Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
ĐIỀU TRỊ LIỆT THẦN KINH MẶT NGOẠI BIÊN BẰNG PHẪU THUẬT<br />
NỐI CHÉO DÂY VII VÀ BÁN PHẦN DÂY XII<br />
Lê Hành*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Muc tiêu: Liệt thần kinh mặt ngoại biên gây ra những thương tổn trầm trọng cho bệnh nhân không những<br />
chỉ về thẩm mỹ, chức năng mà còn cả về tâm lý. Rất nhiều phương pháp phục hồi dây VII đã được dùng nhưng<br />
không có phương pháp nào toàn hảo. Nối dây thần kinh trực tiếp cho kết quả tốt nhất, nhưng chỉ thực hiện được<br />
trong trương hợp dây thần kinh VII chỉ bị gián đoạn. Ghép thần kinh thì tốt khi đoạn gần của dây VII còn hoạt<br />
động. Khi đoạn gần của dây VII không còn dùng được thì cách hữu hiệu nhất là nối chéo dây VII và với nguồn<br />
vận động từ dây XII. Nhiều tác giả đã sử dụng dây thần kinh hoành, V, XI để nối với dây VII, nhưng kết quả đạt<br />
được không tốt bằng dùng dây XII. Điểm bất lợi của kỹ thuật nối VII- XII kinh điển là một bên lưỡi bị liệt, sự<br />
vận động đồng thời của toàn bộ các cơ mặt và hiếm khi, tăng tính cường cơ của các cơ này. Kỹ thuật nối dây VII<br />
với bán phần dây XII có thể giúp tránh được di chứng liệt một bên lưỡi.<br />
Bệnh nhân và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng của nghiên cứu này là 11 bệnh nhân gồm 2 bị liệt<br />
VII sau mổ tai, 6 do chấn thương bởi tai nạn giao thông. Năm bệnh nhân được mổ nối dây VII-XII toàn phần, với<br />
thời gian theo dõi lần lượt là 8 năm, 5 năm và 3 năm. Sáu bệnh nhân được mổ nối VII- và bán phần XII có thời<br />
gian theo dõi trung bình là 2 - 3 năm. Sự hồi phục dây VII được đánh giá dựa trên độ cường cơ của cơ vùng mặt,<br />
biểu hiện bằng sự cân đối của khuôn mặt lúc nghỉ ngơi và khả năng vận động, diễn cảm, cải thiện các chức năng<br />
của vùng mặt.<br />
Kết quả: Tác giả đã thu được những kết quả đáng khích lệ về tính cường cơ, sự hồi phục của vận động mặt.<br />
Trong nhóm nối với bán phần dây XII, vân động lưỡi bên phía thần kinh cho gần như được bẩo tồn. Nối VII-XII<br />
hữu hiệu nhất khi được thực hiện càng sớm càng tốt, ngay sau thời gian chờ đợi sự hồi phục tự nhiên (thường<br />
không quá 6 tháng) để tránh tình trạng teo quá đáng các cơ mặt. Các kết quả về sự hồi phục của dây VII được<br />
đánh giá dựa trên thang điểm của House và Brackmann, được minh họa bằng hình chụp, vidéo và điện cơ ký. Bài<br />
báo cáo có phần lược khảo những y văn mới nhất, so sánh các phương pháp mổ, nêu kỹ thuật mổ và hướng<br />
nghiên cứu mới.<br />
Kết luận: Nối chéo thần kinh VI với bán phần dây thần kinh XII là một phương pháp khá hữu hiệu để điều<br />
trị liệt thần kinh VII ngoại biên khi nguồn dây VII không còn sử dụng được. Nối chéo với bán phần dây XII có thể<br />
tránh được di chứng liệt một bên lưỡi phía thần kinh cho.<br />
Từ khóa: Liệt VII ngoại biên, phẫu thuật phục hồi vận động mặt, nối cho dây thần kinh VII-XII, nối chéo<br />
dây VII và bán phần dây XII, sự hồi phục của dây thần kinh mặt, điện cơ ký, điện thần kinh ký.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
SURGICAL REHABILITATION OF FACIAL NERVE PARALYSIS USING PARTIAL HYPOGLOSSAL<br />
TO FACIAL NERVE CROSSOVER<br />
Le Hanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 – 2011: 79 - 85<br />
Objective: Facial nerve paralysis is often a devastating deformity with serious implications for both the<br />
* Khoa Phẫu Thuật Tạo Hình Thẩm Mỹ Bệnh Viện Chợ Rẫy;<br />
Tác giả liên lạc: TS.BS. Lê Hành ĐT: 0913909426<br />
Email: drlehanh@gmail.com<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011<br />
<br />
79<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011<br />
<br />
vision and the psychological well-being of affected patients. A multitude of reconstructive techniques has been<br />
used but none is perfect. Primary nerve repair offer the best hope for recovery when the facial nerve has been<br />
transected. Direct nerve graft reconstruction is usually successful if the proximal stump is available. The most<br />
successful neural repair when the central stump is not available has been a transfer of hypoglossal (XII) to the<br />
facial (VII) nerve. Although the phrenic, the trigeminal and accessory nerves has been used to reanimate the face,<br />
the result has been inferior to the XII-VII transfer. The disavantage of classic VII-XII anastomosis is the atrophy<br />
and hypofunction of the ipsilateral tongue. To resolve this weak point, the author has used only the inferior half of<br />
the XII as the motor nerve source to connect with the VII. The modified technique can preserve hypoglossal nerve<br />
function and provide adequate facial reanimation.<br />
Patient and methods: Eleven patients with peripheral facial paralysis (2 due to ear surgery, 6 temporal<br />
bone fractures) were treated by microsurgical hypoglossal - facial crossover. The classical VII-XII anastomosis was<br />
used in 5 cases (follow up 8 years, 5 years and 3 years) and partial XII – VII in 6 cases (follow up 2 – 3 year). The<br />
recovery of facial muscles activities is assessed to House-Brackmann Score, demonstrated by photos, video and<br />
elctromyography.<br />
Results: The outcome of the anastomosis is acceptable, based on: normal facial aesthetic symmetry and<br />
repose, good facial muscle tonus, good face voluntary motion. In the group of partial XII – VII anastomosis, the<br />
motion of the tongue of donnor side is almost preserved. The paper reviews the latest literatures concerning facial<br />
nerve anastomosis, presents operative techniques and new trends in the surgical rehabilitation of facial paralysis.<br />
Conclusions: Hypoglossal - Facial nerve anastomosis is a good technique for reinnnervation of the paralyzed<br />
face in case of the proximal stump of the VII is not available.<br />
Key words: facial paralysis, facial rehabilitation, cross-nerve anastomosis, VII-XII cross-anastomosis, partial hypoglosso-facial cross anastomosis,, electromyography, electroneurography.<br />
những người đầu tiên đã chỉ dùng một phần<br />
Liệt mặt ngoại biên là một trong những<br />
của dây XII để phục hồi vận động của dây VII.<br />
thương tật gây tổn thương nặng nề nhất về hình<br />
Tiếp theo là Cusimano M(1), Pitty L.(13), Darouzet<br />
thể, chức năng cũng như về tâm lý mà một<br />
