Dương đình Nghệ Và Kiều Công
Tiễn ( 931-938)
Năm Tân Mão ( 931), Dương Đình Nghệ, một tướng của Khúc
Hạo ở đất Ái Châu ( Thanh Hóa), mộ quân đánh đuổi Lý Khắc Chính
và Lý Tiến, chiếm thành Đại La, tự xưng làm Tiết độ sứ. Được 6 năm,
Dương Đình Nghệ bị người nhà tướng là Kiều Công Tiễn, hào trưởng
đất Phong Châu giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Nền độc lập mới
giành được sau đêm trường Bắc thuộc lại bị đe dọa.
Thấy thảy nhân dân Giao Châu đều căm giận, muốn trừ tên phản
phúc để trừ hậu họa, Kiều Công Tiễn cho người sang cầu cứu chúa
Nam Hán.
Triều Ngô ( 939- 965)
NGÔ QUYỀN PHÁ QUÂN NAM HÁN TIỀN
NGÔ VƯƠNG (939 – 944)
Ngô Quyền là bộ tướng của Dương Đình Nghệ sinh ngày 12 tháng 3
năm Đinh Tỵ (897) ở Đường Lâm - Ba Vì – Hà Tây ( Nay thuộc Thị xã
Sơn Tây). Cha Ngô Quyền là Ngô Mân, một hào trưởng có tài. Lớn lên
trên quê hương có truyền thống bất khuất, nơi sản sinh và nuôi dưỡng
người anh hùng dân tộc Phùng Hưng. Ngô Quyền sớm tỏ rõ chí khí phi
thường hiếm thấy. Vốn thông minh, có thân thể cường tráng, lại
thường xuyên tập luyện võ nghệ nên tiếng tăm Ngô Quyền lan rộng
cả một vùng. Sách Đại Việt sử ký toàn thư mô tả Ngô Quyền « Vẻ
khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi như cọp, có trí dũng, sức có thể
nhấc vạc, giơ cao ». Vì có tài nên Dương Đình Nghệ giao cho Ngô
Quyền cai quản đất Ái Châu và gả con gái cho.
Trong 5 năm ( 934 – 938), Ngô Quyền đem lại yên vui chho đất Ái
Châu, tỏ rõ là người có tài đức.
Khi Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết hại, và vua Nam Hán là
Lưu Cung cho con là Vạn Vương Hoằng tháo đem quân sang xâm lược
nước ta. Ngô Quyền đã nhanh chóng tập hợp lực lượng để trừ nội
phản, diệt ngoại xâm. Từng hâm mộ tài đức của Ngô Quyền, hào
trưởng từ nhiều nơi đem binh về với Ngô Quyền.
Đầu màu đông năm Mậu Tuất ( 938), Ngô Quyền đem quân vượt qua
đèo Ba Dội, tiến như vũ bão vào Đại La, bắt giết tên nội phản Kiều
Công Tiễn, bêu đầu hắn trước cổng thành. Thù trong đã diệt xong,
Ngô Quyền rảnh tay đối phó với giặc ngoài.
Đem quân xâm lược nước ta, chưa biết thắng bại ra sao, Lưu Cung đã
phong cho con tước Giao vương ( tước vương đất Giao Chỉ ), Lưu Cung
còn đích thân đốc quân ra đóng ở trấn Hải Môn để sẵn sàng chi viện.
Để chống lại giặc mạnh, Ngô Quyền đưa ra kế hoạch độc đáo. Ông
cho bố trí cọc nhọt bịt sắt cắm xuống lòng sông Bạch Đằng. Khi nước
triều lên ông cho quân ra khiêu chiến, quân Nam Hán đuổi theo,
thuyền giặc vào bên trong hàng cọc, đợi khi thủy triều xuống sẽ dốc
toàn sức tiêu diệt địch bằng một trận quyết chiến nhanh gọn.
Tháng 12 năm Mậu Tuất ( 938) các chiến thuyền của giặc hùng hổ
vượt biển tiến vào sông Bạch Đằng. Chúng nghênh ngang tràn vào
trận địa mai phục của Ngô Quyền. Bị đánh bất ngờ nên chỉ trong một
thời gian ngắn thuyền giặc bị đắm gần hết, quân giặc bị chết quá nửa,
máu chảy loang đỏ khúc sông, Hoằng tháo cũng bị đâm chết tại trận.
Tin thất trận ở Bạch Đằng cùng với tin Hoằng tháo bị giết khiến vua
Nam Hán kinh hoàng phải khóc lên, thu nhặt tàn quân rút chạy. Vua
Nam Hán trước tiên là Nham sau đổi tên là Thiệp, rồi sau đó vì có
rồng trắng hiện lên nên đổi là Cung. Bị thất trận, vua Nam Hán cho
tên Cung là xấu và đổi tên khác là Yểm, tức Lưu Yểm.
Sau chiến thắng, Ngô Quyền xưng vương, bãi bỏ chức Tiết độc sứ,
đóng đô ở Cổ Loa ( Hà Nội ). Để củng cố trật tự triều chính, Ngô
Quyền đặt ra các chức quan văn võ, quy định nghi lễ trong triều đình.
Đáng tiếc, thời tại của Ngô Quyền quá ngắn ngủi, chỉ được 6 năm (
939 – 944 ) thì mất, thọ 47 tuổi.
Dương Tam Kha
Thời trẻ Ngô Quyền lấy con gái Dương Đình Nghệ. Khi Ngô
Quyền lên ngôi vua, Dương thị được lập làm Vương hậu, khi sắp mất,
Ngô Vương ủy thác cho con là Ngô Xương Ngập cho Dương Tam Kha
là em Dương Hậu. Lợi dụng cháu còn nhỏ, Dương Tam Kha cướp ngôi
của cháu, tự xưng là Bình Vương. Ngô Xương Ngập thấy biến, chạy
trốn vào trang Nam Sách ( Hải Dương) vào ẩn nhà Phạm Lệnh Công.
Dương Tam Kha sai quân đi đuổi bắt, Phạm Lệnh Công đem Xương
Ngập trốn trong núi. Dương Tam Kha bắt em Xương Ngập là Ngô
Xương Văn nuôi làm con nuôi.
Năm Canh Tuất ( 950) nhân có loạn ở Sơn Tây, Dương Tam Kha sai
Ngô Xương Văn cùng tướng Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh thạc đem quân
đi đánh. Đến Từ Liêm, Ngô Xương Văn mưu với hai tướng đem quân
trở về bắt Dương Tam Kha. Ngô Xương Văn nghĩ tình cậu cháu không
nỡ giết chỉ giáng Tam Kha xuống làm Chương Dương công.
Hậu Ngô Vương ( 950 – 965)
Ngô Văn Xương gạt bỏ Dương Tam Kha xưng là Nam Tấn Vương
và sai người tâm phúc đi đón anh là Ngô Xương Ngập về cùng trông
coi việc nước, Ngô Xương Ngập xưng là thiên Sách vương. Cả hai anh
em đều là vua, sử gọi là Hậu Ngô Vương.
Làm vua được ít lâu, thiên Sách vương nghĩ cách trừ Nam Tấn vương
để một mình làm vua. Âm mưu đó chưa kịp thi hành thì năm Giáp
Dần ( 954) thiên Sách vương mất.
Đến lúc này, thì lực nhà Ngô ngày một suy yếu, thổ hào các nơi xưng
là sứ quân ra sức chống đối buộc Nam Tấn vương phải thân chinh đi
đánh dẹp. Năm Ất Sửu ( 965), trong một trận giao chiến ở Thái Bình (
Đường Lâm, Sơn Tây), Nam Tấn vương không may bị bắn chết, làm
vua được 15 năm. Con thiên Sách vương là Ngô Xương Xí nối nghiệp
làm vua về giữ đất Bình Kiều ( Thanh Hóa).
Như vậy, triều Ngô bắt đầu từ Ngô Quyền, qua Ngô Xương Ngập, Ngô
Xương Văn đến Ngô Xương Xí, truyền được ba đời, kéo dài 26 năm.
Đến Ngô Xương Xí trong nước cá cả thảy 12 sứ quân, gây ra loạn lạc
nồi da nấu thịt kéo Dài hơn 20 năm, 12 sứ đó là :
1. Ngô Xương Xí, giữ Bình Kiều,(Triệu Sơn Thanh Hóa)
2. Đỗ Cảnh thạc giữ Đỗ Động Giang ( Thanh Oai – Hà Tây)
3. Trầm Lãm giữ Bố Hải Khẩu( Kỳ Bố - Thái Bình )
4. Kiều Công Hãn giữ Phong Châu ( Bạch Hạc – Phú Thọ)
5 Nguyễn Khoan giữ Tam Đái ( Vĩnh Tường – Vĩnh Phúc)
6. Ngô Nhật Khánh giữ Đường Lâm ( Hà Tây)
7. Lý Khê giữ Siêu Loại ( Thuận Thành – Bắc Ninh)
8. Nguyễn Thủ Tiệp giữ Tiên Du ( Bắc Ninh)
9. Lữ Đường giữ Tế Giang ( Văn Giang – Hưng Yên)
10 . Nguyễn Siêu giữ Tây Phù Liệt ( Thanh Trì – Hà Nội)
11. Kiều Thuận giữ Hởi Hồ ( Cẩm Khê – Phú Thọ )
12. Phạm Bạch Hổ giữ Đằng Châu ( Hưng Yên)
Những sứ quân ấy cứ đánh lẫn nhau, nhằm bành trướng thế lực khiến
cho nhân dân vô cùng khổ sở. Về sau, Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư dẹp loạn
sứ, quy giang sơn về một mối, lập nên cơ nghiệp nhà Đinh.
Nhà Đinh Và Sự Thống Nhất Nước Nhà
ĐINH TIÊN HOÀNG (968 – 979)
Niên hiệu : Thái Bình ( 970 – 979)
Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư, Châu Đại Hoàng ( Hoa Lư – Ninh
Bình), con Đinh Công Trứ, một nha tướng của Dương Đình Nghệ giữ
chức thứ sử Châu Hoan. Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về
quê ở, thường đi chơi với trẻ chăn trâu, bắt chúng khoanh tay làm
kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận đánh
nhau.
Lớn lên, nhờ thông minh, có khí phách lại có tài thao lược nên khi Bộ
Lĩnh dựng cờ dấy nghĩa mong lập nghiệp lớn, dân làng theo ông rât
đông. Nhưng vì bất hòa với chú, Bộ Lĩnh cùng con là Đinh Liễn sang ở
với sứ quân Trần Minh Công ở Bố Hải Khẩu ( Vũ Thư – Thái Bình ).
Thấy Bộ Lĩnh là người khôi ngô, có chí khí. Minh Công trao cho Bộ
Lĩnh giữ binh quyền. Khi Trần Minh Công qua đời, Bộ Lĩnh đem quân
về giữ Hoa Lư, chiêu mộ hào kiệt, hùng cứ một phương. Năm Tân Hợi
( 951) đời hậu Ngô vương, Nam Tấn vương cùng thiên Sách vương
đem quân đến đánh nhưng cả hai đều bị đại bại phải rút quân về. Đến
khi nhà Ngô mất, Đinh Bộ Lĩnh dụ hàng được các sứ quân Ngô Xương
Xí, phá được đỗ Động của Nguyễn Cảnh Thạc. Từ đó, Đinh Bộ Lĩnh
đánh đâu được đấy, được tôn là Vạn thắng vương. Chỉ trong một năm,
Đinh Bộ Lĩnh đã bình được các sứ quân, lập thành nghiệp đế.
Năm Mậu Thìn ( 968) Vạn thắng vương lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu là
Tiên Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cổ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Đinh
Tiên Hoàng xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàng quan văn,
quan võ, phong cho Nguyễn Bặc là Đinh Quốc Công, Lê Hoàn làm
thập Đạo tướng quân ( tổng chỉ huy quân đội) và phong cho con là
Đinh Liễn là Nam Việt vương.
Về ngoại giao, để tránh cuộc đụng độ với nhà Tống năm Nhâm Thân (
972) Đinh Tiên Hoàng sai còn là Đinh Liễn mang đồ vật sang cống.
Vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận
vương và phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân Tiết
độ sứ An Nam đô hộ.
Từ đó nước ta giữ lệ sang triều cống phương Bắc. Đinh Tiên Hoàng đã
dẹp loạn sứ quân. Nhưng nhìn chung nhiều nơi vẫn chưa tuân theo
luật lệ của triều đình. Bởi vậy để răn đe kẻ phản loạn. Đinh Tiên
Hoàng đặt vạc dầu ở trước điện, nuôi hổ báo trong vườn, tuyên cáo
rằng ai phạm tội thì bỏ vạc dầu hoặc cho hổ báo ăn thịt. Dù chưa phải
dùng hình phạt ấy nhưng mọi người đều sợ oai, phép nước được tuân
thủ.
Nhưng rồi Đinh Tiên Hoàng phạm sai lầm bỏ trưởng lập ấu, cho con út
là Hạng Lang làm
Thái tử. Con trưởng là Nam Việt vương Đinh Liễn đã theo Tiên Hoàng
đi trận mạc từ thủa hàn vi, không được kế vị, tức giận, sai người giết
Hạng Lang đi. Hoạn loạn gây nên ngay trong hoàng tộc.
Năm Kỷ Mão ( 979) Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt vương Đinh Liễn bị
tên Đỗ thích giếtt chết. Đỗ thích trước làm Lại, đêm nằm mơ thấy sao
rơi vào mồm, tưởng là điềm báo được làm vua, bèn định bụng hại
minh chủ. Một hôm, Đỗ thích thấy vua Đinh say rượu nằm trong cung
bèn lẻn vào sát hại rồi tìm giết nốt con cả là Đinh Liễn. Triều thần bắt
được Đỗ thích đem xử tội và tôn Vệ vương Đinh Toàn lên làm vua.
Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi.