LUẬN VĂN:

Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây

dựng lối Sống mới cho sinh viên Việt nam

hiện nay

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Sinh viên là một lực lượng xã hội đặc thù, có vai trò hết sức quan trọng trong quá

trình phát triển của đất nước. Họ cũng là lực lượng kế tục và phát huy nguồn lực trí tuệ

của nước nhà, là lớp người đang trong quá trình hoàn thiện, khẳng định nhân cách và tài

năng của mình. Vị trí, vai trò của sinh viên Việt Nam trong bối cảnh hiện nay đang là

vấn đề thu hút sự quan tâm, chú ý cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn, không

chỉ của các nhà nghiên cứu mà còn đối với các nhà lãnh đạo quản lý, các tổ chức, cơ

quan giáo dục - đào tạo.

Cùng với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở

rộng quan hệ quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá, lối sống của sinh viên Việt Nam đang

có nhiều biến đổi. Những thành tựu to lớn trong sự nghiệp đổi mới đã củng cố niềm tin

của nhân dân nói chung, của sinh viên nói riêng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội

dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hàng loạt các giá trị mới được hình

thành, góp phần làm đa dạng, phong phú lối sống của các tầng lớp nhân dân, trong đó

có đội ngũ học sinh, sinh viên nước nhà. Sự tác động của quá trình phát triển kinh tế thị

trường và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã làm cho các cá nhân, các nhóm xã

hội năng động, cởi mở và giàu khả năng thích nghi với những biến đổi của môi trường

trong nước và quốc tế. Giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng đã và đang tạo điều kiện

cho sinh viên tiếp thu các giá trị tốt đẹp từ lối sống của các dân tộc khác để bổ sung và

không ngừng hoàn thiện nhân cách, lôi sống của mình.

Tuy nhiên, bối cảnh mới cũng đồng thời đặt ra nhiều thách thức với vấn đề lối

sống và việc xây dựng lối sống mới, đặc biệt là vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị

đạo đức truyền thống vào quá trình xây dựng lối sống mới cho sinh viên hiện nay. Hiện

tượng suy thoái đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và sinh viên đã

và đang diễn ra hết sức phức tạp. Tiêu cực xã hội có chiều hướng gia tăng, đời sống văn

hoá tinh thần, nhất là sự xuống cấp về tư tưởng, đạo đức, lối sống, khuynh hướng muốn

hiện đại hoá theo kiểu Tây hoá, Mỹ hoá, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, lãng

quên truyền thống cha ông để lại... đã xuất hiện ở một bộ phận không nhỏ trong thanh

niên, sinh viên. Tại Hội nghị BCH TW lần thứ mười, khoá IX, Đảng ta nhấn mạnh:

“tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng các tệ nạn xã hội và

tội phạm, đáng lo ngại nhất là trong giới trẻ”[4, tr.14].

Đại hội Đại biểu toàn Hội sinh viên Việt Nam lần thứ VIII (tháng 2- 2009) đã

đánh giá:

Sinh viên Việt Nam đã phát huy được những ưu điểm và truyền thống

tốt đẹp của các thế hệ sinh viên đi trước, thi đua học tập, rèn luyện, tiếp thu

tiến bộ khoa học, công nghệ, chủ động tiếp thhu nét đẹp của sinh viên quốc

tế, tạo nên lớp sinh viên những năm đầu thế kỷ XXI mang tính cách truyền

thống và thời đại.....Tuy nhiên, nhiều sinh viên còn mang nặng tính bình quân

chủ nghĩa...., một bộ phận sinh viên chưa xác định được mục tiêu, động cơ

học tập đúng đắn, thiếu kiên trì, quyết tâm, chưa chăm chỉ học tập, thiếu

trung thực trong thi cử, kiểm tra, chưa thể hiện rõ ước mơ, hoài bão, thụ

động, thiếu ý chí vươn lên, ứng xử kém, tinh thần trách nhiệm xã hội còn hạn

chế, có những biểu hiện chưa tốt về lối sống , mắc tệ nạn xã hội, vi phạm

pháp luật, một bộ phận sinh viên còn dễ bị lợi dụng, lôi kéo vào những hoạt

động với mục đích xấu [2, tr 2-3].

Đứng trước thực trạng đó, việc xây dựng lối sống mới- lối sống xã hội chủ nghĩa-

cho sinh viên cũng như tìm hiểu những nhân tố tác động đến lối sống của sinh viên Việt

Nam hiện nay có tính cấp thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn:

“Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam

hiện nay làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Vấn đề truyền thống và giáo dục giá trị truyền thống đã từng thu hút sự chú ý,

quan tâm của các nhà lãnh đạo, quản lý giáo dục, của giới lý luận trong và ngoài nước

Đảng cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng luôn chú trọng và phát huy

các giá trị truyền thống của dân tộc và đã tạo ra được sức mạnh to lớn trong sự nghiệp

đấu tranh giải phóng dân tộc và trong công cuộc xây dựng CNXH . Nhiều chủ trương,

đường lối nhằm phát huy giá trị truyền thống dân tộc của Đảng đã được thể hiện trong

các văn kiện của nhiều kỳ đại hội, đặc biệt là đại hội VII, VIII, IX, X và các Nghị quyết

khác của Trung ương.

Đã có những công trình chuyên khảo nghiên cứu về truyền thống và giá trị truyền

thống Việt Nam trong công cuộc đổi mới, trong sự nghiệp CNH, HĐH, đã đi sâu vào

phân tích những thách thức và cơ hội của toàn cầu hoá đối với việc giữ gìn và phát huy

các giá trị truyền thống trước thách thức toàn cầu hoá. Trong đó tiêu biểu có các công

trình: “ Giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam” do Trần Văn Giàu chủ biên, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội, 1980. Trong cuốn sách này, các tác giả đã phân tích các giá trị tinh

thần truyền thống Việt Nam, đặc biệt là “chủ nghĩa yêu nước” Việt Nam- cái làm nên

bản sắc, tinh thần, cốt cách Việt Nam; “ Biện chứng của truyền thống” của Hà Văn Tấn,

Tạp chí Cộng sản, số 3- 1981; “ Về truyền thống dân tộc” của Trần Quốc Vượng, Tạp

chí Cộng sản, số 3- 1981; “Cái truyền thống và cái hiện đại trong sự nghiệp xây dựng

con người mới ở nước ta” của Đỗ Huy, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 5- 1986;

“ Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, một nhu cầu phát triển của xã hội hiện

đại” của Lương Quỳnh Khuê, Tạp chí Triết học, số 4- 1992; “ Tìm hiểu định hướng giá

trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường”, do Thái Duy Tuyên chủ

biên, Hà Nội, 1994; “ Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị” do

Nguyễn Quang Uẩn chủ biên, tháng 4- 1995; “ Sự biến đổi định hướng giá trị của thanh

niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường” của Thái Duy Tuyên, Tạp chí Triết

học, số 5- 1995; “ Quan hệ kinh tế và đạo đức trong việc định hướng các giá trị đạo

đức hiện nay” của Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Triết học, Số 6- 1996; “ Sự tác động hai

mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý” của Nguyễn Tĩnh Gia,

Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 2- 1997; “ Định hướng xã hội chủ nghĩa về các quan hệ

đạo đức trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay” của Đỗ Huy, Tạp chí Triết học, số

5- 1998; “ Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức trong

nền kinh tế thị trường” của Hoàng Trung, Tạp chí Triết học, số 5 – 1998; “Vấn đề khai

thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển” của Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí

Triết học, số 2- 1998. “ Vì sao Hồ Chí Minh lại đặc biệt chú trọng đến vấn đề đạo

đức?” của Hoàng Trung, Tạp chí triết học, số 4- 2000; “ Kế thừa và đổi mới các giá trị

đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

hiện nay”, Luận án tiến sỹ triết học của Nguyễn Văn Lý, 2000; “ Giá trị đạo đức và sự

biểu hiện của nó trong đời sống xã hội” của Mai Xuân Lợi, Tạp chí Triết học, số 3-

2001; ; “ Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo

đức trong nền kinh tế thị trường” của Trần Nguyên Việt, Tạp chí Triết học, số 5- 2000;

“ Kế thừa tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện

nay” của Lê Sỹ Thắng, Tạp chí Triết học, số 5- 2002; “ Một số biểu hiện của sự biến

đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc

phục” của Nguyễn Đình Tường, Tạp chí Triết học, số 6- 2002; “ Khoa học công nghệ

và đạo đức trong nền kinh tế thị trường” của Nguyễn Đình Hoà, Tạp chí Triết học, số 6

– 2002; “ Từ cái thiện truyền thống đến “ cái thiện” trong cơ chế thị trường ở Việt Nam

hiện nay” của Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí triết học, số 8 – 2002; “ Quan hệ biện chứng

giữa truyền thống với hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên hiện nay”, Luận

án tiến sỹ triết học của Lê Thị Hoài Thanh, 2002; “ Tiêu chuẩn đạo đức của người cán

bộ lãnh đạo chính trị hiện nay” của Trần Văn Phòng, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5 –

2003.....

Một số công trình khác đã đi sâu vào nghiên cứu giáo dục truyền thống, kết hợp

giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đào tạo, bước đầu đã đưa ra một số giải

pháp giáo dục truyền thống cho thanh niên, học sinh, sinh viên, như: “ Giáo dục đạo

đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn

hiện nay”, Luận án tiến sỹ Triết học của Trần Sỹ Phán, 1999; “ Tình cảm đạo đức và

giáo dục tình cảm đạo đức trong điều kiện hiện nay”, Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết

học, số 6-2000; “Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên

trong điều kiện hiện nay” của Đoàn Văn Khiêm, Tạp chí Triết học, số 2- 2001; “ Kết

hợp chặt chẽ giáo dục lý luận với xây dựng đạo đức mới của người cán bộ lãnh đạo

quản lý” của Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 4- 2001; “ Giáo dục

truyền thống cho thanh niên”, Lương Ngọc, Nxb Thanh niên, HN, 1992; “ Kết hợp

truyền thống và hiện đại trong quá trình đổi mới giáo dục đào tạo ở Việt Nam hiện

nay”, Luận án tiến sỹ của Nguyễn Lương Bằng, 2001.

Vấn đề lối sống, đã có một số công trình đề cập đến, như: “ Lối sống xã hội chủ

nghĩa” của các tác giả Liên Xô cũ và cộng hoà dân chủ Đức ( sách dịch), Nxb Sự thật,

1982; “ Chủ nghĩa xã hội và nhân cách”, 2 tập, của các giả Liên Xô cũ (sách dịch), Nxb

Sách giáo khoa Mác- Lênin, HN, 1993; “ Con người- những ý kiến mới về một đề tài

cũ” của liên Xô cũ (sách dịch), Nxb Sự thật, 1987; “ Một số vấn đề về lối sống, đạo

đức, chuẩn mực giá trị xã hội”, Nxb CTQG, 2001 do Huỳnh Khái Vinh chủ biên. Trong

cuốn sách này, các tác giả đã bàn một cách sâu sắc phạm trù “lối sống”. Tìm hiểu sự tác

động của các nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội và xu hướng chuyển đổi lối sống ở nước

ta trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; “ Bàn về lối sống

và nếp sống xã hội chủ nghĩa”, Nxb Văn hoá, 1985, do Trần Độ chủ biên. Trong đó,

phần thứ nhất của cuốn sách bàn về lối sống và nếp sống xã hội chủ nghĩa. Phần hai, các

tác giả tập trung bàn về các giải pháp xây dựng lối sống, nếp sống xã hội chủ nghĩa.

Nhìn chung các công trình nghiên cứu, các bài viết trên đều ít nhiều đề cập đến

vấn đề lối sống và xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa cũng như kế thừa và phát huy các

giá trị đạo đức truyền thống vào xây dựng lối sống mới ở nước ta. Tuy nhiên, chưa có

một công trình nào trình bày một cách trực tiếp đến vai trò của các giá trị đạo đức

truyền thống dân tộc đối với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam trong

giai đoạn hiện nay.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn

3.1 Mục đích của luận văn

Từ việc phân tích sự ảnh hưởng của các giá trị đạo đức truyền thống đối với việc

xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay, tác giả đưa ra phương hướng

và một số giải pháp nhằm xây dựng lối sống mới cho sinh viên ở Việt Nam nói chung

và ở Nghệ An nói riêng.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn

Để đạt được mục đích trên luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:

- Phân tích ảnh hưởng của các giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối

sống mới cho sinh viên ở một số trường cao đẳng, đại học ở Nghệ An hiện nay.

- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu qủa

tác động của các giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối sống mới cho sinh

viên Việt Nam hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu ảnh hưởng, sự tác động của giá trị đạo đức truyền thống tới

việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Đạo đức, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống, vấn đề lối sống của thanh niên,

sinh viên là vấn đề phong phú nhưng phức tạp, đòi hỏi phải được nghiên cứu từ nhiều

góc độ, nhiều nhân tố tác động và nhiều khía cạnh khác nhau, trong phạm vi luận văn

này chúng tôi chỉ đề cập đến một số nhân tố cơ bản của các giá trị đạo đức truyền thống

tác động đến việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên trên địa bàn tỉnh Nghệ An.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức, giá trị đạo đức

truyền thống, về lối sống và xây dựng lối sống mới. Đồng thời luận văn kế thừa có chọn

lọc những thành tựu của một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và

chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp lịch sử và lôgic, phân tích và tổng

hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thể khác như: so sánh, thống

kê, điều tra xã hội học....

6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn

- Góp phần làm sáng rõ thêm bản chất và tầm quan trọng của các giá trị đạo đức

truyền thống đối với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt nam hiện nay.

- Chỉ ra sự tác động của các giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối

sống mới cho sinh viên ở một số trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Nghệ An.

Từ đó, đưa ra những luận cứ khoa học cho việc đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao

hiệu quả tác động của các giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối sống mới

cho sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên ở Nghệ An nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục, luận văn

được bố cục thành 2 chương, 4 tiết.

Chương 1

Giá trị đạo đức truyền thống và sự ảnh hưởng

của nó tới việc xây dựng lối sống mới

cho sinh viên Việt Nam hiện nay

1.1. Giá trị đạo đức truyền thống

1.1.1. Giá trị

Trước thế kỷ XIX, những kiến thức về giá trị học đã gắn liền với những tri thức

triết học. Đến đầu thế kỷ XX, giá trị học mới bắt đầu hình thành như một khoa học độc

lập. Khái niệm “giá trị” trở thành trung tâm của giá trị học. Ngoài ra, nó còn được sử dụng

trong các lĩnh vực như: triết học, xã hội học, tâm lý học, đạo đức học, kinh tế học...với

những nội dung rộng, hẹp khác nhau.

Xung quanh khái niệm “giá trị” cũng có nhiều cách hiểu khác nhau do xuất phát

từ góc độ tiếp cận và nhằm những mục đích không giống nhau. Song, có thể thấy những

điểm chung được đề cập đến trong quan niệm về “giá trị”, đó là:

Thứ nhất, giá trị là ý nghĩa của những hiện tượng vật chất hay tinh thần có khả

năng thoả mãn nhu cầu tích cực của con người, là những thành tựu góp phần vào sự

phát triển của xã hội. Như vậy, việc khẳng định nội dung của giá trị đã bao hàm trong

nó sự phân biệt với các sự vật, hiện tượng mà ta gọi là “phản giá trị”, “vô giá trị”- tức là

những gì đi ngược lại sự phát triển của lịch sử, ngăn cản sự tiến bộ của xã hội.

Thứ hai, giá trị có tính lịch sử - khách quan, nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại hay mất

đi của một giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý thức của con người ,mà do yêu cầu của

từng thời đại lịch sử, trong đó có con người sống và hoạt động.

Thứ ba, giá trị chứa đựng các yếu tố nhận thức, tình cảm, hành vi của chủ thể

trong quan hệ với sự vật, hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự đánh giá, lựa chọn của

chủ thể đối với sự vật, hiện tượng ấy.

Thứ tư, giá trị được xác định trong mối quan hệ thực tiễn với con người, được xác

định bởi sự đánh giá đúng đắn của con người, xuất phát từ thực tiễn và được kiểm tra bằng

thực tiễn. Thực tiễn “ vừa là tiêu chuẩn của chân lý về bản chất của khách thể, vừa là tiêu

chuẩn chân lý về giá trị của khách thể” [50, tr 29]. Theo V.I.Lênin : “....toàn bộ thực tiễn

của con người,- thực tiễn này vừa với tính cách là tiêu chuẩn của chân lý, vừa với tính cách

là kẻ xác định một cách thực tế mối liên hệ giữa sự vật với những điều cần thiết đối với

con người, cần phải được bao hàm trong “định nghĩa”” [52, tr 364].

