
52/82
4.2. Giới thiệu mô hình vi mô-vĩ mô
Giới thiệu mô hình EGC
Ma trận hạch toán xã hội (MCS) được sử dụng trong mô hình này đã được xây dựng từ
ma trận hạch toán xã hội được CIEM xây dựng cho năm 2000 (Jensen, 2004) và từ các
dữ liệu của cuộc điều tra VHLSS 2004. Trong nghiên cứu này, mức độ phân tách của
ma trận là như sau21 :
- 31 hoạt động / 31 hàng hoá (Phụ lục B) ;
- 14 yếu tố sản xuất trong đó có 12 loại lao động (nông thôn/đô thị, nam giới/nữ
giới, 3 mức tay nghề) ;
- 4 nhóm tài khoản (1 hộ gia đình, 1 doanh nghiệp, Nhà nước, phần còn lại của
thế giới) ;
- một tài khoản Tiết kiệm-Đầu tư.
Nghiên cứu ma trận hạch toán xã hội của CIEM cho thấy tiểu ma trận về thanh toán giá
trị gia tăng cho các yếu tố sản xuất - đặc biệt là thanh toán cho các loại lao động - thể
hiện tính đều đặn nhân tạo (cấu trúc tương tự của các dòng giá trị gia tăng đến từ 31
hoạt động và rót vào các loại lao động khác nhau), điều này giả thiết tất cả các dòng đều
đã được định cỡ từ một cấu trúc « trung bình » khi xây dựng ma trận hạch toán xã hội.
Tính đều đặn này, ngoài khía cạnh không thực tế của nó, còn đặt ra một số vấn đề
khác, vì mọi cú sốc dẫn đến việc tái phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành đều
làm tăng mức thù lao tương ứng của các yếu tố sản xuất, và từ đó dẫn đến việc đánh
giá thấp những tác động của cú sốc đó đối với tình hình phân phối thu nhập.
Vấn đề phân phối thu nhập là vấn đề trung tâm của nghiên cứu này. Do vậy, cần phải
« điều chỉnh » ma trận hạch toán xã hội bằng cách xây dựng một tiểu ma trận (Yếu tố
sản xuất-Hoạt động) có tính thực tế hơn. Công việc này thực hiện được là nhờ việc sử
dụng các dữ liệu của cuộc điều tra VHLSS 2004 về đặc điểm, ngành nghề hoạt động và
tiền lương của từng cá nhân. Từ những thông tin này, cấu trúc của các dòng của ma
trận (Yếu tố sản xuất-Hoạt động) đã được định cỡ lại nhờ một số những điều chỉnh do
việc phân tách các ngành của ma trận hạch toán xã hội không tương ứng với việc phân
tách các mã hoạt động của VHLSS.
Mô hình. Mã của mô hình được sử dụng là do CIEM cung cấp và tương ứng với mô
hình chuẩn của IFPRI (Löfgren, 2001). Mô hình này là một mô-đun vĩ mô của mô hình vĩ
mô-vi mô. Trong phiên bản hiện nay, mô hình này là một mô hình đa ngành tĩnh cho
phép lựa chọn các thị trường các yếu tố sản xuất trong một số lượng hạn chế các cơ sở
kinh tế vĩ mô và các cơ sở chuẩn (mềm dẻo hoàn toàn hoặc cứng nhắc hoàn toàn).
Mô hình cũng đã có nhiều cải thiện. Các nội dung được cải thiện gồm:
- mô hình hoá ngoại thương, đặc biệt là nhu cầu xuất khẩu;
- mô hình hoá thị trường lao động, đặc biệt là đưa vào các yếu tố cứng nhắc về tiền
lương (đường cong Phillips).
21 Ma trận hạch toán xã hội do CIEM xây dựng bao gồm 112 ngành, nhưng xét những vấn đề về mặt đối
chiếu, cả ở tầm vĩ mô (cú sốc do CEPII cung cấp) và vi mô (dữ liệu của VHLSS), mức độ phân tách này là
quá cao, và do vậy, người ta đã sử dụng cách tích hợp kém chi tiết hơn cho MCS.

