Điều trị bệnh nhân mắc COPD

Mục tiêu điều trị đối với COPD là cải thiện chất lượng sống bằng cách

phòng ngừa các triệu chứng và cơn nặng của bệnh, do đó bảo toàn chức

năng tối ưu của phổi. Nếu bị chẩn đoán là COPD, bạn nên tìm hiểu kỹ về

bệnh của mình và tham gia tích cực vào chương trình điều trị.

Điều trị tại nhà

Ngừng hút thuốc là việc quan trọng nhất bạn có thể làm để cải thiện

tình hình. Hầu hết những bệnh nhân bị COPD đang hút thuốc hoặc đã từng

hút thuốc trước đây. Kế hoạch ngừng hút thuốc là một phần cơ bản trong

toàn bộ kế hoạch điều trị. Tuy nhiên, tỷ lệ bỏ thuốc thành công vẫn thấp do

những nguyên nhân sau:

- Sức gây nghiện của nicotine.

- Đáp ứng của cơ thể với những tác nhân kích thích liên quan đến khói

thuốc.

- Vấn đề tâm lý, bao gồm stress, trình độ văn hóa thấp, và những

chiến dịch phát triển mạnh mẽ của nền công nghiệp thuốc lá.

Quá trình chuyển từ hút thuốc sang không hút thuốc gồm 5 giai đoạn:

- Trước khi suy tính

- Suy tính

- Chuẩn bị

- Hành động

- Duy trì

Tiến trình bỏ thuốc có thể có sự can thiệp của nhiều phía, bao gồm:

- Bản thân

- Nhóm

- Bác sĩ

- Nơi làm việc

- Các chương trình cộng đồng.

Một chương trình bỏ thuốc thành công thường dùng các nguồn trợ lực

sau:

- Giáo dục sức khỏe

- Theo dõi

- Phòng tái phát

- Những lời khuyên về thay đổi lối sống

- Chương trình hỗ trợ của xã hội

- Điều trị phụ thêm (chẳng hạn như uống thuốc)

Điều trị tại bệnh viện

Ba mục tiêu chính của việc điều trị COPD là:

- Giảm giới hạn thông khí

- Phòng ngừa và điều trị những biến chứng (như giảm oxy máu, nhiễm

trùng).

- Giảm triệu chứng hô hấp và cải thiện chất lượng sống.

Những cơn cấp của COPD là một trong những nguyên nhân chính

khiến bệnh nhân phải nhập viện tại Hoa Kỳ.

Bạn có thể phải cần nhập viện nếu bị suy chức năng hô hấp nặng, nếu

bệnh tiến triển, hoặc nếu bạn có một bệnh về hô hấp nghiêm trọng khác (như

viêm phổi, viêm phế quản cấp). Mục tiêu nhập viện là để điều trị triệu chứng

và ngăn ngừa diễn tiến xấu hơn).

Có thể bạn sẽ phải vào phòng săn sóc tích cực (ICU - Intensive care

unit) nếu cần phải thở máy xâm lấn hoặc không xâm lấn hoặc nếu có những

triệu chứng sau:

- Lú lẫn

- Lơ mơ

- Mỏi cơ hô hấp

- Thiếu oxy máu nặng

- Toan hô hấp (tình trạng tích trữ CO2 trong máu)

Thuốc điều trị

Các bác sĩ có thể cho rằng bạn cần phải dùng thuốc để giảm bớt các

triệu chứng.

- Cai thuốc lá bằng liệu pháp thay thế nicotine

Dùng thuốc có theo dõi chặt là phần bổ sung quan trọng trong kế

hoạch cai thuốc.

Nicotine là một thành phần trong thuốc lá là tác nhân chính gây

nghiện. Không sử dụng nicotine nữa sẽ gây cho bạn những tác dụng phụ khó

chịu như: bứt rứt, kích thích, khó tập trung, tức giận, mệt mỏi, lơ mơ, trầm

cảm, và dễ tỉnh giấc khi ngủ. Những hiện tượng này thường xảy ra vào vài

tuần đầu sau khi bỏ thuốc.

Liệu pháp thay thế nicotine giảm những triệu chứng cai nghiện trên.

Nếu bạn cần phải hút thuốc trong vòng 30 phút sau khi tỉnh dậy, có nhiều

khả năng là bạn bị nghiện nặng và sẽ cảm thấy khá hơn khi dùng liệu pháp

này.

Nicotine polacrilex là kẹo chewing gum. Có 2 loại là 2mg và 4mg.

Nếu bạn hút 1 gói/ngày, bạn nên dùng loại 4mg. Nếu bạn hút ít hơn 1

gói/ngày, bạn nên dùng loại 2mg. Nên nhai mỗi giờ và cũng nên nhai mỗi

khi cảm thấy muốn hút thuốc trong vòng 2 tuần đầu. Bạn có thể sẽ giảm dần

lượng kẹo sau 3 tháng kế tiếp.

Miếng dán nicotine cũng có thể được sử dụng. Tác dụng phụ thường

gặp nhất là da bị kích thích nhẹ ở vùng dán. Miếng dán này được bán dưới

nhiều tên thương mại khác nhau như: Nicoderm, Nicotrol, và Habitrol. Mỗi

loại được thiết kế để giảm nicotine sau 6 - 10 tuần.

Dùng thuốc chống trầm cảm bupropion (Zyban) cũng có hiệu quả. Nó

là thuốc không chứa nicotine giúp bỏ thuốc. Bupropion cũng có hiệu quả đối

với những người không có khả năng bỏ thuốc bằng liệu pháp nicotine thay

thế.

- Corticoid hít

Một số người bị COPD đáp ứng tốt với corticoid đường uống có thể

duy trì trong thời gian dài với corticoid hít.

Việc sử dụng loại thuốc này rất phổ biến mặc dù bằng chứng về hiệu

quả của nó đối với COPD cũng rất ít. Corticoid không làm chậm lại quá

trình suy giảm chức năng phổi. Tuy nhiên, chúng làm giảm tần số xuất hiện

cơn và cải thiện tính chất bệnh cùng với chất lượng sống ở một số bệnh nhân

COPD.

Corticoid dạng hít có ít tác dụng phụ hơn dạng uống, nhưng chúng

cho hiệu quả thấp hơn, ngay cả khi được sử dụng với liều cao.

- Thuốc đồng vận Beta 2 - thuốc giãn phế quản

Thuốc giãn phế quản đồng vận beta 2 dạng hít có tác dụng làm giãn

và thông đường thở. Chúng có tác dụng nhanh, thường là trong vài phút.

Thuốc đồng vận beta 2 được dùng chủ yếu để giảm triệu chứng của

COPD. Đồng vận beta 2 dạng hít là cách điều trị lựa chọn cho cơn COPD

cấp.

Có 2 loại đồng vận beta 2 tác dụng kéo dài (formoterol, salmeterol)

được sử dụng. Chúng có thể có ích nếu như bạn thường dùng loại tác dụng

ngắn hoặc bạn thấy xuất hiện triệu chứng vào ban đêm.

- Thuốc ức chế đối giao cảm - giãn phế quản

Duy trì điều trị bằng thuốc kháng đối giao cảm dạng xịt (ipratropium

bromide) có thể sẽ hiệu quả hơn đồng vận beta 2 đối với những bệnh nhân

COPD, đặc biệt trong việc giảm thở hụt hơi.

Ipratropium bromide làm thông đường thở nhưng có ít tác dụng phụ.

Nó được cho dưới dạng bình xịt có định liều, khoảng 2 - 4 nhát, 4 lần

mỗi ngày. Có thể cho thêm đồng vận beta 2 nếu cần thiết.

