. Khánh Linh (2016), “Năm 2016: Châu Âu tiếp tục chật vật đối mặt với cuộc
khủng hoảng di cư”, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,
http://dangcongsan.vn/quoc-te/tintuc/nam-2016-chau-au-tiep-tuc-chat-vat-doi-
mat-voi-cuoc-khung-hoang-di-cu-366126.html, truy cập ngày 7/6/2016.
9. Lê Thế Mẫu (2015) “Cuộc khủng hoảng di cư ở châu Âu - căn nguyên và giải
pháp”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, Thứ Hai, 02/11/2015,
http://tapchiqptd.vn/vi/quoc-phong-quan-su-nuoc-ngoai/cuoc-khung-hoang-
di-cu-o-chau-au-can-nguyen-va-giai-phap/8240.html,
truy
cập
ngày
20/3/2016.
10. Đậu Tuấn Nam (2017), “Quản trị khủng hoảng di cư nhìn từ góc độ hợp tác
quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Lý luận Chính trị số 9,
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/quoc-te/item/2435-quan-tri-khung-
hoang-di-cu-nhin-tu-goc-do-hop-tac-quoc-te-va-kinh-nghiem-cho-viet-
nam.html, tải ngày 25/1/2018.
11. Trịnh Văn Tùng (2015), “Hệ quả chính sách của các nhà nước châu Âu trong
cuộc khủng hoảng di cư hiện nay dưới góc nhìn xã hội học”, Kỷ yếu hội thảo
khoa học quốc tế, Hà Nội.
12. Phương Trà (2018), “Khủng hoảng di cư: Liên minh châu Âu nỗ lực đạt sự
gắn kết”, tapchicongsan.org.vn, 20/8/2018,
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/The-gioi-van-de-su-
kien/2018/51907/Khung-hoang-di-cu-Lien-minh-chau-Au-no-luc-dat-su.aspx
truy cập ngày 20/8/2018.
13. Minh Trà, Minh Thanh (2017), “Châu Âu: Loay hoay giải “bài toán” khủng
hoảng nhập cư”, http://baophapluat.vn/quoc-te/chau-au-loay-hoay-giai-bai-
toan-khung-hoang-nhap-cu-348135.html, truy cập ngày 7/8/2018
14. Ninh Xuân Thao (2015), “Khủng hoảng nhập cư trên biển Địa Trung Hải:
thách thức đối với Liên minh Châu Âu hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu Châu
Âu, số 6 (177), tr.47-58.
15. Thái Nguyễn (2015), “Khủng hoảng nhập cư châu Âu”,
http://baotintuc.vn/tu-lieu/khung-hoang-nhap-cu-chau-au-tiep-theo-
20150512215904718.htm, tải ngày 20/11/2016.
16. Thông tấn xã Việt Nam (2017), “Số lượng người di cư đến châu Âu giảm
mạnh trong năm 2016”, http://bnews.vn/so-luong-nguoi-di-cu-den-chau-au-
giam-manh-trong-nam-2016/32573.html, truy cập ngày 5/2/2017.
17. Theo Reuters (2018), “Số người di cư đến châu Âu qua đường biển giảm
đáng kể trong năm 2017”, http://baoquocte.vn/so-nguoi-di-cu-den-chau-au-
qua-duong-bien-giam-dang-ke-trong-nam-2017-63742.html, truy cập ngày
7/2/2018.
Tiếng Anh
(2017), “Scenarios: Refugee/Migrant Crisis
in Europe”,
18. ACAPS
https://www.ifrc.org/Global/Photos/Secretariat/201702/170329%20Central%2
0-%20West%20Med%20Scenarios%20-%20final.pdf tải ngày 5/7/2017.
19. ADB (2013), “Asian Development Outlook 2012: Facing Increasing
Inequality in Asia,” Report, Manila.
20. AFP (2018 ), “France to extend internal EU border checks over security fears”, 4 April 2018, https://www.thelocal.fr/20180404/france-to-extend- internal-eu-border-checks, tải ngày 29/6/2018.
21. Albert, E. (2017), “The Rohingya Migrant Crisis”, Council on Foreign
Relations,https://www.ethz.ch/content/dam/ethz/special-
interest/gess/cis/center-for-securities
studies/resources/docs/CFR_The%20Rohingya%20Migrant%20Crisis%20-
%20Council%20on%20Foreign%20Relations.pdf, tải ngày 7/2/2018.
22. Alessandro Cenderello , Julie McQueen , Claudia Gallo , Enrico Coletta ,
Emilie Balbirnie , Marc Suters, “Managing the EU migration crisis From
panic
to planning”,2016 http://www.ey.com/Publication/vwLUAssets/ey-
managing-the-eu-migration-crisis/%24FILE/ey-managing-the-eu-migration-
crisis.pdf, tải ngày 1/7/2017.
23. Amarjit Kaur (2010), “Labour Migration in Southeast Asia: Migration
Policies, Labour Exploitation and Regulation”, Journal of the Asia Pacific
Economy, Vol. 15, No. 1, February 2010, 6 -19,
https://www.researchgate.net/publication/233188129_Labour_Migration_in_S
outheast_Asia_Migration_Policies_Labour_Exploitation_and_Regulation
tải ngày 12/5/2017.
24. Andrea Swalec (2010), “Immigration pushes EU population above 500
million”, WORLD NEWS JULY 27, 2010, http://www.euractiv.com/en/socialeurope/immigration-pushes-eu-population- above-500-million-news-496717, tải ngày 1/7/2015.
25. Arisman Ratnawati Kusuma Jaya (2018), Protection of Human Rights and
Labour Migration for Employment Purpose Across ASEAN, Center for
Southeast Asian Studies, Jakarta: CSEAS.
26. Article 13, Dublin Regulation III; Lívia Benková (2017), “Europe‘s Response
to the Migration Crisis”,
https://www.aies.at/download/2017/AIES-Fokus-2017-03.pdf
truy
cập
5/4/2018.
27. Brady H. (2008), “EU Migration Policy: An A-Z”, Center for European
Reform (CER), London, UK, p.59-60.
28. Bianca Benvenuti (2017), “The Migration Paradox and EU-Turkey
Relations”, IAI Working Papers, No. 17|05, January 2017,
http://www.iai.it/en/node/7228 tải ngày 28/2/2018.
29. BBC (2015) “Why are so many Rohingya migrants stranded at sea?”,
https://www.bbc.com/news/world-asia-32740637, tải ngày 1/8/2017.
30. Ben Smith, Melanie Gower (2015), “The EU's response to the migration
crisis: recent developments”, Number 7430, 11 December 2015,
http://researchbriefings.files.parliament.uk/documents/CBP-7430/CBP-
7430.pdf tải ngày 13/5/2016.
31. Bodo Weber (2016), “The European Refugee Crisis, the Balkan Route and
the EU-Turkey Deal”, Democratization Policy Council, Berlin, September
2016,
https://www.dallasfed.org/~/media/documents/research/papers/2016/wp1603.
pdf, tải ngày 31/12/2017.
32. Carrera .S ,Raluca Radescu, Natasja Reslow (2015), “EU External Migration
Policies A Preliminary Mapping of the Instruments, the Actors and their
Priorities”, European Commission,
http://www.uta.fi/edu/en/research/projects/eura-
net/publications/TASK%203.1%20REPORT_UM_CEPS_final_v4.pdf
tải
ngày 12/5/2017.
33. Clare Castillejo (2017), "The EU Migration Partnership Framework Time for
a Rethink?", German Development Institute
, Deutsches Institut für
Entwicklungspolitik (DIE) funded by the German Federal Ministry for
Economic Cooperation and Development (BMZ).
https://www.die-gdi.de/uploads/media/DP_28.2017.pdf, tải ngày 13/5/2018.
34. Concord Europe (2017), “EUTF for Africa: Partnership or Conditionality?”,
November 2017, European Parliament, https://concordeurope.org/wp-
content/uploads/2017/11/CONCORD_EUTF_Monitoring_short.pdf?1fdb40&
1fdb40 tải ngày 17/1/2018.
35. Elizabeth Collett and Camille Le Coz (2018), “After the Storm Learning from
the EU response to the migration crisis”, Migration Policy Institute Europe,
https://www.migrationpolicy.org/sites/.../EUCrisisResponse_FINAL.pdf,
tải
ngày 15/8/2018.
36. Daniela Adorna, Kristiina Milt, Ioannis Papageorgiou, Rosa Raffaelli,
Sabrina Saoudi, Sarah Sy (2017) “Policy Department for Citizens' Rights and
Constitutional Affairs and Policy Department for External Relations”,
European Parliament, 21 JUNE 2017,
http://www.europarl.europa.eu/RegData/etudes/BRIE/2017/583159/IPOL_BR
I(2017)583159_EN.pdf, tải ngày 3/3/2018.
37. Daniel Gros (2015), “Schengen and European Security”, Project Syndicate,
https://www.project-syndicate.org/commentary/schengen-open-borders-help-
security-by-daniel-gros-2015-12?barrier=accessreg, tải ngày 4/7/2017.
38. Dan VĂTĂMAN (2016), “migration and refugee crisis a major challenge
for the European union measures and possible solutions in the context of year
2016”, Challenges of the Knowledge Society, Public law, "Ștefan cel Mare"
University, Suceava, Romania,
http://cks.univnt.ro/uploads/cks_2016_articles/index.php?dir=03_public_law/
&download=CKS+2016_public_law_art.080.pdf, tải 17/2/2017.
39. Demetrios G. Papademetriou, Meghan Benton, “From Fragmentation to
Integration: Towards a “Whole-of-Society” Approach to Receiving and
Settling Newcomers in Europe”, Calouste Gulbenkian Foundation, Vision
Europe Summit, Lisbon, 21 – 22 November 2016.
40. Dimas Kuncoro Jati (2015), “ASEAN can learn from Europe’s refugee
crisis”, http://www.newmandala.org/asean-can-learn-from-europes-refugee-
crisis/, tải ngày 1/6/2016.
41. Dinoj K Upadhyay (2016), “Migrant Crisis in Europe: Causes, Responses
and Complexities”,
https://icwa.in/pdfs/guestcolumn/2014/MigrantCrisisinEurope26042016.pdf,
tải ngày 1/5/2017.
42. Edmund Blair (2015), “EU Wants New Aid for Eritrea Soon to Help Stem
Migrant Exodus,” Reuters, September 17, 2015,
http://uk.reuters.com/article/2015/09/17/uk-europe-migrants-eritrea-
idUKKCN0RH1MU20150917, tải ngày 12/5/ 2017.
43. Emilio Cocco (2017), “Where is the European frontier? The Balkan
migration crisis and its impact on relations between the EU and the Western
Balkans”, European View (2017) 16:293–302,
https://link.springer.com/article/10.1007/s12290-017-0471-5, tải 5/5/2018.
