Đọc thơ di cảo mới của Lưu Quang Vũ
lượt xem 9
download
Những câu thơ âm thầm Muốn nói hết sự thực Về đất nước của mình (Lưu Quang Vũ) Thơ phản kháng mà mềm như khóc (Lê Xuân Đố) “Mới” đây là mới được công bố.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đọc thơ di cảo mới của Lưu Quang Vũ
- Đọc thơ di cảo mới của Lưu Quang Vũ Những câu thơ âm thầm Muốn nói hết sự thực Về đất nước của mình (Lưu Quang Vũ) Thơ phản kháng mà mềm như khóc (Lê Xuân Đố) “Mới” đây là mới được công bố. Trong sự nghiệp sáng tạo nhiều mặt của mình, Lưu Quang Vũ ký thác tâm sự sâu nặng nhất, thể hiện mình rõ nhất ở thơ. Nhưng sinh thời anh chỉ mới có một tập thơ in chung với Bằng Việt (Hương cây- Bếp lửa, 1968). Mãi đến khi anh mất (1988), di cảo thơ của anh được công bố một phần (Mây trắng của đời tôi, Bầy ong trong đêm sâu) người đọc mới biết rõ hơn khuôn mặt nhà thơ của Lưu Quang Vũ và hiểu vì sao thơ anh viết nhiều những năm tháng ấy nhưng không in ra được. Năm nay, nhân kỷ niệm 20 năm ngày mất của anh, thêm những bài thơ Lưu Quang Vũ viết từ giữa thập niên 1970 được in ra trong sách “Lưu Quang Vũ - Di cảo, thơ và nhật ký”. Trong khối thơ di cảo mới này, tôi đặc biệt quan tâm tới những bài thơ nói về chiến tranh của anh và xin ghi nhanh lại đây những cảm nhận ban đầu, như một nén hương tưởng niệm một tiếng thơ khác biệt.
- Lưu Quang Vũ sinh năm 1948, và như mọi thanh niên thế hệ mình, anh nhập ngũ ở độ tuổi hai mươi, khi đất nước có chiến tranh. Thời Vũ nhập ngũ là giữa những năm sáu mươi của thế kỷ hai mươi. Thời đoạn 1968-1972 ở Việt Nam là gì? Là chiến tranh. Chiến tranh ở hồi bi kịch nhất và bi tráng nhất. Nhưng Vũ, như các chàng trai cùng thời, khi mới nhập ngũ là vào bộ đội - trường học lớn của cách mạng, là đi đánh Mỹ, là tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ của anh khi mới khoác bộ quân phục màu xanh lên mình là mang chở nhận thức và tình cảm chung của thời cuộc hồi đầu. Công sự pháo Phủ đầy ngụy trang xanh Trong những chùm cây dại Có vài cành bưởi cành chanh Cả quê nhà Cùng ta chiến đấu Từng viên đạn lắp vào nòng pháo Bồi hồi nghe hương lá bưởi lá chanh (Lá bưởi lá chanh, 1965) Cám ơn thời gian cám ơn hôm nay Người chiến đấu mang nụ cười đẹp nhất Ngày ấy ta chưa thấy hết tầm đất nước Ngày ấy ta chưa hiểu rõ lòng ta Anh chưa biết yêu em như bây giờ (Ngày ấy..., 1967) Thơ Tố Hữu ngày ấy từng viết: “Hoan hô anh giải phóng quân! Kính chào anh con người đẹp nhất!”.