V.(2),...với vài cải tiến trong kỹ thuật. Từ năm<br />
người phải gánh chịu. Dây VII không phải là<br />
1993, chúng tôi bắt đầu áp dụng phẫu thuật nối<br />
một thần kinh vận động thông thường mà thực<br />
VII-XII tại bệnh viện Chợ rẫy. Trong những<br />
sự là một sứ giả của tình cảm, của sự giao tiếp.<br />
trường hợp đầu tiên chúng tôi dùng kỹ thuật<br />
Khuôn mặt là tấm gương phản chiếu của não<br />
nối toàn phần XII – VII(9). Sau đó dùng phẫu<br />
bộ. Vì vậy, phục hồi chức năng của dây VII thực<br />
thuật nối bán phần XII-VII(10,11). Nghiên cứu này<br />
sụ là một việc khó khăn. Hàng trăm năm nay, rất<br />
có hai mục đích: Nghiên cứu hiệu quả của phẫu<br />
nhiều công trình đã được thực hiện nhằm phục<br />
thuật nối VII-XII kinh điển trên sự phục hồi vận<br />
hồi tình trạng đối xứng và chức năng vùng mặt<br />
động của dây VII cùng những rối loạn về chức<br />
cho bệnh nhân. Từ 1903, thấy được sự gần gủi<br />
năng do di chứng liệt một bên lưỡi và tiếp đó so<br />
của các bó thần kinh xuất phát từ vỏ não của<br />
(7)<br />
sánh với kết quả tương ứng của phẫu thuật nối<br />
dây VII và dây XII, Korte đã đề nghị thực hiện<br />
VII-XII bán phần.<br />
phẫu thuật nối chéo giữa hai dây này. Kỹ thuật<br />
nối VII-XII sau đó đã được dùng rộng rãi để<br />
chữa trị những trường hợp liệt mặt ngoại biên<br />
hoàn toàn(3,8).<br />
Điểm bất lợi của phẫu thuật nối VII-XII kinh<br />
điển là di chứng liệt một bên lưỡi. Để khắc phục<br />
điểm này, năm 1981, Zehm và Hartenau(14) là<br />
<br />
80<br />
<br />
BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
Bệnh nhân<br />
Có 11 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu.<br />
Tỉ lệ nam/nữ tương đương<br />
Tuổi: 25 - 40<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011<br />
Tất cả đều bị liệt mặt hoàn toàn.<br />
<br />
Nguyên nhân liệt mặt<br />
Nối VII – XII toàn phần<br />
Chấn thương xương đá:<br />
<br />
3 trường hợp<br />
<br />
Do mổ xương chũm:<br />
<br />
2 trường hợp<br />
<br />
Nối VII- XII bán phần<br />
Do chấn thương xương đá<br />
<br />
3 trường hợp<br />
<br />
Do mổ u dây TK VIII<br />
<br />
2 trường hợp<br />
<br />
Do mổ xương chũm<br />
<br />
1 trường hợp<br />
<br />
Thời gian trung bình từ khi bị tổn thương<br />
thần kinh đến khi mổ là 6 tháng, (13 tháng:<br />
1bệnh nhân).<br />
Chẩn đoán liệt dây VII: Dưạ trên lâm<br />
sàng, CT scan, điện cơ đồ(13) và theo dõi ít<br />
nhất ba tháng.<br />
<br />
Phương pháp phẫu thuật<br />
Có 5 bệnh nhân được mổ theo phương pháp<br />
kinh điển: nối toàn phần dây XII - dây VII và 6<br />
bệnh nhân được mổ theo phương pháp cải tiến:<br />
nối bán phần dây XII - dây VII.<br />
<br />
Mô tả phương pháp phẫu thuật<br />
Bệnh nhân nằm ngửa, đầu hơi quay sang<br />
bên đối diện. Đường rạch da gần như đường mổ<br />
căng da mặt nhưng từ mỏm chũm kéo dài<br />
xuống phía dưới và trước, theo bờ dưới xương<br />
hàm dưới cho đến sừng lớn xương móng. Bóc<br />
tách vùng mặt trước xương chũm ở góc nhị diện<br />
của mỏm chũm và xương nhĩ để tìm thân chung<br />
của dây VII vừa thóat ra khỏi lỗ trâm chũm. Bóc<br />
tách về phía trước cho đến chỗ dây này chia hai.<br />