44. European Commission (2015), “Refugee Crisis-Q&A on Emergency
Relocation”, Brussels, 22/09/2015, http://europa.eu/rapid/press-
release_MEMO-15-5698_en.htm, tải ngày 2/11/2016.
45. European Commission (2016), “First Report on the progress made in the
implementation of the EU-Turkey Statement”, Brussels, COM(2016) 231
final, https://ec.europa.eu/home-affairs/sites/homeaffairs/files/what-we-
do/policies/european-agenda-migration/proposal-implementation-
package/docs/20160420/report_implementation_eu-
turkey_agreement_nr_01_en.pdf, tải ngày 22/7/2017.
46. European Commission (2016), “Questions & Answers: Third Report on
Progress by Turkey in fulfilling the requirements of its Visa Liberalisation
Roadmap”, 4 May 2016, http://europa.eu/!Hb66CN, tải ngày 15/6/2016.
47. European Commission (2016),“ Communication on establishing a new
Partnership Framework with third countries under the European Agenda on
Migration”, 7.6.2016,
https://ec.europa.eu/transparency/regdoc/rep/1/2016/EN/1-2016-385-EN-F1-
1.PDF, tải ngày 20/5/2017.
48. European Commission (2016), “Humanitarian Aid and Civil Protection,
Turkey: Syria Crisis, ECHO”
http://ec.europa.eu/echo/files/aid/countries/factsheets/turkey_syrian_crisis_en.
pdf, tải ngày 2/11/2016.
49. European Commission (2016), “European Neighbourhood Policy and
Enlargement Negotiations, Countries: Turkey”
http://ec.europa.eu/enlargement/countries/detailed-
countryinformation/turkey/index_en.htm, tải ngày 20/01/2016.
50. European Commission (2016), “Turkey 2016 Report (SWD/2016/366)” , 9
November 2016, http://eur-lex.europa.eu/legal-
content/en/TXT/?uri=celex:52016SC0366, tải ngày 25/7/2017.
51. European Commission (2017), “The EU and the migration crisis”,
http://publications.europa.eu/webpub/com/factsheets/migration-crisis/en/, tải
2/1/2018.
52. European Commission (2017), “Progress report on the European Agenda on
Migration”, Brussels, 15.11.2017, COM(2017) 669 final,
https://ec.europa.eu/home-affairs/sites/homeaffairs/files/what-we-
do/policies/european-agenda-
migration/20171114_progress_report_on_the_european_agenda_on_migratio
n_en.pdf tải ngày 1/12/2017.
53. European Union (2018), “Migration to the EU: five persistent challenges”,
February 2018, http://fra.europa.eu/sites/default/files/fra_uploads/fra-2018-
february-migration-report-focus-five-challenges_en.pdf\ tải ngày 20/5/2018
54. European Commission, “Irregular Migration & Return”,
http://ec.europa.eu/dgs/home-affairs/what-we-do/policies/irregular-migration-
return-policy/index_en.htmhttp://ec.europa.eu/dgs/home-affairs/what-we-
do/poli/cies/irregular-migration-return-policy/index_en.htm,
tải
ngày
12/5/2017.
55. European Council (2018), “European Council conclusions”, 28 June 2018,
http://www.consilium.europa.eu/en/press/press-
releases/2018/06/29/20180628-euco-conclusions-final/pdf,tải ngày 2/8/2018.
56. European Migration Network (2017), “2016 Annual Report on Migration and
Asylum”, 25th April 2017,
https://ec.europa.eu/home-
affairs/sites/homeaffairs/files/00_apr2016_synthesis_report_final_en.pdf, tải
ngày 1/7/2018.
57. European Parliament (1999), “TAMPERE EUROPEAN COUNCIL 15 AND
16 OCTOBER 1999 PRESIDENCY CONCLUSIONS”,
http://www.europarl.europa.eu/summits/tam_en.htm, tải ngày 25/8/2018.
58. European Parliament (2015), “Third-country migration and European labour
markets Integrating foreigners”, July 2015,
http://www.europarl.europa.eu/RegData/etudes/BRIE/2015/564389/EPRS_B
RI(2015)564389_EN.pdf, tải ngày 25/8/2018.
59. European Parliament (2017), “EU border controls and managing migration”,
http://www.europarl.europa.eu/news/en/headlines/society/20170627STO7841
9/eu-border-controls-and-managing-migration, tải ngày 21/12/2017.
60. European Parliament (2018),“Migration and Asylum: a challenge for
Europe”, 16/06/2018,
http://www.europarl.europa.eu/RegData/etudes/PERI/2017/600414/IPOL_PE
RI%282017%29600414_EN.pdf, tải ngày 15/7/2018
61. Eurostat (2017), “Euro area unemployment at 9.3% EU28 at 7.8%”
http://ec.europa.eu/eurostat/documents/2995521/8054122/3-31052017-AP-
EN.pdf/4f221477-8be9-46a0-a949-071b79490118, tải ngày 1/6/2017.
62. Eurostat (2018), “Euro area unemployment at 8.4% EU28 at 7.0%”
http://ec.europa.eu/eurostat/documents/2995521/9034240/3-02072018-AP-
EN.pdf/bfcf5c1a-fca8-4541-aa0a-2d5dc2e090da, tải ngày 16/4/2018.
63. Eurostat (2018), “Migration and migrant population statistics”
http://epp.eurostat.ec.europa.eu/statistics_explained/index.php/Migration_and
_migrant population_statistics tải ngày 20/8/2015.