- Thời cuộc hồi sau khắc nghiệt hơn, tàn nhẫn hơn. Giai đoạn “vào bộ đội” chuyển nhanh sang giai đoạn “đi lính”. Người lính Lưu Quang Vũ trải đời quân ngũ và cuộc chiến đã thấy ra “Giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn nhiều / Rách tan cả những làn sương đẹp phủ”. Không phải từ những bi kịch đời riêng của Vũ mà anh có cái nhìn sẽ bị coi là “u ám, đen tối” như vậy về đất nước, nhân dân. Đọc hết thơ anh thì thấy có một cái gì đấy từ thẳm sâu trong anh đã khiến anh sớm và nhanh nhìn cuộc đời ở phía “viển vông, cay đắng, u buồn”. Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, một người bạn cùng thời Vũ, trong một bài viết có nhắc lại câu thơ như đã thất lạc của Vũ: “tuổi hai mươi khốn khổ của tôi ơi / tuổi tai ương dằng dặc trận mưa dài”. Cuộc chiến với sự chết chóc đổ vỡ của nó chỉ mài sắc và đào sâu thêm nhiều nữa, mạnh nữa cảm quan ấy trong anh và của anh. Từ đây, với Vũ, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã là cuộc chiến tranh Việt Nam mà đối tượng bị tàn phá là đất nước ViệtNam và nạn nhân là con người Việt Nam. Đọc di cảo thơ Vũ thấy khẳng định điều này. Những bài thơ lạc thời cuộc chiến được viết ra để bày tỏ một cách nhìn, một thái độ, biết là không thể đăng được nhưng không thể nào không viết ra, chúng tập hợp thành một di cảo để khi đưa ra dưới ánh mặt trời phát lộ một điều là Lưu Quang Vũ đã thay đổi nhận thức và tình cảm của mình khi đi qua cuộc chiến. Đất nước nhân dân trở thành cảm hứng lớn của thơ Lưu Quang Vũ thời chiến, được anh trình bày dưới cái nhìn thời chiến đầy khắc khoải đau đớn, tuyệt vọng và bi quan. Điều quan trọng đáng nói ở đây là anh viết những điều đó ngay khi đang trong cuộc chiến, và ngay ở tuổi đời rất trẻ. Anh gọi những người trẻ nối nhau ra trận là “những đứa trẻ buồn ướt lạnh”. Họ đi với tâm trạng “lòng chỉ muốn yêu thương / mà cứ phải suốt đời căm giận”, cho nên “giết xong quân giặc / chẳng thấy lòng thảnh thơi nhẹ nhõm / chỉ nỗi buồn trĩu nặng / dâng lên như đá trên mồ”. Và trong mắt những đứa trẻ buồn cầm vũ khí giết người ấy kẻ thù hiện ra thế này: xác ngụy nằm ruồi muỗi bâu đầy những đôi mắt bệch màu hoa dại những gương mặt trẻ măng xanh tái những bàn tay đen đủi chai dầy các anh ơi, đừng trách chúng tôi
- các bà mạ, tha thứ cho chúng tôi chúng tôi chẳng thể làm khác được quả đồi cháy như một phần quả đất bao đời người ta đã giết nhau với các anh tôi oán hận gì đâu nhưng còn có cách nào khác được Đó chính là nỗi buồn có thực đau buốt ngực Vũ. Và dù anh có nói theo truyền thông thời cuộc là phải bắn giết nhau thế để “con người được làm con người trở lại” thì thực chất anh đã hiểu khác: “nhưng mãi mãi chẳng bao giờ sống dậy / những tháng năm đã mất / những nhịp cầu gẫy gục / những toa tàu đã sụp đổ tan hoang”. Sau đổ máu, tất cả đã nhuốm máu. Cùng thời gian Lưu Quang Vũ viết những câu thơ để trong sổ tay này, ở bên kia chiến tuyến có một người lính và một nhà thơ là Nguyễn Bắc Sơn in tập thơ “Chiến tranh Việt Nam và tôi”, trong đó có những câu thơ đồng vọng tâm tưởng với Vũ: “Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước / Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi”. Cũng cùng thời gian này, Tố Hữu có tập thơ “Ra trận”: “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận”. Từ Hiệp định Paris về kết thúc chiến tranh Việt Nam 1973 đến kết thúc chiến tranh Việt Nam 1975, thơ Lưu Quang Vũ vừa trần trụi hiện thực vừa mong manh dự cảm. “Hòa bình đến mong manh / Nhiều tin đồn mà chẳng có gì ăn”. Trong một bài thơ viết năm 1973 nhan đề “Nơi tận cùng”, Vũ viết: Nơi tận cùng mọi con đường Một chiếc mũ rách Úp trên nấm mồ sỏi cát Nơi tận cùng mọi con đường Pho tượng đá cụt đầu đứng sững Nơi tận cùng hoàng hôn Trên vỏ chai trống rỗng
