388
MỘT SỐ ĐIỂM MỚI TRONG NỘI DUNG DẠY HỌC VỀ TỪ LOẠI
CỦA CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG 2018
Đinh Thị Thu Phượng 1
1. Khoa Sư phạm, Trường Đại học Thủ Dầu Một
TÓM TẮT
Việc ra đời của sách giáo khoa mới trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã đưa đến
nhiều sự thay đổi trong nội dung và cách thức tổ chức hoạt động dạy học của tất cả các môn học nói
chung và phân môn Ngữ văn nói riêng. Vấn đề dạy học về “từ loại” cũng có nhiều thay đổi đáng kể,
đòi hỏi giáo viên sinh viên ngành phạm Ngữ văn phải cái nhìn tổng quát để thấy được s
khác biệt giữa chương trình mới so với chương trình cũ, giữa chương trình mới với nội dung được
học ở đại học để vận dụng cho phù hợp. Bài viết này tiếp cận vấn đề từ loại được dạy trong chương
trình mới từ góc nhìn so sánh với chương trình cũ, so sánh với giáo trình dạy ngữ pháp tiếng Việt ở
bậc đại học. Kết quả nghiên cứu cho thấy một số điểm mới đáng lưu ý về thuật ngữ, nội hàm
nội dung dạy học trong chương trình 2018. Bài viết cung cấp cái nhìn từ tổng quát đến chi tiết đối
với về những điểm mới trong dạy học từ loại được triển khai ở sách giáo khoa Ngữ văn 2018 để giáo
viên sinh viên ngành sư phạm Ngữ văn có thêm tài liệu tham khảo, đáp ứng nhu cầu nâng cao hiệu
quả giảng dạy của mình.
Từ khóa: Chương trình giáo dục phổ thông 2018, môn Ngữ văn, ngữ pháp tiếng Việt, sách giáo
khoa, từ loại.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong hệ thống giáo dục phổ thông của bất kì quốc gia nào, giáo dục ngôn ngữ luôn được đánh
giá đóng vai trò quan trọng bậc nhất, nền tảng để tiếp nhận kiến thức năng của tất cả các
môn học trong nhà trường, nhằm phát triển khả năng giao tiếp, tư duy và sáng tạo của mỗi học sinh.
Việt Nam, nội dung giáo dục ngôn ngữ được thiết kế trong phân môn Ngữ văn (ở chương trình tiểu
học gọi là Tiếng Việt). Môn học này được đánh giá là môn học mang tính công cụ và tính thẩm mĩ -
nhân văn; giúp học sinh có phương tiện giao tiếp, làm sở để học tập tất cả các môn học hoạt
động giáo dục khác trong nhà trường; đồng thời cũng công cụ quan trọng để giáo dục học sinh
những giá trị cao đẹp về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc; phát triển ở học sinh những cảm xúc
lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha,... (Bộ Giáo dục Đào tạo, 2018). Để đạt
được những mục tiêu này, nội dung dạy học tiếng Việt luôn được chú trọng. Trong yêu cầu đối với
thiết kế chương trình GDPT 2018 (gọi tắt chương trình 2018), Bộ Giáo dục Đào tạo đã đưa ra
quan điểm xây dựng chương trình, yêu cầu cần đạt, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và định
hướng đánh giá kết quả giáo dục. Trong đó, để phát triển toàn diện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe,
các mảng kiến thức đã được liệt kê cụ thể. Trong đó, từ loại một nội dung dạy học bắt buộc thuộc
mạch kiến thức về ngữ pháp tiếng Việt.
Dạy học về từ loại không phải là một nội dung mới mẻ, thậm chí còn mang tính hàn lâm trong
giáo dục ngôn ngữ từ cổ chí kim. Tuy nhiên, vấn đề này chưa bao giờ bị gạt ra khỏi nội dung dạy học.