64. Eurostat (2018), “GDP up by 0.6% in both euro area and EU28”
http://ec.europa.eu/eurostat/documents/2995521/8718257/2-07032018-AP-
EN.pdf/99862cd5-dba6-49fa-bb2a-aa5395fa8b1b, tải ngày 20/2/2018.
65. Eurostat Press Office (2018), “Third quarter of 2017 compared with second
quarter of 2017 Government debt fell to 88.1% of GDP in euro area Down to
82.5% of GDP in EU28”, 14/2018 - 24 January 2018,
https://ec.europa.eu/eurostat/documents/2995521/8609567/2-24012018-AP-
EN.pdf/7eaaeb1a-8f25-4b25-bac4-2942106473a4 tải ngày 25/7/2018.
66. François Crépeau (2013), “Regional study: management of the external
borders of the European Union and its impact on the human rights of
migrants”, Human Rights Council,
https://www.ohchr.org/Documents/HRBodies/HRCouncil/RegularSession/Ses
sion23/A.HRC.23.46_en.pdf, tải 21/5/2016.
67. Fabian Willermain (2016 ), “The European Agenda on Migration, One Year
on. The EU Response to the Crisis Has Produced Some Results, but Will
Hardly Pass Another Solidarity Test”,
http://www.egmontinstitute.be/content/uploads/2016/10/IEMed_MedYearBoo
k2016_Europe-Migration-Agenda_Fabian_Willermain.pdf
tải
ngày
15/7/2017.
68. Frontex (2018), “Migratory flows in 2017 – pressure eased on Italy and
Greece; Spain saw record numbers”, 5 January 2018.
69. Gabrielle Vermeulen (2018), “The securitisation of migration during the
refugee crisis: The role of the EU institutes”, MA International Relations,
https://openaccess.leidenuniv.nl/bitstream/handle/1887/57775/FINAL%20TH
ESIS%20AS%20PDF.pdf?sequence=1 tải ngày 30/8/2018.
70. Giulia Henry, Ferruccio Pastore (2014), “The Governance of Migration,
Mobility and Asylum in the EU: A Contentious Laboratory”, Italian Ministry
of Labour and Social Policies and collaborates with the Forum of International
and European Research on Immigration (FIERI), No. 5 april 2014,
http://www.iai.it/sites/default/files/ImaginingEurope_05.pdf tải 20/5/2016.
71. Henry Samuel, “EU leaders offer support to Libyan coastguards, Chad and
Niger to stem migrant flow at Paris summit”, 8/2017,
https://www.telegraph.co.uk/news/2017/08/28/eu-leaders-offer-support-
libyan-coastguards-chad-niger-stem/ tải ngày 26/7/2018.
72. Ifeoluwa Kolade (2015), “Examining the EU response to Irregular Migration
through the Mediterranean Sea”,
http://www.gicj.org/articlespictures/GICJ_Report_on_Migration_Crisis.pdf
tải ngày 3/7/2017.
73. İlke Toygür, Bianca Benvenuti (2018), “The European response to the
Refugee crisis: Angela Merkel on the move”, http://ipc.sabanciuniv.edu/wp-
content/uploads/2016/06/IlkeToygur_BiancaBenvenuti_FINAL.pdf, tải ngày
15/8/2018.
74. İlke Toygür , Bianca Benvenuti (2017), “One year on: an assessment of the
EU-Turkey statement on refugees”, Istituto Affari Internazionali (IAI), 14
March 2017, http://www.iai.it/sites/default/files/iaiwp1714.pdf, tải ngày
17/3/2018.
75. ILO (2016), “Guide on measuring migration policy impacts in ASEAN”,
International Labour Organization,
https://www.ilo.org/asia/publications/WCMS_461880/lang--en/index.htm tải
ngày 29/8/2018.
76. Iris Goldner Lang (2018), “The EU Financial and Migration Crises: Two
Crises - Many Facets of EU Solidarity”, Council for European Studies
conference in Amsterdam in June 2013, on the author’s text with the same
title in 9 Croatian Yearbook of European Law and Policy (2013) and the
Faculty of Law, University of Zagreb project, 25 May 2018,
https://eclass.uoa.gr/modules/.../Two%20crises_SSRN-id3110544.pdf, tải
ngày 10/7/2018.
77. Jan Misiuna, Marta Pachocka (2016), “Can U.S. immigration policy inspire
solutions to the immigrant challenges in the EU”, Studia Ekonomiczne.
Zeszyty Naukowe, Uniwersytetu Ekonomicznego w Katowicach, ISSN 2083-
8611, Nr 266, 2016.
78. Jean-Claude Juncker (2015), “State of the Union 2015: Time for Honesty,
Unity and Solidarity”, European Commission, Strasbourg, 9 September 2015,
http://europa.eu/rapid/press-release_SPEECH-15-5614_en.htm,
tải
ngày
12/5/2017.
79. Jeanne Park (23/9/2015) “Council on Foreign Relations”,
http://www.cfr.org/refugees-and-the-displaced/europes-migration-
crisis/p32874, truy cập 29/8/2016.
80. Jera Lego (2017), “Why ASEAN Can't Ignore the Rohingya Crisis The
Rohingya crisis is not just an issue for Myanmar; it will impact security and
economic trends throughout the region”, May 17, 2017,
https://thediplomat.com/2017/05/why-asean-cant-ignore-the-rohingya-crisis/,
tải ngày 9/6/2018.
81. Kimberly Ramos Gamez (2017), “Examining the ASEAN intergovernmental
Commission on Human Rights (AICHR): The Case Study of The Rohingya
crisis”, Tilburg University, June 2017.
82. Laurence Gourievidis (2014), “Museums and Migration: History, Memory
and Politics”, 25 thg 7, 2014,
http://epp.eurostat.ec.europa.eu/statistics_explained/index.php/Glossary:Emig
ration, tải ngày 25/8/2015.
(2016), “ECONOMIC ASPECTS OF
IRREGULAR
83. Lino Briguglio
IMMIGRATION INTO THE EUROPEAN UNION”, Philippine Institute of
Development Studies, Manila, Philippines,
https://www.um.edu.mt/__data/assets/pdf_file/0010/296893/Immigrationinthe
EU.pdf, tải ngày 2/7/2017.
84. Lívia Benková (2017), “Europe‘s Response to the Migration Crisis”, AIES,
3/2017, https://www.aies.at/download/2017/AIES-Fokus-2017-03.pdf tải
20/5/2018.
85. Luigi Scazzieri, John Springford (2017), “How the EU and third countries can
manage migration”, Centre for European Reform, November 2017,
https://www.cer.eu/sites/default/files/pbrief_amato_migration_1nov17.pdf
25/7/2018.
86. Luigi Scazzieri (2017), “The EU and Libya: Realism or irrelevance”, CER
Insight, February 3rd 2017.
87. Maria Hoel (2015), “The European Union's response to the Syrian refugee
crisis An analysis of the response of Member States and EU institutions”,
Master's thesis in European Studies, Trondheim, November 2015, Norwegian
University of Science and Technology,
https://brage.bibsys.no/xmlui/bitstream/id/413167/Hoel, tải ngày 25/7/2018.
88. Matthias M. Mayer, Mehrdad Mehregani, “Beyond Crisis Management: The
Path Towards an Effective, Pro-active and Fair European Refugee Policy”,
Calouste Gulbenkian Foundation, Vision Europe Summit, Lisbon, 21 – 22
November 2016.
89. Michael Blair (2016), “An Analysis of the Migration Policies of the European
Union and fteir Effectiveness in Managing the Current Migration Crisis”,
Concordia University, Portland 2016,
http://commons.cu-
portland.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1034&context=gradproj
tải ngày
5/3/2017.
90. Michele Tuccio (2017), “Determinants of Intra-ASEAN Migration”, Asian
Development Review, vol. 34, no. 1, pp. 144–166.
91. Muriel Asseburg, Heiko Wimmen (2016), “The Civil War in Syria and the
Impotence of International Politics”, SWP,
https://www.swpberlin.org/fileadmin/contents/products/fachpublikationen/Fri
edensgutachten_engBeitragAsseburg.pdf, tải ngày 3/1/ 2016.
92. Natalia Banulescu, Bogdan and Susan Fratzke (2015), “Europe’s Migration
Crisis in Context: Why Now and What Next”? ,
http://www.migrationpolicy.org/article/europe-migration-crisis-context-why-
now-and-what-next, tải 2/9/2017.
93. OECD (2000)“Immigration in the European Enion: problem or solution?”
Prospect Magazine, Observer No 221-222,
http://oecdobserver.org/news/archivestory.php/aid/337/Immigration_in_the_E
uropean_Union:_problem_or_solution_.html tải ngày 20/1/2017.
94. OECD, “How will the refugee surge affect the European economy?”,
Migration Policy Debates OECD n°8, November 2015
https://www.oecd.org/migration/How-will-the-refugee-surge-affect-the-
European-economy.pdf, tải ngày 18/5/2017.
95. Petra Bendel (2017), “EU Refugee Policy in Crisis”, Department of
Economic and Social Policy, http://library.fes.de/pdf-files/wiso/13536.pdf tải
ngày 27/3/2018.
96. Petra Bendel (2017), “EU refugee policy in crisis Blockades, Decisions,
Solutions”, Friedrich Ebert Stiftung (FES),
http://library.fes.de/pdf-files/wiso/13536.pdf tải ngày 17/5/2018.
97. Pei Palmgren (2015), Adrift in ASEAN: “Tackling Southeast Asia's
Migration Challenge”, University of California, Los Angeles, September 02,
2015,
https://thediplomat.com/2015/09/adrift-in-asean-tackling-southeast-
asias-migration-challenge/, tải ngày 9/6/2018.
98. Pierre Vimont (2016), “Migration in Europe Bridging the Solidarity Gap”,
Carnegie Europe,
https://carnegieendowment.org/files/Vimont_Migration_fulltext.pdf, tải ngày
12/5/2017.
99. Rapoport Hillel (2016) “Refugee Quota. Allowing EU Member States to
Choose between Physical and Financial Solidarity”, EU Migration Law Blog,
22.1.2016, http://eumigrationlawblog.eu/refugee-quotas-allowing-eumember-
states-to-choose-between-physical-and-financial-
solidarity/ (tải ngày 28.2.2017).
Raphaëlle Faure, Mikaela Gavas and Anna Knoll (2015), “Challenges
100.
to a comprehensive EU migration and asylum policy”, December 2015,
https://www.odi.org/sites/odi.org.uk/files/odi-assets/publications-opinion-
files/10166.pdf tải ngày 26/7/2017.
Rijpma Jorrit (2016), “The Proposal for a European Border and Coast
101.
Guard: Evolution or Revolution in External Border Management?” Study for
the LIBE Committee, European Parliament, Directorate-General for Internal
Policies, Policy Department C Citizens’ Rights and Constitutional Affairs,
Brussels.