Sự đánh giá đúng đắn của một giá trị không chỉ căn cứ vào nhu cầu, lợi ích của

chủ thể đánh giá mà còn phải căn cứ vào hiệu quả xã hội của hoạt động của chủ thể theo

đuổi những giá trị nhất định.

Thứ năm, giá trị đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người. Nó là

cái mà con người dựa vào để xác định mục đích, phương hướng cho hoạt động của

mình, là cái mà con người mong muốn được theo đuổi. Giá trị là cơ sở của các chuẩn

mực, quy tắc xác định cách thức hành động của con người. Nói cách khác, cách thức và

hành động của con người trong xã hội được chỉ đạo bởi các giá trị, người ta dựa vào các

giá trị được xã hội chấp nhận để lựa chọn cách thức suy nghĩ và hành động phù hợp

nhất. Giá trị là động cơ thúc đẩy hoạt động của con người vì các nguyện vọng và mục

đích của cá nhân đều được đối chiếu với các giá trị nằm trong cấu trúc của nhân cách.

Các giá trị, nhất là các giá trị chung, phổ biến, được coi như phương tiện cơ bản để tạo

nên sự liên kết, hợp tác của mọi thành viên trong nhóm, cộng đồng.

Nói đến giá trị tức là “muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là đã

bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp; là nói đến

cái khả năng thôi thúc con người hành động và nỗ lực vươn tới” [99,tr 16].

Trong việc nghiên cứu giá trị, do những mục đích cụ thể khác nhau mà người ta

thường phân loại giá trị theo cách của riêng mình. ở cấp độ chung nhất, các giá trị được

chia thành: giá trị vật chất và giá trị tinh thần.

Giá trị vật chất thường được thể hiện một cách rõ nét trong kinh tế, nó quyết định

sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Giá trị tinh thần là những phẩm chất đặc

biệt về trí tuệ, tình cảm, ý chí, nó được thể hiện trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, văn

hoá, nghệ thuật, phong tục tập quán... Từ đó, giá trị tinh thần được phân thành các loại

giá trị cơ bản như: giá trị khoa học, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ, giá trị chính trị. Giá

trị khoa học gắn với quá trình con người vươn lên nắm bản chất, quy luật của hiện thực

khách quan để ngày càng làm chủ những điều kiện sinh hoạt của mình. Giá trị thẩm mỹ

gắn với nhu cầu thưởng thức, đánh giá, hưởng thụ và sáng tạo cái đẹp trong cuộc sống

và trong nghệ thuật. Giá trị đạo đức gắn với nhu cầu điều chỉnh quan hệ giữa cá nhân và

xã hội theo hướng tạo nên sự thống nhất hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã

hội.Những giá trị tinh thần ăn sâu, bám rễ vào trong đời sống của nhân dân và chúng trở

thành những chuẩn mực để con người đánh giá, phân biệt cái đúng, cái sai, cái xấu, cái

đẹp trong đời sống hàng ngày, trong quan hệ giữa con người với xã hội, con người với

con người.

Giá trị đạo đức là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của đời sống xã hội và

được con người lựa chọn, nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi ứng xử giữa con người

với con người, con người với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi

truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Giá trị đạo đức biến đổi theo sự biến đổi

của đời sống xã hội.

Thực ra, sự phân chia giá trị như trên chỉ có ý nghĩa tương đối, vì các giá trị có

liên quan chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn, quyền công dân là một giá trị chính trị nhưng

cũng mang giá trị đạo đức. Giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ có khác biệt nhau: giá trị

đạo đức có quan hệ trực tiếp với những lợi ích xã hội nên bản chất xã hội của nó bộc lộ

một cách trực tiếp và rõ nét hơn giá trị thẩm mỹ, giá trị đạo đức là cơ sở của các chuẩn

mực điều tiết hành vi của con người còn các giá tri thẩm mỹ thoả mãn nhu cầu hưởng

thụ cái đẹp, đem lại cho con người những khoái cảm tinh thần, giá trị đạo đức thể hiện

rõ rệt trong các chuẩn mực đạo đức, còn các giá trị thẩm mỹ thể hiện tập trung trong các

hình tượng nghệ thuật...Tuy nhiên, giữa chúng có sự thống nhất nhau, vì chúng có

chung nguồn gốc từ lao động, đều phản ánh tồn tại xã hội và có vai trò to lớn trong

việc hình thành nhân cách, lối sống, văn hoá, đạo đức của con người.

Nghiên cứu sâu hơn về bản thân các giá trị, nếu xét theo chiều thời gian (lịch

đại), có thể phân thành giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Mỗi dân tộc đều có truyền

thống lịch sử của riêng mình. Truyền thống là điều kiện để duy trì và phát triển cuộc của

cộng đồng. Nó là sản phẩm của quá trình phát triển của mỗi dân tộc, mỗi dân tộc khác

nhau có truyền thống khác nhau. Thậm chí, cùng một dân tộc, qua từng giai đoạn lịch sử

khác nhau thì truyền thống cũng được biểu hiện dưới những sắc thái khác nhau. Tuyền

thống vừa mang tính cộng đồng lại vừa mang tính giai cấp. Theo đó, trong xã hội có

giai cấp, mỗi giai cấp đều góp phần mình tạo dựng nên truyền thống của dân tộc mình,

quốc gia mình. Trong truyền thống của mỗi dân tộc, có những truyền thống tốt nhưng

cũng có những truyền thống lạc hậu. Tiêu chuẩn đánh giá “truyền thống” là mức độ

đóng góp của nó vào sự tiến bộ xã hội, sự phù hợp với quy luật khách quan hay không.

Từ những phân tích trên, chúng ta có thể nhận dạng về truyền thống qua những

đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất, truyền thống là kết quả hoạt động vật chất và tinh thần của con người

trong quá khứ biểu hiện ở tính cách, phẩm chất, tư tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen

trong tư duy, lối ứng xử, tâm lý.

Thứ hai, truyền thống bao giờ cũng là truyền thống của một cộng đồng người (thị

tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc, dòng họ, gia đình, làng xã...), là bản sắc của cả cộng đồng

người.

Thứ ba, truyền thống được hình thành trong lịch sử do tác động của môi trường

tự nhiên và điều kiện địa lý, do tác động của quá trình lao động sản xuất và kết cấu kinh

tế xã hội, sự tác động thường xuyên của lịch sử, tác động của môi trường văn hoá khu

vực và thế giới.

Thứ tư, truyền thống có tính kế tục từ lớp người trước sang lớp người sau, nó ăn

sâu vào tâm lý, vào phong tục, tập quán, nếp nghĩ...của con người.

Như vậy, truyền thống có tính cộng đồng, tính ổn định và tính lưu truyền. Những

đặc trưng đó của truyền thống có tính độc lập tương đối, khi những cơ sở, điều kiện

hình thành nên truyền thống đã thay đổi thì sớm muộn nội dung của truyền thống cũng

dần biến đổi theo cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử mới. Truyền thống không

phải là một phạm trù khép kín mà là hệ thống mở. Cho nên, những giá trị được tạo ra

hôm nay và ngày mai nếu trở thành phổ biến và ăn sâu vào đời sống tâm lý, lối sống của

cộng đồng thì sẽ tạo ra truyền thống mới.

Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam là một bộ phận của hệ giá trị tinh thần

truyền thống của dân tộc Việt Nam, nó là nhân lõi, là sức sống bên trong của dân tộc.

Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa của dân tộc, được

xác định là các giá trị nhân văn mang tính cộng, là những chuẩn mực, những khuôn mẫu

lý tưởng, những quy tắc ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với tự

nhiên.

Xét trong mối tương quan với khu vực và thế giới, đặc biệt với các dân tộc ở

phương Đông, các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta có những nét tương đồng

với nhiều dân tộc khác vì các dân tộc trong quá trình hình thành và phát triển của mình

đều phải giải quyết những vấn đề chung như, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, ổn định và

phát triển xã hội...Mặt khác, sự giao lưu quốc tế và sự giao thoa giữa các nền văn hoá

diễn ra thường xuyên ở mức độ này hay mức độ khác, nhất là với những nước gần nhau

đã ảnh hưởng lẫn nhau một cách khá rõ nét. Tuy vậy, do đặc thù về điều kiện lịch sử

dân tộc mà sắc thái truyền thống của mỗi dân tộc là không giống nhau.

Trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam, giá trị đạo đức truyền thống là

một bộ phận thiết yếu, nổi lên hàng đầu, tạo nên cốt lõi của hệ giá trị tinh thần đó.

Chính vì vậy, khi nói đến những giá trị tinh thần của dân tộc ta, là nói đến những phẩm

chất tốt đẹp, quý báu đã được hình thành và bảo lưu trong suốt chiều dài lịch sử dựng

nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Giá trị đạo đức ruyền thống của dân tộc ta

được cô đúc, thử thách và tái tạo qua nhiều thế hệ khác nhau, theo những bước thăng

trầm của lịch sử. Nó chứa đựng một tiềm năng hết sức to lớn và bền vững, nó chính

là sức mạnh vốn có của dân tộc Việt Nam, giúp cho dân tộc ta tồn tại và phát triển.

Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta do chính cộng đồng người Việt Nam tạo

lập trong quá trình dựng nước và giữ nước, với tất cả những điều kiện lịch sử đặc thù

vốn có, đã tạo nên một bản sắc hết sức độc đáo cho dân tộc Việt Nam.

1.1.2. Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam

Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển

qua hàng ngàn năm lao động sáng tạo, chiến đấu kiên cường của cả dân tộc. Là kết quả

của sự thống nhất biện chứng giữa nhân tố chủ quan và yếu tố khách quan. Trong thời

gian qua, việc nghiên cứu để xác định các giá trị đạo đức truyền thống đã thu hút sự

quan tâm của nhiều học giả. Đó cũng là vấn đề phức tạp và có nhiều mặt phải nghiên

cứu. Nhưng đến nay vẫn chưa có sự thống nhất thật cao độ về cách sắp xếp các giá trị

đạo đức truyền thống Việt Nam.

Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt

Nam bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động, cần cù sáng tạo, trong

đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc.

Còn Giáo sư Trần Văn Giàu khi nói về giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc

Việt Nam lại sắp xếp: “Yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người,

vì nghĩa” [28, tr.108]

GS Nguyễn Hồng Phong lại nhận định: tính cách dân tộc gần như là tất cả nội

dung của giá trị đạo đức truyền thống, bao gồm: tính tập thể- cộng đồng, trọng đạo đức,

cần kiệm, giản dị, thực tiễn; tinh thần yêu nước bất khuất và lòng yêu chuộng hoà bình,

nhân đạo lạc quan.

Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn về công tác tư tưởng

hiện nay chỉ rõ: “ Những giá trị văn hoá truyền thống vững bền của dân tộc Việt Nam là

lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý “thương người như thể

thương thân”, đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động” [22, tr.19].

Tuy còn có sự khác biệt trong việc sắp xếp thang giá trị đạo đức truyền thống.

Nhưng nhìn chung, các ý kiến đều thống nhất ở một điểm coi chủ nghĩa yêu nước là bậc

thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nó là

“sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại” [28, tr.100], là

“tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị” [28, tr. 94], là “động lực tình cảm

lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo

đức của dân tộc ta” [60, tr.74].

Đối với dân tộc Việt Nam, tình yêu quê hương đất nước là một thứ tình cảm hết

sức thiêng liêng, nó xuất phát từ ý thức cộng đồng gắn bó keo sơn. Mỗi người dân Việt

Nam đều đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên hết, khi có giặc ngoại xâm thì sẵn sàng hy sinh

thân mình, lúc hoà bình thì biết chăm lo xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước. Lòng

yêu nước của dân tộc đã trở thành một triết lý sống, triết lý nhân sinh, trở thành chủ

nghĩa yêu nước. Cũng trong cuốn “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt

Nam”, Giáo sư Trần Văn Giàu nhận xét:

Chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm của bản thân lịch sử Việt Nam, được

bắt đầu từ tình cảm tự nhiên của mỗi người đối với quê hương mình tiến lên

thành lý tưởng và hệ thống tư tưởng làm chủ của nhận thức đúng sai, tốt xấu,

nên chăng và chỉ đạo rất nhiều phương lược xây dựng và bảo vệ nước nhà

[29, tr 17].

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ngay từ đầu đã gắn con

người với thiên nhiên, với quê hương xứ sở của mình, chính vì vậy truyền thống yêu

nước của dân tộc Việt Nam được bắt nguồn từ tình yêu quê hương làng xóm, yêu cây

đa, bến nước, sân đình, nơi có ông bà, cha mẹ, con cái, bạn bè, bà con hàng xóm....Nơi

con người hàng ngày vất vả chiến đấu với thiên nhiên để duy trì và xây dựng cuộc sống.

Lịch sử dân tộc Việt Nam gắn với lịch sử lâu dài và liên tục các cuộc chiến tranh

chống giặc ngoại xâm. Vì vậy, yêu nước trước hết là tinh thần chiến đấu chống giặc

ngoại xâm của dân tộc.Cho dù ở hoàn cảnh nào, nhân dân Việt Nam vẫn luôn kiên

cường, bất khuất “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm

nô lệ”. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam cũng

không hề giảm sút, nó luôn được hun đút, âm ỉ cháy trong lòng mỗi người dân nước

Việt.

Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành, thử thách và khẳng

định qua bao thăng trầm của lịch sử, nó đã được bổ sung và phát triển qua từng thời kỳ,

là một trong những giá trị truyền thống cao quý và bền vững nhất của dân tộc ta. Ngày

nay, truyền thống yêu nước của nhân dân Việt Nam được thể hiện trong công cuộc xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt thể hiện ở sự nhất trí, tin tưởng vào đường lói đổi mới

của Đảng, vào khả năng, sức mạnh tự lực, tự cường của mình trong sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Dưới thời đại Hồ Chí Minh, truyền thống yêu nước được phát huy lên tầm cao

mới thành lý tưởng: sống, chiến đấu, lao động, học tập vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa

xã hội, vì hạnh phúc nhân dân.

Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Truyền thống nhân ái yêu thương con người là

một trong những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta, truyền thống này bắt nguồn

sâu xa từ trong sinh hoạt công xã nông thôn, được củng cố, phát triển qua quá trình đấu

tranh dựng nước và giữ nước. Tấm lòng nhân nghĩa, nhân ái chính là cơ sở cho cách xử

thế của người Việt Nam, là triết lý sống của dân tộc Việt Nam. Với người Việt Nam,

sống là hết lòng vì nghĩa cả, giúp đỡ nhau trong hoạn nạn, khó khăn mà không hề tính

toán, là lên án một cách mạnh mẽ những kẻ xấu, “tán tận lương tâm”, “phụ tình bạc

nghĩa”

Từ trong lịch sử, nhân dân Việt Nam luôn gắn tình yêu quê hương đất nước với

lòng nhân ái, yêu thương con người. Cho nên con người yêu nước với con người yêu

dân luôn gắn bó chặt chẽ nhau. Trong suốt trường kỳ lịch sử, dân tộc ta luôn đứng trước

nguy cơ xâm lược và bị đồng hóa, hơn ai hết chúng ta hiểu rõ quyền sống của mình gắn

với vận mệnh tổ quốc và dân tộc.

