Dược sĩ và cây Khoai tây
Khoai tây (Solanum tuberosum L.)
Dược người Pháp Antoine Augustin Pamentier (sinh Montdidier
1737 - mất ở Paris 1813). m 20 tuổi là dược phụ tá trong quân đội, tham
gia cuộc chiến 7 năm; bthương bị bắt làm tù binh, Pamentier nghiên cu
hệ thực vật ở xứ Hanover, và nhận xét một loài cây hCà (Solanaceae) mà
củ dùng làm thức ăn được.
Tr về Pháp, Pamentier tiếp tục nghiên cứu học tập và thi tuyn
(1776), được nâng cấp bậc n trung úy quân dược sĩ, công tác tại Hôtel royal
des Invalides (Sở thương phế binh hoàng gia Pháp) có phòng tnghiệm
đó. Năm 1772 là quân dược sĩ trưởng.
Cùng lúc đó, khu giáo dục Besançon tổ chức cuộc thi có giải thưởng, nhằm
phát hiện những thực vật thay thế cho thực phẩm hiện cho con người.
Pamentier d thi và kiến nghị nhiều cây chất bột, trong đó có khoai tây. Ông đã
trồng nhiều thứ Khoai này đã phân tích hóa học. Pamentier được giải thưởng
năm 1773.
Sau trận đói 1785, với sự bảo trợ của Louis XVI, ông thử làm thí nghiệm để
tuyên truyền về trồng cây Khoai tây trên diện tích 50 mẫu trên nh đồng Sablons,
Neuilly.
Thực ra, Khoai tây (Solanum tuberosum L.) hCà (Solanaceae), nguồn gốc
dãy núi Andes tại Chile Perou; năm 1534 mới di thực sang châu Âu, lần đầu
tiên Tây Ban Nha.
Từ đó, được truyền sang Áo (1588) cho nhà thực vật học Clausius. Ông này
lại truyền Khoai tây sang Đức, rồi từ đó sang Thụy Sĩ, sang Pháp (phía đông).
Ngoài ra Khoai tây được nhập khẩu vào Anh 1585, vào Bỉ 1620.
Ở Pháp, Khoai tây chỉ được thực sự cho phép làm thực phm từ cuối thế kỷ
18, nhsự cố gắng hết sức của dược Pamentier. Ông trồng cây có củ quý giá
này, năm 1788 ở cánh đồng Sablons gần Paris.
Sau đó ông đ xuất được trồng Khoai tây phổ biến khắp nước Pháp.
Không bao lâu, Khoai tây được trồng phổ biến châu Âu và khắp thế giới tại
các vùng ôn đới, cận nhiệt đới, nhiệt đới núi cao, hay nhiệt đới có mùa đông lạnh.
Miền Bắc Việt Nam đã di thực nhiều giống Khoai tây. Giống Khoai tây
ruột vàng huyện Thường Tín, Hà Tây (nguyên là ging nhập từ Pháp) tương đối
thích nghi với điều kiện khí hậu nước ta.
Khoai tây là loại rau, củ thích nghi với điều kiện khí hậu nước ta. Khoai tây
loi rau, củ ăn bổ, giàu chất bột và vitamin C, 2% protid, 21% glucid, 1%
chất xơ, 10 mg% calci, 50 mg% kali, 50 mg% phosphor, 10 mg% vitamin C.
Trong y dược, bột Khoai y dùng m chất làm dịu, làm mềm (emollient),
làm thuốc đắp (cataplasme) dược. Hàng năm thế giới sản xuất trên 200 triệu
tấn Khoai tây.
Công của Pamentier trong việc trồng phổ biến Khoai tây không phải là nhỏ;
tđiển còn xếp ông vào hàng ngũ các nhà nông học, kinh tế gia giỏi, mặc dù xuất
thân là dược sĩ.
Ngoài Khoai tây ra, ông còn đóng góp nhiều vtạo nguồn thực phẩm. Để
khắc phục nạn thiếu đường mía, ông đã hiệu chỉnh được cách chế tạo xi nho và
các thực phẩm chứa đường, Pamentier nghiên cứu sử dụng sản phẩm từ sữa,
công tác bảo quản rượu vang và các chất bột, thịt.
Ông cải tạo nghề xay bột và nghề làm nh mì. Ông còn khuyên dùng cách
ướp lạnh thịt. Pamentier còn nghiên cứu thuốc phiện, và bsung công trình bằng
các thnghiệm sinh lý học.
Pamentier vẫn tiếp tục binh nghiệp của ông; tham gia chiến sự 1779 -
1781. Năm 1782, được cử làm phHội đồng y tế năm 1792 ủy viên hội
đồng cho đến khi mất.
T1773 đến 1813, DS. Pamentier đã viết 95 công trình bài ghi chép
hoặc khảo luận, báo cáo, với các đề tài phong phú liên quan đến dược học, vệ sinh
học, thực phẩm, nông học và cnghệ thuật.
Thật không ngờ một nhà dược học lại kỳ công đóng góp vào khoa học
kinh tế nông nghiệp thực phẩm lớn như vậy.
GS. NGUYỄN VĂN ĐÀN