Cắt dây VII sát lỗ trâm chũm và chuyển xuống<br />
phía dưới, chuẩn bị nối với dây XII. Phẫu tích<br />
tìm và bộc lộ dây XII từ vùng sau trâm đến sừng<br />
nhỏ xương móng.<br />
+Trong kỹ thuật nối toàn phần dây XII-VII<br />
Cắt ngang, gọn dây XII ở khoảng cân chung<br />
cơ nhị thân rồi quay ngược đầu gần lên trên, nối<br />
tận tận với dây VII. Trong 2 trường hợp, cắt và<br />
nối tận quai hạ thiệt với đầu xa của dây XII.<br />
+Trong kỹ thuật nối bán phần dây XII – VII<br />
Dùng kính hiển vi tách đôi dây XII theo<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
chiều dọc một khoảng khá dài rồi cắt rời nửa<br />
dưới của dây này ở khoảng cân chung cơ nhị<br />
thân. Chiều dài của đoạn dây XII được tách đủ<br />
để xoay lên trên và nối với đầu xa của dây VII.<br />
Chỗ nối không được căng. Dùng chỉ nylon<br />
10 O khâu nối tận tận hai dây thần kinh. Thường<br />
kích thước của một nửa dây XII khít với dây VII.<br />
Chỗ nối có thể được che phủ bằng một đoạn<br />
tĩnh mạch. Đóng da và băng ép nhẹ.<br />
<br />
Phương pháp đánh giá<br />
Kết quả của phẫu thuật được đánh giá theo<br />
những thang điểm sau:<br />
<br />
Tính cường cơ mặt<br />
Cho từ 0 đến 2 điểm với khoảng cách là 0,5<br />
điểm.<br />
Vận động cơ mặt<br />
Theo thang điểm của House- Brackmann(5).<br />
Theo Darouzet(2): định lượng bằng cách<br />
cho điểm từ 0 đến 3 với khoảng cách là 0,5<br />
điểm theo từng nhóm cơ: cơ trán, cơ vòng mi.<br />
cơ nhăn mũi, cơ cười (cơ gò má), cơ vòng môi<br />
(cơ cằm (trề môi).<br />
Độ đồng vận (synkinesis) của các cơ mặt.<br />
<br />
Chức năng của lưỡi<br />
Quan sát độ teo của lưỡi<br />
Mức độ rối loạn các chức năng nhai nói,<br />
nuốt. Mức độ rối loạn được cho từ + đến 3+(3).<br />
<br />
Kết quả<br />
Nhóm bệnh của chúng tôi gồm 11 bệnh<br />
nhân bị liệt VII hoàn toàn : 3 VII sau mổ tai, 6 do<br />
vỡ xương đá sau tai nạn giao thông và 2 bệnh<br />
nhân sau mổ u thần kinh VIII.<br />
Năm bệnh nhân được mổ nối dây VII-XII<br />
toàn phần, với thời gian theo dõi lần lượt là 8<br />
năm, 5 năm và 3 năm.<br />
Sáu bệnh nhân được mổ nối VII và bán phần<br />
XII có thời gian theo dõi trung bình là 2 – 3 năm.<br />
<br />
Tính cường cơ<br />
Sự hồi phục độ căng của cơ mặt được ghi<br />
nhận rất sớm. Thường khoảng 3 tháng sau mổ<br />
thì khuôn mặt đã bắt đầu dần trở nên đối<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011<br />
<br />
81<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011<br />
<br />
xứng. Dường như tính cường cơ hồi phục<br />
sớm hơn ở những bệnh nhân được nối toàn<br />
phần dây XII- VII. Đại đa số bệnh nhân (7/8)<br />
lấy lại được tính cường cơ gần bình thường.<br />
Điểm trung bình 1.5 / 2.<br />
<br />
Vận động tự ý của cơ mặt<br />
Theo phân loại của Brackmann, có 4 bệnh<br />
nhân được xếp loại III (50%), 6 bệnh nhân loại<br />
IV (37%) và 1 loại V (13%).<br />
Cơ vùng miệng có độ hồi phục tốt nhất,<br />
điểm trung bình là 2/3 điểm.<br />
Cơ vòng môi khép tốt trong 5/8 trường hợp.<br />
Cơ vòng mắt có điểm chung là 1.5 / 3.<br />
Mức độ hồi phục gần như đạt mức tối đa<br />
sau 8-9 tháng. Sau thời gian này, sự hoạt động<br />