Mặc dù nó cho tác dụng chậm hơn đồng vận beta 2 dạng hít (khoảng

30 - 60 phút), nhưng tác dụng của nó lại kéo dài hơn. Do đó nó không thích

hợp để dùng với mục đích khẩn cấp.

Những người bị cơn COPD cấp đáp ứng tốt với đồng vận beta 2 dạng

hít và kháng đối giao cảm dạng xịt. Việc điều trị thường là bắt đầu với việc

cho đồng vận beta 2 dạng hít qua máy xông. Cho thuốc dạng này cũng làm

giảm tác dụng phụ. Ipratropium bromide dạng xịt cũng thường có thể được

thêm vào.

- Thuốc dãn phế quản tác dụng kéo dài

Methylxanthine, chẳng hạn như theophylline, là một nhóm thuốc có

liên quan đến caffein. Chúng tác động trên bệnh COPD bằng cách làm thông

đường thở. Ngoài ra, methylxanthine làm giảm viêm, cải thiện chức năng cơ

hô hấp, kích thích trung tâm hô hấp của não.

Thêm theophyline vào nhóm thuốc dãn phế quản có thể có ích mặc dù

đáp ứng với theophyline khác nhau tùy theo mỗi bệnh nhân. Tuy nhiên

người ta ngày càng ít sử dụng chúng trong thập kỷ vừa qua do nguy cơ xảy

ra những tác dụng phụ không mong muốn. Những tác dụng phụ bao gồm:

bứt rứt, run giật, buồn ngủ, nôn ói, loạn nhịp tim và đột quỵ.

- Corticoid dạng uống

Corticoid được dùng với những người không cải thiện sau khi đã dìmh

các loại thuốc khác hoặc những người đang lên cơn cấp tính.

Corticoid dạng uống được dùng điều trị thành công ở những người bị

cơn cấp tính. Chúng cải thiện triệu chứng và chức năng của phổi trong

những trường hợp này. Corticoid dạng uống thường không được khuyến

khích dùng trong thời gian dài do những phản ứng phụ của chúng.

- Kháng sinh

Những bệnh nhân COPD thường hay bị nhiễm trùng đường hô hấp

dưới, mục đích của kháng sinh không phải là để ngăn chặn vi trùng mà là

điều trị những cơn cấp.

Điều trị bằng kháng sinh có lợi cho những người bị cơn cấp với ít nhất

2 trong số những triệu chứng sau (tiêu chuẩn Winnipeg): thở hụt hơi tăng

nhiều, tăng sản xuất đàm, tăng xuất tiết đàm.

Loại thuốc được lựa chọn đầu tiên bao gồm amoxicillin, cefaclor,

hoặc trimethoprim/sulfamethoxazole. Thứ hai là azithromycin,

clarithromycin, và fluoroquinolone.

- Thuốc loãng đàm

Thuốc làm loãng đàm không chỉ làm giảm độ đặc của đàm mà còn

tăng độ thanh thải của nó nữa.

- Thở Oxy

COPD thường đi kèm với thiếu oxy máu.

Trong nhiều trường hợp, triệu chứng thiếu oxy máu không xuất hiện

lúc bệnh nhân nghỉ ngơi mà là vào lúc họ gắng sức. Ngay cả khi những

nghiên cứu xác định ích lợi lâu dài của việc thở oxy đơn độc đối với các hoạt

động thể lực vẫn chưa được tiến hành thì việc cho thở oxy tại nhà vẫn

thường được các bác sĩ khuyên dùng đối với những người bị giảm oxy máu

khi gắng sức. Thở oxy khi gắng sức có thể giúp làm tăng áp lực động mạch

phổi, giảm triệu chứng thở hụt hơi và tăng khả năng vận động.

Việc thở oxy đối với những bệnh nhân COPD cũng có thể cần thiết

trong khi đi máy bay do áp suất trong cabin máy bay thấp. Bạn có thể chuẩn

bị cho chuyến bay bằng cách thở oxy trước khi khởi hành.