53/82
Việc đưa hàm nhu cầu xuất khẩu vào mô hình cho phép tính đến thực tế là tỷ trọng xuất
khẩu của Việt Nam trong thương mại thế giới bị ảnh hưởng bởi nhiều loại hàng rào, đặc
biệt là các hàng rào phi thuế quan (hạn ngạch) trong ngành dệt. Việc Việt Nam gia nhập
WTO sẽ giúp dỡ bỏ các hàng rào này và làm tăng nhu cầu xuất khẩu (xem Phần 2). Mô
phỏng tác động này có thể thực hiện được nhờ việc vận dụng các thông số của hàm
nhu cầu xuất khẩu. Hàm cầu xuất khẩu được lập cho mỗi sản phẩm C :
C
C
C
CC PED
pwe
qedQED
η
⎟
⎟
⎠
⎞
⎜
⎜
⎝
⎛
=.
0
Trong đó C
QED cầu xuất khẩu sản phẩm C
0
C
qed là cầu xuất khẩu sản phẩm C vào năm cơ sở
C
pwe là giá thế giới của sản phẩm C tính bằng tiền địa phương
C
PED là giá trong nước của sản phẩm C khi xuất khẩu
C
η
là hệ số co giãn của giá so với cầu xuất khẩu sản phẩm C
(Hệ số co giãn Armington)
Liên quan đến sự vận hành của thị trường lao động, mô hình mô tả một thị trường bị
phân đoạn khá nhiều, vì xem xét tới 12 loại lao động. Trong phiên bản chuẩn của mô
hình, tỷ lệ tiền lương được kết hợp với từng yếu tố sản xuất và thị trường lao động có
thể được biểu diễn theo hai cách:
- tỷ lệ lương mềm dẻo và cho phép cân bằng cung và cầu đối với mỗi loại lao
động phù hợp với giả thiết sử dụng hết tất cả các yếu tố sản xuất;
- tỷ lệ lương cố định và cân bằng cung-cầu được thực hiện nhờ điều chỉnh cầu
lao động phù hợp với giả thiết không sử dụng hết các yếu tố sản xuất.
Việc đưa vào đường cong lương (loại đường cong Philip) cho phép đưa ra một cách
biểu diễn trung gian về thị trường lao động. Nói một cách cụ thể hơn, cân bằng cung-
cầu được thực hiện nhờ điều chỉnh cả mức lương và cung lao động. Đường cong lương
được viết như sau :
()
(
)
(
)
FFFFF WGAUAAWF log3log21log
+
+=
Trong đóF
WF là tỷ lệ lương của yếu tố F
F
A1, F
A2 và F
A3 là các tham số của đường cong
F
U là mức thất nghiệp của yếu tố F
F
WG là tỷ lệ lương của yếu tố F trong hàm
Liên quan đến cơ sở kinh tế vĩ mô của mô hình, có thể có nhiều sự lựa chọn. Cơ sở
kinh tế vĩ mô của mô hình bao gồm tổng thể các quy tắc cho phép thực hiện sự cân
bằng kinh tế vĩ mô của mô hình. Trong mô hình được chúng tôi sử dụng, có 3 quy tắc
loại này :
1. cân bằng ngân sách có thể được thực hiện nhờ điều chỉnh tiết kiệm của Chính
phủ hoặc nhờ điều chính thu ngân sách của Chính phủ;
2. cân bằng cán cân vãng lai có thể được thực hiện nhờ điều chỉnh tỷ giá hối đoái
thực tế hoặc điều chỉnh tỷ lệ tiết kiệm nước ngoài;

54/82
3. cân bằng tiết kiệm-đầu tư có thể được thực hiện nhờ điều chỉnh đầu tư hoặc
điều chỉnh tiết kiệm của một trong các tác nhân của mô hình.
Giới thiệu mô hình mô phỏng vi mô
Các dữ liệu. Xét khía cạnh vi mô, đã thống nhất xây dựng mô hình mô phỏng vi mô
thuộc loại kế toán vi mô (không có hành vi ứng xử) từ các dữ liệu của cuộc điều tra
VHLSS 2004. Cơ sở kinh tế vi mô chứa đựng các cấu trúc sau:
- cấu trúc thu nhập từ tiền lương theo loại lao động (12) ;
- cấu trúc thu nhập không từ tiền lương theo ngành (31) ;
- cấu trúc thu nhập ngoài hoạt động (6) ;
- cấu trúc tiêu dùng theo loại sản phẩm (31).
Nhóm mẫu đầy đủ của cuộc điều tra VHLSS 2004 chứa khoảng 45 000 hộ gia đình,
nhưng những số liệu về chi tiêu cho tiêu dùng chỉ được thu thập cho 9 000 hộ. Như vậy,
chỉ có 9 000 hộ gia đình này được đưa vào mô hình.
