
Cốt truyện trong tự sự
Cốt truyện (plot) là toàn bộ những sự kiện được nhà văn kể trong văn bản tự sự
(và văn bản kịch) mà người đọc có thể kể lại. Cốt truyện là yếu tố quan trọng bậc nhất,
không thể thiếu trong bất kì một hình thức tự sự nào. Loại bỏ cốt truyện, văn bản tự sự
lập tức chuyển sang dạng văn bản khác. Trong tác phẩm tự sự (và cả kịch), cốt truyện là
cái khung để đỡ cho toàn bộ tòa nhà nghệ thuật ngôn từ đứng vững.
Từ thế kỉ XIX trở về trước, nhà văn khi bắt tay vào kể câu chuyện, là lúc anh ta đã
có được một cốt truyện độc đáo, đáng chú ý theo kiểu riêng của mình. Về cơ bản, kể từ
văn bản tự sự cổ xưa nhất trong văn học viết còn lưu được cho đến nay, Anh hùng ca về
Gilgamesh (Khoảng thế kỉ thứ XX Tr.CN), cốt truyện của tự sự hầu hết tuân thủ nguyên
tắc: có truyện để kể. Kèm thêm một điều kiện bất di dịch: sự hấp dẫn li kì được đặt trong
tiến trình kịch tính.
Sang thế kỉ XX, đã xuất hiện hiện tượng không ít nhà nghiên cứu phê bình lẫn nhà
văn đều tuyên bố cốt truyện không còn trong tác phẩm tự sự nữa. Những nhà văn “mạnh
mồm” nhất cho loại tuyên ngôn này là nhóm tác giả thuộc trào lưu Tiểu thuyết Mới. Sau
một hồi say mê đến mức cực đoan với những nỗ lực cách tân, họ quả quyết, cốt truyện
(cùng với nhân vật,...) đã biến mất khỏi địa hạt tự sự. Thế là một hậu quả nghịch lí kì

khôi xuất hiện: với tư cách là những người đang sáng tạo tiểu thuyết, đang đảm bảo cho
sự phát triển của thể loại, họ lại đưa ra tuyên bố: tiểu thuyết đã chết. Trong khi đó, vĩnh
viễn tiểu thuyết cũng như mọi hình thức tự sự khác đều không bao giờ chết. Điều này
đồng nghĩa với việc cốt truyện cũng sẽ luôn là thành tố cốt lõi, đồng hành với bất kì hình
thức tự sự nào. Chỉ có điều, qua thời gian, cốt truyện phải được đổi khác để đáp ứng
những nhu cầu mới về thẩm mĩ.
Cần phân biệt hai khái niệm truyện (story) và cốt truyện (plot). Truyện là chuỗi
những sự kiện về một vấn đề (hoặc nhiều vấn đề) nào đó diễn ra theo trật tự tự nhiên,
tuân thủ thời gian tuyến tính, nương theo sự chảy trôi của cuộc sống theo quan hệ nhân
quả mà không có sự đảo lộn sắp đặt của người kể. Cốt truyện là sự sắp xếp thẩm mĩ,
không tuân theo trật tự biên niên của sự kiện và quan hệ nhân quả nghiêm nhặt, thống
nhất theo ý đồ chủ quan của người kể về những sự kiện của một câu chuyện nào đó,
nhằm mục đích nêu bật được tư tưởng chủ đề và tạo sức hấp dẫn tối đa tới người đọc.
Boris Tomashevsky, nhà nghiên cứu thuộc trường phái Chủ nghĩa hình thức Nga,
phân biệt: “Truyện chứa đựng chuỗi những môtíp tự sự theo trật tự thời gian của chúng,
dịch chuyển nhờ vào sự tác động nhân quả của từng môtíp; trái lại cốt truyện tuy cùng
tái hiện những môtíp đó, nhưng theo một trật tự sắp xếp đặc biệt trong sự tổ chức văn
bản”(1).
Trong công trình Những khía cạnh của tiểu thuyết nhà phê bình người Anh
Edward Morgan Forster đề xuất sự phân biệt, theo ông: “Truyện là những sự kiện trần
thuật được tổ chức theo chuỗi thời gian của chúng. Cốt truyện cũng là sự trần thuật bằng
sự kiện, nhưng có sự nhấn mạnh được đặt trên tính nhân quả. “Vua chết rồi hoàng hậu
qua đời” là một câu chuyện (story). “Vua chết rồi hoàng hậu qua đời vì u buồn” là một
cốt truyện (plot). Chuỗi thời gian được giữ lại, nhưng cảm giác nhân quả đã ngã bóng
lên đó”(2).
Có lẽ Aristotle là nhà nghiên cứu đầu tiên trên thế giới quan tâm đến cốt truyện.
