
Điều gì khiến bạn sợ nhất khi
phân tích tác phẩm ''Vợ Nhặt'

"Cái đói" là nỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và mọi thời đại. Cho nên đó là
một đề tài cũng thuộc về bản chất của đời sống. Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh
tối tăm và bất lực của con người trước nó. Con người phạm tội và làm đủ chuyện dại dột
khác chỉ vì đói. Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào
đi nữa vẫn luôn luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào
cuộc sống tương lai. Cái "mơ hồ" ấy là do cuộc sống thực tại luôn hành hạ họ."...Thưa
nhà văn, dịch đói năm 1944 -1945 đã cướp đi rất nhiều sinh mạng của đồng bào ta. Ở các
vùng nông thôn Bắc Bộ, hầu như gia đình nào cũng có người chết đói, anh em, vợ chồng,
cha mẹ, con cái ly tán khắp nơi. Sự sống của mỗi người bị cái đói đe dọa từng ngày.
Trong bối cảnh xã hội đó, truyện Vợ nhặt lại được viết ra thì thật lạ. Một cuộc sống vợ
chồng, một nguồn sống cho một mầm sống tương lai tại sao lại được bắt đầu ảm đạm và
phấp phỏng như thế?
Nhà văn Kim Lân: Dịch đói dạo đó thật khủng khiếp. Nhiều gia đình vừa có người chết
đói, vừa có người bỏ đi, dần dần mất hẳn. Tôi tận mắt chứng kiến người chết đói nằm rải
rác ở khắp nơi. Khi con người vị đẩy đến bờ vực cuối cùng của cuộc sống thì toàn bộ số
phận và tính cách con người họ sẽ biểu lộ ra. Chết đói là một thực tế khốc liệt. Đó là cái
chết từ từ, hao mòn dần, quằn quại dần. Tôi được biết nhiều chuyện qua những năm
tháng đó. Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được sức sống đơn sơ của tâm
hồn họ. Có những người đói ngày ngày bới rác tìm một mẩu thức ăn thừa, buổi tối họ lại
về nằm cạnh nhau bàn tán về chuyện làng quê, chuyện mùa màng. Có người giữ nề nếp
rất nghiêm dù đói khát, con cái đi xin mang phần về cho, ông ta vẫn áo the, đội khăn xếp
ngồi giữa nhà để ăn. Có người đói xô vào cướp cám để ăn, bị đánh cũng chịu không đánh
lại, họ biết rằng chuyện cướp cám của họ là sai nhưng họ vẫn phải làm vì đói. Nói tóm
lại, bi kịch sống của mọi người vào thời điểm đó hầu như giống nhau: Đói. Nó vừa cay
đắng, vừa đớn đau, đồng thời một mặt nào đó nó lại lóe lên những tia sáng về đạo đức,
danh dự.
Truyện Vợ nhặt khai thác khía cạnh sau cùng của cái bi kịch ấy.

Cái đói là đề tài của rất nhiều nhà văn. Cái đói trong Vợ nhặt có khác gì những cái đói
khác mà các nhà văn thường mô tả?
Nhà văn Kim Lân: "Cái đói" là nỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và mọi thời
đại. Cho nên đó là một đề tài cũng thuộc về bản chất của đời sống. Các nhà văn viết về
cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó. Con người phạm tội và làm
đủ chuyện dại dột khác chỉ vì đói. Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những
người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một
cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái "mơ hồ" ấy là do cuộc sống thực tại luôn hành
hạ họ.