Shaharzad Akbar (2016), “Afghanistan is on the Brink,” Aljazeera,
102.
February 11, 2016,http://america.aljazeera.com/opinions/2016/2/afghanistan-
is-on-the-brink.html, tải ngày 12/5/2017.
Rebecka Ingimarsdottir (2016), “The European Union’s Response to
103.
the Migration Crisis A qualitative case study of the policy process”,
Bachelor’s Thesis in Political Science , University of Umeå,
http://www.diva-
portal.org/smash/record.jsf?pid=diva2%3A1059094&dswid=-8872,
tải
14/2/2017.
Syrian Centre for Policy Research (2016), “Syria: Confronting
104.
Fragmentation!
Impact of Syrian Crisis Report,” February 2016,
http://www.ara.cat/2016/02/11/1520927894.pdf?hash=3a186be3bc9bfbc70d1
1f0241fd49d847f7f0042, p.6, tải ngày 1/4/2016.
Sergio Carrera, Daniel Gros, Elspeth Guild (2015), “The EU’s
105.
Response to the Refugee Crisis Taking Stock and Setting Policy Priorities”,
No. 20 / 16 December 2015,
https://www.ceps.eu/system/files/EU%20Response%20to%20the%202015%2
0Refugee%20Crisis_0.pdf, tải ngày 17/5/2018.
Tamara Jonjić, Georgia Mavro (2012), “Immigration in the EU:
106.
policies and politics in times of crisis 2007 - 2012”, European Union
Democracy Observatory Robert Schuman Centre for Advanced Studies,
Florence, November 2012,
https://www.eui.eu/Projects/EUDO/Documents/2012/Publications/EUDORep
ort5.pdf, tải 31/12/2016.
Tobias Etzold (2017) “Refugee Policy in Northern Europe Nordic
107.
Countries Grow Closer but Differences Remain”, SWP Comments 1, January
2017,https://www.swp-
berlin.org/fileadmin/contents/products/comments/2017C01_etz.pdf, tải ngày
7/7/2017.
Tom Miles and Jan Lopatka, (2015), “U.N. Criticizes Czech Detentions
108.
and Strip-Searches of Refugees”, Reuters, October 22, 2015,
http://www.reuters.com/article/us-europe-migrants-czech-un-
idUSKCN0SG14W20151022, tải ngày 12/5/2017.
Ulviyye Aydin (2016), “The Syrian Refugee Crisis: New Negotiation
109.
Chapter In European Union-Turkey Relations”, Khazar Journal of Humanities
and Social Sciences, Volume 19, Number 2, 2016, http://jhss-khazar.org/wp-
content/uploads/2016/05/R602.19.2016.revised_1-1.pdf tải ngày 1/8/2017.
United Nations High Commissioner for Refugees (2016), “Syria
110.
Regional Refugee Response: interagency information-sharing portal” and
National Audit Office (2016), “The response to the Syrian refugee crisis –an
international comparison”, UK, SEPTEMBER 2016,
https://www.nao.org.uk/wp-content/uploads/2016/09/The-response-to-the-
Syrian-refugee-crisis-an-international-comparison.pdf, tải ngày 12/5/2017.
United Nations Office for the Coordination of Humanitarian Affairs
111.
(2016), “Syrian Arab Republic”, http://www.unocha.org/syria, tải ngày
15/1/2016.
United Nations (1998), Glossary, Recommendations on Statistics of
112.
International Migration, Revision 1, Statistical Papers, Series M, No. 58, New
York, 1998,
https://unstats.un.org/unsd/publication/seriesm/seriesm_58rev1e.pdf,
tải ngày 25/8/2015
UNHCR
(2016),
“Refugees/Migrants Emergency Response
‐
113.
Mediterranean (16 February 2016)”,
https://reliefweb.int/report/greece/refugeesmigrants-emergency-response-
mediterranean-16-february-2016, tải ngày 25/7/2017.
Valletta Summit on Migration (2015), "Political Declaration",
114.
Presented at the Valletta Summit on Migration, Valletta.
http://www.consilium.europa.eu/en/meetings/international-sum-
mit/2015/11/FINAL_DECL_EN-(2)_pdf/ tải ngày 17/8/2017.
Victoria Metcalfe-Hough (2015), “The migration crisis? Facts,
115.
challenges and possible solutions”, Overseas Development Institute (ODI),
October 2015,
https://www.odi.org/sites/odi.org.uk/files/odi-assets/publications-opinion-
files/9913.pdf tải ngày 5/5/2016.
Yves Pascouau (2013) , “Intra - EU mobility: the ‘second building
116.
block’ of EU labour migration policy” European Policy Centre, May 2013.
PHỤ LỤC
Phản ứng của EU đối với khủng hoảng nhập cư 2014–2018
Ngày
Phản ứng của EU
7-
Lực lượng Đặc nhiệm Địa Trung Hải được thành lập để xác định các
8/10/2013
hành động có thể được thực hiện để ngăn ngừa tử vong trên biển.
23/4/2014 Kế hoạch năm điểm về nhập cư được trình bày bởi Tổng thống Juncker
ở Malta.
20/4/2015 Kế hoạch hành động 10 điểm về di cư được trình bày cho một hội đồng
chung của bộ trưởng nội vụ và ngoại giao, phản ứng ngay lập tức với
tình hình khủng hoảng ở Địa Trung Hải.