Mô hình. Nghiên cứu tác động của cú sốc có liên quan đối với tình hình phân phối thu
nhập dựa trên sự so sánh giữa sự phân phối chỉ số hài lòng tại năm gốc (trước cú sốc)
và sự phân phối chính chỉ số này sau cú sốc. Chỉ số hài lòng được sử dụng ở đây là thu
nhập theo đầu người. Mô hình mô phỏng vi mô xuất phát từ sự phân phối quan sát
được trong các dữ liệu VHLSS 2004 và mô phỏng một sự phân phối mới xuất phát từ
việc cập nhật các loại thu nhập của các hộ gia đình dựa trên cơ sở những biến động tạo
ra từ mô hình EGC. Sự cập nhật này dựa trên mô hình thu nhập sau:
Hoặc hhincpc0 thu nhập theo đầu người tại năm gốc được xác định như là tổng của của
các loại thu nhập chia cho quy mô của hộ gia đình:
hhincpc0 = (hhwageinc0 + hhselfinc0 + hhnlabinc0)/hhsize
hoặc hhwageinc0 là thu nhập từ các hoạt động có lương tại năm gốc
hhselfinc0 là thu nhập từ các hoạt động độc lập tại năm gốc
hhnlabinc0 là những khoản thu nhập ngoài hoạt động tại năm gốc
hhsize là quy mô của hộ gia đình
Cụ thể hơn, ba loại thu nhập này được thể hiện như sau
hhwageinc0 = Σf wt0(f) ở đó f = 1 đến 12
hhselfinc0 = Σa revb0(a) ở đó a=1 đến 31
hhnlabinc0 = revdivid0 + revtrpub0 + revtrpri0 + revremit0 + revimmob0 +
revterre0
ở đó wt0(f) là thu nhập từ lương thu được từ yếu tố f tại năm gốc
revb0(a) là thu nhập từ hoạt động độc lập a tại năm gốc
revdivid0 là thu nhập từ tài sản tài chính tại năm gốc
revtrpub0 là tổng các khoản chuyển giao công cộng tại năm gốc
revtrpri0 là tổng các khoản chuyển giao tư nhân nội địa tại năm gốc
revremit0 là tổng các khoản chuyển giao tư nhân nước ngoài tại năm gốc
revimmob0 là thu nhập từ tài sản là bất động sản (trừ đất đai) tại năm gốc
revterre0 là thu nhập từ cho thuê đất tại năm gốc

55/82
Tình toán thu nhập theo đầu người được mô phỏng dựa trên việc mô phỏng các loại thu
nhập khác nhau và mô phỏng chỉ số giá đặc thù cho phép tính đến sự khác nhau về cấu
trúc tiêu dùng của các hộ gia đình. Mô phỏng các yếu tố thu nhập khác nhau được thực
hiện dựa trên các dữ liệu của năm gốc và những biến động về giá và chất lượng do mô
hình EGC sinh ra (xem danh mục các biến liên hệ vĩ mô-vi mô trong Phụ lục D).
Như đã nêu trong phần giới thiệu mô hình EGC, có thể xây dựng nhiều cơ sở cho thị
trường lao động. Trong trường hợp điều chỉnh thị trường lao động theo giá và theo khối
lượng, thì cần phải tìm được một quy tắc cho phép phân chia ở cấp độ hộ gia đình (cấp
độ vi mô) kết quả tăng trưởng giá trị gia tăng trả công cho 12 yếu tố lao động trong các
ngành khác nhau (cấp độ vĩ mô). Sự tăng trưởng này có hai thành phần: tăng khối
lượng lao động và tăng lương (giá). Giải pháp được đưa ra là tính đến tỷ lệ thiếu việc
làm ở cấp độ mỗi hộ gia đình để phân bổ các biến động phát sinh từ sự thay đổi khối
lượng lao động. Quy tắc phân bổ mức tăng thời gian lao động được trình bày trong Phụ
lục C.
Mô hình EGC và mô hình mô phỏng vi mô được sử dụng kết tiếp nhau:
- trước tiên, cú sốc có liên quan được mô phỏng với mô hình EGC ;
- đối với mỗi mô phỏng, mô hình này sản sinh ra một véctơ biến động một số
biến nhất định ;
- các véctơ này tạo thành các cú sốc được đưa vào các mô phỏng của mô hình
mô phỏng vi mô.
Tất cả các biến này cũng như sự đối chiếu giữa các biến vĩ mô và vi mô được trình bày
trong Phụ lục D.