Truyện ngắn Vợ nhặt được viết từ một tình huống có thật trong cuộc sống?Nhà văn Kim
Lân: Ban đầu tôi viết một truyện dài có tên là Xóm ngụ cư. Tôi viết đến chương thứ V thì
dừng lại. Sau khi hòa bình lập lại, tôi và Nguyên Hồng làm tờ báo Văn. Trong bản thảo
Xóm ngụ cư có một đoạn luôn ám ảnh tôi là đoạn viết về những người đói, về những buổi
sáng ở vùng quê người ta phải ra chợ nhặt xác người đi chôn. Tôi viết lại chương đó
thành truyện ngắn Vợ nhặt mà không đọc lại bản thảo cũ. Chuyện Vợ nhặt hoàn toàn
không có thực mà do tôi sáng tạo ra. Không thể có một bà mẹ như thế, một cô con dâu
như thế trong đời sống thực. Tôi muốn phân tích tâm trạng và thân phận của con người
trong cái hoàn cảnh cùng đường ấy, nơi cuộc sống dường như không còn lối thoát. Tôi
muốn hướng họ vào sự sống, sự thương yêu nhau, không phải là sự giành giật nhau. Hoàn
cảnh đặc biệt quá nên câu chuyện là lạ đó lại được hiện ra với vẻ chân thật. Vợ nhặt được
rút ra từ tạp Con chó xấu xí, sau khi in ở tờ tuần báo Văn. Bối cảnh của truyện là khi cái
đói hoành hành khắp nơi. Nhưng các nhân vật của truyện thì đứng ở ngưỡng cửa của cái
đói. Nơi ngưỡng cửa khốn khổ đó, họ sẽ chứng tỏ số phận và tính cách của mình, đồng
thời ở nơi đó họ sẽ bắt đầu một niềm tin mới, một niềm hạnh phúc mới, dù là rất mong
manh.
Dân ngụ cư là dân đi ở đợ, không phải dân gốc nên thiệt thòi đủ thứ. Mở đầu truyện là
mẩu hồi ức "Trước kia mỗi chiều" có vẻ yên ả nhưng cái hồi ức này quá ngắn, trôi qua

quá nhanh. Hiện tại là cảnh đói khát ủ rũ, cảnh những người ăn xin "xanh xám như bóng
ma", cảnh thây người chết "nằm cong queo bên đường". Vậy mà buổi chiều anh Tràng trở
về với một vẻ mặt có "vẻ gì phởn phơ khác thường", một nụ cười tủm tỉm và "hai mắt thì
sáng lên lấp lánh", bên cạnh lại có người đàn bà rón rén e thẹn. Đấy là một sự kiện quá ư
lạ lùng giữa lúc người ta chỉ nghĩ đến sự sống - chết. Tràng khi đó có ý thức được việc
mình làm?
Nhà văn Kim Lân: Tràng là anh chàng kéo xe bò thuê, công việc bấp bênh. Trong thời
buổi bấy giờ, hẳn Tràng chẳng dám nghĩ đến chuyện lấy vợ, vì thủ tục cưới cheo hồi đó
rườm rà, tốn kém lắm. Vậy mà tự dưng anh chàng lại "nhặt" được vợ. Sự kiện nhặt vợ
quá buồn cười. Chỉ là một câu đùa, ai cũng biết là đùa, vậy mà cô kia cũng theo. Điều đó
chứng tỏ cô ta cùng đường và sẵn sàng xông vào, bấu víu vào bất cứ cái gì có thể bấu víu
được. Còn Tràng, tại sao lại dẫn cô ta về? Vì Tràng là một người nông cạn, không biết
tính toán như người khác, cũng không ý thức được về hoàn cảnh của mình. Anh ta chỉ
chậc lưỡi, theo đúng cách của một người hay "ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch". Đến lúc
về tới xóm, trước ánh mắt, thái độ của dân xóm, Tràng mới kịp nhận ra sự thay đổi trong
cuộc sống của mình. Anh ta chỉ cảm nhận sự thay đổi, còn ý nghĩa của nó như thế nào thì
anh ta chưa thể hiểu.
Nhưng nhân vật thứ hai, người đàn bà thì hẳn hiểu hoàn cảnh của mình?
Nhà văn Kim Lân: Thị đã ở bờ vực. Số phận thị đã rõ ràng và thị hiểu được điều ấy. Cho
nên thị đi bên Tràng mà đầu cúi xuống, chiếc nón rách "nghiêng nghiêng che khuất đi
nửa mặt". Thị mặc cảm, gần như nỗi mặc cảm của người nhận lời bán mình trước sự
chứng kiến của nhiều người khác. Chính thế nên khi đám trẻ con mới đùa một câu thị đã
tỏ vẻ khó chịu.
Tại sao việc Tràng và người đàn bà ngang qua xóm ngụ cư lại khiến cho những "khuôn
mặt hốc hác u tối" từ những hiên nhà xác xơ đột nhiên "rạng rỡ hẳn lên"? Sự xuất hiện
của Tràng và người vợ như thể thổi vào cuộc sống tăm tối tuyệt vọng của họ một luồng
sinh khí tươi mát?

Nhà văn Kim Lân: Trước kia, chiều nào Tràng cũng đi về qua xóm, nhưng hình ảnh đơn
độc của Tràng không gây ra bất kỳ một xao động nào trong đời sống của cái xóm ngụ cư
tồi tàn ấy. Sự biến đổi chốc lát như thế phụ thuộc vào hình ảnh người đàn bà bên Tràng.
Mọi người bàn tán và cũng đôi phần đoán ra được câu chuyện của Tràng. Họ đoán được
bằng chính hoàn cảnh của họ. Việc lấy vợ lấy chồng luôn là một niềm vui và quan trọng,
nó chuẩn bị cho một cuộc sống khác, cuộc sống tương lai của đứa con. Nhìn Tràng và
người đàn bà, bất chợt họ cũng mơ hồ nghĩ đến tương lai của chính họ. Tràng đã khiến họ
tin vào cuộc sống thêm một chút. Nếu họ ý thức được niềm vui của mình trong giấy lát
đó, họ sẽ nghĩ rằng "Đó, anh ta không những còn sống mà còn nuôi thêm được một người
nữa trong hoàn cảnh này". Nhưng niềm vui trôi qua rất nhanh. Một tiếng "ôi chao" và lời
than thở đưa họ về thực tại cuộc sống đói khát, cùng quẫn, "họ nín lặng".
Chuyện Tràng "nhặt" vợ là một sự lạ, nhưng mọi người như thể thừa nhận điều đó một
cách dễ dàng?
Nhà văn Kim Lân: Sự kiện đó chỉ gây ra sự tò mò một chút ban đầu thôi. Do hoàn cảnh
khắc nghiệt của đời sống, mọi người không còn đủ sức để nhận ra điều đó là ngược đời.
Và nó còn được dùng như một cái thước đo vô hình, kiểm lại cuộc sống hiện tại của họ.
Nhưng câu chuyện của Tràng nhanh chóng không còn được bàn tán nữa khi họ "cùng nín
lặng" hiểu ra số phận khắc nghiệt đang treo lơ lửng trên đầu họ.
Khi người ta nhìn vào, bàn tán về mình, Tràng biết thế và lấy làm "thích ý" lắm, và hắn
vênh vênh "tự đắc với mình". Có lẽ đến lúc này Tràng mới hiểu rằng hành động của mình
pha chút "anh hùng", "kiêu bạc" trong cuộc sống khó khăn hiện tại. Nhưng khi đi hết xóm
ngụ cư thì Tràng lại đâm ra lo sợ, Tràng sợ vì nuôi mình không đủ lại phải "đèo bòng"
thêm một người nữa ư?
Nhà văn Kim Lân: Tràng không có nỗi sợ đó. Nỗi sợ của Tràng là nỗi sợ phải "một
mình" đối diện với người đàn bà. Khi đi từ chợ tỉnh về, ngang qua xóm ngụ cư, những
ánh mắt, tiếng cười của người khác đã làm cho Tràng bớt cảm thấy sự có mặt của người
đàn bà. Nhưng khi còn hai người ở "con đường sâu thăm thẳm" vắng vẻ thì rõ ràng người