Những bệnh nhân COPD bị thức dậy giữa chừng bởi những triệu

chứng của nó cũng có thể cần phải thở oxy.

Thở oxy thường thì an toàn. Người ta đã nhận biết được độc tính của

oxy liều cao, nhưng vẫn tìm thấy rất ít những tác hại lâu dài của thở oxy liều

thấp. Do việc thở oxy lâu dài làm giảm tỷ lệ tử vong với những người bị

COPD nặng, tăng khả năng sống còn và chất lượng sống đã lấn át những

nguy cơ có thể xảy ra.

Mối nguy hiểm lớn nhất của liệu pháp này là cháy và nổ. Những bệnh

nhân COPD, gia đình, và người chăm sóc không nên hút thuốc khi máy thở

oxy đang được sử dụng. Tuy nhiên, xét trên tổng thể thì những tai nạn lớn

thường hiếm gặp và có thể tránh nếu được huấn luyện kỹ càng.

Phẫu thuật

Trong vòng 50-75 năm gần đây, nhiều phương pháp phẫu thuật đã

được thử để cải thiện triệu chứng và phục hồi chức năng của phổi ở những

người bị khí phế thủng nhưng chỉ có mổ cắt bóng khí và có thể là phẫu thuật

làm giảm thể tích phổi được chứng minh là có hiệu quả.

- Mổ cắt bóng khí

Là phẫu thuật cắt những bóng khí lớn ở phổi do khí phế thủng nằm ở

phần ngoại vi của phổi. Phẫu thuật này được xem là phẫu thuật tiêu chuẩn

trong nhiều năm. Bóng khí ở những bệnh nhân bị khí phế thủng thường có

kích thước thay đổi từ 1 - 4 cm đườn kính, tuy nhiên, bóng khí có thể chiếm

hơn 33% nửa ngực.

Các bóng khí có thể chèn ép những nhu mô phổi gần kề, giảm lượng

máu đến và giảm thông khí cho những mô khỏe mạnh. Loại bỏ những bóng

khí này sẽ giúp phần phổi bị chèn ép nở ra và chức năng được cải thiện.

- Phẫu thuật cắt phổi

Lần đầu tiên được thực hiện cách đây gần 40 năm.

Thông thường, phẫu thuật viên sẽ lấy đi 20-30% từ phần trên của mỗi

phổi, là khu vực thường bị thương tổn nhiều nhất do khói thuốc. Người ta lý

giải rằng việc lấy đi phần phổi bị bệnh sẽ làm tăng đường kính đường dẫn

khí ở những phần phổi còn lại và do đó sẽ cải thiện chức năng phổi và thông

khí, do đó, sẽ làm giảm triệu chứng.

Thủ thuật này có tỷ lệ tử vong từ 0 - 8% và một số biến chứng.

Tiêu chuẩn để xác định những ai nên phẫu thuật gần đây đã được công

bố. Nói chung, tất cả những người nên phẫu thuật là những người có những

triệu chứng của khí phế thủng nặng, phì đại đường thở và bóng khí do khí

phế thủng một cách nhanh chóng, và bằng chứng của khí phế thủng trên

HRCT.

Một nghiên cứu tiền cứu đa trung tâm lớn vừa mới được hoàn thành

cho thất những bệnh nhân bị bệnh phổi ở thùy trên và dung nạp kém với vận

động thể lực có thể được hưởng lợi từ phương pháp này.

- Ghép phổi

Ghép phổi là cách điều trị tương đối mới đối với những bệnh nhân bị

bệnh phổi nặng.

Những người bị COPD nằm trong nhóm lớn nhất những người được

ghép. Thời gian ghép rất khó xác định, nhưng những người được lựa chọn để

ghép là những người chỉ còn có thể sống được dưới 2 năm nữa do COPD

nếu không được ghép.