intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề án Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:96

2
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề án"Pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam" nhằm đưa ra các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về DNTN.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề án Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT ---------- ĐINH XUÂN QUANG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM ĐỀ ÁN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Mã số: 8380107 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. ĐOÀN ĐỨC LƯƠNG 2. TS. NGÔ VĂN THÌN THỪA THIÊN HUẾ, năm 2024
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, đề án thạc sĩ là công trình nghiên cứu cá nhân của tôi trong thời gian qua. Mọi số liệu sử dụng phân tích trong đề án và kết quả nghiên cứu là do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách khách quan, trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và chưa được công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu có sự không trung thực trong thông tin sử dụng trong công trình nghiên cứu này. Thừa Thiên Huế, ngày 14 tháng 5 năm 2024 Học viên Đinh Xuân Quang
  3. Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô Trường Đại học Luật, Đại học Huế đã tận tình chỉ dạy và trang bị cho tôi những kiến thức cần thiết cho tôi có thể hoàn thành được đề án thạc sĩ này. Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Đoàn Đức Lương và TS. Ngô Văn Thìn đã tận tình giúp đỡ, định hướng cách tư duy và cách làm việc khoa học là hành trang tiếp bước cho tôi trong quá trình học tập và lập nghiệp sau này. Và cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, tập thể lớp Cao học Luật Kinh tế, những người luôn sẵn sàng sẻ chia và giúp đỡ trong học tập và cuộc sống. Đề án thạc sĩ chắc chắn sẽ có những kiến thức thiếu sót cả về nội dung và hình thức, rất mong nhận được sự góp ý của Thầy Cô để đề án được hoàn thiện hơn. Thừa Thiên Huế, ngày 14 tháng 5 năm 2024 Học viên Đinh Xuân Quang
  4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục chữ viết tắt Danh mục các bảng PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết về việc nghiên cứu đề án ............................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề án ............................................................ 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề án........................................................ 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề án ........................................................ 4 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề án .......................................... 5 6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề án ................................................. 6 7. Kết cấu đề án ....................................................................................................... 6 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN .............................................................................................................. 7 1.1. Khái quát pháp luật về doanh nghiệp tư nhân .............................................. 7 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường...................................................................................................................... 7 1.1.2. Khái niệm, đặc trưng pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ............................. 19 1.1.3. Nội dung pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ............................................... 23 1.2. Các yếu tố tác động đến hiệu quả thực hiện pháp luật về DNTN............... 26 1.2.1. Sự hoàn thiện hệ thống pháp Luật Doanh nghiệp ......................................... 26 1.2.2. Sự phù hợp giữa doanh nghiệp tư nhân với môi trường thương mại tại Việt Nam hiện nay ........................................................................................................ 27 Tiểu kết Chương 1 ................................................................................................. 30 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN .. 31 2.1. Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về doanh nghiệp tư nhân ........... 31
  5. 2.1.1. Quy định về thành lập doanh nghiệp tư nhân ............................................... 31 2.1.2. Quy định về chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân ............................................. 35 2.1.3. Quy định về vốn và tài sản của doanh nghiệp tư nhân .................................. 36 2.1.4. Quy định về quản trị doanh nghiệp tư nhân .................................................. 36 2.1.5. Quy định về cho thuê, bán, chuyển đổi, tạm ngừng kinh doanh, giải thể và phá sản DNTN ............................................................................................................. 37 2.1.6. Quy định về quản lý và giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước đối với doanh nghiệp tư nhân ....................................................................................................... 41 2.2. Đánh giá thực trạng quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về doanh nghiệp tư nhân ..................................................................................................... 43 2.2.1. Ưu điểm của pháp luật về doanh nghiệp tư nhân .......................................... 43 2.2.2. Hạn chế của pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ........................................... 46 Tiểu kết Chương 2 ................................................................................................. 58 CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN .............................................................................................. 59 3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ............................ 59 3.1.1. Những kết quả đạt được từ thực tiễn thực hiện pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ...................................................................................................................... 59 3.1.2. Những vướng mắc bất cập phát sinh từ thực tiễn thực hiện pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ....................................................................................................... 65 3.1.3. Nguyên nhân những hạn chế ........................................................................ 68 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về doanh nghiệp tư nhân.......................................................................................... 70 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp tư nhân.............................. 70 3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ......... 79 Tiểu kết Chương 3 ................................................................................................. 82 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 84
  6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT STT Từ viết tắt Giải thích 1 DNTN Doanh nghiệp tư nhân 2 DN Doanh nghiệp 3 CTCP Công ty cổ phần 4 KTTN Kinh tế tư nhân 5 LDN Luật Doanh nghiệp 6 LĐT Luật Đầu tư
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1: Tổng số DNTN đang hoạt động sản xuất kinh doanh trong giai đoạn năm 2017 đến năm 2021 ............................................................................................... 59 Bảng 3.2: Tổng số lao động trong các doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động từ năm 2017 đến năm 2021 ............................................................................................... 60 Bảng 3.3: Doanh thu thuần của DNTN tính đến năm 2020.................................... 61 Bảng 3.4. Quy mô vốn của DNTN tại Việt Nam giai đoạn 2017 - 2021 ................ 65
  8. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết về việc nghiên cứu đề án Trải qua gần 40 năm đổi mới, nước ta đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên quỹ đạo chuyển động của nền kinh tế này, các thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có địa vị pháp lý bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Trong quá trình phát triển của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, việc huy động các thành phần kinh tế, loại hình kinh tế trên các lĩnh vực, trong đó có loại hình kinh tế tư nhân rất quan trọng, việc thu hút được nhiều vốn đầu tư từ loại hình này góp phần để phát triển đất nước, đưa đất nước thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu là nhu cầu khách quan, cần thiết. Ngay trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII đã chỉ rõ, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế, vì vậy, cần phải tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo thuận lợi phát triển khu vực kinh tế tư nhân, thúc đẩy hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có công nghệ hiện đại, năng lực quản trị tiên tiến. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chính sự nhận định đúng đắn chủ trương về sở hữu tư nhân, thành phần KTTN, về vai trò KTTN trong trong cơ cấu nền kinh tế từ đó thúc đẩy nền KTTN phát triển mạnh về số lượng, chất lượng cũng như quy mô trở thành mũi nhọn chiếm tỷ trọng lớn và có vai trò quan trọng làm đầu tàu thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Ở Việt Nam, cho đến cuối những năm 80 của thế kỷ trước không có những văn bản pháp luật chính thức công nhận sự tồn tại của các loại hình DNTN ngoài các đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể. Sau khi có Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986, với chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, nhiều loại hình doanh nghiệp thuộc các hình thức sở hữu với các quy mô khác nhau đã dần được hình thành và phát triển. DNTN là một trong những loại hình doanh nghiệp xuất hiện sớm nhất trong thời kỳ đổi mới được đánh dấu bằng sự ra đời của hai đạo luật quan trọng là Luật Công ty và Luật 1
  9. DNTN 1990. Đây là nền móng tạo nên cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự phát triển của các DNTN. Sau này hai đạo luật trên được thay thế và hoàn thiện bởi LDN 1999, LDN 2005, LDN 2014 và gần đây nhất là LDN 2020. Với lợi thế nhỏ gọn, dễ vận hành, quản lý...DNTN đã đóng góp không nhỏ cho sự phát triển KTTN nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung. Pháp luật về DNTN là một trong những đề tài nghiên cứu của nhiều học giả, các nhà nghiên cứu, được khai thác dưới nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Tuy nhiên, với sự ra đời của LDN năm 2020 có hiệu lực ngày 01/01/2021 cùng các văn bản hướng dẫn liên quan, vấn đề pháp luật về DNTN chưa có nhiều các nghiên cứu, đánh giá và bình luận từ cơ sở lý luận đến thực tiễn áp dụng. Do đó, học viên đã chọn đề tài: “Pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam” làm đề án thạc sĩ Luật Kinh tế tại Trường Đại học Luật, Đại học Huế. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề án Thứ nhất, các luận văn, luận án. - Luận văn thạc sĩ “Pháp luật về doanh nghiệp tư nhân qua thực tiễn tại tỉnh Quảng trị”, Trường Đại học Luật, Đại Học Huế 2020 của tác giả Đoàn Thị Bích Hảo. Luận văn đã phân tích thực trạng pháp luật về DNTN và thực tiễn thực hiện pháp luật; từ đó đề xuất giải hoàn thiện và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về DNTN trong địa bàn Quảng Trị. - Luận văn thạc sĩ “Pháp luật về doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam” của tác giả Hồ Xuân Quang tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2022. Luận văn đã phân tích thực trạng pháp luật về DNTN và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam; từ đó đưa ra phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về vấn đề này. - Luận văn thạc sĩ “Pháp luật về doanh nghiệp tư nhân từ thực tiễn tại tỉnh Lạng Sơn” của tác giả Hồ Thu Uyên tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2019. Luận văn đã phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về DNTN và thực tiễn thi hành tại Lạng Sơn; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về vấn đề này. 2
  10. - Luận văn thạc sĩ “Pháp luật về doanh nghiệp tư nhân và thực tiễn thực hiện tại thành phố Hà Nội” của tác giả Lê Việt Đức tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2020. Luận văn đã phân tích thực trạng pháp luật về DNTN và thực tiễn thực hiện tại Hà Nội; từ đó đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về vấn đề này. Thứ hai, các bài nghiên cứu liên quan đến đề án. - Bài viết khoa học với tiêu đề “Doanh nghiệp tư nhân và sự phù hợp với môi trường thương mại tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Vinh Hưng đăng trên Tạp chí Nghề Luật, Số 2/2017, tr. 11-15. Bài viết đã làm rõ những ưu điểm và hạn chế của DNTN, trên cơ sở phân tích sự phù hợp của DNTN với môi trường thương mại tại Việt Nam hiện nay từ đó đề xuất một số kiến nghị - Bài viết khoa học với tiêu đề “Những điểm mới về doanh nghiệp tư nhân trong Luật Doanh nghiệp năm 2020 và những vấn đề đặt ra” của tác giả Cao Thanh Huyền đăng trên Tạp chí Luật học, số 2 năm 2022, tr. 66-79. Bài viết đã phân tích những điểm mới nổi bật về DNTN trong LDN năm 2020, chỉ ra những hạn chế còn tồn tại trong các quy định điều chỉnh loại hình doanh nghiệp này, trên cơ sở đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện LDN năm 2020 về DNTN. - Bài viết khoa học với tiêu đề “Quy chế pháp lý về doanh nghiệp tư nhân theo Luật Doanh nghiệp năm 2020” của tác giả Nguyễn Thanh Lý đăng trên Tạp chí Nghề Luật, số 2/2021, tr. 64-72. Với tư cách là một trong những mô hình kinh doanh được sử dụng nhiều ở Việt Nam, DNTN có một vị trí khá đặc biệt trong đạo LDN ở Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của DNTN, bài viết phân tích khái niệm, đặc điểm, đăng ký kinh doanh, chế độ pháp lý về vốn, quản trị doanh nghiệp, giải thể và phá sản DNTN. Từ đó, bài viết đưa ra những ý kiến góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về DNTN ở Việt Nam hiện nay - Bài viết khoa học với tiêu đề “Bàn về một số quy định về doanh nghiệp tư nhân trong Luật Doanh nghiệp 2020” của tác giả Nguyễn Thành Trân, Huỳnh Thị Lâm Phương đăng trên Tạp chí công thương trên Tạp chí công thương. Bài viết đã phân tích một số vấn đề bất cập trong LDN 2020 về DNTN và đề xuất một vài kiến nghị để thực thi LDN tốt hơn. 3
  11. Hầu hết các công trình nghiên cứu trên đều khẳng định vai trò to lớn của DNTN đối với nền kinh tế Việt Nam trong suốt thời gian từ sau đổi mới đến nay. Các nghiên cứu đều tiếp cận đề tài Pháp luật về DNTN dưới hai góc độ đó là góc độ lý luận và thực tiễn pháp luật. Các công trình trên mặc dù đã đưa ra những nhận định, phân tích sâu sắc pháp luật về DNTN, tuy nhiên mỗi công trình lại chỉ tập trung nghiên cứu ở một khía cạnh nhất định, một số văn bản pháp luật được đề cập đã không còn hiệu lực pháp luật. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về DNTN trong thời điểm hiện nay mang ý nghĩa thời sự, góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về DNTN ở Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề án 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề án nhằm đưa ra các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về DNTN. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống cơ sở lý luận pháp luật về DNTN. - Phân tích, đánh giá pháp luật hiện hành về DNTN; từ đó chỉ ra những ưu điểm và hạn chế. - Đánh giá thực tiễn thực hiện về DNTN từ thực tiễn tại Việt Nam; từ đó chỉ ra những tồn tại, bất cập và nguyên nhân phát sinh. - Đề xuất được giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về DNTN. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề án 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề án bao gồm: - Nghiên cứu cơ sở lý luận pháp luật về DNTN; - Nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt Nam về DNTN; - Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về DNTN tại Việt Nam qua các báo cáo, số liệu từ các cơ quan liên quan trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến 2023. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian: Đề án nghiên cứu trên lãnh thổ Việt Nam; 4
  12. Phạm vi thời gian: Các số liệu, các vụ việc trong thực tiễn được nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2023. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề án 5.1. Phương pháp luận Nghiên cứu đề án dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin về Nhà nước và pháp luật 5.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề án như sau: Để giải quyết nhiệm vụ và nghiên cứu đặt ra trong từng chương của đề án, những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sẽ được tác giả thực hiện như sau: - Các phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp luật học so sánh (so sánh đương đại), phương pháp tiếp cận hệ thống được sử dụng nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về DNTN và kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới để làm cơ sở lý luận cho đề án nghiên cứu. - Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp sẽ được sử dụng để nghiên cứu các báo cáo, các bản án để nhằm đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật DNTN tại Việt Nam. Phương pháp tiếp cận liên ngành (lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế) cũng được sử dụng để đánh giá những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn thực hiện pháp luật về DNTN tại Việt Nam - Phương pháp phân tích và dự báo khoa học, phương pháp tiếp cận liên ngành được sử dụng chủ yếu trong việc xác định quan điểm, mục tiêu, đề xuất giải pháp hoàn thiện và khuyến nghị mô hình pháp luật về DNTN. Bên cạnh đó phương pháp luật học so sánh, phương pháp phân tích xã hội – pháp luật được sử dụng rộng rãi trong các công trình nghiên cứu này cũng những kết quả nghiên cứu thu được cũng được tác giả kế thừa, phát triển trong quá trình giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu của đề án, đặc biệt trong việc khuyến nghị các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật đối với DNTN tại Việt Nam 5
  13. 6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề án 6.1. Ý nghĩa khoa học của đề án Đề án góp phần bổ sung cơ sở lý luận pháp luật về DNTN. Các giải pháp đề án nêu ra sẽ là luận cứ khoa học để góp phần hoàn thiện pháp luật về DNTN ở Việt Nam trong thời gian tới 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề án Đề án là nguồn tài liệu tham khảo cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, Đề án cũng là tài liệu tham khảo cho sinh viên tại các cơ sở đào tạo của Việt Nam về những vấn đề liên quan đến pháp luật về DNTN ở Việt Nam. 7. Kết cấu đề án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề án có 3 chương: Chương 1. Một số vấn đề lý luận pháp luật về Doanh nghiệp tư nhân Chương 2. Thực trạng pháp luật về Doanh nghiệp tư nhân Chương 3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về Doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện 6
  14. CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN 1.1. Khái quát pháp luật về doanh nghiệp tư nhân 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường 1.1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp tư nhân Trong lịch sử phát triển xã hội, con người luôn có nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hóa. Hoạt động thương mại, mà khởi thủy là hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa đã thúc đẩy sự ra đời của tầng lớp thương nhân. Từ góc độ kinh tế - xã hội, thương nhân được xem là những thực thể kinh tế - xã hội, có chức năng chủ yếu là thực hiện hoạt động thương mại, được cấu thành bởi nhiều yếu tố khác nhau như: cơ sở vật chất (vốn, tài sản), bộ máy quản lý điều hành, người lao động... Trong cơ chế kinh tế thị trường, hoạt động thương mại được quy định và chi phối bởi các quy luật kinh tế khách quan. Các hình thức pháp lý của thương nhân cũng ngày càng đa dạng và hoàn thiện1. Với tư cách là một phạm trù thuộc khái niệm thương nhân, các loại hình doanh nghiệp lần lượt ra đời, trong đó DNTN được xem là loại hình doanh nghiệp có cấu trúc đơn giản nhất. Trên thực tế, có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm khác nhau về doanh nghiệp tư nhân (Private enterprise). Bản thân thuật ngữ “doanh nghiệp tư nhân” (private enterprise) không được sử dụng trong thông lệ pháp luật quốc tế. Các nước trên thế giới thường sử dụng thuật ngữ “sole proprietorship” hay “sole trader” (doanh nghiệp cá nhân, cá nhân kinh doanh) để chỉ loại chủ thể kinh doanh này. Doanh nghiệp cá nhân (sole proprietorship) còn được gọi là doanh nghiệp một chủ là một dạng thỏa thuận kinh doanh đơn giản, trong đó, một cá nhân điều hành và sở hữu toàn bộ doanh nghiệp. Mặc dù, nhiều người sử dụng thuật ngữ này để chỉ các doanh nghiệp không có nhân viên nào khác ngoài chủ sở hữu, tuy nhiên, cách hiểu chính xác của doanh nghiệp cá nhân đề cập đến cấu trúc pháp lý của doanh nghiệp, thay vì số lượng 1 TS. Bùi Ngọc Cường (Chủ biên), Giáo trình Luật Thương mại – Tập một, Nxb Giáo dục, 2008, Tr 13 7
  15. nhân viên. Như vậy, khi thành lập doanh nghiệp cá nhân thì doanh nghiệp đó có thể chỉ có một chủ sở hữu hoặc cũng có thể bao gồm chủ sở hữu và nhân viên. Lịch sử nền kinh tế thế giới cho thấy, chủ thể kinh doanh theo hình thức cá nhân kinh doanh hay doanh nghiệp cá nhân là hình thức tổ chức kinh doanh đơn giản và cổ điển nhất, đây là hình thức kinh doanh xuất hiện sớm nhất, sớm hơn các hình thức kinh doanh theo loại hình công ty hay hợp danh2. Khi tiếp cận khái niệm “doanh nghiệp tư nhân”, các luật gia thuộc hệ thống pháp luật Common law – điển hình là Hoa Kỳ sử dụng thuật ngữ: “Sole proprietorship”. Theo Bộ các quy định pháp luật liên bang (The Code of Federal Regulation) của Hoa Kỳ, DNTN – Sole proprietorship có nghĩa là một hình thức kinh doanh được sở hữu bởi một chủ sở hữu tư nhân, trong đó chủ sở hữu có 100% vốn