
1
LỜI NÓI ĐẦU
Ở nước ta, chính sách BHXH đã được ban hành và tổ chức thực hiện ngay
từ khi thành lập nước. Trải qua hơn 65 năm với nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau,
chính sách BHXH luôn hoàn thành nhiệm vụ của mình trong hệ thống chính sách
xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Hiện nay, trong công cuộc đổi mới đất nước,
chính sách BHXH đã từng bước phát huy đầy đủ vai trò trụ cột của nó trong hệ
thống an sinh xã hội, góp phần ổn định và phát triển bền vững xã hội.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, chính sách BHXH đều có sự điều
chỉnh, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, bao
gồm những nội dung về: phạm vi đối tượng tham gia; loại hình BHXH; nội dung
các chế độ; điều kiện hưởng và khung quyền lợi của từng chế độ; việc tổ chức,
quản lý quá trình thực hiện cũng như khung pháp lý cho việc ban hành và thực
hiện chính sách BHXH.
Sau quá trình triển khai thực hiện chính sách BHXH cải cách được quy định
tại Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ về việc ban hành Điều lệ
BHXH tạm thời và Nghị định 45/ CP ngày 15/7/1995 của Chính phủ về việc ban
hành điều lệ BHXH tạm thời đối với sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ
quan, binh sỹ quân đội nhân dân và công an nhân dân đạt nhiều kết quả đáng kể,
ngày 29/06/2006, Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9
thông qua Luật BHXH (Luật số 71/2006/QH11) và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2007; riêng đối với BHXH tự nguyện có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2008, đối với BHTN từ ngày 01/01/2009.
Đến nay, Luật BHXH đã được triển khai thực hiện hơn 3 năm đối với
BHXH bắt buộc, hơn 2 năm đối với BHXH tự nguyện và hơn 1 năm đối với
BHTN. Luật BHXH đã từng bước đi vào đời sống xã hội và trở thành một công cụ
pháp luật có hiệu quả, góp phần điều tiết xã hội, phục vụ cho công cuộc xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Số đối tượng tham gia các

2
loại hình BHXH đều tăng nhanh qua các năm. Nếu như năm 2006 cả nước có hơn
6,7 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì đến cuối năm 2009 đã là trên
8,9 triệu người, chiếm khoảng 70% số lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt
buộc. Về BHXH tự nguyện, năm 2008 có khoảng 6.110 người tham gia và năm
2009 có 41.193 người tham gia, trong đó số người thuộc BHXH tự nguyện nông
dân Nghệ An chuyển sang là 14.135 người, còn lại đa số là người trước đó đã có
thời gian tham gia BHXH bắt buộc. Năm 2009 có 86.328 đơn vị tham gia BHTN
với số người tham gia là 5,993 triệu người.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình thực hiện, Luật
BHXH đã bộc lộ những hạn chế nhất định cần phải bổ sung, sửa đổi cả về mặt
chính sách và việc tổ chức thực hiện. Hơn nữa, trong giai đoạn phát triển mới của
đất nước, nhất là giai đoạn 2011-2020, chúng ta sẽ có những sự phát triển vượt bậc
về kinh tế – xã hội mà đích đến là năm 2020, nước ta về cơ bản trở thành nước
công nghiệp. Vì vậy, với khoảng thời gian hơn 3 năm thực hiện vừa qua, chúng ta
cần nghiên cứu đánh giá về Luật BHXH cả về chính sách và công tác tổ chức thực
hiện nhằm thấy rõ những nội dung tiên tiến cũng như những tồn tại và đưa ra
những đề xuất cho phù hợp với giai đoạn mới của đất nước. Với mục đích đó,
chúng tôi đề xuất nghiên cứu đề án:
“ Đánh giá 3 năm triển khai thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội”.
II. Mục tiêu nghiên cứu của đề án:
- Phân tích, đánh giá toàn diện những tiến bộ và hạn chế trong các quy định
của Luật BHXH, cũng như trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật BHXH.
- Đánh giá thực trạng việc tổ chức thực hiện Luật BHXH.
- Đưa ra những kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Luật BHXH
cả về nội dung chế độ chính sách và tổ chức thực hiện.
III. Đối tượng, Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu:

3
- Luật bảo hiểm xã hội, các Nghị định và thông tư hướng dẫn thi hành Luật
Bảo hiểm xã hội.
- Quá trình tổ chức thực hiện Luật BHXH từ năm 2007 đến năm 2009 trong
hệ thống ngành Bảo hiểm xã hội (bao gồm cả các văn bản hướng dẫn thực hiện
của BHXH Việt Nam).
2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu:
Đề án nghiên cứu trong phạm vi thời gian thực hiện Luật BHXH từ
01/01/2007 đến nay.
Phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng, kết hợp các phương pháp thống kê, phân tích thông tin, số liệu và so sánh,
khái quát và tổng hợp.
IV. Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và kết luận đề án được thực hiện theo 4 phần:
Phần 1: Tổng quan về Luật BHXH ở nước ta.
Phần 2: Thực trạng chính sách BHXH và những kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật
BHXH.
Phần 3: Công tác tổ chức thực hiện và những kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác
tổ chức thực hiện Luật BHXH.
Phần 4: Kế hoạch triển khai công tác sửa đổi, bổ sung chính sách và tổ chức thực
hiện Luật BHXH