Lòng nhân ái, vì con người của dân tộc ta còn thể hiện ở lòng vị tha cao thượng,

không cố chấp đối với những người lầm đường, lạc lối. Chính tư tưởng “lấy nhân nghĩa

để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn

Trãi là sự thể hiện đỉnh cao của lòng nhân ái đó. Người Việt lấy tình yêu thương để làm

cách xử thế ở đời, đối với kẻ thù, thậm chí còn mở đường hiếu sinh khi thua trận, Vua

Quang Trung sau khi đánh bại quân Thanh, còn cấp lương thảo và phương tiện cho đám tàn

quân về nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân tiêu biểu cho lòng nhân ái, nhân nghĩa của

con người Việt Nam. Tư tưởng của Người được xuất phát từ lòng yêu thương con

người, trước hết là người lao động, lòng yêu quê hương, đất nước. Bác đã giành cả cuộc

đời mình cho độc lập của dân tộc, cho tự do và hạnh phúc của nhân dân. Nhà thơ Tố

Hữu từng viết: “Bác ơi tim Bác mênh mông thế, ôm cả non sông mọi kiếp người”. Lòng

nhân ái của Bác Hồ đã trở thành sức mạnh, trở thành vũ khí có tác dụng cảm hoá hàng

vạn con người lầm đường, lạc lối, theo kẻ thù chống lại nhân dân. Bác xem họ như

những đứa con “lạc bầy” cần được cưu mang. Người nói: giống như bàn tay cũng có

ngón ngắn, ngón dài, nhưng ngắn, dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy chục triệu

người cũng có người thế này, người thế khác, nhưng tất cả đều là dòng dõi tổ tiên ta,

đều là người Việt Nam nên cần phải khoan dung. độ lượng. Thực hiện theo tư tưởng đạo

đức của Người, hàng năm, Đảng và Nhà nước ta tổ chức xét miễn và giảm án cho những

phạm nhân cải tạo tốt. Điều này thể hiện lòng nhân ái của Đảng, Nhà nước và nhân dân

ta.

Ngày nay, truyền thống nhân ái, yêu thương con người được thể hiện rất rõ trong

đường lối đối ngoại của Đảng ta: “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong

cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Lòng nhân ái của

người Việt Nam cũng là lòng yêu chuộng hoà bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc.

Trong quan hệ với các nước láng giềng, nhân dân ta bao giờ cũng trọng tình hoà hiếu, cố

gắng tránh để xảy ra những xung đột.

Trong đường lối đối nội, Đảng ta đã khơi dậy các phong trào: “uống nước nhớ

nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình thương

binh liệt sĩ, giúp đỡ những người già neo đơn không nơi nương tựa. Phát động phong

trào xoá đói giảm nghèo, trợ giúp các dân tộc vùng sâu xa, rút ngắn khoảng cách giàu-

nghèo, thành thị- nông thôn, đồng bằng- miền núi....Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

V của Đảng ta khẳng định: ...người Việt Nam vốn co lòng yêu nước thiết tha, có tinh

thần dân chủ, bình đẳng trong quan hệ giữa người với người: thương nước- thương nhà-

thương người- thương mình. Nhờ có tinh thần yêu nước và lòng nhân ái, thương yêu

con người ấy mà nhân dân ta đã và đang làm nên lịch sử oanh liệt và rất đáng tự hào của

mình.

Do vậy, truyền thống nhân nghĩa nhân ái là một trong những truyền thống tốt đẹp

của dân tộc ta. Nó là cái gốc của đạo đức, là nguyên do sâu xa, bền chặt của chủ nghĩa

nhân đạo cộng sản, chủ nghĩa nhân đạo hiện thực.

Truyền thống cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo là một trong những giá trị

đạo đức có từ bao đời của dân tộc Việt Nam. Nó được hình thành và phát triển trong

những điều kiện tự nhiên và xã hội hết sức khó khăn.Về tự nhiên: liên tục xảy ra bão lụt,

hạn hán; về xã hội: liện tục chiến tranh chống giặc ngoại xâm.. Dẫu vậy, trong suốt

chiều dài lịch sử dân tộc, nhân dân ta vẫn kiên trì bám đất, bám làng, vừa sản xuất vừa

đánh giặc để tồn tại và bảo vệ tổ quốc. Với đức tính cần cù và tiết kiệm, dân tộc Việt

Nam đã không chỉ đứng vững mà còn từng bước khẳng định vai trò, vị thế của mình

trong khu vực và trên thế giới.

Truyền thống cần cù của người Việt Nam luôn gắn với tiết kiệm, vì vậy cần mà

không kiệm thì khác nào: “Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”. Chủ tịch Hồ Chí

Minh từng nêu rõ: con người phải có bốn đức tính: cần, kiệm, liêm, chính:

Trời có bốn mùa: Xuân – hạ - thu - đông;

Đất có bốn phương: Đông – Tây – Nam – Bắc:

Người có bốn đức: cần – kiệm – liêm – chính.

Thiếu một mùa thì không thành trời;

Thiếu một hướng thì không thành đất:

Thiếu một đức thì không thành người.

Người cho rằng, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh của một dân tộc

giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ. Cần, kiệm,liêm,

chính là nền tảng, là cốt lõi của đạo đức mới.

Ngày nay, cần cù, sáng tạo được biểu hiện càng rõ nét trong lao động sản xuất,

trong khoa học kỹ thuật, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các phong trào thi đua

rộng rãi và thường xuyên trên mọi lĩnh vực: ở biên cương, nơi đồng ruộng, trong nhà

máy xí nghiệp, trong nhà trường...Đặc biệt trong quá trình đổi mới đất nước, với mục

tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, hơn bao giờ hết

truyền thống cần cù, sáng tạo càng được phát huy cao độ.

Truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam cũng hoà vào dòng chảy của chủ

nghĩa yêu nước và trở thành biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước. Đây là nhân tố tinh

thần hợp thành động lực thúc đẩy quá trình phát triển của lịch sử dân tộc.

Tư tưởng đoàn kết giữa các dân tộc anh em được thể hiện rất sớm trong cách lý

giải về sự ra đời của dân tộc Việt Nam trong truyền thuyết “Trăm trứng nở trăm con”.

Cho đến lịch sử hình thành dân tộc: theo tiếng gọi của tiếng trống Hùng Vương, mười

lăm bộ lạc hợp thành quốc gia Văn Lang thống nhất. Thấy rõ vai trò của đoàn kết, cha

ông ta đã luôn có ý thức chống chính sách chia rẽ của các thế lực ngoại bang cũng như

xu hướng cát cứ của các thế lực phong kiến. Do vậy, từ chính sách “dùng người Việt

đánh người Việt” của bọn phong kiến phương Bắc đến chính sách “chia để trị” của thực

dân Pháp, của đế quốc Mỹ đều lần lượt bị thất bại trước tinh thần đoàn kết của nhân dân

ta.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở: Dễ trăm lần không dân

cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong, “Việc gì khó cho mấy, quyết tâm làm thì

làm chắc được, ít người làm không nổi, nhiều người đồng tâm hiệp lực mà làm thì phải

nổi” [67, tr.258]. Người còn khẳng định: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công,

thành công, đại thành công. Trước lúc đi xa, Người còn căn dặn các cán bộ, đảng viên:

“Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta. Các đồng chí

từ Trung ương cho đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như

giữ gìn con ngươi của mắt mình (Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được công bố năm

1969)

Đoàn kết là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc trong việc xây dựng và bảo vệ tổ

quốc, là điều kiện tất yếu để thể hiện ý chí tự lực, tự cường dân tộc, ngay cả khi đất

nước có chiến tranh hay khi bước vào hoà bình. Nó đã trở thành điểm tựa tinh thần

vững chắc, một động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong

sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới đất

nước.

Truyền thống hiếu học của người Việt Nam được hình thành từ nhiều thế hệ.

Là người Việt Nam ngay từ thuở ấu thơ đã được sống trong lời ru của mẹ:

“Qua sông phải bắc cầu kiều

Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”

Truyền thống “Tôn sư trọng đạo” là một nội dung trong học thuyết của Nho giáo,

khi vào Việt Nam được dân tộc ta tiếp biến, trở thành một nội dung đạo lý của người

Việt Nam. Học trò nước ta luôn ghi nhớ: “Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy” hay “ Không thầy

đố mày làm nên”, đó là một triết lý sống của người Việt Nam.

Hiếu học là một truyền thống trong giáo dục của người Việt từ xưa tới nay. Có

thể nói, ngay từ rất sớm con người đã sớm nhận thức được học hành không chỉ là quyền

lợi mà còn là nghĩa vụ của mỗi cá nhân. Người xưa từng nói: “Ngọc bất trác bất thành

khí, nhân bất học bất tri đạo” (Ngọc không mài dũa thì không thành đồ dùng được,

người không học thì không biết đạo) hay “Hiếu nhân bất hiếu học kỳ tế dã ngu” (Kể cả

những người mong muốn làm điều nhân đức chí thiện nhưng không học thì cũng bị sự

ngu dốt che lấp đi).

Ngay từ buổi đầu dựng nước, ông cha ta đã nhận ra tầm quan trọng của giáo dục,

cho nên, việc chăm sóc và bồi dưỡng nhân tài đã được thực hiện sớm. Trong bia tiến sĩ

năm Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba ( năm 1442) ở Văn Miếu (Hà Nội) có ghi:

Hiền tài là nguyên khí của Nhà nước, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh,

nguyên khi kém thì thế nước yếu và suy, cho nên các đấng thánh đế minh vương không

ai không chăm lo việc gây dựng nhân tài, bồi đắp nguyên khí [56, tr.176-177].

Cả cuộc đời mình, Hồ Chí Minh chỉ phấn đấu cho một mục đích tối cao là làm

sao để “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Người đặt hy vọng và

tin tưởng vào thế hệ trẻ: “Non sông ta có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc ta có

bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc, năm châu hay không chính

là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” [66].

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta ý thức một cách sâu sắc rằng: “giáo

dục là quốc sách hàng đầu”, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người.

Việc phát huy truyền thống hiếu học, tôn trọng người hiền tài càng trở nên có ý nghĩa,

tôn trọng trí thức, tôn trọng hiền tài, tôn trọng sáng tạo trên cơ sở, nền tảng đạo đức

trong sáng. Trong những chủ trương lớn xây dựng và phát triển văn hoá, Đảng ta nêu rõ:

“Quan tâm giáo dục lý tưởng, đạo đức và lối sống văn hoá cho thế hệ trẻ. Có chính sách

trọng dụng người tài” [18, tr.81-82].

Có thể nói các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam không chỉ tạo nên sức

mạnh cho nhân dân ta vượt qua những khó khăn, thách thức trong lịch sử. Trong hiện

tại, các giá trị đạo đức ấy đang là động lực to lớn góp phần thực hiện thắng lợi sự

nghiệp đổi mới đất nước.

1.2. ảnh hưởng của giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối sống

mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay

1.2.1. Lối sống và lối sống mới

* Lối sống

Lối sống là phạm trù bao quát một bình diện rộng lớn của con người và xã hội,

do đó, có nhiều ngành khoa học nghiên cứu với nhiều cách tiếp cận khác nhau như: triết

học, xã hội học, kinh tế chính trị học, văn hoá học....Một trong những người đầu tiên sử

dụng thuật ngữ “lối sống” như một khái niệm khoa học là một học giả người Đức- ông

Max Weber (1864- 1920).

Đến nay, dù đã có nhiều quan điểm khác nhau bàn về lối sống nhưng vẫn chưa

có một định nghĩa thống nhất về vấn đề này.

C.Mác và Ph.Ăngghen trong tác phẩm “ Hệ tư tưởng Đức” có viết:

Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía

cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của cá nhân. Mà hơn thế, nó là

một phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức

nhất định của hoạt động sống của họ, một phương thức sinh sống của họ [60,

tr.30].

Như vậy, C. Mác đã khẳng định, sản xuất là yếu tố quyết định sự tồn tại của cá

nhân và phương thức sản xuất là hình thức hoạt động cơ bản của con người, là phương

thức sinh sống của con người, là mặt cơ bản của lối sống. Theo C. Mác, lối sống chính

là phương thức, là dạng hoạt động của con người, nó chịu sự quyết định của phương

thức sản xuất. Tuy chịu sự quyết định của phương thức sản xuất, nhưng lối sống không

phải là sản phẩm thụ động của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và những điều kiện

sống khác. Bởi lẽ, phạm vi của lối sống rộng hơn phương thức sản xuất. Ngoài những

hoạt động vật chất, con người còn có hoạt động chính trị, xã hội, nghệ thuật....Do vậy,

phạm vi của lối sống tương ứng với hình thái kinh tế – xã hội. Lối sống phản ánh hoạt

động chủ thể, bao gồm: nhận thức, tình cảm, động cơ, hành vi, ứng xử, thể chế xã

hội...và cả những mối liên hệ giữa chúng.

Có thể nói, “lối sống là sự khúc xạ hình thái kinh tế – xã hội trong nhận thức,

tình cảm, thái độ và hoạt động xã hội, tổ chức đời sống và sinh hoạt cá nhân của con

người” [99, tr.28]. C.Mác cho rằng, ở những hình thái kinh tế -xã hội khác nhau, sẽ có

lối sống khác nhau. Đặc biệt, trong những hình thái kinh -tế xã hội có giai cấp, nhất là

có đối kháng giai cấp thì lối sống mang tính giai cấp.

Tiếp cận lối sống trên phương diện phương thức hoạt động và tổng thể những

quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của những cá nhân trong một hình thái kinh tế

– xã hội, TS. Rútkêvich cho rằng: “ Lối sống là một tổng thể, một hệ thống những đặc

điểm chủ yếu nói lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá

nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định” [100, tr.45]. Còn

G.Glezerman cho rằng: “lối sống là tổng hoà những nét cơ bản, nói lên đặc điểm của hoạt

động sống của xã hội, các cá nhân trong một hình thái kinh tế – xã hội nhất định” [99, tr

18]. Xem xét lối sống gắn với hoạt động sống của con người với hình thái kinh tế – xã

hội, TS triết học V.I.Tônxtưkhơ cho rằng: “lối sống là những hình thức cố định, điển hình

của họat động sống cá nhân và tập đoàn của con người; những hình thức ấy nói lên đặc

điểm về sự giao tiếp, hành vi và nếp nghĩ của họ trong các lĩnh vực lao động, hoạt động

xã hội – chính trị, sinh hoạt và giải trí” [99, tr 18- 19].

Cùng với quan điểm xem xét lối sống là một phương thức hoạt động,

I.V.Bextugiep cho rằng: “Lối sống được kiến giải như một phương thức hoạt động sống

của con người, thì điều hợp lý là lấy các hoạt động sống quan trọng nhất làm nền tảng

cho cơ cấu của lối sống, các lĩnh vực đó ta đều biết là: lao động, sinh hoạt, hoạt động

chính trị – xã hội và văn hoá xã hội” [32, tr.19].

ở góc độ khác, M.N. Rutkêvich còn khẳng định, lối sống chịu sự quyết định của

phương thức sản xuất, khái niệm “lối sống” và khái niệm “phương thức sản xuất” liên

hệ chặt chẽ với nhau. Ông viết: “Lối sống là một trong những khái niệm cơ bản của chủ

nghĩa duy vật lịch sử, nó liên quan chặt chẽ với một khái niệm có ý nghĩa mấu chốt đối

với nó là phương thức sản xuất của cải vật chất” [100, tr 12]. Theo hướng này, Z.Dunốp

khẳng định “lối sống trước hết là những điều kiện trong đó con người tự tái sản xuất về

mặt sinh học cũng như mặt xã hội. Đó là toàn bộ những hình thức hành vi hàng ngày, ổn

định và điển hình của con người” [99, tr.19]. Định nghĩa này cho thấy lối sống chịu sự

quy định của điều kiện vật chất, mà nó chính là nền tảng để thoã mãn nhu cầu vật chất

và tinh thần của con người và xã hội.

ở Việt Nam, “lối sống” là một danh từ ghép. Lối là lề lối, thể thức, kiểu cách,

phương thức. Sống là sinh hoạt, là quá trình hoạt động sinh vật của con người và xã hội.

Hiện nay, nhiều từ điển Việt và Việt– Hán đã và đang lưu hành chỉ đề cập khái niệm

“lối sống giản dị” làm ví dụ minh hoạ cho từ “lối” và dẫn” nếp sống” khi đề cập khái

niệm sống”. Có tác giả cho rằng, từ lối sống và nếp sống là kết quả của việc tạo từ trong

ngôn ngữ tiếng Việt và là cách dùng thuật ngữ khác nhau để dịch một thuật ngữ nước

ngoài (Nga). Và “Sách cổ, sách chữ Hán, sách chữ Nôm không có hai thuật ngữ này.

Trong thời kỳ cận đại và hiện đại (sau cách mạng tháng Tám) đã bắt đầu hình thành

khái niệm về cách thức, lề lối, nề nếp của con người trong sự sống. Các khái niệm trên

có thể mượn dịch hoặc phỏng theo từ nước ngoài” [33, tr.21]. Hiện nay khái niệm lối

sống được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau: triết học, xã hội học, tâm lý học....