23/4/2015 Cuộc họp đặc biệt của Hội đồng châu Âu được tổ chức, tại đó các nhà
lãnh đạo đồng ý về một loạt các biện pháp, bao gồm tăng cường sự hiện
diện hoạt động của EU tại Trung Địa Trung Hải thông qua Chiến dịch
Triton, chuẩn bị cho hội nghị thượng đỉnh Liên minh châu Âu về di cư
(Hội nghị thượng đỉnh Valletta). bắt đầu xây dựng Kế hoạch hành động
chung với Thổ Nhĩ Kỳ.
13/5/2015 Chương trình nghị sự châu Âu về di cư được Ủy ban châu Âu công bố
để phác thảo các biện pháp ngay lập tức và dài hạn để quản lý di cư tốt
hơn. Khái niệm “điểm nóng” đặt ra lần đầu tiên.
18/5/2015 EUNAVFOR Med, một hoạt động quân sự của EU, được thành lập để
giải quyết các mạng buôn lậu và buôn bán ở Địa Trung Hải (giai đoạn
đầu tiên được khai trương vào ngày 22 tháng 6 năm 2015).
27/5/2015 Đề xuất di dời khẩn cấp được Ủy ban châu Âu đưa ra để di chuyển
40.000 người cần bảo vệ từ Hy Lạp và Ý sang các nước thành viên EU
khác, yêu cầu các nước thành viên tái định cư 20.000 người tị nạn từ
bên ngoài EU, một kế hoạch hành động của EU chống buôn lậu di dân,
hướng dẫn về dấu vân tay và tham vấn cộng đồng về tương lai của chỉ
thị thẻ xanh đã được đề xuất.
15-
Hội đồng Liên minh Châu Âu - Tư pháp và Nội vụ: Bộ trưởng từ chối
16/6/2015
Đề xuất hạn ngạch nhập cư của Ủy ban.
25-26/6
Hội nghị thượng đỉnh châu Âu được tổ chức, các nhà lãnh đạo đồng ý
/2015
về nhu cầu di dời tự nguyện, cùng với một loạt các biện pháp nhằm hạn
chế di cư như thiết lập điểm nóng cho vân tay và đăng ký người di cư.
7/2015
Hungary bắt đầu xây dựng hàng rào ở biên giới Serbia.
26/8/2015 Đức đình chỉ thỏa thuận Dublin cho người tị nạn Syria.
2/9/2015
Thế giới bị sốc bởi bức ảnh của Alan Kurdi, một đứa trẻ Syria đã chết
khi cố gắng băng qua biển Aegean.
9/9/2015
Gói đề xuất giải quyết cuộc khủng hoảng tị nạn do Ủy ban châu Âu
công bố, bao gồm đề nghị tái định cư khẩn cấp thứ hai (120.000 người
từ các nước tiền tuyến), Quỹ ủy thác khẩn cấp EU cho châu Phi và cơ
chế tái định cư vĩnh viễn. Một danh sách châu Âu về các quốc gia xuất
xứ an toàn đã được phát triển
9/2015
Đức, Áo và Slovenia đóng cửa biên giới Schengen
22/9/2015 Hội đồng JHA bất thường đồng ý cơ chế tái định cư tạm thời của
120.000 người Chính sách di dời người tị nạn bị buộc phải thông qua
việc sử dụng phiếu bầu đa số đủ điều kiện hơn là sự đồng thuận.
23/9/2015 Cuộc họp không chính thức của người đứng đầu nhà nước và chính phủ
được tổ chức để đặt ưu tiên cho hành động, bao gồm hỗ trợ cho các
nước phương Tây Balkans, hỗ trợ cho các nước thành viên phía trước
thông qua các nguồn lực bổ sung, và gia tăng đối thoại với Thổ Nhĩ Kỳ.
8-
Hội nghị đường Balkans phương Tây diễn ra cùng với Hội đồng JHA,
9/10/2015
tập hợp các bộ trưởng nội vụ và ngoại giao từ EU-28 (hoạt động đối
ngoại châu Âu), Tây Balkans, Thổ Nhĩ Kỳ, Liban và Jordan. Hội đồng
thảo luận về việc quản lý tương lai các biên giới bên ngoài của EU và
các kết luận được thông qua về tương lai của chính sách hoàn trả.
15/10/2015 Hội nghị thượng đỉnh châu Âu được tổ chức, tại đó các nhà lãnh đạo
tán thành Kế hoạch hành động chung với Thổ Nhĩ Kỳ. Pháp đóng cửa
biên giới Schengen
25/10/2015 Hội nghị Lãnh đạo về Lộ trình di cư Balkans Tây được tổ chức, tại đó
các nhà lãnh đạo của 11 quốc gia (Albania, Áo, Bulgaria, Croatia, Cộng
hòa Macedonia cũ, Đức, Hy Lạp, Hungary, Romania, Serbia và
Slovenia) trong kế hoạch hành động 17 điểm và Nhóm Liên lạc
Balkans Tây được thành lập.
30/10/2015 Phản ứng khủng hoảng chính trị tích hợp (IPCR) được kích hoạt bởi
Chủ tịch Luxembourg trong chế độ chia sẻ thông tin (sau này được
nâng cấp thành kích hoạt đầy đủ vào ngày 9 tháng 11 năm 2015).
11-
Hội nghị thượng đỉnh Valletta về di cư được tổ chức, tại đó EU và các
12/11/2015
nhà lãnh đạo châu Phi đồng ý về một tuyên bố chính trị và một kế
hoạch hành động, và Quỹ Tín thác khẩn cấp EU cho châu Phi được đưa
ra.