4
PHẦN 1. TỔNG QUAN VỀ LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
1.1. Các chế độ BHXH theo quy định của Tổ chức lao động quốc tế
(ILO)
Do tính đa dạng và phức tạp của BHXH và để thống nhất các hoạt động
BHXH của các nước, Liên hợp quốc mà cụ thể là Tổ chức Lao động quốc tế đã có
những khuyến cáo, những quy định về các nội dung của BHXH. Khuyến nghị đầu
tiên mà Hội nghị ILO thông qua vào năm 1944 đã nêu ra một số nguyên tắc của
An sinh xã hội mà chủ yếu là khuyến khích mở rộng các chế độ BHXH bắt buộc
để đảm bảo các phương tiện sinh sống tối thiểu trong những trường hợp gặp phải
rủi ro của những người tham gia BHXH.
Cũng trong năm 1944, Tổ chức Lao động quốc tế đã thông qua Khuyến
nghị số 69 về chăm sóc y tế trong đó có mở rộng đối tượng chăm sóc y tế không
chỉ là người lao động mà đến toàn thể công dân trong cộng đồng.
Năm 1952, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã thông qua Công ước 102 về
An sinh xã hội (về những tiêu chuẩn tối thiểu). Đây là Công ước quốc tế có nội
dung đầy đủ nhất, phát triển những tiêu chuẩn quốc tế, mở ra một cơ cấu thống
nhất và có sự phối hợp trong lĩnh vực này giữa các thành viên của ILO.
Những nội dung chính trong Công ước 102 gồm:
- Công ước quy định 9 nhánh chế độ chính của hệ thống An sinh xã hội bao
gồm: Chăm sóc y tế; Trợ cấp ốm đau; Trợ cấp thất nghiệp; Trợ cấp tuổi già; Trợ
cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; Trợ cấp gia đình; Trợ cấp thai sản; Trợ
cấp tàn tật; Trợ cấp chôn cất và trợ cấp mất người nuôi dưỡng.
Công ước cũng quy định rằng: một quốc gia được gọi là có hệ thống BHXH
phải thiết lập ít nhất 3 chế độ, trong đó ít nhất phải có một trong các chế độ là: trợ

5
cấp tuổi già, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tai nạn lao động; trợ cấp tàn tật; trợ cấp
chôn cất và trợ cấp mất người nuôi dưỡng. Quyền lợi của các loại hình trợ cấp này
chủ yếu được thực hiện bằng tiền. Riêng trợ cấp TNLĐ và BNN và trợ cấp thai
sản có thể vừa trợ cấp bằng tiền vừa bằng hiện vật. Các loại trợ cấp phải đảm bảo
sự bình đẳng cho mọi thành viên trong xã hội, bình đẳng giữa người nước ngoài
và người trong nước. Tài chính của BHXH chủ yếu do sự đóng góp của các bên
tham gia, Nhà nước có trách nhiệm quản lý chung về BHXH, bảo đảm sự cân đối
giữa các bộ phận trong BHXH. Việc quản lý BHXH phải có đại diện của người
lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
- Về phạm vi áp dụng: Các đối tượng tham gia, nếu là người làm công ăn
lương thì phải có ít nhất là 50% tổng số người tham gia trên tổng số người làm
công ăn lương hoặc những loại lao động được quy định trong dân số hoạt động với
tổng số ít nhất chiếm 20% toàn bộ những người thường trú đối với các chế độ ốm
đau, tuổi già và tàn tật. Đối với chế độ TNLĐ và BNN cũng phải được sự tham gia
của tối thiểu 50% tổng số những người làm công ăn lương hoặc ít nhất chiếm 50%
toàn bộ những người làm công ăn lương làm việc trong các cơ sở công nghiệp
đang sử dụng 20 người trở lên. Đối tượng hưởng Trợ cấp tử tuất bao gồm vợ, con
của người làm công ăn lương và của những người đang hưởng trợ cấp ốm đau,
tuổi già đã chết. Những người phụ nữ khi sinh đẻ đều có quyền hưởng trợ cấp.
- Về điều kiện nhận trợ cấp:
+ Đối với trợ cấp tàn tật: Người nhận trợ cấp phải có thời gian làm việc
hoặc đóng góp bằng 15 năm hoặc có 10 năm liên tục. Nếu tất cả mọi người đang
làm việc đều được bảo vệ thì phải đảm bảo trợ cấp cho một người đã có 3 năm
đóng góp mà người đó đạt mức đóng góp trung bình hàng năm theo quy định.
+ Đối với trợ cấp tuất: Người nhận trợ cấp phải là vợ, con của người làm
công ăn lương. Trợ cấp định kỳ được thực hiện đối với những người đã có 15 năm
đóng góp hoặc làm việc hoặc có 10 năm liên tục; nếu mọi người vợ và con đều