Trong các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam, khái niệm “lối sống” được đề

cập lần đầu tiên ở Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng. Và tiếp tục được sử

dụng trong các kỳ đại hội tiếp theo. Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, Ban chấp

hành Trung ương Đảng khoá VIII đã nhấn mạnh: “Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường

những giá trị văn hoá dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng... Nghiêm trọng hơn là sự

suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong đó có

cả cán bộ có chức, có quyền” [19, tr.46- 47].

Có thể nói, chưa bao giờ lối sống được Đảng ta quan tâm sâu sắc như hiện nay.

Tháng 7 năm 2004, Hội nghị lần thứ mười, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX

họp tổng kết, đánh giá tình hình 5 năm thực hiện Nghị quyết năm, Ban chấp hành Đảng

khóa VIII, Đảng ta đã 17 lần đề cập đến khái niệm lối sống.

Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề lối sống, các đề tài nghiên cứu cấp nhà

nước cũng bắt đầu tập trung nghiên cứu vấn đề này. Các tác giả đề tài cấp nhà nước

KX.06-13 giai đoạn (1991 - 1995) đưa ra quan niệm: “Lối sống, trong chừng mực nhất

định, là cách ứng xử của con người cụ thể, những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của môi

trường sống. Môi trường là cái khách quan quy định, là điều kiện khách quan trực tiếp

tác động và ảnh hưởng đến lối sống của con người, lối sống của các nhóm xã hội và

cộng đồng dân cư”. Định nghĩa này cho thấy lối sống có quan hệ trực tiếp với môi

trường sống và chịu sự quy định của nó, đồng thời tiếp cận lối sống như là một phương

thức hoạt động thực tiễn của con người và do vậy, nó có ưu thế là làm sáng rõ mối quan

hệ biện chứng giữa lối sống và môi trường.

Trên cơ sở tiếp cận quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về lối sống, GS Vũ

Khiêu trong tác phẩm “Văn hoá Việt Nam, xã hội và con người” đã quan niệm lối sống

theo nghĩa rộng:

Lối sống là phạm trù xã hội khái quát toàn bộ hoạt động của các dân tộc,

các giai cấp, nhóm xã hội, các cá nhân trong điều kiện của một hình thái kinh tế –

xã hội nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống: trong lao động và

hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người, trong sinh hoạt tinh thần và văn

hoá” [42, tr.514].

Xét lối sống gắn liền với hoạt động sống của con người và với một hình thái kinh

tế - xã hội, GS Thanh Lê quan niệm: “Lối sống là một hệ thống những nét căn bản nói

lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp các tập đoàn xã hội, các cá nhân trong những

điều kiện của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định” [49, tr.24].

ở góc độ xem xét tổng hoà các mặt cơ bản, khắc hoạ những đặc điểm cá nhân,

tập thể, giai cấp và cộng đồng, GS.TS Nguyễn Văn Huyên cho rằng:

Lối sống là tổ hợp các mô hình, cách thức và phong thái sống của con

người thể hiện trong mọi phương thức cũng như lĩnh vực hoạt động, từ sản xuất,

tiêu dùng đến thái độ hành vi, cách tư duy, lối ứng xử giữa con người với con

người, giữa chủ thể với đối tượng, giữa điều kiện với phương tịên và mục đích

sống [38, tr 29]

GS.TS Đỗ Huy khẳng định: “Lối sống là tổng hoà những dạng hoạt động sống

điển hình của con người trong điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định” [34, tr353]. Cùng

với quan điểm này, TS Nguyễn Viết Chức trong quyển “Xây dựng tư tưởng đạo đức, lối

sống văn hoá ở thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước” đã định nghĩa: “Lối sống là tổng hoà những dạng hoạt động sống điển hình và

tương đối ổn định của con người được vận hành theo một bảng giá trị xã hội nào đó

trong sự thống nhất với các điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [10,

tr.66- 67]. GS.TS Huỳnh Khái Vinh trong bài “Kế thừa và phát triển nếp sống thanh lịch

của người Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” cũng cho

rằng: Lối sống là một khái niệm có tính đồng bộ và tổng hợp. Nó bao gồm các mối quan

hệ khác nhau của con người, kể cả đặc trưng sinh hoạt của họ trong những điều kiện của

một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.

Như vậy, điểm giống nhau cơ bản của các tác giả khi định nghĩa về lối sống là ở

chỗ, cho rằng lối sống bao gồm tất cả các lĩnh vực hoạt động sống cơ bản của con

người, từ lao động, sinh hoạt, hoạt động xã hội – chính trị và giải trí.

Từ đó, chúng ta có thể khái quát về lối sống ở những đặc trưng cơ bản sau đây:

Thứ nhất, nói đến lối sống là nói đến tổng hoà các hoạt động sống ổn định của

con người gắn liền với dân tộc, giai cấp, nhóm xã hội và các cá nhân trong cộng đồng.

Vì vậy có thể phân loại lối sống theo ba cấp độ: lối sống của dân tộc, lối sống của giai

cấp (nhóm xã hội), lối sống của cá nhân.

Thứ hai, lối sống chịu sự quy định của phương thức sản xuất và các điều kiện

sống của con người.

Thứ ba, đặc trưng bản chất của lối sống trong toàn bộ hoạt động sống là hoạt

động lao động sản xuất, bởi nó là hoạt động có tính chất nền tảng, có tính người trong

việc sáng tạo ra các giá trị vật chất cũng như các giá trị tinh thần.

Thứ tư, tổng hoà các khuôn mẫu ứng xử, các thể chế xã hội được vận hành theo

một bảng giá trị xã hội nào đó trong điều kiện kinh tế xã hội nhất định, đó chính là nội

dung và phạm vi của lối sống.

Thứ năm, lối sống nói chung mạng tính văn hoá, bởi vì trong các hành động xã hội,

các quan hệ xã hội, thể chế xã hội, các khuôn mẫu ứng xử....trong lối sống đều mang ý

nghĩa văn hoá, hướng tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp.

* Một số khái niệm gần với khái niệm lối sống:

Mức sống, là mức đạt được về các điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần và xã

hội. Các nhà triết học Liên Xô trước đây xem lối sống ở hai mặt chất và lượng của nó.

TS. Rútkêvich cho rằng: “Nếu như mặt chất của lối sống phản ánh tính chất của chế độ

xã hội – kinh tế thì mặt lượng của lối sống được xác định bởi mức độ phụ thuộc của nhu

cầu vào sự phát triển của lực lượng sản xuất ấy và mặt lượng này được thể hiện ở mức

độ phúc lợi của nhân dân. Mức độ phúc lợi này thường được gọi là mức sống”. Hay

Nói một cách giản đơn, không thể hiểu được lối sống của con người nếu

không biết họ sản xuất và tiêu dùng như thế nào, với số lượng bao nhiêu, họ

sống dở, chết dở hay được ăn uống theo mức ăn hợp lý, họ sống trong những

căn nhà rách nát hay trong các phòng có đủ tiện nghi, họ có đủ quần áo hay mặc

không, có biết chữ hay không, được học ở trường phổ thông trong bao nhiêu

năm, có phương tiện đi lại không và phương tiện đó như thế nào... [100, tr.29,

33].

Cần lưu ý, không phải cứ mức sống biến đổi thì lối sống biến đổi vì mức sống

không là điều kiện duy nhất của lối sống. Tuy nhiên trong khuôn khổ của một lối sống

không thể xem mức sống như là một cái gì đó ở bên ngoài, nó là cơ sở vật chất của lối

sống. Nhưng không phải mức sống nâng cao thì lối sống cũng nâng cao. Thực tiễn cho

thấy có trường hợp mức sống ngang nhau nhưng lối sống khác nhau. Cho nên, có những

người mức sống rất cao nhưng lối sống lại đáng khinh và đáng phê phán. Chẳng hạn

hành vi đê tiện, ích kỷ, chỉ biết mình, không quan tâm người khác. Trái lại có những

người có điều kiện sống thiếu thốn, khó khăn vất vả về vật chất nhưng phẩm chất nhân

cách của họ thì rất đáng trân trọng. Do vậy, sẽ là sai lầm khi đem đồng nhất mức sống

với lối sống. Sai lầm này biểu hiện ở việc tuyệt đối hoá nhu cầu vật chất, chạy theo lối

sống tiêu dùng, lối sống thực dụng, xem thường yếu tố tinh thần, xem thường yếu tố

chính trị trong đời sống xã hội. Cho nên, khái niệm lối sống rất gần với khái niệm mức

sống nhưng chúng không đồng nhất nhau. Vì mức sống là thuật ngữ kinh tế - xã hội

dùng để đánh giá các nhu cầu vật chất và tinh thần đã được thoã mãn.

Nếp sống và lẽ sống là hai khái niệm có nội hàm, ý nghĩa khác nhau và có ngoại

diên hẹp hơn lối sống.

L.V.Kô- kan cho rằng: “Nếp sống của con người được coi như là sự phản ánh

của cá nhân vào xã hội, còn lối sống của con người được coi như là sự phản ánh của xã

hội vào cá nhân” [32, tr.23]. Trong khi đó, A.P.Bu chen co lại nhận định: “nếp sống

không phải là một phần mà là một trong những hình thức biểu hiện của lối sống” [32,

tr.23].

Lối sống là một hệ thống những hành vi của con người, trong lao động cũng như

trong các quan hệ xã hội khác. Những hành vi được lặp đi lặp lại nhiều lần thành quy

định nề nếp, một thói quen, phong tục, tập quán, lễ nghi.... được gọi là nếp sống. GS.

Vũ Khiêu quan niệm: “Nếp sống là toàn bộ thói quen được hình thành trong cuộc sống

hàng ngày, những thói quen đã trở thành nếp trong sản xuất, chiến đấu, trong mọi quan

hệ xã hội và trong mọi sinh hoạt riêng của mỗi con người. Những thói quen ấy còn gọi

là tập quán” [40, tr.153]. Nếp sống là sự biểu hiện sinh động, cụ thể của lối sống, do đó,

nó không phải là cái bất biến, vĩnh hằng, nghĩa là nó có thuộc tính biến đổi. Nhưng chỉ

khi nếp sống thay đổi đến một chừng mực nhất định thì lối sống mới biến đổi. Điều này

cho thấy, lối sống và nếp sống không thể tách rời nhau, nhưng chúng không phải là một.

Đảng ta cũng từng khẳng định sự khác nhau này:

Kiên trì xây dựng nếp sống mới lành mạnh, khoa học, tiết kiệm và giản dị;

bảo vệ và phát triển các giá trị tinh thần. Kiên quyết bài trừ hủ tục, mê tín dị

đoan; tiếp tục đấu tranh quét sạch văn hoá thực dân mới và ảnh hưởng của các

loại văn hoá phản động, đồi trụy khác. Tất cả những việc đó nhằm làm cho tư

tưởng, tình cảm, lối sống mới thực sự chiếm ưu thế trong đời sống nhân dân

[18, tr.100- 101].

Trong “Những nhiệm vụ cụ thể” xây dựng và phát văn hoá mới, con người

mới thông qua tại Hội nghị lần năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII

nhấn mạnh đức tính: “Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung

thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương, phép nước, quy ước cộng đồng, có ý thức

bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái” [14, tr.59].

Lẽ sống, là thuật ngữ triết học, đạo đức, tâm lý phản ánh mặt ý thức của lối sống.

Nó chính là sự lựa chọn chủ quan của con người về lối sống. Sự lựa chọn này thể hiện

sự khẳng định của cá nhân hay của một dân tộc đối với lối sống. Nhưng không phải lẽ

sống hoàn toàn không bị quy định bởi yếu tố khách quan (hoàn cảnh sống, chế độ kinh

tế, chính trị – xã hội...). Lẽ sống có chức năng định hướng cho lối sống, bởi nó như là

thế giới quan, nhân sinh quan của con người. Vai trò của lẽ sống đối với lối sống giống

như “kim chỉ Nam” cho cá nhân điều chỉnh hành vi của mình, vì hạnh phúc cá nhân, vì

cộng đồng xã hội. Một người có lẽ sống đúng đắn sẽ góp phần hình thành lối sống tốt

đẹp. Do vậy, có thể nói, lẽ sống là mặt lý tưởng của lối sống, là nhân lõi của lối sống.

Phong cách sống: là thuật ngữ tâm lý - xã hội dùng để chỉ thái độ, hành vi ứng

xử và định hướng giá trị trong đời sống hàng ngày của cá nhân và của các nhóm xã hội.

Phong cách sống chính là hình thức biểu hiện của lối sống trong sinh hoạt, trong các

hoạt động xã hội của các cá nhân, của các nhóm xã hội. GS.TS. Đỗ Huy cho rằng:

“phong cách sống chỉ rõ thái độ và cách thức sống, cách thức lao động, cách thức quản

lý sản xuất và quản lý đô thị” [34, tr.200]. Phong cách sống chỉ rõ tính chất chủ quan

của việc thực hiện các hành động sống. Nó không phụ thuộc hoàn toàn vào mức sống

hay chất lượng sống.

Ngoài các khái niệm đã trình bày, khi nghiên cứu lối sống, người ta còn đề cập

các khái niệm: chất lượng sống, nhịp sống, môi trường sống, tiêu chuẩn sống, khuôn

mẫu ứng xử.....

* Lối sống mới - lối sống xã hội chủ nghĩa:

Lối sống xã hội chủ nghĩa là một bước tiến, một sự thay đổi về chất trong lịch sử

phát triển của nhân loại, nó là tổng thể những hình thức hoạt động cơ bản của con người

trong những điều kiện của chủ nghĩa xã hội. ở mức độ khái quát nhất, lối sống xã hội

chủ nghĩa được xác lập trên hai cơ sở:

- Về cơ sở vật chất: lối sống xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng của

phương thức sản xuất mới – phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, trong đó, quyền sở hữu

về tư liệu sản xuất thuộc về quần chúng nhân dân lao động.

- Về nền tảng tinh thần: lối sống xã hội chủ nghĩa lấy tư tưởng Mác – Lênin làm

kim chỉ nam cho mọi hành động, cho lẽ sống, cho thái độ ứng xử giữa con người với

con người.

Lối sống xã hội chủ nghĩa là sự kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống

tốt đẹp với những tư tưởng mới của thời đại, trong mọi hoạt động, hành vi.....Lối sống

mới, nếp sống mới không chỉ là những biểu hiện đơn thuần về mặt kinh tế, đó còn là sự

phản ánh đời sống lịch sử của dân tộc trong sự nối tiếp lâu dài của nó.

Khác với lối sống thực dụng, lối sống xã hội chủ nghĩa không xem nhẹ vai trò

của khoa học- kỹ thuật và lợi ích chính đáng của con người. Chính C.Mác trong nhiều

tác phẩm của mình đã coi “khoa học là động lực của lịch sử” (lời của Ph. Ăngghen) và

là “lực lượng sản xuất trực tiếp”. Mặt khác, lối sống xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở

kinh tế của nó là quyền chiếm hữu công cộng về tư liệu sản xuất đòi hỏi phải kết hợp

hài hoà giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợi ích cộng đồng. C.Mác và

Ph.Ăngghen chưa bao giờ xem nhẹ lợi ích chính đáng của con người. Do đó, lối sống xã

hội chủ nghĩa coi chủ nghĩa tập thể là nguyên tắc đạo đức cơ bản của mình.

Lối sống xã hội chủ nghĩa được xây dựng dựa trên quan niệm duy vật về lịch sử,

coi quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Họ là người làm ra mọi giá trị vật

chất và mọi giá trị tinh thần. Tuy nhiên, lối sống xã hội chủ nghĩa cũng coi trọng đúng

mức vai trò của cá nhân, vĩ nhân trong lịch sử. Thực tiễn chứng minh rằng: “trong lịch

sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra

được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ

khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [51, tr.473].

Lối sống là một phạm trù lịch sử phản ánh điều kiện kinh tế – xã hội nhất định,

được biểu hiện trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống con người: lao động và hưởng

thụ, sinh hoạt tinh thần và văn hoá, lối ứng xử giữa người với người, giữa chủ thể với

khách thể...Do đó, không thể có một lối sống chung cho mọi giai cấp. Lối sống bao giờ

cũng bị chi phối bởi lợi ích giai cấp . Chỉ có lối sống xã hội chủ nghĩa là có thể thống

nhất cho toàn xã hội chứ không chỉ riêng giai cấp công nhân. Tất nhiên, như các tác giả

trong “Bàn về lối sống, nếp sống xã hội chủ nghĩa” có khẳng định: “...ở mỗi vùng, mỗi

người, cũng có thể có những nếp sống khác nhau, nhưng sự khác nhau đó là về mặt

phong tục, tập quán, chứ về lối sống, về mặt tư tưởng, lẽ sống, nguyên tắc sống thì phải

theo một hướng thống nhất".

Lối sống xã hội chủ nghĩa chống lại tính chất phi đạo đức của lối sống thực dụng

vị kỷ, sùng bái đồng tiền, tuyệt đối hoá xã hội tiêu dùng.... Nó đề cao những phẩm chất

cao quý của con người, đề cao việc xây dựng văn hoá và việc lĩnh hội các giá trị văn

hoá tinh thần của nhân loại và dân tộc, qua sự chọn lọc các giá trị đó mà đề ra những

chuẩn mực, nguyên tắc cho lối sống và nếp sống trong xã hội mới.

Chủ nghĩa Mác – Lê nin là hạt nhân tư tưởng của lối sống xã hội chủ nghĩa, nó

quyết định hướng giá trị, thế giới quan và cảm quan về thế giới, quyết định những đặc

điểm và xu hướng phát triển giá trị văn hoá tinh thần, làm phong phú những giá trị đạo

đức, hình thành chủ nghĩa lạc quan, hình thành ý thức công dân, do đó, tạo ra khát vọng

cho con người về tính ưu việt của cuộc sống mới và sự hoàn thiện lối sống cho mỗi cá

nhân, mỗi cộng đồng dân tộc. “Hệ tư tưởng ấy đã làm bật dậy tiềm năng và sức sống

văn hoá, xác lập mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội,

giữa con người với môi trường và tự nhiên, là điều kiện vô cùng quan trọng để đặt nền

móng cho lối sống xã hội chủ nghĩa” [49, tr.38]. Trên tinh thần của chủ nghĩa Mác-

Lênin, mọi khuôn mẫu và nguyên tắc ứng xử của lối sống mới biểu thị tinh thần dân chủ

thực sự, tình yêu tổ quốc xã hội chủ nghĩa gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, sự tôn

trọng lao động gắn liền với tri thức khoa học, kỹ thuật, ý thức mình vì mọi người và mọi

người vì mình, gắn liền với chủ nghĩa vị tha và tình nhân loại.

Xét về nội dung, các phẩm chất của lối sống mới đều thuộc về phạm trù của đạo

đức. Hay đúng hơn, đạo đức xã hội chủ nghĩa là cơ sở cho sự phát triển của lối sống

mới xã hội chủ nghĩa, và ngược lại, chính lối sống xã hội chủ nghĩa tạo ra cơ sở thực sự

cho sự phát triển đạo đức của con người mới.

Lối sống mới xã hội chủ nghĩa được đặc trưng bởi ba phẩm chất quan trọng: yêu

lao động, giàu tình thương và trọng lẽ phải. Đây là ba đặc trưng chi phối toàn bộ phẩm

chất nội dung và các đặc điểm khác của lối sống mới.

Lao động đã sáng tạo ra con người, đồng thời lao động cũng là điều kiện, phương

tiện để con người tồn tại và phát triển. Thông qua lao động, con người không chỉ cải

biến giới tự nhiên theo mục đích của mình mà còn “cải tạo” chính bản thân những người

lao động, làm cho họ không ngừng hoàn thiện, phát triển cả thể chất lẫn tinh thần. Dưới

chủ nghĩa xã hội, lao động và yêu lao động được coi là phẩm chất hàng đầu Đó là động

lực tự giác sáng tạo, có ý thức trách nhiệm và tinh thần kỷ luật cao. Mọi người đều có ý

thức tham gia lao động vì lợi ích của xã hội, của cộng đồng.

Nguyên tắc cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa về lao động là làm theo năng lực,

hưởng theo lao động. Chính nguyên tắc này làm cho lối sống mới có tính công bằng,

hợp lý và thực sự có dân chủ. Đó là cái làm cho lao động xã hội chủ nghĩa khác xa với

lao động và lối sống trong các xã hội có đối kháng giai cấp, vì trong đó có tình trạng

“ngồi mát ăn bát vàng” của một số kẻ có quyền, bóc lột, cướp đoạt lao động của người

khác.

Giàu tình thương, là một phẩm chất vốn có của dân tộc ta, một dân tộc đề cao

lòng nhân đạo ngay cả với kẻ thù, là một dân tộc được thế giới đánh giá cao về lòng

hiếu khách, tinh thần lạc quan. Đó là tình đoàn kết, đùm bọc giữa những con người cùng

cảnh ngộ, là tình yêu đối với Tổ quốc, quê hương, làng mạc, với gia đình, người thân.

Trong các chế độ xã hội cũ, do sự áp bức của giai cấp thống trị, do bất công trong xã hội

nên tình yêu thương của con người không được bộc lộ rõ nét. Trong chế độ xã hội mới,

lối sống mới tạo điều kiện cho tình thương, lòng nhân ái phát triển, được bồi dưỡng và

nâng lên trong các ứng xử, hành vi theo hướng chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Dưới chủ

nghĩa xã hội, tình yêu thương của con người không chỉ góp phần hoàn thiện nhân cách

con người, phát triển toàn diện con người xã hội chủ nghĩa, đó còn là yếu tố thúc đẩy sự

phát triển của xã hội mới: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Trọng lẽ phải là đặc trưng cơ bản của lối sống xã hội chủ nghĩa, đó là sự nhận

thức và tôn trọng cái đúng, cái công bằng, cái thuộc về chân lý... Đó là tinh thần cầu thị,

hành động vì lẽ phải, chính trực, không thành kiến, bè phái, không vì lợi ích cá nhân mà

bênh cho cái xấu, cái sai, là tư tưởng “chí công vô tư” như Bác Hồ từng dạy, không

khuất phục trước uy lực, không sa ngã trước giàu sang, một lòng vì nghĩa lớn, có thể hy

sinh cả tính mệnh cho lý tưởng chung.

ý nghĩa tích cực của lối sống xã hội chủ nghĩa thể hiện trình độ, ý thức tư tưởng

và đạo đức được thực hiện trong các mắt xích của xã hội, trong mọi lĩnh vực của đời

sống.

Bên cạnh tư tưởng và đạo đức, cũng cần thấy các yếu tố khác xuất hiện trong lối

sống như: văn hoá, trí tuệ, khoa học kỹ thuật, thẩm mỹ, nghệ thuật. Những yếu tố này

có ý nghĩa rất lớn trong việc hình thành và khẳng định lối sống mới xã hội chủ nghĩa.

Trên đây là những đặc trưng cơ bản của lối sống xã hội chủ nghĩa, nó đánh dấu

một trình độ mới trong sự phát triển của xã hội. Nó quy định tính tất yếu và cấp thiết

của việc xây dựng lối sống mới ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt đối với đối tượng là

thanh niên, học sinh, sinh viên

* Vấn đề xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay.

Sinh viên là tầng lớp xã hội đặc thù, họ sống và học tập trong môi trường kinh tế,

xã hội năng động, tiếp thu và vận dụng các thành tựu khoa học công nghệ một cách

nhanh chóng. Một mặt, họ có trình độ nhận thức, trình độ khoa học cơ bản, có năng lực

tư duy; mặt khác, họ là những người trẻ tuổi, kinh nghiệm sống chưa nhiều lại đang

đứng trước sự tác động đa chiều của nền kinh tế thị trường. Do vậy, trong quá trình hình

thành và phát triển, lối sống của sinh viên Việt Nam vừa mang đặc trưng của lối sống

truyền thống của dân tộc vừa có những biểu hiện của lối sống mới.

Trong lịch sử, cùng với quá trình dựng nước và giữ nước, lối sống của người

Việt Nam cũng như lối sống của sinh viên được hình thành và phát triển mang bản chất

và cốt cách của người Việt Nam. Dù còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng hầu hết các nhà

nghiên cứu ở nước ta đều thống nhất: lối sống truyền thống của người Việt Nam được

kết tinh từ các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc: yêu nước, đoàn kết, nhân ái, yêu

thương con người, khoan dung, cần cù, hiếu học, thông minh, sáng tạo, tinh tế, kín

đáo....Các giá trị đạo đức này đã góp phần tạo nên tính đặc trưng riêng của lối sống của

người Việt Nam. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã

khẳng định:

Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng

đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu

tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân

tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân- gia đình- làng xã- Tổ

quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng

tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... [18, tr.

56].

Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới, các đặc trưng trên đã

được kế thừa và phát huy ở những mức độ khác nhau, nhiều nội dung mới được bổ

sung. Một số đặc trưng trước đây của lối sống là phù hợp nhưng hiện nay đã bộc lộ hạn

chế, không phù hợp với thời đại. Chẳng hạn, kinh nghiệm chủ nghĩa dẫn đến yếu kém

về lý luận; nặng tính cộng đồng dẫn đến phủ nhận hoặc hạ thấp vai trò cá nhân, cào

bằng, cục bộ địa phương, hẹp hòi, đố kỵ; lối sống nặng tình dẫn đến thiếu tinh thần pháp

luật, dễ thỏa hiệp, tuỳ tiện, không tôn trọng quy luật khách quan; đề cao yếu tố tinh thần

dẫn đến xem nhẹ yếu tố vật chất, duy ý chí; trọng quan chức, chuộng khoa cử, ít chú ý

đến khoa học kỹ thuật để sản xuất kinh doanh.

Trong công trình nghiên cứu “Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của

phát triển kinh tế- xã hội”, các tác giả đã nêu lên những định hướng cho lối sống, nhân

cách con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đó là

con người có niềm tin vững chắc và quyết tâm cao thực hiện nhiệm vụ lịch sử trọng đại

là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội,

có bản lĩnh, có lòng nhân ái, nhân đạo cao cả, có trình độ khoa học công nghệ, có trình

độ trí tuệ, trình độ tay nghề, có sức khoẻ, có ý thức về quyền công dân, có cá tính và

bản sắc riêng.

Nghị quyết của Bộ chính trị về “một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng

hiện nay” đã xác định: “Những giá trị văn hoá truyền thống vững bền của dân tộc Việt

Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý “thương người như

thể thương thân”, đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động...Đó là nền tảng và

sức mạnh tinh thần to lớn để nhân dân ta xây dựng một xã hội phát triển, tiến bộ, công

bằng, nhân ái” [22, tr.19].

Như vậy lối sống mới mà nhân dân ta hướng đến xây dựng trước hết phải kế thừa

các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Các giá trị đạo đức truyền thống tồn tại

một cách vững bền trong đời sống tinh thần của nhân dân ta, nó cũng là những giá trị

không thể thiếu trong quá trình xây dựng lối sống mới, con người mới ở Việt Nam.

Ngày nay, thế giới đang có nhiều biến động, môi trường xã hội nước ta có nhiều

thay đổi, nhân dân ta đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất

nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Cùng với thanh niên, tầng lớp sinh viên Việt Nam

đang trong quá trình phát triển để tự khẳng định vai trò là chủ nhân tương lai của nước

nhà, họ cũng đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới, họ vừa có môi trường

học tập, nghiên cứu thuận lợi, có điều kiện tiếp thu và vận dụng các thành tựu khoa học

kỹ thuật. Mặt khác, họ cũng chịu sự tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường.

Trước tình hình đó, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm đúng mức tới việc xây dựng lối sống

mới cho sinh viên góp phần xây dựng con người mới – con người xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam.

Lối sống mới cho sinh viên phải là lối sống chuẩn mực, có đạo đức, có lý tưởng

cách mạng, có sự kết hợp hài hoà giữa truyền thống dân tộc với tinh hoa văn hoá nhân

loại dựa trên một nền tảng giáo dục toàn diện. Lối sống mới mà ta đang xây dựng trong

thanh niên, sinh viên phải là lối sống có sự phát triển cao về thể lực, trí tuệ và tình cảm,

có ý thức công dân. Trình độ trí tuệ là điều kiện cần thiết để phát huy sáng kiến- đây là

một thế mạnh của sinh viên so với một tầng lớp thanh niên khác trong xã hội. Điều này

không chỉ thể hiện tính đặc thù của sinh viên mà còn giúp họ có khả năng đề kháng, đẩy

lùi các tập quán sinh hoạt lỗi thời, lạc hậu, tạo điều kiện cho việc xây dựng lối sống

mới, văn minh hiện đại.

Muốn xây dựng lối sống theo tiêu chí dân tộc, hiện đại và nhân văn trong tầng

lớp sinh viên trong giai đoạn hiện nay, cần phải tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm là

phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, không ngừng nâng cao mức sống vật chất và

tinh thần của nhân dân nói chung và tầng lớp sinh viên nói riêng. Đồng thời hết sức coi

trọng việc giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, phẩm chất, nhân cách cho sinh viên.

Cơ sở bền vững của lối sống mới trong sinh viên là học tập và lao động, bởi lao

động là nguồn sống, nguồn hạnh phúc chân chính, là nghĩa vụ góp phần hoàn thiện nhân

cách con người, hình thành lối sống lành mạnh, tốt đẹp.

Với chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mỗi

công dân phải sống theo hiến pháp và pháp luật. Sinh viên cũng không ngoại lệ.

Cho nên, việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên đòi hỏi phải nâng cao ý thức

pháp luật cho họ, tạo cho họ có thói quen chấp hành luật pháp. Hệ thống pháp luật

càng chặt chẽ, càng đầy đủ, đồng bộ càng thể hiện trình độ phát triển, trình độ văn

minh và tiến bộ của xã hội. Đó sẽ là hành lang pháp lý để mọi người dân, trong đó

có tầng lớp sinh viên sống, làm việc và học tập.

Xu thế toàn cầu và hội nhập kinh tế thế giới đang tác động mạnh mẽ đến các

quốc gia và vùng lãnh thổ, nó kéo theo cả những thời cơ và thách thức. Để chủ động hội

nhập với xu thế tất yếu đó của lịch sử đương đại, đòi hỏi mỗi con người phải phát huy

tính tích cực, chủ động, sáng tạo, phải “năng động hoá” lối sống của mình. Đó là lối

sống năng động, nhạy bén, sáng tạo dựa trên một nền tảng chính trị vững chắc: chủ

nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chúng ta có thể đồng ý với quan niệm cho rằng: “Lối sống năng động khác xa

với lối sống chụp giật và lừa đảo. Năng động là tính cách trong hoạt động sống biết

vượt khó khăn, sáng tạo ra phương thức sống hoàn thiện hơn” [34, tr.364]. Như vậy,

Thực chất của sự nghiệp xây dựng lối sống dân tộc- hiện đại ở nước ta

là xác định sự lựa chọn của các cá nhân theo định hướng dân giàu, nước

mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là quá trình nhân đạo hoá

toàn bộ đời sống xã hội mà mỗi cá nhân sẽ gia tăng tính tự chủ, tự giác, sức

mạnh bên trong hướng tới các quá trình hoàn thiện của xã hội dưới sự lãnh

đạo của Đảng [34, tr.366].

Nghị quyết lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã đề ra

nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới gồm năm đức

tính cơ bản:

- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với

nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và

tiến bộ xã hội.

- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì mục tiêu chung: dân giàu, nước mạnh,

xã hội công bằng, dân chủ, văn minh

- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa,

tôn trọng kỷ cương, phép nước, quy ước cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi

trường sinh thái.

- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất

cao, vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.

- Thường xuyên học tập, nâng cao hiêủ biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm

mỹ và thể lực [18, tr.58-59].

Có thể xem những yếu tố nêu trên chính là đặc trưng của lối sống mới mà người

Việt Nam đang xây dựng trong giai đoạn cách mạng mới, trong đó có lối sống mới cho

sinh viên.

1.2.2. Biểu hiện của ảnh hưởng của giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây

dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay

Kế thừa là một trong những đặc trưng cơ bản, phổ biến của sự phát triển, là cái

cầu nối giữa cái cũ và cái mới, giữa quá khứ và hiện tại. Tuy nhiên, sự phát triển không

chỉ diễn ra bởi sự kế thừa mà còn có sự đổi mới, tái tạo. Đây là hai mặt thống nhất biện

chứng trong sự phát triển, chúng luôn tồn tại song hành, thâm nhập và bổ sung lẫn nhau.