Ông chia cốt truyện ra làm ba phần: đầu, giữa và kết. Phần đầu giới thiệu hành động
chính theo cách nào đó để người đọc háo hức chờ đợi diễn biến tiếp theo. Phần giữa kết
thúc sự kiện trước đó và gợi dẫn sự kiện tiếp theo. Phần kết tiếp nối những gì đã xảy ra,

không gợi dẫn điều sắp đến và tạo ra cái kết nhằm thỏa mãn nhu cầu khám phá nghệ
thuật của người đọc. Ngày nay, chúng ta thường chia cốt truyện kịch tính ra làm năm
phần: mở đầu, thắt nút, phát triển, đỉnh điểm, kết thúc.
Trải qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển, gắn với lịch sử thăng trầm của nhân
loại, cốt truyện cũng có nhiều biến đổi phức tạp, sâu sắc. Tùy theo quan niệm cá nhân
mà mỗi nhà nghiên cứu có những cách phân chia khác nhau về cốt truyện. Nhằm đưa ra
cái nhìn phổ quát, chúng tôi dựa trên mối quan hệ loại hình (tự sự, trữ tình, sân khấu) để
phân chia cốt truyện.
Theo đó, từ thế kỉ XIX trở về trước, cốt truyện tự sự chủ yếu là cốt truyện kịch
tính. Từ thế kỉ XX trở đi, cơ bản là cốt truyện thơ (hoặc trữ tình).
Cốt truyện kịch tính tập trung vào xung đột. Kiểu cốt truyện này ra đời rất sớm,
ngay từ khi con người biết kể một câu chuyện. Thể loại văn học dân gian cổ xưa nhất,
thần thoại, ngay lập tức sở hữu kiểu cốt truyện này. Đến nay, nhiều nhà nghiên cứu
khẳng định thần thoại là thể loại văn học không tự giác, có nghĩa mục đích ra đời của
thần thoại không phải là văn chương mà chỉ là tín ngưỡng, niềm tin vào tôn giáo cổ xưa
của con người. Tuy nhiên, sự tác động của thần thoại đến mọi hình thức văn học về sau,
đặc biệt là tự sự, thì vô cùng to lớn. Chính thần thoại đã cung cấp cho các dạng thức tự
sự sau nó một cái khung trần thuật, bao gồm sự hư cấu cốt truyện, nhân vật, lời kể, lời
tả... Cho dù những nhà cách tân tự sự có tài ba, phi thường đến mức nào đi nữa thì họ
vẫn không thể nào đoạn tuyệt khỏi cái khung tự sự nguyên thủy thần thoại ấy.
Trừ mảng thần thoại ra đời sớm có cốt truyện đơn giản như thần thoại sáng thế,
những thần thoại về sau kể về những người anh hùng (Herakles trong thần thoại Hi Lạp
chẳng hạn) thì cốt truyện đã có sự phức tạp nhất định. Vẫn trên nền những sự kiện, tình
huống gay cấn, người anh hùng luôn được đặt trong các tình huống phiêu lưu. Cốt
truyện phiêu lưu ra đời, một mặt đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn học truyền miệng
không liền mạch của cư dân cổ đại (vì dung lượng của một cuộc phiêu lưu là vừa đủ cho
một lần kể), mặt khác đấy là biện pháp hữu hiệu nhất để khắc họa chân dung nhân vật
khi mà người kể chưa biết cách xâm nhập vào thế giới nội tâm sâu kín của con người.

Truyện phiêu lưu, bản thân đã hàm chứa tư tưởng triết học về sự tồn tại của con
người, bởi suy cho cùng một cá nhân, một sự tồn tại nào không hàm chứa trong nó tính
phiêu lưu. Bản chất của phiêu lưu là luôn tuân thủ hai nguyên tắc ngẫu nhiên vàtất
nhiên. Thoạt tiên, cả hai phạm trù này đều thuộc tự nhiên, chưa có sự phân biệt chia
tách. Chỉ đến khi có ý thức của con người thì chúng mới được phân biệt rạch ròi, trở
thành cặp phạm trù đối xứng. Điểm cốt lõi của sự đối xứng ấy là chúng không loại trừ
nhau mà chỉ là động lực thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển và bổ khuyết, lấp đầy sự
tồn tại tự nhiên đó.
Thế rồi, trong quá trình sinh tồn, con người chiếm lấy phần tất nhiên thuộc về
mình (những biểu hiện văn hóa có thể cắt nghĩa bằng lí trí của nhân loại là tất nhiên).
Còn ngẫu nhiên (những yếu tố không thể nào lí giải bằng lí trí, bằng tư duy lôgic) thì
được đẩy sang phía siêu nhiên, bất khả tri. Đây chính là chỗ dựa để con người duy trì sự
tồn tại của mình và cũng chính là điểm tựa để con người thực hiện tư duy, cắt nghĩa sự
tồn tại, phát triển,... của cuộc sống và mọi thứ khác.