12/11/2015 Thụy Điển đóng cửa biên giới Schengen
11/2015
Hungary, Slovenia và Áo xây dựng hàng rào biên giới. Năm thành viên
EU, Đức, Áo, Bỉ, Hà Lan và Luxembourg đã thảo luận về tương lai của
vùng tự do biên giới.
23/11/2015 Na Uy đóng cửa biên giới
29/11/2015 Kế hoạch hành động chung EU-Thổ Nhĩ Kỳ được công bố nhằm hỗ trợ
cả người Syria dưới sự bảo hộ tạm thời và các cộng đồng chủ nhà ở
Thổ Nhĩ Kỳ, và tăng cường hợp tác để ngăn chặn sự di cư bất thường.
15/12/2015 Đề xuất về Biên giới và Bờ biển Châu Âu được Ủy ban Châu Âu công
bố như là một phần của một gói đề xuất rộng hơn.
3–4/2/2016 Cơ sở tị nạn cho tài trợ Thổ Nhĩ Kỳ được các nước thành viên EU nhất
trí và xác nhận một ngày sau đó tại một hội nghị cam kết quốc tế (3 tỷ
euro đóng góp để hỗ trợ Syria ở Thổ Nhĩ Kỳ).
18/2/2016 Hội nghị thượng đỉnh châu Âu được tổ chức, tại đó các nhà lãnh đạo
nhắc lại các ưu tiên, bao gồm việc thực hiện các sáng kiến chính, chẳng
hạn như di dời, các điểm nóng và Kế hoạch hành động EU-Thổ Nhĩ Kỳ.
8/3/2016
Cuộc họp của các nhà lãnh đạo EU và chính phủ với Thổ Nhĩ Kỳ được
tổ chức để thảo luận về các phương tiện giải quyết khủng hoảng mới,
bao gồm dự thảo Tuyên bố EU-Thổ Nhĩ Kỳ
15/3/2016 Công cụ hỗ trợ khẩn cấp trong Liên minh châu Âu được Hội đồng
thông qua (tài trợ được phê duyệt vào ngày 16 tháng 3).
17-
Tuyên bố EU-Thổ Nhĩ Kỳ được các nhà lãnh đạo EU đồng ý, và với
18/3/2016
Thổ Nhĩ Kỳ, sẽ được triển khai bắt đầu từ ngày 20 tháng 3 năm 2016.
4/4/2016
Những người di cư đầu tiên đến Thổ Nhĩ Kỳ từ Hy Lạp.
20/4/2016 Ủy ban châu Âu: Báo cáo đầu tiên về thỏa thuận EU-Thổ Nhĩ Kỳ
4/5/2016
Các đề xuất cải cách hệ thống tị nạn chung châu Âu (CEAS) được công
bố bởi Ủy ban châu Âu, bao gồm các cải cách được đề xuất của Quy
chế Dublin.
4/5/2016
Ủy ban châu Âu: Báo cáo thứ ba về tiến độ của Thổ Nhĩ Kỳ trong việc
hoàn thành các yêu cầu của lộ trình tự do hóa thị thực và đề xuất miễn
thị thực cho công dân Thổ Nhĩ Kỳ khi tất cả các tiêu chí được đáp ứng
7/6/2016
Khung Đối tác Di cư được giới thiệu với các nước thứ ba là các quốc
gia xuất xứ chính và quá cảnh cho người di cư. Các tác phẩm được bắt
đầu với Ethiopia, Jordan, Lebanon, Mali, Niger, Nigeria và Senegal.
6/10/2016 Cơ quan Cảnh sát Biển và Biên giới Châu Âu được ra mắt.
8/12/2016 Kế hoạch hành động chung của Hy Lạp được ban hành bởi Văn phòng
cải cách dịch vụ hỗ trợ
3/2/2017
Tuyên bố Malta được ban hành, nhằm giải quyết các khía cạnh di cư
bên ngoài dọc theo tuyến đường trung tâm Địa Trung Hải.
4/7/2017
Kế hoạch hành động về các biện pháp hỗ trợ Italy được công bố, vạch
ra những cách để giảm áp lực dọc theo tuyến đường trung tâm Địa
Trung Hải và tăng cường đoàn kết.
24/6/2018 Hội nghị khẩn cấp Liên minh Châu Âu (EU) tại Brussels, Bỉ (gồm lãnh
đạo các nước Đức, Pháp, Italy, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Áo và Bulgaria
)về vấn đề khủng hoảng tị nạn nhằm tìm ra giải pháp cho những người
xin tị nạn.
28/6/2018 Hội nghị Thượng đỉnh EU diễn ra ở Brussel (Bỉ) thông qua các kết luận
về: di cư, an ninh và quốc phòng, việc làm, tăng trưởng và khả năng
cạnh tranh, đổi mới và kỹ thuật số và các vấn đề khác.
Nguồn: Elizabeth Collett and Camille Le Coz, “After the Storm Learning from the
EU response to the migration crisis”, June 2018,
https://www.migrationpolicy.org/sites/.../EUCrisisResponse_FINAL.pdf,
tải ngày
15/8/2018; và İlke Toygür, Bianca Benvenuti, “The European response to the
Refugee crisis: Angela Merkel on the move”, http://ipc.sabanciuniv.edu/wp-
content/uploads/2016/06/IlkeToygur_BiancaBenvenuti_FINAL.pdf,
tải
ngày
15/8/2018.