của cơ mặt thường không tiến triển gì thêm. Cơ<br />
trán hồi phục kém điểm chung 0,5 / 3.<br />
<br />
Chức năng lưỡi<br />
+ Nhóm nối dây XII – VII toàn phần : một<br />
bên lưỡi bị liệt, cơ lưỡi bị teo gây khó chịu cho<br />
bệnh nhân khi nói và nhai. Thưòng bệnh nhân<br />
cũng chấp nhận được những rối loạn này và<br />
quen dần. Họ nhai bên lành. Sự phát âm bị ảnh<br />
hưởng nhất là khi nói nhanh.<br />
+ Nhóm nối bán phần dây XII-dây VII :<br />
3/6 trường hợp bị teo rất nhẹ bên lưỡi.<br />
3/6 trường hợp lưỡi teo nhẹ, có thể nhận<br />
thấy trên lâm sàng nhưng không rối loạn<br />
chức năng.<br />
<br />
Các dấu hiệu về điện cơ ký(6)<br />
Những dấu hiệu cho biết có sự tái lập các<br />
xung thần kinh xuất hiện đồng thời với sự hồi<br />
phục của tính cường cơ ở vùng mặt, thường vào<br />
khoảng tháng thứ 3-4.<br />
Nhóm được nối bán phần có thời gian hồi<br />
phục chậm hơn (4-5 tháng) so với nhóm được<br />
nối toàn phần.<br />
Xét về góc độ phục hồi chức năng, thì kết<br />
quả trên cả hai nhóm dùng toàn phần hay dùng<br />
bán phần dây XII đều như nhau. Nhưng dùng<br />
bán phần dây VII thì tránh được di chứng liệt,<br />
teo một bên lưỡi cùng những hậu quả của nó.<br />
<br />
82<br />
<br />
Một trường hợp có thời gian từ khi bị tổn<br />
thương đến khi phẫu thuật (nối bằng phương<br />
pháp kinh điển) là 13 tháng. Bệnh nhân này có<br />
thời gian đáp ứng chậm (9 tháng) và mức độ hồi<br />
phục không cao (độ V của Brackmann).<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Một khi đã bị tổn thương, hiếm khi thần<br />
kinh mặt hồi phục hoàn toàn. Ngay cả một chấn<br />
thương nhẹ nhất trên một nhánh, không đứt lià,<br />
cũng gây tình trạng yếu cơ mặt vùng đó hay<br />
những rối loạn chức năng khác như co thắt hay<br />
hoạt động cộng hưởng. Việc chọn lựa phương<br />
pháp phục hình tùy thuộc vào khả năng sống<br />
của đoạn gần của thần kinh VII.<br />
Nếu biết chắc chắn là đoạn gần của dây VII<br />
không còn dùng được nữa (như trong trường<br />
hợp phải hy sinh dây VII khi mổ u dây VIII) thì<br />
nên phẫu thuật nối hay ghép ngay.<br />
Khi mà sự liên tục của đoạn thần kinh còn<br />
bị nghi ngờ (như sau chấn thương xương đá)<br />
thì nên chờ đợi ít nhất là 3 tháng trước khi<br />
quyết định mổ tạo hình. Thời gian chờ đợi<br />
này không nên quá lâu vì các cơ mặt sẽ dần<br />
teo và mất chức năng khi không còn được<br />
nuôi bởi xung thần kinh.<br />
Không một phương thức nào thích hợp cho<br />
mọi liệt VII.<br />
Sau đây là thứ tự ưu tiên các phẫu thuật<br />
được chọn tùy theo tình trạng của đoạn gần<br />
dây VII:<br />
<br />
Khi đường dẫn truyền thần kinh chỉ bị gián<br />
đoạn: Khi đường dẫn truyền<br />
+Giảm áp thần kinh<br />
+Nối thần kinh tận tận<br />
+Đổi đường và nối thần kinh tận tận<br />
+Ghép thần kinh<br />
-Ghép thân thần kinh<br />
-Ghép mạng thần kinh<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Khi đoạn gần của dây VII không sử dụng<br />
được nữa<br />
<br />
Còn vài điểm bất lợi:<br />
<br />
Nối đoạn xa của dây VII với nguồn vận<br />
động của một thần kinh khác:<br />
<br />
-Những hoạt động đồng thời của các cơ<br />
vùng mặt.<br />
<br />
- Thần kinh hoành, thần kinh XI, thần<br />
kinh XII.<br />
- Thần kinh mặt bên đối diện.<br />
<br />
Khi đoạn xa dây VII và các cơ mặt không<br />
còn hoạt động:<br />
+Chuyển vạt cơ vận động: cơ thái dương<br />
hay cơ nhai.<br />
+Treo chỉnh hình mặt: fascia lata.<br />
+ Ghép tự do phức hợp cơ mạch máu - thần<br />
kinh: cơ lưng rộng, cơ gracilis...(14).<br />
Ngoài ra cần xét đến những yếu tố ảnh<br />
hưởng đến thời điểm và phương pháp tái tạo:<br />
+ Cần bảo vệ mắt.<br />
+ Sự hồi phục từng phần của thần kinh?.<br />
+ Sự toàn vẹn của đoạn xa và gần của dây VII.<br />
+ Mức độ sống của dây VII (viability).<br />
+Tình trạng của thần kinh cho.<br />
+Thời gian từ khi bị chấn thương. Golden<br />
period (72 giờ).<br />
+Tuổi tác, dinh dưỡng.<br />
+Tiểu đường, bệnh biến dưỡng / mạch máu<br />
khác.<br />
Nói chung không có nhiều lựa chọn trong<br />
phẫu thuật phục hồi dây VII khi đoạn gần<br />
không còn sử dụng được. Trong các nguồn<br />
thần kinh cho, dùng thần kinh XII có lợi nhất<br />
và để lại ít di chứng nhất và là phương pháp<br />
thường được chọn với các lợi điểm sau:<br />
• Xuất phát từ một nhóm thần kinh trong<br />
thân não.<br />
• Đáp ứng phản xạ chung với kích thích từ tk V.<br />
• vị trí gần nhau, trong cùng một phẫu trường.<br />
• Ít gây thương tật hơn dùng thần kinh<br />
XI , thần kinh hoành, thần kinhV...<br />
(4,12)<br />
<br />
-Thiếu vận động cảm xúc của vùng mặt.<br />
<br />
-Rối loạn vận động lưỡi.<br />
Nối chéo thần kinh VII-VII từng được đề cao<br />
vì cho rằng sẽ phục hồi được khả năng diễn cảm<br />
vốn có của các cơ vùng mặt. Tuy nhiên mức dộ<br />
hồi phục kém của phương pháp này đã làm thất<br />
vọng các ủng hộ viên (25%, Trần Bá Huy,<br />
Conley). Lee và Terzis cố gắng hoàn hảo hóa<br />
phẫu thuật nối VII-VII bằng cách kết hợp nối<br />
đồng thời XII-VII cùng với thì đầu của phẫu<br />
thuật này như là một hỗ trợ trong khi chờ đợi<br />
nguồn thần kinh đầy diễn cảm từ bên đối diện<br />
mọc sang. Tuy nhiên, đa số bệnh nhân từ chối<br />
mổ tiếp thì 2 của phẫu thuật nối VII-VII vì họ đã<br />
bằng lòng với những kết quả của phẫu thuật nối<br />
XII-VII.<br />
<br />
Rối loạn vận động lưỡi gần như được khắc<br />
phục bởi kỹ thuật nối bán phần XII-VII<br />
Có hai điểm cần lưu ý để có thể vừa bảo<br />
tồn được chức năng của lưỡi vừa phục hồi<br />
được cơ mặt:<br />
Tách, lấy một phần dây XII vừa đủ. Lấy<br />
nhiều quá sẽ gây liệt lưỡi. Lấy ít quá, dây VII sẽ<br />
hồi phục kém.<br />
Lấy nửa dưới của dây XII để nối với dây VII.<br />
Phần này chủ yếu nuôi các cơ dưới móng nên ít<br />
có ảnh hưởng đến vận động của lưỡi.<br />
Cusimano dùng điện kích thích 2 phần của<br />
dây XII sau khi tách đôi và quan sát sự co giật<br />
của lưỡi. Nhánh ít gây co giật lưỡi được dùng<br />
để nối với dây VII.<br />
Về một vài thay đổi trong kỹ thuật, M. May<br />
chuyển luồng thần kinh vận động từ dây XII<br />
đến dây VII bằng một đoạn ghép thần kinh. Kỹ<br />
thuật này đòi hỏi hai chỗ nối thần kinh tận tận<br />
và trục thần kinh mới phải vuợt qua hai chỗ nối<br />
và một đoạn ghép mới đến được dây VII.<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011<br />
<br />
83<br />
<br />