Trong cuộc sống, ngẫm kĩ sẽ không có bất kì một sự vật hiện tượng nào tồn tại mà
thoát khỏi các phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên đó. Chỉ cần trả lời câu hỏi Tại sao ta xuất
hiện trên trái đất này? hoặc Tại sao khi Tấm khóc Bụt hiện lên? hoặcTại sao Chí Phèo
muốn giết cả nhà Thị Nở mà lại tìm đến giết Bá Kiến?... thì lập tức cần phải viện dẫn đến
chúng. Bởi thế, từ ngẫu nhiên, tất nhiên ra đời và từ tất nhiên, ngẫu nhiên hiện diện và
ngược lại, tùy theo quan niệm của mỗi người và thời đại, cũng như tùy vào tín điều mà
người đó tin.
Nhưng trong cuộc sống đầy ắp lí trí kể từ Phục hưng (thế kỉ XIV trở đi), con
người thường tự cho rằng bất kể thứ gì nếu có đầy đủ quyết tâm, thì họ đều có thể đạt
được (chẳng hạn như anh chàng Robinson Crusoe của Daniel Defoe hay ý thơ của
Hoàng Trung Thông Bàn tay ta làm nên tất cả / Có sức người sỏi đá cũng thành
cơm,...).
Cốt truyện phiêu lưu là nơi lưu giữ hiệu quả nhất, hoặc có thể nói là nơi tạo được
hiệu quả cân bằng nhất giữa hai phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên. Điều này giải thích vì
sao, càng văn minh, càng trông cậy vào lí trí, thì con người (dĩ nhiên chỉ là số đông,

những người có mặt bằng văn hóa, tri thức không cao lắm) lại càng thích truyện phiêu
lưu. Bởi ngẫu nhiên mãi mãi là chỗ dựa siêu nhiên, đa năng để con người lí giải những
vấn đề bất khả tri trong nhận thức của mình.
Cốt truyện phiêu lưu luôn bao gồm những hành động gay cấn có mối an nguy đến
tính mạng của người tham dự và biến thể của nó trong các câu chuyện tình lãng mạn
cảm động, thì gần như độc chiếm văn đàn cho đến nửa đầu thế kỉ XIX.
Cốt truyện phiêu lưu có hai đặc điểm chính, kì lạ thay là hai đặc điểm hoàn toàn
trái ngược nhưng lại có khả năng dung hòa, cùng tồn tại trong một chỉnh thể. Một là nó
rất lỏng lẻo, có thể mở rộng vô biên với những cuộc phiêu lưu tiếp nối của nhân vật. Hai
là nó rất chặt chẽ trong sự liên kết nội tại của chính cuộc phiêu lưu, có như thế thì nó
mới tạo nên xung đột nội tại, kết thúc cuộc phiêu lưu này, nhân vật bước vào cuộc phiêu
lưu khác mà thường xuyên là chẳng có mối quan hệ nhân quả nào với cuộc phiêu lưu
trước đó.
Những cách tân về sau của cốt truyện trong tự sự cũng đều dựa trên nền tảng
hai đặc trưng của truyện phiêu lưu thần thoại này: hoặc là chỉ giữ lại một (hay một
vài xung đột) để triển khai cốt truyện, hoặc là phá tung tính liên kết nhân quả của các
tình tiết, sự kiện (vốn là vật liệu để xây dựng cốt truyện phiêu lưu), hoặc là thu hẹp
nó vào một khoảnh khắc tâm trạng và lấy đó viết tiếp cuộc phiêu lưu nội tâm của
mình (kiểu cốt truyện phổ biến của lối viết dòng ý thức mà Ulysses của James Joyce
là tiêu biểu)...
Thông thường, khi đề cập đến cốt truyện, các nhà nghiên cứu thường tập trung
vào tiểu thuyết. Nhưng thực tế, chính truyện ngắn mới là nơi phô diễn những cách tân
về cốt truyện một cách hiệu quả nhất. Thử hình dung, mỗi ngày ở thế kỉ XXI này, khi
mà không chỉ bùng nổ báo viết mà cả báo điện tử, trên thế giới tối thiểu sẽ có cả vạn
truyện ngắn được in ra. Không kể những ấn phẩm rẻ tiền câu khách, nơi có rất ít sự
cách tân, thì chí ít cũng có hàng trăm nỗ lực cách tân mà cách tân nào ít nhiều cũng
chạm đến cốt truyện. Giữa tiểu thuyết và truyện ngắn có một số cốt truyện chung
nhưng giữa chúng sẽ còn có nhiều kiểu cốt truyện đặc trưng cho thể loại. Chẳng hạn
kiểu cốt truyện siêu văn bản nơi người đọc có thể tùy thích ghép mảnh các đoạn của