- Trước đó, Vũ đã lập hồ sơ mùa hạ 1972, đã dựng một Guernica bằng thơ về Khâm Thiên dưới bom B52. Cái năm 1972 kinh hoàng, một mùa hè đỏ lửa. Bản hồ sơ ngày đó của anh đến hôm nay vẫn còn là một tài liệu lịch sử của tư tưởng và tâm hồn, không chỉ của một con người, một nhà thơ, mà còn của một thời đại, một giống nòi. những siêu nhân vĩ đại những tư tưởng lớn lao nghe đến kinh người những thần tượng tiêu vong những đứa trẻ ra đời bóng tối nắm tay nhau, tình yêu chưa hợp lại thế giới lo âu đầy xấu xa phản bội ngày càng ít những điều đáng để ta tôn trọng nền văn minh lạ lùng của những trái bom những đám mây gây mưa những mìn nổ từ trường dân tộc mấy mươi năm giết và bị giết mỗi phút sống của tôi đều có người đang chết Anh sẽ nói lại những điều này trong phiên tòa anh muốn lập ra để xét xử những kẻ đã gây ra thảm họa Khâm Thiên 1972. những kẻ nào đã gây ra tội ác những kẻ nào để tội ác gây ra những chính khách những nhà thơ những bộ óc chế súng bom hủy diệt các tư tưởng cầm quyền các nước lãnh tụ tối cao của mọi đảng trên đời các ông kêu: vì hạnh phúc con người nay con người chết đi cái phúc ấy ai dùng được nữa!
- chục chiếc B-52 không đổi được một trẻ nghèo Ngõ Chợ không thể nhân danh bất-cứ-cái-gì bắt máu vạn dân lành phải đổ Tôi trích thơ nhiều. Nhưng không có gì hùng hồn và thuyết phục hơn những câu thơ Lưu Quang Vũ tự nói lên những suy tư nhà thơ đã nung nấu dằn vặt từ trong cuộc chiến, nói lên ở thời tuổi trẻ không còn là trẻ nữa khi đã cầm khẩu súng lên tay và bóp cò. Tất cả nỗi đau đớn của anh cho dân tộc dồn lại trong hai tiếng gọi tên đất nước: Việt Nam! Âm hưởng tiếng gọi này trong thơ Vũ không phải ngợi ca mà là xót xa. Có phải câu thơ anh kết bài thơ “Tiếng Việt” nguyên là “Tiếng Việt ơi, tiếng Việt xót xa tình” chứ không phải “ân tình”? Tố Hữu ngợi ca: “Ôi Việt Nam tổ quốc thương yêu / Trong khổ đau người đẹp hơn nhiều”. Chế Lan Viên ngợi ca: “Ta mọc dậy trước mắt nhìn nhân loại / Hai tiếng Việt Nam đồng nghĩa với anh hùng”. Lưu Quang Vũ thì xót xa: “Nước Việt thân yêu nước Việt của ta / sao người phải chịu nhiều đau đớn thế / thân quằn quại mọi tai ương rách xé”. Anh kêu lên “Việt Nam ơi” với cõi lòng rách nát khi thấy tổ quốc mình bị trở thành miếng mồi cho các thế lực xâu xé, băm vằm. “Tất cả sẽ ra sao / Mảnh đất nghèo máu ứa? / Người sẽ đi đến đâu / Hả Việt Nam khốn khổ? / Đến bao giờ bông lúa / Là tình yêu của Người?”