Nói cách khác, dạy học về từ loại luôn một nội dung quan trọng chúng ta thể dễ dàng tìm
thấy trong bất cứ bộ sách dạy về ngôn ngữ hay bất cứ sách giáo khoa Ngữ văn nào. Tuy nhiên, khác
với sách chuyên khảo (vốn đi sâu vào nghiên cứu bản chất của từ loại, phục vụ mục đích giải mã đặc
điểm riêng của từng ngôn ngữ), vấn đề dạy học về từ loại trong sách giáo khoa phổ thông nhằm hướng
tới khả năng vận dụng trong giao tiếp của người học. Nội dung dạy học cần hướng đến tính thực tiễn,
389
hướng đến hiệu quả giao tiếp, sao cho người học có khả năng tiếp nhận và tạo lập văn bản, diễn ngôn
một cách dễ dàng và hiệu quả nhất.
Từ loại trong sách giáo khoa 2018 không mang tính hàn lâm và học thuật, đã được tinh gọn,
hướng vào hiệu quả giao tiếp thực tế. Bài tập được vận dụng bài tập xuất hiện trong ngữ liệu của
phần đọc, hoặc gắn với các tình huống giao tiếp thực tế gắn với chủ đề của bài học. Như vậy, thay vì
chỉ tập trung vào việc phân loại từ loại, sách giáo khoa mới tập trung vào việc sử dụng từ loại trong
ngữ cảnh khác nhau và trong các tình huống giao tiếp thực tế.
Bàn về vấn đề từ loại trong sách giáo khoa Ngữ văn, có một số thay đổi đáng kể trong chương
trình 2018 so với chương trình GDPT 2006 (gọi tắt là chương trình 2006). So với giáo trình dạy học
về từ loại ở bậc đại học, từ loại trong sách giáo khoa 2018 cũng có một vài khác biệt về thuật ngữ và
nội hàm. Việc nắm bắt được sự khác biệt này giữa chương trình cũ và mới, giữa giáo trình được đào
tạo chương trình thực tế dạy họcmột nhu cầu cần thiết để giáo viên Ngữ văn và sinh viên ngành
sư phạm Ngữ văn giảng dạy hiệu quả hơn. Thực hiện bài nghiên cứu này, chúng tôi hướng đến việc
xác định những yếu tố mới trong cách tiếp cận trình bày về từ loại, cũng như khám phá hiệu quả
của việc triển khai các thay đổi này trong thực tiễn giảng dạy và học tập. Vì vậy, việc tiến hành phân
tích, so sánh để tìm ra những sự khác biệt trong thiết kế nội dung dạy học về từ loại trong chương
trình giáo dục phổ thông 2018 so với chương trình 2006 và so với giáo trình dạy ngữ pháp tiếng Việt
sẽ giúp rút ra được một cái nhìn toàn diện về vấn đề dạy học từ loại hiện nay. Qua đó, chúng tôi hi
vọng rằng bài nghiên cứu này sẽ góp phần vào việc cải thiện chất lượng dạy học đối với các bài thực
hành tiếng Việt nói riêng và cải thiện chất lượng của nội dung dạy học môn Ngữ văn nói chung.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối ợng được khảo sát nội dung dạy học về từ loại được quy định trong Chương trình Giáo
dục phổ thông n Ngữ n 2018 (ban hành kèm Thông tư số 32/2018/TT-BGT của Bộ trưởng Bộ
Go dục Đào tạo ngày 26/12/2018) và Chương trình Giáo dục phthông môn Ngữ n 2006 (ban
nhm Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Go dục Đào tạo ngày 05/5/2006).
Nội dung dạy học về từ loại trong các bộ sách giáo khoa 2018 2006 cũng được khảo sát để
lấy dữ liệu về nội dung và hình thức tổ chức dạy học về từ loại.
Bên cạnh đó, nội dung dạy học về từ loại trong giáo trình dạy ngữ pháp tiếng Việt áp dụng với
sinh viên các ngành sư phạm Ngữ văn cũng được lấy làm căn cứ để so sánh, đánh giá. Cụ thể là Giáo
trình Ngữ pháp tiếng Việt của Diệp Quang Ban. Bộ sách này đã được Hội đồng thẩm định sách đại
học của Bộ Giáo dục và Đào tạo giới thiệu làm sách dùng chung cho các trường đại học sư phạm
được nhiều trường tin dùng cho đến nay.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện bài nghiên cứu này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp khảo sát, phân tích
và so sánh dữ liệu. Trước tiên, các chương trình khung quy định về nội dung dạy học Ngữ văn 2018
và 2006 được tập hợp. Trong đó, vùng trọng tâm của ngữ liệu là yêu cầu cần đạt, lí thuyết và bài tập
về từ loại. Sau đó, các yêu cầu cần đạt, lí thuyết và bài tập về từ loại trong sách cũ và mới được phân
tích, so sánh để tìm ra điểm khác biệt. Bên cạnh đó, chúng tôi tham chiếu với hệ thống thuật ngữ, nội
hàm và ngoại diên của các từ loại trong giáo trình Ngữ pháp tiếng Việt để chỉ ra những lưu ý cần thiết
trong quá trình dạy học từ loại ở trường phổ thông.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Sự tương đồng và khác biệt trong nội dung dạy học về từ loại giữa chương trình GDPT
2018 và chương trình GDPT 2006
3.1.1. Sự tương đồng
Nhìn chung, cả hai chương trình 2018 2006 đều chú trọng nội dung dạy học về từ loại cho
học sinh. Cả hai chương trình đều giống nhau ở những điểm sau đây:
390
Từ loại đều được phân btừ lớp hai đến lớp tám. Trong đó, thực từ chủ yếu được dạy cấp
tiểu học, hư từ chủ yếu được dạy ở cấp trung học cơ sở.
Các thuật ngữ danh từ, động từ, tính từ lớp hai lớp ba được giới thiệu lần lượt bằng các
cụm từ mang tính chất miêu tả: từ ngữ chỉ sự vật, từ ngữ chỉ hoạt động, từ ngữ chỉ đặc điểm. Đến lớp
bốn, các thuật ngữ này mới chính thức xuất hiện. Việc giới thiệu ban đầu bằng các cụm từ miêu tả
như vậy phù hợp với khả năng tiếp nhận của lứa tuổi, tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên triển khai
bài giảng.
Vnội hàm của một số thuật ngữ, hai chương trình không có s khác biệt vềch sử dụngn gọi
của ni hàm của một số thuật ngữ như danh từ, động từ,nh từ, số từ thán từ (xem bảng 1).
Chương trình 2018
Chương trình 2006
Danh từ
từ chsự vật (người, vật, thời gian, hiện tượng
thiên nhiên,…)
(Nguyễn Thị Ly Kha và nnk, 2023)
Là những từ chỉ sự vật (người, vật, hiện tượng, khái
niệm hoặc đơn vị)
(Nguyễn Minh Thuyết và nnk, 2009)
Động từ
Là từ chỉ hoạt động hoặc trạng thái của sự vật
(Nguyễn Thị Ly Kha và nnk, 2023)
Là những từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật
(Nguyễn Minh Thuyết và nnk, 2009)
Tính từ
từ miêu tả đặc điểm (hình dáng, màu sắc, âm
thanh, hương vị,…) hoặc tính chất của sự vật, hoạt
động, trạng thái.
(Nguyễn Thị Ly Kha và nnk, 2023)
Là những từ miêu tả đặc điểm hoặc tính chất của sự
vật, hoạt động, trạng thái,…
(Nguyễn Minh Thuyết và nnk, 2009)
Số từ
Là những từ chỉ số lượng và số thứ tự của sự vật.
(Nguyễn Thị Hồng Nam và nnk, 2002b)
Là những từ chỉ số lượng và thứ tự của sự vật.
(Nguyễn Khắc Phi và nnk, 2011a)
Thán từ
những từ dùng để bộc lộ cảm xúc của người nói
hoặc dùng để gọi đáp
(Nguyễn Thị Hồng Nam và nnk, 2023)
những từ dùng để bộc lộ tình cảm, cảm xúc của
người nói hoặc dùng để gọi đáp.