sở hữu và không được nắm giữ bởi một công ty, quỹ tín thác hoặc một tổ chức kinh doanh khác. DNTN thuộc sở hữu của một chủ sở hữu sẽ không còn được coi là DNTN khi chủ sở hữu này không còn sở hữu 100% vốn của doanh nghiệp3. Điều này nghĩa là doanh nghiệp thuộc sở hữu cá nhân, chủ sở hữu sở hữu toàn bộ tài sản và có trách nhiệm toàn bộ nghĩa vụ tài chính phát sinh từ hoạt động kinh doanh của mình. Việc đóng thuế thu nhập hàng năm của doanh nghiệp được tính vào thu nhập cá nhân, trừ một số trường hợp nhất định phải có giấy phép kinh doanh hoặc hình thức kinh doanh tương tự, cá nhân kinh doanh không cần phải đăng ký khi tổ chức kinh doanh. Bên cạnh đó, theo pháp luật Singapore DNTN là mô hình doanh nghiệp có một chủ sở hữu là cá nhân hoặc pháp nhân chịu trách nhiệm vô hạn và toàn quyền điều hành quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Trong khi đó pháp luật Thái Lan chủ doanh nghiệp chỉ có thể là cá nhân4. Ở Việt Nam, cho đến cuối những năm 80 của thế kỷ trước không có những văn bản pháp luật chính thức công nhận sự tồn tại của các loại hình DNTN ngoài các đơn 2 Trần Thị Lệ Thu (2023), Pháp luật về cá nhân kinh doanh, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh 3 26 CFR § 53.4943-10 - Business enterprise; definition https://www.law.cornell.edu/cfr/text/26/53.4943-10 (Title 26, Code Of Federal Regulations, § 53.4943-10: Mục 26, Bộ các quy định pháp luật liên bang của Hoa Kỳ, Điều 53.4943-10) 4 Ngô Huy Cương, Giáo trình Luật Thương mại – phần chung và thương nhân, Hà Nội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.139-140 8
  16. vị kinh tế quốc doanh và tập thể. Sau khi có Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986, với chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, nhiều loại hình doanh nghiệp thuộc các hình thức sở hữu với các quy mô khác nhau đã dần dần được hình thành và phát triển. DNTN là một trong những loại hình doanh nghiệp xuất hiện sớm nhất trong thời kỳ đổi mới được đánh dấu bằng sự ra đời của Luật DNTN năm 1990, tách biệt hẳn so với Luật công ty năm 1990. Sự ra đời song song của hai đạo luật này đã hàm ý phân biệt rõ tư cách pháp lý của DNTN(thương nhân thể nhân) khác với các loại hình công ty (thương nhân pháp nhân). Khái niệm DNTN được quy định lần đầu tiên Điều 2 Luật DNTN 1990 như sau: “DNTN là đơn vị kinh doanh có mức vốn không thấp hơn vốn pháp định, đo một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”. Đây là khái niệm tương đối ngắn gọn nêu lên đặc trưng cơ bản của DNTN, đó là chủ thể kinh doanh và vốn pháp định Vốn pháp định trong thời kỳ này được pháp luật quy định với hầu hết ngành nghề kinh doanh, tuỳ theo từng ngành nghề kinh doanh mà DNTN phải đảm bảo mức vốn tối thiểu này. Có thể thấy rằng việc đưa vốn pháp định vào khái niệm DNTN là không cần thiết, vì bản chất vốn pháp định được pháp luật quy định theo ngành nghề kinh doanh, không phụ thuộc vào mô hình doanh nghiệp. LDN năm 1999 đã gộp hai đạo luật DNTN năm 1990 và Luật công ty năm 1990 làm một và dành một chương quy định về DNTN nhằm mục đích tránh sự phân biệt giữa các loạihình kinh doanh trong nền kinh tế. Cách làm này đã được duy trì ở các đạo LDN sau này: LDN năm 2005, LDN năm 2014 và hiện nay là LDN năm 2020. Hiện nay, Khoản 1, Điều 188 LDN năm 2020 quy định: “DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”. Như vậy, về bản chất định nghĩa DNTN được giữ nguyên từ năm 1990 đến nay. Từ định nghĩa trên cho thấy bản thân “DNTN không phải là một thực thể độc lập mà chủ DNTN mới là chủ thể của pháp luật” và “DNTN là một tập hợp tài sản mở rộng” của chủ DNTN. Trước đây, để tránh nhầm lẫn tư cách pháp lý của DNTN với các loại hình doanh nghiệp khác, đã từng có đề xuất nên đổi tên DNTN thành “doanh nghiệp cá 9
  17. thể” hay “thương nhân thể nhân” hay “thương nhân đơn lẻ”. Bên cạnh đó, cũng có quan điểm cho rằng: “Luật thương mại không dùng khái niệm doanh nghiệp. Nếu có trở thành thương nhân theo Luật thương mại, thì chủ DNTN với tư cách cá nhân là thương nhân, chứ không phải DNTN với tư cách là một đơn vị kinh doanh.” Có ý kiến nhận định: DNTN cùng với việc gộp quy định DNTN vào LDN dễ gây nhầm lẫn rằng DNTN là loại hình công ty một chủ sở hữu tương tự như công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Tuy nhiên, xét về tính chất sở hữu, cơ cấu tổ chức, tư cách pháp lý, chế độ trách nhiệm tài sản thì DNTN và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có sự khác biệt rất lớn. Bởi vậy đã có nhiều ý kiến của các nhà luật học đánh giá sự “lạc loài” của DNTN khi đặt DNTN vào LDN – một đạo luật chủ yếu điều chỉnh tổ chức và hoạt động của các loại hình công ty5. Trong khoa học pháp lý hiện nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau về DNTN. Một số quan điểm cho rằng: DNTN là doanh nghiệp đại diện cho sở hữu tư nhân hay còn gọi là kinh tế tư nhân, theo đó, các doanh nghiệp không thuộc sở hữu của Nhà nước thì đều thuộc phạm trù là DNTN (do tư nhân quản lý, sở hữu và định đoạt doanh nghiệp). Đây là quan điểm mang tính chất bao trùm, thực chất quan điểm này đã nhìn nhận, đánh giá DNTN chính là kinh tế tư nhân, trong đó bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân6. Một số ý kiến khác lại cho rằng: DNTN là thể hiện việc chủ doanh nghiệp là cá nhân, không thuộc sở hữu tập thể hay cơ quan nào, theo đó, doanh nghiệp chỉ được điều hành, quản lý bởi một cá nhân. Đây là quan điểm được đánh giá theo việc phân loại về loại hình doanh nghiệp, căn cứ vào các đặc điểm pháp lý cơ bản của doanh nghiệp7. Theo từ điển Luật học, “Doanh nghiệp” là thuật ngữ dùng để chỉ tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản riêng và trụ sở giao dịch ổn định, được thành lập theo thủ tục pháp luật quy định, lấy kinh doanh làm nghề nghiệp chính (chức năng, nhiệm vụ chính là kinh doanh). Thuật ngữ doanh nghiệp được sử dụng lần đầu tiên ở nước ta 5 Ngô Huy Cương, “Dự án Sửa đổi Luật doanh nghiệp 2015: Bình luận những vấn đề Pháp lý chủ yếu”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 21/2014, tr.22 6 Bùi Xuân Hải, Pháp luật doanh nghiệp và đầu tư với vấn đề hội nhập, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 01/2008, tr. 37 7 Bùi Ngọc Cường (chủ biên 2010), Giáo trình Luật thương mại, Nxb giáo dục Việt Nam, Tập I. tr. 25 10
  18. từ năm 1948, theo tinh thần của Sắc lệnh số 104/SL ngày 01/01/1948 về doanh nghiệp quốc gia. Trong suốt thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, thuật ngữ này bị lãng quên, thay thế bằn các thuật ngữ như: xí nghiệp, đơn vị kinh tế, cơ quan kinh tế...8. Còn tư nhân ở đây được hiểu với tư cách là một cá nhân. Một số quan điểm thường nhầm lẫn nghĩa của từ “tư nhân”, cho rằng tư nhân là một đối trọng với nhà nước, một cách thức khác để chỉ chế độ tư hữu, ví dụ: thuộc sở hữu tư nhân là từ trái nghĩa của thuộc sở hữu nhà nước, nội hàm của tư nhân bao gồm những gì không thuộc về nhà nước. Đây là một cách hiểu chưa chính xác. Theo từ điển tiếng Việt, “tư nhân” dùng để chỉ một cá nhân nào đó9. Từ điển Luật học đưa ra định nghĩa về “DNTN” như sau: “DNTN là cơ sở kinh doanh thuộc sở hữu của một cá nhân và cá nhân này phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình trước các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản tạo ra từ hoạt động kinh doanh”10. Cách định nghĩa này tương đối giống với pháp luật về DNTN ở nước ta trong những năm gần đây. Theo Khoản 1 Điều 141 LDN năm 2005 “DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”. Đây là một khái niệm ngắn gọn giúp chúng ta phân biệt DNTN với các hình thức tổ chức kinh doanh khác. Các yếu tố cơ bản tạo nên khái niệm này và cũng là những đặc điểm quan trọng nhất, đó là “loại hình”, “chủ sở hữu” và “chế độ trách nhiệm”. Đến LDN năm 2014, tại Điều 183, LDN năm 2020 tiếp tục tái khẳng định quy định của LDN năm 2005: “DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”. Từ các phân tích trên có thể hiểu: “ Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”. 8 Bộ Tư pháp – Viện Khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa – Nxb Tư pháp, 2006 Tr 218, 219 9 TS. Nguyễn Thị Bích Hạnh, ThS. Ngô Thị Thu Hương, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Dân Trí, 2018, Tr 820. 10 Bộ Tư pháp – Viện Khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa – Nxb Tư pháp, 2006 Tr 220, 221 11
  19. 1.1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân Thứ nhất, DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ. DNTN không xuất hiện sự góp vốn giống như ở các loại hình doanh nghiệp khác nhiều chủ sở hữu, nguồn vốn của doanh nghiệp cũng chủ yếu xuất phát từ tài sản của một cá nhân duy nhất. Tài sản được sử dụng vào hoạt động kinh doanh, sản xuất của DNTN không cần phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp, bởi lẽ không có sự tách bạch nào giữa tài sản của DNTN và chủ sở hữu. Nguồn vốn ban đầu được góp vào doanh nghiệp được bắt nguồn từ chính tài sản của chủ DNTN, nguồn vốn này được chủ sở hữu đăng ký trong giấy đăng ký kinh doanh. Như vậy, chủ sở hữu doanh nghiệp sẽ đưa vào doanh nghiệp một số vốn nhất định và tài sản đưa vào kinh doanh đó là tài sản của DNTN. Tuy nhiên, DNTN có sự linh hoạt hơn về vốn so với các loại hình doanh nghiệp khác, trong quá trình hoạt động, chủ DNTN vẫn có quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư của mình vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với thủ tục đơn giản. Việc tăng hoặc giảm vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp phải được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán. Chỉ trường hợp giảm vốn đầu tư xuống thấp hơn vốn đầu tư đã đăng ký thì chủ DNTN phải đăng ký với Cơ quan đăng ký kinh doanh trước khi giảm vốn. Xuất phát từ chính quy định này mà có thể thấy rằng hầu như không có giới hạn nào giữa phần vốn góp đầu tư vào doanh nghiệp và phần tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Mọi thời điểm trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp thì việc thay đổi vốn đăng ký này đều có thể diễn ra, vì thế ranh giới giữa phần vốn góp và phần tài sản của chủ doanh nghiệp chỉ tồn tại mang tính chất tạm thời. Hay nói cách khác, việc tách bạch giữa tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp và tài sản của DNTN là không có, đây cũng chính là đặc điểm cơ bản dẫn đến một số đặc điểm khác của DNTN như việc không có tư cách pháp nhân và việc chủ sở hữu doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm tài sản vô hạn đối với mọi hoạt động của doanh nghiệp11. Cũng từ đó, chủ sở hữu DNTN có toàn quyền quyết định các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp như: cơ cấu tổ chức, quản lý, điều hành, định đoạt doanh nghiệp... 11 Trương Vĩnh Xuân, Doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trong cộng đồng doanh nghiệp ngoài Nhà nước, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số (191), 3/2011 12
  20. Việc phân chia lợi nhuận không đặt ra với loại hình doanh nghiệp nay, toàn bộ lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh sẽ thuộc về một mình chủ doanh nghiệp sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật. Chính vì vậy, cần phải quy định mỗi người chỉ được thành lập một DNTN, nhằm đảm bảo cho hoạt động của từng DNTN và việc thanh toán nợ hay thực hiện các nghĩa vụ tài sản của DNTN trong trường hợp chủ DNTN hay DNTN lâm vào tình trạng khó khăn. Khi đó, tài sản của các DNTN cùng một chủ sở hữu không độc lập với nhau và không độc lập với chủ sở hữu, việc thực hiện các thủ tục để thanh toán các nghĩa vụ tài sản sẽ rất phức tạp, vướng mắc giữa các DNTN cùng thuộc quyền sở hữu của một người. Thứ hai, DNTN không có tư cách pháp nhân. Lịch sử ra đời của chế định pháp nhân và những ý niệm về pháp nhân hình thành trong nền pháp lý tư sản. Vấn đề củng cố địa vị cho các tổ chức kinh tế bằng phương tiện pháp lý để các tổ chức này tham gia vào quan hệ dân sự, thương mại và nhằm tránh rủi ro trong kinh doanh đã dẫn đến đòi hỏi phải tạo ra một khả năng tách bạch về tài sản giữa phần đưa vào lưu thông và phần còn lại của chủ sở hữu có nhu cầu sử dụng vào mục đích khác. Từ đó, một “nhân cách pháp lý” mới tách bạch với nhân cách của chủ sở hữu hoặc cộng đồng sở hữu, gọi là “pháp nhân” ra đời12. Nói cách khác, pháp nhân là một tổ chức được thành lập một cách hợp pháp, có tài sản riêng và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Một tổ chức được xem là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau: - Được thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật. Điều kiện này giúp pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật và tồn tại dưới sự kiểm soát, bảo đảm của Nhà nước nhằm phù hợp với ý chí của giai cấp cầm quyền. - Có cơ cấu tổ chức theo luật định. Đây là điều kiện nhằm biến một tập thể, một nhóm người thành một thể thống nhất (một chủ thể) có khả năng thực hiện có hiệu quả nhất nhiệm vụ của tổ chức đó đặt ra khi thành lập13. 12 Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam – Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, 2015, Tr 108 13 Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam – Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, 2015, Tr 115 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2