. Những câu hỏi của anh không chỉ đặt ra trong cuộc chiến, khi chúng được đọc hôm nay. Bởi từ tháng 5-1975 Lưu Quang Vũ đã tỉnh táo, rất tỉnh táo, giữa cơn nồng nàn cảm xúc chứng kiến cuộc chiến cuối cùng cũng đã chấm dứt, dự báo công việc thời hậu chiến: “Sắp tới là những ngày khó nhất”. Khó, vì sau đổ vỡ phải dựng xây, sau ngăn cách phải hàn gắn, và nhất là sau máu đổ không được để nhạt máu, “máu con người không phải thứ bán mua”. Lưu Quang Vũ nhìn cuộc chiến như vậy là với tất cả tinh thần công dân và thi sĩ. Người công dân trong anh không cho anh lảng tránh sự thật đau thương của đất nước mình. Người thi sĩ trong anh không cho anh viết những câu thơ nhàn nhạt, dửng dưng trước nỗi đau của nhân dân mình. Thơ Vũ nồng nàn, có lúc là nồng nã, nhưng ở những bài thơ viết trực diện cuộc chiến giọng thơ anh đã nhiều khi nấc lên, uất nghẹn và uất hận. Anh có một tâm hồn nhạy cảm và dễ tổn thương, “anh muốn ác mà không sao ác được / cứ yêu thương
- chờ đợi ích gì không?”. Trong cuộc chiến, hơn một lần, anh thú nhận trong thơ mình bất lực không cách gì che chở, cứu đỡ được cho đất nước, nhân dân trước cơn đổ máu không biết để làm gì. Nhưng anh xác nhận tư cách nhà thơ của mình là người đập cửa, người đi mở những cánh cửa, cho con người đến với/đến bên con người, không hận thù chia cắt. Người nổi gió. Người đập cửa. Người mở cửa. Đó chính là Lưu Quang Vũ. Sứ mệnh của nhà thơ anh đã xác định cho mình từ những ngày chiến tranh: anh hãy đập vào ngực mình giục giã hãy nổi gió cho cánh người rộng mở và mai sau, sẽ có những nhà thơ đứng trên tầng cao ta ao ước bây giờ họ sẽ vẫn không ngừng đập cửa không ngừng lo âu không ngừng phẫn nộ bởi vô biên là khát vọng của con người Hai mươi năm sau ngày anh mất ở tuổi bốn mươi, đọc những bài thơ anh viết tuổi hai mươi thấm đầy máu và lửa, tôi gọi Lưu Quang Vũ là nhà thơ nhân dân, nhà thơ yêu nước. Danh hiệu này không dễ gọi cho nhiều nhà thơ
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Phân tích bài thơ Từ ấy của nhà thơ Tố Hữu
7 p | 530 | 128
-
Bài 8: Qua Đèo Ngang - Giáo án Ngữ văn 7 - GV: Lê Thị Hạnh
15 p | 929 | 57
-
Giáo án Sinh học 7 bài 46: Thỏ
6 p | 833 | 44
-
Giáo án tuần 4 bài Tập đọc: Trên chiếc bè - Tiếng việt 2 - GV. Hoàng Quân
5 p | 515 | 24
-
Phân tích 2 khổ đầu trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận
5 p | 814 | 21
-
Bài 7: Luyện tập làm văn biểu cảm - Giáo án Ngữ văn 7 - GV: Lê Thị Hạnh
15 p | 211 | 10
-
Bài 7: Quan hệ từ - Giáo án Ngữ văn 7 - GV: Lê Thị Hạnh
15 p | 370 | 9
-
Bài 9: Cách lập ý của bài văn biểu cảm - Giáo án Ngữ văn 7 - GV: Lê Thị Hạnh
9 p | 284 | 6
-
Vẻ đẹp bi tráng của ngươi lính trong bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng
5 p | 125 | 5
-
Nhà văn Tô Hoài cho rằng tác phẩm Đôi mắt của Nam Cao "là bản tuyên ngôn nghệ thuật của các nhà văn hồi bấy giờ" hãy bình luận ý kiến trên.
4 p | 44 | 5
-
Bình giảng đoạn thơ: "Tiếng thơ ai động đất trời... Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày" trong bài Kính gửi cụ Nguyễn Du của Tố Hữu
5 p | 191 | 5
-
Đề KTCL HK1 Văn 11 - THPT Hồng Ngự 3 (2012-2013) - Kèm đáp án
5 p | 126 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kĩ năng phân tích nhân vật trữ tình trong giờ đọc, hiểu văn bản thơ cho học sinh lớp 7
25 p | 40 | 4
-
Bình giảng về bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
7 p | 62 | 3
-
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân
3 p | 194 | 3
-
Đề thi giữa học kì 1 môn Địa lí lớp 12 năm 2022-2023 - Trường THPT Cửa Tùng, Quảng Trị
4 p | 8 | 3
-
Giáo án môn Tiếng Việt lớp 4: Tuần 8 (Sách Kết nối tri thức)
10 p | 4 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn