
vietnam medical journal n02 - MAY - 2019
72
protein niệu chủ yếu 1 đến 2 lần cho kết quả
dương tính, ngay cả những BN còn protein niệu
sau 8 tuần theo dõi thì tần suất nhiều nhất là 4/8
lần (bảng 3.3). Theo dõi bệnh nhân trong thời
gian 8 tuần sau ghép, lần cuối cùng xuất hiện
protein niệu được coi là thời gian tồn tại của
protein niệu, kết quả cho thấy tỉ lệ Bn còn
protein niệu theo thời gian sau ghép giảm dần,
lần lượt là: 9,4%; 8,8%; 7,7%; 5,5%; 3,9%;
1,7%; 3,3%; 2,8%. Thời gian trung bình còn
protein niệu sau ghép là 1,5 ± 2,2 tuần, sự khác
biệt không có ý nghĩa giữa nhóm vô niệu và
nhóm bảo tồn nước tiểu. Kết quả nghiên cứu của
D’Cunha P.T (2005) ở nhóm 14 ghép thận từ
người cho sống cho thấy protein niệu giảm
nhanh chóng sau ghép, thời gian trung bình còn
protein niệu là 4,5 tuần [1], dài hơn so với kết
quả nghiên cứu của chúng tôi, khác biệt này có
thể là do phương pháp xét nghiệm định lượng
tuyệt đối của tác giả so với phương pháp bán
định lượng tiện dụng được sử dụng trong nghiên
cứu của chúng tôi. Như vậy protein niệu sau
ghép ở những bệnh nhân hồi phục chức năng
thận tốt chỉ xuất hiện thoáng qua, không thường
xuyên, lượng protein niệu mức thấp, điều này có
thể gián tiếp lý giải protein niệu của thận cũ đã
mất đi do thận cũ không còn thực hiện chức
năng còn bảo tồn dù ở mức thấp, đây cũng là
đặc điểm của hồi phục tổn thương ống thận sau
tái tưới máu sau ghép.
V. KẾT LUẬN
Ở bệnh nhân sau ghép thận từ người cho sống
protein niệu xuất hiện với tỷ lệ thấp và giảm dần
trong 8 tuần đầu, mức protein niệu ≤ 100mg/dl là
chủ yếu, xuất hiện không thường xuyên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. D’Cunha P.T, Parasuraman R and Venkat K.K
(2005). Rapid Resolution of Proteinuria of Native
Kidney Origin Following Live Donor Renal
Transplantation, American Journal of
Transplantation, Vol5, pp 351–355.
2. Akbari A, Knoll G.A, Weir M.R (2014). Post-
transplant Proteinuria: Differential Diagnisis and
management, Kidney Transplantation: Practical
Guide to management, pp 335-340. Springer,
International Edition, New York.
3. Amer H, Fidler M.E et al (2007). Proteinuria
after kidney transplantation, relationship to
allograft histology and survival. American Journal
of Transplant, 7: 2748–2756.
4. Roodnal J.I, Mulder P.G et al (2001).
Proteinuria after renal transplantation affects not
only graft survival but also patient survival.
Transplantation, 15; 72(3): 438-44.
5. First M.R, Peddy V.R (1984). Proteinuria
following transplantation, correlation with
histopathology and outcomes. Transplantation
Proceedings, Vol 29, Issues 1-2: 101–103.
6. Ibis A, Altunoglu A (2007). Early onset
proteinuria after renal transplantation: a marker for
allograft dysfunction. Transplant Proceedings, Vol
39, Issue 4: 938–940.
7. Knoll G.A (2009). Proteinuria in kidney transplant
recipients: prevalence, prognosis and evidence –
based management. American journal of kidney
diseases, Dec; 54(6):1131-44.
ĐIỀU TRỊ BẮC CẦU VÀ CAN THIỆP LẤY HUYẾT KHỐI ĐƠN THUẦN
Ở BỆNH NHÂN NHỒI MÁU NÃO CẤP DO TẮC MẠCH MÁU LỚN:
MỘT NGHIÊN CỨU ĐOÀN HỆ TIẾN CỨU
Nguyễn Huy Thắng*
TÓM TẮT20
Mở đầu: Vẫn còn bàn cãi liệu điều trị tiêu sợi
huyết đường tĩnh mạch trước can thiệp lấy huyết khối
bằng dụng cụ có tốt hơn can thiệp lấy huyết khối bằng
dụng cụ đơn thuần ở những bệnh nhân nhồi máu não
cấp do tắc mạch máu lớn. Mục tiêu: So sánh tỉ lệ độc
lập chức năng (mRS 0-2), tỉ lệ tái thông mạch máu,
nhồi máu não chuyển dạng xuất huyết, tử vong ở
bệnh nhân được điều trị bắc cầu và can thiệp lấy
*
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Huy Thắng
Email:
Ngày nhận bài:
Ngày phản biện khoa học:
Ngày duyệt bài:
huyết khối đơn thuần. Đối tượng – Phương pháp
nghiên cứu: Từ tháng 09/2017 đến tháng 07/2018,
những bệnh nhân nhồi máu não do tắc mạch máu lớn
ở tuần hoàn trước được chỉ định can thiệp lấy huyết
khối bằng dụng cụ có hoặc không có điều trị tiêu sợi
huyết đường tĩnh mạch trước đó được thu nhận vào
nghiên cứu. Điểm mRS 0-2 được xem là kết cục độc
lập về chức năng tại thời điểm theo dõi sau 90 ngày.
Tái thông thành công được định nghĩa theo thang
điểm TICI từ 2b-3. Kết quả: Trong tổng số 124 bệnh
nhân được thu nhận, 56 bệnh nhân (45,2%) được
điều trị liệu pháp bắc cầu, 68 bệnh nhân (54,8%)
được điều trị can thiệp lấy huyết khối bằng dụng cụ
đơn thuần. Sự khác biệt không có ý nghĩa về thời gian
khởi phát-chọc động mạch đùi (trung vị, 270 và 371
phút; p=0,09), ASPECTs (trung vị, 9 và 10; p=0,69), tỉ
lệ tuần hoàn bàng hệ tốt (87,5% và 77,9%; p=0,16).