(Nguyễn Khắc Phi và nnk, 2013)
Bảng 1. Nội hàm của một số thuật ngữ trong hai chương trình
3.1.2. Sự khác biệt
Bên cạnh sự thống nhất trong cách sử dụng nội hàm tên gọi của một số thuật ngữ kể trên,
hai chương trình sự khác biệt nhất định trong cách sử dụng một số thuật ngữ. một số sự khác
biệt đáng lưu ý sau đây:
Thứ nhất, có sự khác nhau trong tên gọi của thuật ngữ khi biểu thị cùng một nội hàm. Cụ thể
để cùng một nội hàm của “từ nối các từ nghoặc các câu, nhằm thể hiện mối quan hgiữa các từ ngữ
hoặc các câu đó với nhau”, chương trình 2018 gọi kết từ (Nguyễn Thị Ly Kha nnk, 2024),
chương trình 2006 gọi là quan hệ từ (Nguyễn Minh Thuyết và nnk, 2014). Đối với sự khác biệt này,
những giáo viên đã dạy chương trình 2006 cần lưu ý để thay đổi thuật ngữ khi chuyển sang dạy
chương trình 2018, đảm bảo học sinh được tiếp cận thuật ngữ thống nhất.
Thứ hai, sự khác nhau trong nội hàm của cùng một vỏ ngữ âm của thuật ngữ phó từ, đại từ
trong hai chương trình.
Cùng tên gọi của thuật ngữ, đại từ trong chương trình 2018 (Nguyễn Thị Ly Kha và nnk, 2024)
dùng để biểu thị nội hàm của ba thuật ngữ đại từ (Nguyễn Khắc Phi nnk, 2012), đại từ xưng
(Nguyễn Minh Thuyết và nnk, 2014) và chỉ từ (Nguyễn Khắc Phi và nnk, 2011a) trong chương trình
2006 (xem bảng 2).
Nội hàm mô phỏng và ngoại diên
Chương trình 2018
Chương trình 2006
Những từ dùng để xưng (ví dụ: tôi, chúng tôi,
nó, chúng nó,…)
Đại từ (Nguyễn Thị Ly Kha
nnk, 2024)
Đại từ xưng (Nguyễn Minh
Thuyết và nnk, 2014)
Những từ dùng để hỏi (ví dụ: ai, gì, nào, bao
nhiêu,…)
Đại từ (Nguyễn Thị Ly Kha và
nnk, 2024)
Đại từ (Nguyễn Khắc Phi
nnk, 2012)
Những từ dùng để thay thế các từ ngữ chỉ định chỉ
nơi chốn, thời gian, hoặc thay cho một số từ ngữ
khác (ví dụ: này, ấy, nọ, kia, đây, đó, thế, vậy,…)
Đại từ
(Nguyễn Thị Ly Kha nnk,
2024)
Chỉ từ (Nguyễn Khắc Phi
nnk, 2011a)
Đại từ (Nguyễn Khắc Phi
nnk, 2012)
Bảng 2. Nội hàm ngoại diên của thuật ngữ đại từ trong chương trình 2018 so với chương trình
2006
391
Cùng tên gọi của thuật ngữ phó từ, chương trình 2018 dùng để biểu thị nội hàm của cả hai thuật
ngữ lượng từphó từ trong chương trình 2006 (xem bảng 3).
Nội hàm mô phỏng và ngoại diên
Chương trình
2018
Chương trình 2006
Những từ chuyên đi kèm danh từ để bổ sung ý nghĩa cho danh từ (ví dụ: c,
những, mấy, mỗi, từng)
Phó từ
(Nguyễn Thị
Hồng Nam nnk,
2002a)
Lượng từ
(Nguyễn Khắc Phi
và nnk, 2011a)
Những từ chuyên đi kèm động từ, tính từ để bổ sung ý nghĩa cho động từ, tính
từ (ví dụ: đã, đang, vẫn, còn, cứ, hãy, đừng)
Phó từ
(Nguyễn Thị
Hồng Nam nnk,
2002a)
Phó từ
(Nguyễn Khắc Phi
và nnk, 2011b)
Bảng 3. Nội hàm ngoại diên của thuật ngữ phó từ trong chương trình 2018 so với chương trình
2006
Cùng tên gọi của thuật ngữ trợ từ (Nguyễn Thị Hồng Nam nnk, 2023), chương trình 2018
dùng để biểu thị nội hàm của thuật ngữ trợ từ (Nguyễn Khắc Phi nnk, 2013) tình thái từ
(Nguyễn Khắc Phi và nnk, 2013) trong chương trình 2006 (xem bảng 4).
Chương trình 2018
Chương trình
2006
Trợ từ
(Nguyễn Thị Hồng
Nam và nnk, 2023)
Trợ từ
(Nguyễn Khắc Phi
và nnk, 2013)
Trợ từ
(Nguyễn Thị Hồng
Nam và nnk, 2023)
Tình thái từ
(Nguyễn Khắc Phi
và nnk, 2013)
Bảng 4. Nội hàm ngoại diên của thuật ngữ đại từ trong chương trình 2018 so với chương trình
2006
Thứ ba, nếu như trong ch 2006, một số từ loại được dạy lại khái niệm từ đầu khi sang bậc học
cao hơn14 thì từ loại trong chương trình 2018 không được dạy lặp lại. Những thuật ngữ tính kế
thừa, liền mạch từ bậc tiểu học lên trung học cơ sở. Điều này bắt buộc giáo viên tiểu học và trung học
sở đều phải nắm được phân bố chương trình, kiến thức mới để triển khai bài giảng. Học sinh,
do đó, cũng không được xem nhẹ kiến thức cũ.
3.2. Sự tương đồng và khác biệt trong nội dung dạy học về từ loại giữa sách giáo khoa 2018
và giáo trình Ngữ pháp đào tạo giáo viên Ngữ văn
3.2.1. Sự tương đồng
Nhìn một cách tổng quát, từ loại trong chương trình 2018 có rất nhiều điểm tương đồng với từ
loại trong giáo trình Ngpháp tiếng Việt của Diệp Quang Ban (từ đây gọi tắt giáo trình NPTV).
Đây giáo trình dạy ngữ pháp tiếng Việt được thẩm định làm giáo trình đại học được nhiều trường
đào tạo giáo viên chọn dùng. Cụ thể là, có sự tương đồng về tên gọi của thuật ngữ nội hàm trong
cách dùng các từ loại sau đây: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ, và kết từ. Như vậy, trong số 9
từ loại được dạy trong chương trình 2018, đến 2/3 từ loại trùng khít với nội hàm ngoại diên
được dạy trong giáo trình đào tạo giáo viên Ngữ văn. Sự thống nhất thuật ngữ này một thuận lợi
đáng kể đối với giáo viên Ngữ văn, nhất là giáo viên mới ra trường.
3.2.2. Sự khác biệt
Bên cạnh đó, có một vài điểm khác biệt cần lưu ý sau đây:
Một là, thuật ngữ phó từ (1) trong chương trình 2018 trùng khít với thuật ngữ phụ từ trong giáo
trình NPTV. Tuy nhiên, thuật ngữ phụ từ trong giáo trình NPTV lại bao gồm hai tiểu loại là định từ
phó từ (2). Như vậy, rất dễ có sự nhẫm lẫn thuật ngữ giữa phó từ (1) phó từ (2). Bảng 5tả
14 Danh từ, động từ, tính từ dạy ở lớp 4 và dạy lại ở lớp 6; quan hệ từ dạy ở lớp 5 và được dạy lại ở lớp 7
392
sự khác biệt giữa thuật ngữ phó từ (1) và (2). Đối với sự trùng tên gọi này, sinh viên ngành sư phạm
Ngữ văn cần phải thật chú ý trong bước tìm hiểu thực tế giảng dạy, thâm nhập sách giáo khoa để
không bị nhầm lẫn.
Nội hàm mô phỏng và ngoại diên
Chương trình 2018
Giáo trình NPTV
Những từ chuyên đi kèm danh từ để bsung ý nghĩa
cho danh từ (ví dụ: c, những, mấy, mỗi, từng)
Phó từ
(Nguyễn Thị Hồng Nam và
nnk, 2002a)
Định từ
(Diệp Quang Ban, 2008)
Những từ chuyên đi kèm động từ, tính từ để bổ sung ý
nghĩa cho động từ, tính từ (ví dụ: đã, đang, vẫn, còn, cứ,
hãy, đừng)
Phó từ
(Nguyễn Thị Hồng Nam và
nnk, 2002a)
Phó từ
(Diệp Quang Ban, 2008)
Bảng 5. Nội hàm ngoại diên của thuật ngữ phó từ trong chương trình 2018 so với giáo trình NPTV
Hai là, thuật ngữ trợ từ (1) trong chương trình 2018 trùng khít với thuật ngữ tiểu từ trong giáo
trình NPTV. Tuy nhiên, thuật ngữ tiểu từ trong giáo trình NPTV lại bao gồm hai tiểu loại là trợ từ (2)
nh thái từ. Như vậy, rất dễ có sự nhẫm lẫn thuật ngữ giữa trợ từ (1) trợ từ (2). Bảng 6 tả
sự khác biệt giữa thuật ngữ trợ từ (1) và (2).
Nội hàm mô phỏng và ngoại diên
Chương trình
2018
Giáo trình NPTV
Biểu thị ý nghĩa tình thái, bằng cách nhấn mạnh vào từ, kết hợp từ,… có nội
dung phản ánh liên quan với thực tại mà người nói muốn lưu ý người nghe
(ví dụ: ngay, đúng là, chính, đích, chỉ,…)
Trợ từ
(Nguyễn Thị
Hồng Nam nnk,
2023)
Trợ từ
(Diệp Quang Ban,
2008)
Tiểu từ chuyên dùng biểu thị ý nghĩa tình thái trong quan hệ của chủ thể
phát ngôn với người nghe hay với nội dung phản ánh; hoặc ý nghĩa tình thái
gắn với mục đích phát ngôn (ví dụ: à, ư, chứ, chăng, nhé, thôi, nào, cơ,…)
Trợ từ
(Nguyễn Thị
Hồng Nam nnk,
2023)
Tình thái từ
(Diệp Quang Ban,
2008)
Bảng 6. Nội hàm và ngoại diên của thuật ngữ trợ t trong chương trình 2018 so với giáo trình NPTV
Ba là, thuật ngữ thán từ trong chương trình 2018 được gọi là tình thái từ (tiểu loại “tình thái từ
dùng để gọi đáp”), ví dụ như ạ, à, ơi, dạ, ừ, vâng,…
4. KẾT LUẬN
Như vậy, qua các bước khảo sát, so sánh trên, chúng ta thể thấy những điểm mới của nội
dung dạy học từ loại trong chương trình 2018. So với chương trình 2006, cần lưu ý các từ loại kết từ,
phó từđại từ. So với giáo trình NPTV, một số điểm khác biệt cần lưu ý là thuật ngữ phó từ, trợ t
thán từ.
Chúng ta luôn nhận thấy rằng việc thống nhất thuật ngữ nội hàm trong từng chương trình
đóng vai trò quan trọng trong quá trình dạy học. Mặc chương trình mới đã rất công trong
việc đặt tên định nghĩa các thuật ngữ nhưng nếu giáo viên không u ý càng, rất thể sẽ sử
dụng thuật ngữ theo kinh nghiệm cũ. Sự nhầm lẫn khi chuyển đổi giữa hai chương trình có thể là một
rào cản đối với quá trình tiếp nhận của học sinh. Chúng tôi khuyến nghị giáo viên Ngữ văn cần cân
nhắc, bám sát sách giáo khoa của chương trình 2018 để sử dụng thuật ngữ thống nhất.
Chương trình 2018 đã sử dụng nhiều thuật ngữ và nội hàm tương tự như giáo trình NPTV. Sự
đồng nhất này giúp giáo viên tiếp cận và triển khai bài giảng một cách nhất quán dễ dàng hơn, đặc
biệt là đối với những giáo viên mới.
Riêng đối với những thuật ngữ vỏ ngữ âm nhưng nội hàm mới, chúng tôi khuyến nghị
giáo viên thật cẩn thận. Sự nhầm lẫn trong việc hiểu và sử dụng các thuật ngữ này có thể gây ra hiểu
lầm trong quá trình giảng dạy học tập, nhất là đối với sinh viên ngành sư phạm Ngữ văn. Việc nắm
vững nội dung dạy học về từ loại trong hai chương trình 2018, 2006 trong giáo trình NPTV là một
việc làm cần thiết để phát triển năng lực giảng dạy tiếng Việt một cách hiệu quả và đáng tin cậy hơn./.