4.3. Phân tích các mô phỏng
Trong phần nhỏ thứ ba, chúng tôi trình bày các kịch bản mô phỏng dựa trên mô hình mô
phỏng vi mô (Bảng 15) và các kết quả chính của mô phỏng, cả trên quan điểm kinh tế vi
mô cũng như kinh tế vĩ mô (Bảng 16 đến 21).
Các kịch bản mô phỏng dựa trên mô hình
Trong khuôn khổ mô hình được sử dụng cho nghiên cứu, chúng tôi phân tích ba loại cú
sốc kinh tế được coi là những cú sốc chính có thể xay ra sau khi gia nhập WTO:
- giảm thuế nhập khẩu; việc giảm thuế tương ứng với những cam kết của Việt
Nam về cắt giảm bảo hộ hải quan (thuế quan hoặc phi thuế quan) ;
- tăng nhu cầu xuất khẩu sản phẩm của Việt Nam ; do các thành viên WTO cắt
giảm bảo hộ tương ứng với mức độ cam kết tự do hoá của Việt Nam (đặc biệt là
việc Mỹ xoá bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may) ;
- tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ; sự gia tăng này (đã quan sát được, xem
Phần 1) gắn với việc cải thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam đối với các tập
đoàn đa quốc gia sau khi Việt Nam gia nhập WTO (ít ràng buộc và hạn chế hơn
đối với đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp xuất khẩu tiếp cận thị trường nước
ngoài dễ dàng hơn...).

56/82
Các kịch bản 1 và 2 được định cỡ dựa trên các cú sốc ngoại sinh được mô hình hoá bởi
CEPII (kết hợp các cú sốc về thuế quan và cầu xuất khẩu), tương ứng với hai loại cú
sốc đầu ở trên.
Bên cạnh các cú sốc đồng thời này, chúng tôi bổ sung thêm cú sốc tăng đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp (Kịch bản 3 và 4). Sự gia tăng đầu tư nước
ngoài sẽ góp phần tăng lượng vốn sẵn có trong các lĩnh vực có đầu tư nước ngoài. Tuy
nhiên, mô hình của chúng tôi là một mô hình tĩnh, nên không có mô hình hoá trực tiếp
các dòng đầu tư vốn bổ sung. Các dòng đầu tư này chỉ đơn thuần là một hình thức khác
của cầu trên thị trường hàng hoá. Các dữ liệu về cơ cấu vốn công nghiệp ở Việt Nam
cho thấy người nước ngoài nắm giữ khoảng 35% vốn trong các ngành công nghiệp. Sự
gia tăng gấp đôi nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sắp tới sẽ làm tăng thêm
khoảng 35% lượng vốn trong các ngành công nghiệp. Chúng tôi mô hình hóa cú sốc
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên cơ sở đưa vào sự gia tăng này22.
Về cơ sở kinh tế vĩ mô, các quy tắc được sử dụng trong tất cả các kịch bản là các quy
tắc sau :
- cân bằng tiết kiệm-đầu tư được thực hiện thông qua điều chỉnh đầu tư;
- cân bằng ngân sách được thực hiện thông qua điều chỉnh tiết kiệm của Chính
phủ;
- cân bằng cán cân vãng lai được thực hiện thông qua điều chỉnh tỷ giá thực tế.
Mỗi mô phỏng được xem xét dưới hai giả thiết cơ sở của thị trường lao động: đủ việc
làm (điều chỉnh thông qua lương) ; thiếu việc làm với tính cứng nhắc của tiền lương
(điều chỉnh thông qua lương và cung lao động), phản ánh rõ hơn phương thực vận hành
của thị trường lao động ở Việt Nam.
Tất cả các mô phỏng đều được thực hiện cho thời hạn 5 năm kể từ năm 2004, được coi
là năm cơ sở. Tất cả các kịch bản mô phỏng được giới thiệu trong Bảng 15 và các tham
số của các kịch bản này được trình bày tại Phụ lục E.
22 Trên thực tế, sự gia tăng đầu tư nước ngoài không chỉ tập trung trong lĩnh vực công nghiệp và có cả dịch
vụ (văn phòng, khách sạn, du lịch...). Tuy nhiên, do không có các số liệu về tỷ lệ góp vốn nước ngoài trong
các ngành này, cho nên khó đánh giá được mức gia tăng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ; do đó, chúng tôi
tạm thời chỉ tính đến tác động của sự gia tăng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành công nghiệp.