Theo quan niệm mácxít, kế thừa không chỉ tồn tại sự theo thời gian, mà còn tồn tại theo

không gian. Với tư cách là sản phẩm của lịch sử, của toàn bộ nền kinh tế, xã hội, khái

quát toàn bộ hoạt động sống, phương thức sinh hoạt của các dân tộc, các giai cấp,

nhóm xã hội cũng như các cá nhân...., lối sống xã hội chủ nghĩa không thể không kế

thừa những giá trị phổ quát của toàn nhân loại cũng như các giá trị đạo đức truyền

thống của dân tộc. Việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên không nằm ngoài quy

luật tác động đó. Những ảnh hưởng của cá giá trị đạo đức truyền thống đối với việc

xây dựng lối sống mới cho sinh viên được thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, các giá trị đạo đức truyền thống làm cơ sở cho việc xây dựng lối sống

mới nói chung và xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam nói riêng. Lối sống

chính là sự thể hiện của nền tảng đạo đức, nói cách khác, nó là hình thức thể hiện các

giá trị đạo đức truyền thống ở các giai đoạn lịch sử khác nhau. Nhìn vào lối sống, người

ta có thể thấy được sự tiếp nối, sợi dây liên kết giữa quá khứ với hiện tại, giữa cái cũ và

cái mới. Lịch sử đã chứng minh rằng, không có và không thể xây dựng một lối sống tiến

bộ nếu phủ nhận hoàn toàn các giá trị truyền thống mà cha ông để lại. Trái lại, các giá

trị văn hoá, đạo đức truyền thống là cội nguồn, gốc rễ để trên đó, chúng ta xây dựng lối

sống mới trên cơ sở kết tinh những tinh hoa mới của nhân loại. Các giá trị đạo đức

truyền thống còn tạo điều kiện và là yếu tố đảm bảo cho lối sống mới được khẳng định

và phát triển một cách vững chắc.

Các giá trị đạo đức truyền thống làm nên bản sắc văn hoá, tâm hồn, lối sống con

người Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại. Sự hình thành và phát triển của sinh viên cũng

không nằm ngoài quy luật đó, lối sống của họ không chỉ là sự kế thừa có chọn lọc các

giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc mà còn là việc phát huy truyền thống đáng tự

hào của thế hệ sinh viên đi trước.

Hiện nay, chúng ta đã và đang chọn lọc để phát huy những giá trị đạo đức truyền

thống phù hợp với công cuộc đổi mới của toàn Đảng, toàn dân ta. Có những chuẩn mực

đạo đức đã lỗi thời, không còn phù hợp sẽ bị gạt bỏ, nhưng cũng có những giá trị mới

được khẳng định và đề cao. Chẳng hạn, chúng ta coi trọng các giá trị cá nhân, tính năng

động, quyết đoán, khả năng thích nghi với điều kiện mới....Dẫu vậy, chúng ta không

phủ nhận vai trò nền tảng của các giá trị đạo đức truyền thống trong đời sống tinh thần.

Lối sống mới sẽ không thể hình thành nếu gạt bỏ các giá trị đạo đức truyền thống và

không thể phát triển nếu không hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện con người.

Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù có tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường

nhưng các giá trị đạo đức truyền thống đích thực vẫn được nhân dân ta gìn giữ, phát

huy. Việc xây dựng nền văn hoá mới, lối sống mới, con người mới mà lãng quên các giá

trị đạo đức truyền thống của dân tộc là sẽ tự đánh mất mình, “trở thành bóng mờ hoặc

bản sao chép của người khác” như nhà thơ Nga Gamđatốp từng nói.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc kế thừa, phát huy các giá

trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Với Người, kế thừa các giá trị truyền thống nói

chung, các giá trị đạo đức truyền thống nói riêng cần phải quán triệt các tư tưởng sau:

Đời sống mới không phải cái gì cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái

gì cũ mà xấu thì phải bỏ...

Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Cái gì

cũ mà tốt thì phải phát triển thêm

Cái gì mới mà hay thì phải làm.

Những tư tưởng này không chỉ là nội dung của nền đạo đức mới mà còn là

nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng đạo đức của Người.

Thứ hai, các giá trị đạo đức truyền thống là cơ sở góp phần định hướng cho việc xác

định lý tưởng sống, hành vi, thái độ ứng xử của cá nhân mỗi người.

Cùng với thanh niên nước nhà, sinh viên có vai trò quan trọng đối với sự phát

triển của đất nước. Họ là lực lượng mang trong mình những phẩm chất quý báu như trẻ,

khoẻ, có tri thức, năng động, vượt khó. Họ thực sự là đại biểu cho sức sống, sức mạnh

của dân tộc. Tuy nhiên, để những thế mạnh đó phát huy được trong cuộc sống, để họ

thực sự là động lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, họ cần phải được định

hướng một cách toàn diện, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống trong sáng. Chính vì vậy,

trong quá trình xây dựng lối sống mới cho sinh viên hiện nay thì các giá trị đạo đức

truyền thống luôn là cơ sở góp phần định hướng cho các phẩm chất cao đẹp đó.

Thật vậy, trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, các giá trị đạo đức truyền

thống đang có sự biến đổi sâu sắc. Sự biến đổi ấy nhìn chung đi theo hai hướng: tích

cực và tiêu cực. Nhưng trong sự biến động ấy, các giá trị đạo đức truyền thống vẫn là

các tiêu điểm để từ đó các tầng lớp nhân dân, trong đó có thanh niên, sinh viên hướng

theo để không đi lạc, để phân biệt được phải trái, đúng sai, chính tà, tốt xấu.....trên cơ

sở đó, mọi người xác định được thái độ của mình mà hành động cho phù hợp.

Đến đây, ta có thể khẳng định rằng; trong quá trình xây dựng lối sống mới cho

sinh viên Việt Nam hiện nay, các giá trị đạo đức truyền thống có vai trò rất quan trọng,

nó là cơ sở góp phần định hướng trong quá trình hình thành phong cách sống, lối sống

mới. Về vấn đề này, GS.TS Huỳnh Khái Vinh nhận xét rằng:

Cách thức tối ưu là dựa vào đạo đức, cụ thể là các giá trị và chuẩn mực

đạo đức. Trong khi luật pháp ở nước ta vẫn còn đang trong quá trình xây

dựng và phát triển (chứ chưa thể ở nấc thang hoàn thiện như ở những nước

có truyền thống pháp quyền từ hàng trăm năm nay) thì các giá trị đạo đức

vẫn còn đóng vai trò hệ chuẩn phổ quát nhất đối với sự phát triển văn hoá,

xây dựng con người. Thông qua các giá trị đạo đức có thể phát huy đạo lý

của dân tộc và bản sắc dân tộc để phát triển văn hoá, xây dựng con người.

Bởi lẽ các chuẩn đạo đức tương đối mềm dẻo, được xác định bằng các tính

chất nên hay không nên. Chúng được kiểm tra bằng lương tâm, danh dự,

trách nhiệm, nghĩa vụ, ý nghĩa cuộc sống và dư luận xã hội, tức là được kiểm

tra bằng tính tự nguyện, tự giác [98, tr.47].

ở đây khi bàn đến vai trò nền tảng của các giá trị đạo đức truyền thống trong quá

trình xây dựng lối sống mới cho sinh viên không có nghĩa là chúng ta giữ nguyên những

giá trị đó một cách cứng nhắc, giáo điều mà nhất thiết phải có sự đổi mới, phải làm cho

các giá trị đó được sống lại và phát huy tốt trong điều kiện mới.Đi đôi với nó, chúng ta

phải không ngừng bổ sung những giá trị mới của nhân loại, của dân tộc như coi trọng

các giá trị cá nhân, tính năng động dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm...

Như vậy, để xây dựng lối sống mới, chúng ta phải lấy các giá trị đạo đức

truyền thống làm cơ sở, nền tảng trên cơ sở kế thừa và đổi mới. Theo V.I.Lênin:

“Nhiệm vụ quan trọng nhất của giai cấp vô sản khi giành được thắng lợi là phải

nắm được các di sản văn hoá trước kia, chuyển hoá chúng thành tài sản của toàn

dân, để sử dụng được những di sản quý giá đó vào việc xây dựng cho xã hội xã hội

chủ nghĩa một nền văn hoá cao hơn nữa” [52, tr.34].

Như vậy, việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng lối sống

mới là cấp thiết và tất yếu khách quan. Trong quá trình kế thừa và đổi mới các giá trị

đạo đức truyền thống, chúng ta cần tránh hai khuynh hướng cực đoan sau đây:

Một là, xu hướng tuyệt đối hoá cái hiện đại, quay lưng với cái truyền thống mà

biểu hiện của nó thường là chạy theo đồng tiền, đua đòi, thích hưởng thụ, lười lao

động..., đây là khuynh hướng hư vô.

Hai là, xu hướng tuyệt đối hoá truyền thống, coi nhẹ cái hiện đại, sống với lối

sống cũ, đã qua, khôi phục cả những truyền thống lạc hậu, những hủ tục..., đây là

khuynh hướng bảo thủ.

Để khắc phục hai khuynh hướng sai lầm trên đây đòi hỏi sự kế thừa phải trên cơ

sở có chọn lọc, có phê phán với tinh thần đổi mới.

Như vậy, mặc dù có sự xuất hiện của những quan niệm mới về giá trị đạo đức

nhưng không ai có thể phủ nhận được vai trò nền tảng của các giá trị đạo đức truyền

thống trong việc hình thành và phát triển của lối sống mới, của nền văn hoá tinh thần

mới.

Thứ ba, các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc là động lực và là ngọn

nguồn phát triển của dân tộc, tạo nên sức mạnh tinh thần và bản lĩnh dân tộc, đặc biệt là

kích thích tầng lớp sinh viên tự tin vươn lên trong điều kiện mới đầy biến động như hiện

nay. Trong xu thế quốc tế hoá dù muốn hay không các quốc gia cũng phải mở cửa hoà

nhập chung với thế giới hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang làm cho

các lĩnh vực của đời sống trở nên hết sức năng động, kéo theo các điều kiện và yêu cầu

cuộc sống luôn thay đổi. Đặc biệt các thành tựu của cuộc cách mạng tin học đang làm

cho các luồng tư tưởng, các sản phẩm văn hoá được truyền bá nhanh chóng và rộng

khắp. Chính những nhân tố mới của thời đại đã tạo nên những mối quan hệ mới có ảnh

hưởng đến các quan hệ truyền thống và các chuẩn mực tương đối ổn định. Tất cả những

yếu tố mới ấy đã làm thay đổi tư duy, tác phong, lối sống của con người nói chung, đặc

biệt là tầng lớp thanh niên, trong đó có sinh viên, làm cho họ năng động hơn, nhạy cảm

hơn, tăng khả namg nhận thức và cải tạo thế giới, thay đổi nhiều quan niệm sống của

họ. Trước nhiều tác động mạnh mẽ của thời đại, nền kinh tế thị trường bên cạnh những

yếu tố góp phần tích cực vào việc hình thành lối sống mới của con người Việt Nam hiện

đại thì cũng có những mặt tiêu cực theo chiều hướng ngược lại. Vậy dựa vào đâu để con

người có cơ sở sàng lọc những gì phù hợp, cần thiết cho sự phát triển riêng của dân tộc

Việt Nam và loại bỏ những gì không phù hợp với quá trình xây dựng con người mới

XHCN? Đó chính là những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Quá

khứ, hiện tại và tương lai là một dòng chảy liên tục. Không có cái mới chân chính nào

được tạo ra ở bên ngoài nền móng đạo đức truyền thống của dân tộc. Giá trị đạo đức

truyền thống giúp cho thanh niên, sinh viên có lòng tự hào dân tộc, có niềm tin, sức

mạnh vượt qua khó khăn mới do thực tiễn cách mạng đặt ra. Sẽ không bao giờ có con

người Việt Nam hiện đại, phát triển toàn diện nếu như mỗi chúng ta không biết, không

thấm nhuần lịch sử hào hùng mà cha ông để lại, trong đó có các giá trị đạo đức truyền

thống của dân tộc. Theo đó, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống

trong việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên sẽ tạo khả năng to lớn cho sự hoàn thiện

từng bước con người mới, từ đó sẽ nung nấu trong lòng họ những hoài bão, khát vọng

đấu tranh và xây dưng tổ quốc ngày càng giàu mạnh vì một xã hội “công bằng, dân chủ,

văn minh”.

Ngoài ra các giá trị đạo đức truyền thống cũng đóng vai trò là cơ sở để tổng kết,

tìm ra những phẩm chất mới trong việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam

hiện nay. Chúng ta biết rằng, trong thời đại ngày nay, khi điều kiện kinh tế- xã hội thay

đổi đã làm cho nhiều giá trị truyền thống cũng phải thay đổi theo cho phù hợp. Thế

nhưng trong tiến trình thay đổi đó, các giá trị đạo đức truyền thống đóng một vai trò vô

cùng to lớn, bởi nó là cơ sở để từ đó con người tổng kết, tìm ra những phẩm chất mới.

Chương 2

Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng

lối sống mới cho sinh viên ở Nghệ An hiện nay -

Thực trạng và giải pháp

2.1. ảnh hưởng của giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối sống

mới cho sinh viên Nghệ An hiện nay

Đặc điểm sinh viên Nghệ An:

Nghệ An là tỉnh Bắc Trung Bộ, nằm trong toạ độ từ 18°35’ đến 20°10’ vĩ độ

Bắc, từ toạ độ 103°50’25” đến 105°40’30” kinh độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Thanh

Hoá, phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía Tây giáp các tỉnh Xiêng Khoảng,

Bôlikhămxay và Hủaphăn (nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào), phía Đông giáp

biển Đông. Diện tích tự nhiên của Nghệ An là 16.370km, đứng đầu cả nước. Địa

hình Nghệ An dài và rộng, có cả miền núi, trung du, đồng bằng và miền biển. Vì thế,

người ta vẫn ví Nghệ An là một Việt Nam thu nhỏ.

Lịch sử đã chứng minh, Nghệ An là một mảnh đất địa linh nhân kiệt, không chỉ

nổi tiếng với truyền thống anh dũng, kiên cường trong đấu tranh giải phóng quê hương,

đất nước mà còn có bề dày truyền thống văn hóa, lịch sử. Nhưng nổi bật hơn cả vẫn là

cốt cách, nếp sống riêng của con người xứ Nghệ. Đó là: lý tưởng trong tâm hồn, kiên

trung trong bản chất, khắc khổ trong sinh hoạt và cứng cỏi trong giao lưu. Đặng Thai

Mai từng viết: “Không có miền nào lại có bản ngã rõ rệt như vùng này. Con người ở

đây, đối với tự nhiên, đối với cái đẹp của lý tưởng, tuy không bộc lộ một cách ồn ào hời

hợt nhưng lại có phần suy nghĩ điềm tĩnh, sâu sắc và bền bỉ cảm động thiết tha”. Chính

từ những thăng trầm của lịch sử, từ sự khắc nghiệt của thiên nhiên và khát vọng sống

của những con người được coi là có “chí khí” đã tôi luyện thành một cốt cách riêng có

của người Nghệ An. Từ đó hình thành nên một cộng đồng có những đặc điểm tâm lý và

phong tục khác biệt. Sự khác biệt này được lưu giữ và in đậm trong cả một quá trình

lịch sử lâu dài với tính đa dạng, phong phú của cái chung với cái riêng, của cái cũ và cái

mới, của hoàn thiện với cái chưa hoàn thiện... Những tính cách riêng trên đã và đang

được người Nghệ An, trong đó có sinh viên tỉnh nhà gìn giữ và phát huy.

Cùng với truyền thống văn hoá phong phú, đa dạng, người Nghệ An còn rất tự

hào về truyền thống học hành, khoa bảng của mình. Trong lịch sử, Nghệ An đã sinh ra

nhiều hiền tài góp phần làm rạng danh non sông, đất nước. Tiếp nối truyền thống hiếu

học bao đời của con người xứ Nghệ, hiện tại, nền giáo dục Nghệ An đã và đang có

những bước phát triển đáng kể, trong đó có giáo dục đại học. Số lượng các trường đại

học, cao đẳng trong tỉnh ngày càng tăng, số lượng sinh viên ngày càng lớn.Đây vừa là

một thế mạnh, một lợi thế, đồng thời nó cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội cần phải

quan tâm, trong đó có vấn đề xây dựng lối sống mới cho sinh viên.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Nghệ An có :2 trường đại học, gồm: Đại học Vinh

trực thuộc Bộ Giáo dục Đào tạo và Đại học Sư phạm kỹ thuật Vinh trực thuộc Bộ Lao

động – Thương binh và Xã hội; có 6 trường Cao đẳng: Cao đẳng sư phạm, Cao đẳng y

tế, Cao đẳng văn hoá nghệ thuật và Cao đẳng kinh tế kỹ thuật, Cao đẳng kỹ thuật Việt

Hàn, Cao đẳng dạy nghề Việt Đức với tổng số sinh viên lên đến trên 30 nghìn người.

Ngoài các trường đại học, cao đẳng, Nghệ An cũng có một hệ thống các trường

trung cấp chuyên nghiệp như: Trung cấp kinh tế – kỹ thuật Hồng Lam, Trung cấp kỹ

thuật công nghệ (Sara), Trung cấp tư thục du lịch miền Trung.....

Đặc điểm nổi bật của sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng Nghệ An là

hầu hết đều xuất thân từ những vùng quê nghèo của cả nước, đa dạng về thành phần,

phong phú về nghề nghiệp tương lai, là lớp người năng động, sáng tạo, nhạy bén, có

khát vọng vươn lên thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, có ý chí tự lực, tự cường, chủ động

trong học tập, có ý thức tự trau dồi khiến thức chuyên môn, nâng cao trình độ học vấn

để lập thân, lập nghiệp. Đa số sinh viên là những người sống có lý tưởng, có ước mơ và

hoài bão lớn. Họ sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống hàng ngày

để thực hiện ước mơ của mình. Phát huy truyền thống của quê hương Xô Viết anh hùng

các thế hệ sinh viên Nghệ An đã và đang phát huy trí thông minh, sáng tạo, học tập và

lao động cần cù, chịu khổ, luôn là lực lượng xung kích trong các phong trào của thanh

niên tỉnh nhà. Tích cực tham gia vào các phong trào tình nguyện như: xoá đói giảm

nghèo, bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự an toàn giao thông, tình nguyện về với đồng

bào ở các vùng sâu, vùng xa trong tỉnh và các tỉnh Bắc trung bộ. Cũng như sinh viên cả

nước, sinh viên Nghệ An có lòng tự trọng và ý thức dân tộc sâu sắc, có ý chí, tự lực, tự

cường, cầu thị tiến bộ, giàu mơ ước và hoài bão, nhạy cảm về tình hình chính trị, có nhu

cầu lớn về học tập, lao động, việc làm và các sinh hoạt văn hóa, tinh thần.

Có thể khẳng định rằng ở Nghệ An đang hình thành một lớp sinh viên vững

vàng về bản lĩnh chính trị, ý chí quyết đoán, biết kế thừa các giá trị đạo đức, văn hoá

truyền thống của quê hương, dân tộc để thành những con người mới phát triển toàn

diện, là những chủ nhân không thể thiếu của tương lai đất nước.

2.1.1. Thực trạng lối sống của sinh viên Nghệ An hiện nay

Trong những năm qua, với sự quan tâm của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, Trung

ương Đoàn, Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam, phong trào sinh viên ở Nghệ An đã

có những bước phát triển đáng kể, trong đó có sự chuyển biến về chính trị tư tưởng, lối

sống.Trong Báo cáo tổng kết năm học 2008- 2009, Tỉnh đoàn Nghệ An đánh giá: đại bộ

phận sinh viên trong toàn tỉnh đều có ý thức chính trị vững vàng, có niềm tin vào sự

lãnh đạo của Đảng cộng sản, đạo đức trong sáng, có lối sống lành mạnh, có tinh thần

cảnh giác cao trước âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Hình ảnh

sinh viên ngày càng được khẳng định, được các cấp ngành trong tỉnh đánh giá tốt.

Trong 5 năm qua, cùng với cả nước, kinh tế Nghệ An liên tục có những bước

tăng trưởng khá, tình hình chính trị ổn định, các hoạt động giao lưu hợp tác trong nước

và quốc tế được đẩy mạnh, truyền thống văn hoá được gìn giữ và phát huy một cách phù

hợp với hoàn cảnh mới. Điều đó đã tạo nên môi trường học tập ngày càng tốt hơn cho

sinh viên. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên rèn luyện đạo đức, nhân cách

và lối sống, chuẩn bị tốt hành trang trước khi ra trường.

Nét nổi bật của sinh viên xứ Nghệ nhất là ý chí cần cù và đức tính hiếu học.

Mảnh đất Nghệ An đã nghèo lại còn khắc nghiệt về tự nhiên, người Nghệ An, do vậy đã

mang sẵn đức tính cần cù, vượt khó để tồn tại, phát triển và vươn lên để khẳng định

mình. Tiếp nối truyền thống của cha ông, sinh viên xứ Nghệ dù ở giai đoạn nào cũng

mang trong mình quyết tâm học để thoát nghèo. Họ xác định học tập là con đường tốt

nhất để thay đổi cuộc sống bản thân và gia đình theo hướng tích cực hơn. Hầu hết sinh

viên trong các trường cao đẳng, đại học ở Nghệ An hiện nay có quyết tâm học tập cao,

tinh thần tự học, tự nghiên cứu rất lớn, khả năng tự rèn luyện và vượt khó rất đáng ghi

nhận.Theo thống kê của Sở Giáo dục - Đào tạo Nghệ An, năm học 2008 -2009, số sinh

viên đạt kết quả học tập và tốt nghiệp tương đối cao: Đại học Vinh có 43% sinh viên có

học lực khá và giỏi, 20% đạt danh hiệu sinh viên ưu tú, sinh viên xuất sắc; Cao đẳng Sư

phạm: có 37% sinh viên khá giỏi, Cao đẳng y: có 38% sinh viên có học lực khá giỏi.

Với ý chí học tập và rèn luyện nghiêm túc ngay từ rất sớm nên sinh viên các trường ở

Nghệ An có nhiều cơ hội tìm kiếm việc sau khi ra trường. Năm học 2007 – 2008, số

sinh viên có việc làm sau khi tốt ngiệp tương đối cao so với các địa phương khác: Đại

học Vinh có 64% , Đại học Sư phạm kỹ thuật có 53%, Cao đẳng Sư phạm có 57%, Cao

đẳng y có 72%...

Cũng như sinh viên cả nước, sinh viên Nghệ An đang sống trong môi trường

thông tin đa chiều, dưới áp lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế, họ nhận thức rõ hơn về

tình hình, nhiệm vụ của quê hương, đất nước trong giai đoạn hiện nay. Là lớp người

nhạy bén trước những sự kiện trong nước và quốc tế nên tư tưởng đạo đức lối sống của

họ cũng có những chuyển biến nhất định. Hầu hết sinh viên Nghệ An có thái độ và nhận

thức chính trị đã và đang được nâng cao theo hướng tích cực. Số đông sinh viên mong

muốn được đứng trong hàng ngũ của Đảng, tích cực trong các hoạt động chính trị xã

hội, có tinh thần và nhiệt huyết tham gia các phong trào tình nguyện vì cộng đồng. Năm

học 2008 -2009, số sinh viên được kết nạp Đảng trong các trường đại học, cao đẳng

tăng so với các năm học trước (Đại học Vinh có: 75 sinh viên, Đại học Sư phạm kỹ

thuật có 22 sinh viên, Cao đẳng Sư phạm có 37 sinh viên, Cao đẳng văn hoá nghệ thuật

có 24 sinh viên). Điều này chứng tỏ ý thức học tập và rèn luyện của sinh viên toàn tỉnh

ngày càng cao, ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp của họ ngày càng lớn.

Cùng với sinh viên ở các địa phương khác, sinh viên Nghệ An hiện nay rất quan

tâm tới vấn đề việc làm trước khi ra trường, có nhu cầu được thể hiện mình, được đóng

góp sức lực và trí tuệ cho sự phát triển của quê hương đất nước. Theo đó, ý thức trách

nhiệm đối với cộng đồng của sinh viên cũng ngày càng nâng cao, điều này được thể

hiện ở nhu cầu muốn có việc làm trong các cơ quan nhà nước của sinh viên Nghệ An

tương đối cao. Theo kết quả điều tra tại một số trường cao đẳng, đại học ở Nghệ An khi

tiến hành đề tài, cho thấy:

Có: 68% sinh viên muốn được làm việc trong các cơ quan nhà nước.

12% sinh viên muốn làm việc cho các doanh nghiệp nước ngoài

8% sinh viên muốn tự kinh doanh sau khi ra trường.

Đa số sinh viên Nghệ An có định hướng giá trị đúng đắn về cuộc sống, có thái độ

ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ xã hội. Họ đã thể hiện rõ nét tính cách vốn có của

con người xứ Nghệ: trân trọng sự sẻ chia, giúp đỡ lẫn nhau, đề cao sự chân thành, tình yêu

thương, sống đoàn kết và trách nhiệm. Mặc dù chịu sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị

trường, nhưng đa số sinh viên Nghệ An vẫn coi trọng, giữ gìn và bảo tồn những giá trị văn

hoá nói chung, giá trị đạo đức truyền thống của quê hương, đất nước. Theo kết quả điều tra

lấy ý kiến của sinh viên tại 3 trường: Đại học Vinh, Cao đẳng Sư phạm, Cao đẳng văn hoá

nghệ thuật về những giá trị và định hướng giá trị, cho thấy:

Bảng 2.1: Những giá trị và định hướng giá trị của sinh viên Nghệ An

Tỷ lệ % so với tổng số

Tương Rất Không Không Quan đối quan quan quan TT Giá trị xã hội trọng quan trọng trọng tâm trọng

1 Sống tự do 68 32 0 0 0

2 Sống có đạo đức 60 18 16 6 0

3 Có học vấn cao 36 28 12 4 0

4 Sống có niềm tin 43 32 13 12 0

5 Sống có lý tưởng 42 40 11 7 0

6 Sống có tình nghĩa 61 32 7 0 0

7 Sống có lòng tự trọng 44 38 13 5 0

8 Tinh thần tự lập 52 24 13 11 0

9 Sống đoàn kết 36 32 30 2 0

10 Cái đẹp và cái thiện 45 34 8 13 0

Mặc dù phải sống trong điều kiện còn nhiều khó khăn, môi trường học tập không

thuận lợi như các địa phương khác nhưng sinh viên Nghệ An vẫn nổ lực không ngừng

để có được những thành tích đáng để tự hào. Cùng với thanh niên toàn tỉnh, họ đang

viết tiếp lịch sử tự hào của tuổi trẻ Nghệ An bằng việc tham gia các hoạt động xã hội vì

cộng đồng, các phong trào đền ơn đáp nghĩa, các hoạt động tình nguyện, hiến máu nhân

đạo, đến với người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, đến với những bà mẹ Việt

Nam anh hùng, những gia đình có công với cách mạng. Trong năm học 2008 -2009, đã

có hơn 1000 lượt sinh viên trong toàn tỉnh tham gia hiến máu nhân đạo, trong đó, Đại

học Vinh có gần 500 sinh viên, Đại học Sư phạm kỹ thuật có gần 100 sinh viên, Cao

đẳng nghệ thuật có 120 sinh viên, Cao đẳng Sư phạm có gần 200 sinh viên tham gia.

Bên cạnh những biểu hiện tích cực cần được khẳng định, lối sống của sinh viên

Nghệ An hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm và lo ngại. Dưới sự tác động

của kinh tế thị trường cộng với sự quyết tâm rèn luyện của một bộ phận sinh viên chưa

cao đã làm cho bức tranh về lối sống của sinh viên tỉnh Nghệ An vẫn còn mảng tối. Còn

có một bộ phận sinh viên mơ hồ về lý tưởng cách mạng, chưa gắn bó với sinh hoạt tập

thể, ngại tham gia hoạt động xã hội, ngại khó, sợ khổ. Tại trường Đại học Vinh và Cao

đẳng Sư phạm, khi đặt câu hỏi: Bạn có nhu cầu tham gia các hoạt động tình nguyện vì

cộng đồng không? cho 100 sinh viên thì có đến 17% sinh viên trả lời không muốn tham

gia hoặc không quan tâm, có 13% sinh viên chưa biết sẽ làm gì sau khi ra trường. Một

bộ phận sinh viên tỉnh nhà cũng chưa xác định trách nhiệm đối với bản thân, gia đình,

nhà trường và xã hội, đến trường là do bắt buộc từ phía gia đình nên ý chí không cao,

chưa tích cực học tập rèn luyện. Còn có hiện tượng sinh viên thiếu trung thực trong các

kỳ thi, kiểm tra, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng thích ứng với nghề

nghiệp sau khi ra trường yếu, khả năng tự lập nghiệp, năng lực giao tiếp và tổ chức hoạt

động còn hạn chế so với yêu cầu của thực tiễn. Một số sinh viên còn có biểu hiện lối

sống thực dụng, hưởng thụ, đua đòi, xa hoa, chạy theo và tìm mọi cách để thoã mãn các

nhu cầu vật chất, sống thiếu văn hoá. Vi phạm đạo đức truyền thống, thậm chí vi phạm

pháp luật vẫn còn diễn ra đâu đó trong sinh viên các trường cao đẳng, đại học trong toàn

tỉnh.

Bảng 2.2: Đánh giá về những biểu hiện tiêu cực trong lối sống của sinh viên

(Khảo sát tại Đại học Vinh và Cao Đẳng Sư phạm)

Tỷ lệ % so với tổng số

TT Biểu hiện tiêu cực trong lối sống Kết quả

1 Đi học muộn hoặc bỏ học 11

2 Nghiện hút 0,3

3 Cờ bạc, riệu chè, cắm quán 23

4 Đua xe máy trái phép 8,7

5 Gian lận trong học hành thi cử 14

6 Có hành vi thiếu văn hoá 21

7 Thiếu tôn trọng thầy cô 9

8 Vi phạm pháp luật 32

Như vậy, hiện tượng tiêu cực trong lối sống của sinh viên Nghệ An vẫn còn.

Đây cũng được xem là một trong những hậu quả từ những mặt trái của nền kinh tế thị

trường mà Việt Nam, trong đó có tỉnh Nghệ An đang xây dựng. Để xây dựng lối sống

mới cho sinh viên, đòi hỏi cần nghiêm túc, thẳng thắn chỉ ra những ưu điểm và hạn chế

trong lối sống của sinh viên để từ đó tìm ra những định hướng, giải pháp nhằm phát huy

các mặt tích cực, hạn chế các mặt tiêu cực của trên.

2.1.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên

Nghệ An hiện nay

* ảnh hưởng của phương thức sản xuất

Quan niệm duy vật về lịch sử khẳng định rằng: lối sống của con người là tổng

hoà những kết quả hoạt động sống tương đối ổn định của họ trong một hình thái kinh tế

– xã hội nhất định, nó chịu sự chi phối của phương thức sản xuất đang thống trị trong xã

hội đó. Tuy nhiên, chúng ta “không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần

theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra tồn tại thể xác của cá nhân”. Mà hơn thế, “nó là

một phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định

của hoạt động sống của họ, một phương thức sinh sống nhất định của họ” [60, tr.30].

Suy cho cùng lối sống chịu sự quy định của phương thức sản xuất và các điều

kiện sinh hoạt của con người. Mỗi khi phương thức sản xuất hay điều kiện sống thay

đổi, lối sống của con người sớm hay muộn cũng thay đổi theo cũng thay đổi theo. Sự

thay đổi này thể hiện rõ nét nhất khi đời sống vật chất của con người có những biến đổi

lớn lao, làm thay đổi địa vị kinh tế của họ.

Sự quy định của phương thức sản xuất đối với lối sống phải thông qua hoạt động

của chủ thể và mang dấu ấn về chủ thể. Lối sống là lối sống của con người. Do đó,

không thể tách lối sống ra khỏi chủ thể hoạt động: con người và xã hội loài người.

Hoạt động của con người là đa dạng, nó không chỉ bó hẹp trong hoạt động sản

xuất vật chất, cho dù đây là hoạt động thực tiễn cơ bản nhất, mà nó còn bao hàm cả các

hình thức hoạt động khác như: hoạt động văn hoá, hoạt động chính trị, hoạt động tôn

giáo .....Và lối sống cũng được thể hiện trong các hình thức hoạt động đó.

Trong phương thức sản xuất (cơ sở khách quan xác định lối sống của con người),

lực lượng sản xuất là nội dung, là yếu tố quyết định phương thức sản xuất. Nhưng tiêu

chuẩn khách quan, cơ bản để phân biệt tính chất xã hội của một nền kinh tế, một

hình thái kinh tế- xã hội – cái sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lối sống, lại là quan hệ sản

xuất. Trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất là yếu tố quan trọng nhất, có

ý nghĩa quyết định các quan hệ xã hội khác. C.Mác từng viết: “Toàn bộ những quan

hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó

dựng nên một kiểu kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý

thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó” và “ mỗi khi cơ sở kinh tế

thay đổi thì toàn bộ cái kiến thúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh

chóng” [63, tr.14].

Lối sống không chỉ chịu sự quy định của quan hệ sản xuất mà còn của cả lực

lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển là nguyên nhân sâu xa của việc tăng năng

suất lao động, tăng tổng sản phẩm xã hội. Đây là điều kiện khách quan để tăng mức

sống của người dân cũng như tăng khả năng tiêu dùng của họ. Lối sống nhìn từ góc độ

kinh tế phải đảm bảo mức sống ổn định và không ngừng nâng cao, khả năng và mức độ

tiêu dùng ngày càng được cải thiện. Hốp xơ (1858- 1940), nhà kinh tế học người Anh

rất quan tâm đến sự cần thiết phải “nâng cao khả năng tiêu dùng” cho người dân trong

điều kiện sản xuất phát triển. M.N.Rútkêvich cũng rất có lý khi nhận định, không thể

hiểu được lối sống của con người nếu không biết rằng họ sản xuất và tiêu dùng những gì

và số lượng bao nhiêu, họ sống đói khổ hay ăn uống theo những định mức hợp lý, họ

sống trong nhà ổ chuột hay trong những căn nhà đầy đủ tiện nghi, được cấp quần áo ra

sao và với chất lượng nào, mù chữ hay được học tối thiểu, có các phương tiện giao

thông hay không và các phương tiện nào...

Chính từ đây, mức sống và thu nhập, khả năng tiêu dùng.....đã ảnh hưởng đến lối

sống của các thành viên trong một xã hội, trong một phương thức sản xuất nhất định,

đặc biệt là đã chỉ ra sự khác biệt về lối sống giữa các giai cấp khác nhau. CMác từng

viết: Hàng triệu gia đình sống trong những điều kiện kinh tế khác biệt và đối lập kình

địch giữa lối sống, quyền lợi và giáo dục của họ với lối sống, quyền lợi và giáo dục của

các giai cấp khác.

* ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường

Về mặt nhận thức, kinh tế thị trường là thành tựu của nền văn minh nhân loại, là

trình độ cao của kinh tế hàng hoá. Trong đó, toàn bộ hay đa phần đầu vào hay đầu ra

của sản xuất đều phải thông qua thị trường – nơi diễn ra quan hệ mua bán hàng hoá và

dịch vụ.

Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo sự điều tiết của thị trường (là cơ

chế vận hành của nền kinh tế chịu tác động của các quy luật sản xuất và lưu thông hàng

hoá thông qua sự biến động của giá cả thị trường), lấy sự tồn tại và phát triển của quan

hệ hàng hoá - tiền tệ làm cơ sở.

ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng

không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà là nền kinh tế thị trường có

sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tại Đại hội Đại biểu

toàn quốc lần thứ VI (12 –1986), trên cơ sở đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội,

đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đưa ra luận điểm quan trọng về

phát triển kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần. Đến Đại hội Đại biểu

toàn quốc lần thứ IX (4-2001), lần đầu tiên Đảng ta đưa ra mô hình kinh tế tổng quát

của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể coi đây là mô hình mới của chủ nghĩa xã hội, là bước

đột phá trong tư duy lý lận của cách mạng Việt Nam. Có thể hiểu bản chất của kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường mới trong lịch sử

phát triển của kinh tế thị trường, nó vừa đảm bảo yêu cầu hiện đại và hội nhập, đồng

thời phải phù hợp với những yêu cầu đặc thù của Việt Nam, đây là nền kinh tế vừa

tuân theo những quy luật của thị trường, đồng thời lại dựa trên cơ sở và được dẫn

dắt, chi phối bởi những nguyên tắc mang bản chất của chủ nghĩa xã hội nhằm mục

tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và từng bước quá

độ lên chủ nghĩa xã hội.

Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ

trương đúng đắn của Đảng ta nhằm khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế cũ, đưa

đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng con người phát triển toàn diện về năng lực,

phẩm chất, hoàn thiện nhân cách và lối sống phù hợp với bản chất của chế độ xã hội chủ

nghĩa.

Việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở Nghệ An trong hơn mười năm qua là tất

yếu khách quan, nó phù hợp với nhu cầu và đặc điểm của tỉnh. Nhờ phát triển kinh tế thị

trường mà trong những năm qua, nền kinh tế Nghệ An đã có nhiều chuyển biến tích

cực: các tiềm năng kinh tế (tài nguyên, vốn, nguồn lực con người, khoa học công

nghệ..) được giải phóng; nền sản xuất từng bước đa dạng và năng động hóa, tạo điều

kiện cho quá trình dân chủ hoá các thành phần kinh tế, thúc đẩy nhanh và có hiệu

quả tiến trình hợp tác kinh tế với các tỉnh thành khác trong cả nước; hình thành thói

quen suy nghĩ về tính hiệu quả thiết thực không chỉ trong sản xuất kinh tế mà cả

trong các hoạt động vật chất khác.

Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực nói trên còn có không ít những ảnh hưởng

tiêu cực của nền kinh tế thị trường đối với việc xây dựng lối sống mới cho người dân

Nghệ An nói chung và tầng lớp sinh viên, học sinh nói riêng. Hội nghị lần thứ năm Ban

thường vụ Tỉnh uỷ khoá X đã nhận định: “ Cơ chế thị trường và sự hội nhập, bên cạnh

những tác động to lớn cũng đã bộc lộ những mặt trái của nó, ảnh hưởng đến ý thức, tư

tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân”.

Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, các hiện tượng suy thoái đạo đức, lối

sống đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Biểu hiện của hiện tượng này là lối sống thực

dụng, sùng bái đồng tiền, cá nhân vị kỷ. Tình trạng một bộ phận sinh viên xem thường

luân lý và các giá trị tinh thần, giá trị nhân văn, đề cao lợi ích vật chất, nghèo nàn về

cảm xúc, bàng quan với cuộc sống cộng đồng đang ngày càng trở nên phổ biến. Còn

nhiều sinh quá sùng bái vật chất dẫn tới kiếm tiền bằng mọi cách bất chấp dư luận,

chuẩn mực đạo đức, kể cả pháp luật. Nhấn mạnh thực trạng này, có tác giả nhận định: “

những biểu hiện của lối sống không lành mạnh, thoái hóa về đạo đức xã hội chưa được

đấu tranh quyết liệt nên có xu hướng gia tăng” [84, tr.85-86].

Những biểu hiện tiêu cực trên đang từng ngày, từng giờ tác động đến lối sống

cũng như những chuyển biến trong lối sống cho sinh viên Nghệ An hiện nay.

* ảnh hưởng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Công nghiệp hoá là khái niệm chỉ quá trình hình thành và phát triển nền đại công

nghiệp với việc sản xuất bằng máy móc trong các xí nghiệp, gắn liền với sự xuất hiện

các thành thị và các trung tâm công nghiệp lớn. Công nghiệp hoá là xu thế khách quan

để phát triển sản xuất , tăng năng suất lao động và thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.

Hội nghị lần thứ bảy, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII, Đảng ta đã

khẳng định: “Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động

kinh tế, xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ

biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại,

tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. [15, tr.554]. Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện

đại hoá được Đảng ta đề ra là “cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở

vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp

với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất tinh thần cao, quốc

phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”

[15, tr.66].

Từ Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XIII, Nghệ An đã đẩy mạnh quá trình thực hiện

công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên tất cả các mặt, xem công nghiệp hoá, hiện đại hoá là

nhiệm vụ trung tâm trong phát triển kinh tế. Cho tới nay, sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đã đem lại nhiều chuyển biến tích cực cho nền kinh tế, xã hội tỉnh nhà. Nhờ

ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, hiện đại đã làm cho sản xuất trong

tỉnh không ngừng tăng lên, năng suất lao động ngày càng có nhiều bước chuyển tích

cực, góp phần nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Quá trình thực

hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh nằm trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá

đang diễn ra một cách mạnh mẽ. Đó chính là một cơ hội tốt để toàn tỉnh tiếp cận và tiếp

thu nhiều thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến và hiện đại, đi sâu vào phân công và

chuyên môn hoá ngành nghề, tạo điều kiện tốt cho mọi sáng tạo về mặt tinh thần. Đối

với đội ngũ học sinh, sinh viên đang học tập trong các trường đại học, cao đẳng ở Nghệ

An, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã góp phần thúc đẩy quá trình học tập, lao

động và sáng tạo của họ. Điều này cũng tạo ra nhu cầu thúc đẩy sự phát triển tư duy

khoa học, thôi thúc sinh viên ý thức được việc học hỏi để nâng cao trình độ khoa học kỹ

thuật, trình độ chuyên môn, ý thức rèn luyện, kỷ luật ngay trong nhà trường. Từ đó, tạo

ra sự chuyển biến tích cực trong việc hình thành lối sống công nghiệp của sinh viên. Họ

trở nên năng động, nhạy bén, sáng tạo trong lao động và học tập, thích nghi nhanh với

môi trường xã hội xung quanh. Đây là quá trình hiện thực hoá đường lối của Đảng. Vì

Đảng ta từng xác định, một trong những nội dung quan trọng của công cuộc công

nghiệp hoá, hiện đại hoá là phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ

bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Trong mọi chủ trương chính sách phải nhằm

giải phóng mọi tiềm năng của con người, trường xuyên quan tâm bồi dưỡng trí lực, thể

lực, sử dụng nhân tài. Nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân, phát triển văn hoá giáo

dục, thực hiện tiên tiến và công bằng xã hội.

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam nói chung và ở nghệ An nói

riêng, được thực hiện bắt đầu từ nông nghiệp, nông thôn, lấy công nghiệp hoá, hiện đại

hoá nông nghiệp nông thôn làm nhiệm vụ trung tâm. Kết quả cho thấy, lực lượng sản

xuất phát triển với tốc độ khá nhanh, từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa

xã hội, năng suất lao động xã hội không ngừng được nâng cao, hàng hoá đã bắt đầu

vươn ra cạnh tranh khu vực và thị trường thế giới, đời sống nhân dân từng bước được

cải thiện, tạo điều kiện thuận lợi cả về mặt vật chất lẫn tinh thần để xây dựng lối sống

mới cho nhân dân.

Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực nêu trên, bản thân quá trình công nghiệp hoá

cũng có những ảnh hưởng tiêu cực tới việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt

Nam nói chung và sinh viên Nghệ An nói riêng.

Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng

là một trong những nguyên nhân góp phần tạo nên sự phân hoá khá sâu sắc giữa thành

thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa lao động trí óc với lao động chân

tay. Hiện tượng thất nghiệp tăng, cơ cấu lao động trong các ngành nghề ngày càng mất

cân đối, khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, cạnh tranh thiếu lành mạnh ngày càng

phổ biến, làm phát sinh nhiều mâu thuẫn xã hội. Đây là những yếu tố đang gây xáo trộn

đời sống vật chất, tinh thần, ảnh hưởng trực tiếp đến lối sống của nhân dân nói chung,

của sinh viên nói riêng.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã tạo điều kiện cho con người thỏa mãn ngày

càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần, nhưng ở một khía cạnh khác, nó tạo ra xu

hướng máy móc hoá, xơ cứng trong sáng tạo và thưởng thức các giá trị văn hoá nghệ

thuật, có nguy cơ làm khô cạn, làm nghèo nàn cảm xúc phong phú trong tâm hồn con

người. Đối với sinh viên, kinh nghiệm sống chưa nhiều, bản lĩnh chính trị của họ lại

chưa được xác lập một cách ổn định, thì quá trình công nghiệp hoá nhiều khi tạo cho họ

lối sống khô khan, lãnh cảm với các mối quan hệ xã hội. Một số không nhỏ các sinh

viên đã đi vào khai thác triệt để các phương tiện kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến

để thõa mãn tối đa những nhục cảm cá nhân thiếu lành mạnh, vốn dĩ xa lạ với truyền

thống và lối sống tốt đẹp của dân tộc.

Như vậy, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã có ảnh hưởng tích cực lẫn

tiêu cực tới quá trình xây dựng lối sống cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay. Ngoài

những ảnh hưởng đã phân tích, lối sống còn bị tác động bởi những yếu tố khác, như quá

trình đô thị hoá.

Về thực chất “đô thị hoá là quá trình biến đổi và phân bố các lực lượng sản xuất

trong nền kinh tế quốc dân, phân bố dân cư, hình thành và phát triển các hình thức và

điều kiện sống theo kiểu đô thị đồng thời phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu trên cơ

sở hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số” [80, tr.16].

Đô thị hoá gắn liền sâu sắc với sự biến đổi về kinh tế- xã hội của đô thị và nông

thôn. Không chỉ ở Việt Nam, mà cả một số nước trên thế giới khi tiến hành công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nước đều diễn ra quá trình đô thị hoá. Tuy nhiên khi hiện thực hoá

quá trình đó, mỗi nước lại có những đặc điểm khác nhau. Nước ta vốn là một nước nông

nghiệp, số dân tập trung ở nông thôn hiện chiếm gần 80%, vì vậy quá trình đô thị hoá

có những nét đặc trưng riêng: những người nông dân ra thành thị không phải chỉ vì do

cuộc cách mạng công nghiệp làm thay đổi các điều kiện nhân khẩu mà còn do một số

người đã cùng gia đình trở về thành phố sau chiến tranh, một số khác tìm kiếm việc làm

trong những dịch vụ giản đơn ở thành thị. Do vậy, đô thị hoá đã tạo nên sự biến đổi xã

hội về nhiều mặt: diện tích đất đô thị tăng, đất dân cư bị thu hẹp một cách nhanh chóng

làm thay đổi mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất công nghiệp, dịch vụ,

thương mại, cơ cấu dân cư theo giới tính, nghề nghiệp thay đổi, sự phân hoá xã hội diễn

ra ngày càng rõ nét, lực lượng lao động tăng nhanh, nhu cầu tìm kiếm việc làm ngày

càng nhiều...

Về mặt văn hoá - xã hội, quá trình đô thị hoá đã hình thành nên văn hoá đô thị.

GS.TS Đỗ Huy cho rằng: “Văn hoá đô thị quan hệ toàn diện về các mặt vật chất, tinh

thần của lối sống đô thị. ở đó bao gồm chất lượng sống, sự sản xuất, quản lý, tiêu dùng

văn hoá...Vì thế, nói đến văn hoá đô thị là nói đến lối sống” [34, tr.180]. Theo đó, người

dân đô thị sẽ nhanh chóng làm biến đổi tập quán của những người mới đến thông qua

các hoạt động xã hội, quan hệ, sinh hoạt, việc làm, phong tục tập quán...Mặt khác,

những ngừơi mới đến cũng muốn thích nghi nhanh với lối sống đô thị, do đó nhanh

chóng hình thành lối sống công nghiệp.

Nghệ An được đánh giá là một trong những tỉnh có tốc độ đô thị hoá nhanh. Điều

này đã nhanh chóng làm cho tình hình kinh tế, chính trị – xã hội tỉnh nhà có những

chuyển biến sâu sắc: một mặt, sản xuất không ngừng phát triển, năng suất lao động

không ngừng tăng, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải

thiện.....nhưng mặt khác, quá trình này buộc con người phải quan tâm đến nhiều vấn đề

khác mà nhiều khi xa rời truyền thống văn hoá quê hương.

Các trường đại học, cao đẳng Nghệ An tập trung ở thành phố Vinh. Trong những

năm qua tốc độ đô thị hoá ở đây diễn ra mạnh mẽ. Điều này dẫn tới sự xáo trộn trong lối

sống, nếp sống của sinh viên, làm phân hóa tư tưởng, cách nghĩ, cách sống, cách ứng xử

của sinh viên, nhiều sinh viên chạy theo những lợi ích trước mắt, chạy theo nhu cầu vật

chất, bàng quan trước các vấn đề chung của xã hội, xa rời những giá trị truyền thống của

cha ông.

* ảnh hưởng của tư tưởng tiểu nông và tư tưởng đạo đức phong kiến

Trải qua lịch sử hàng nghìn năm khai phá, sản xuất và đấu tranh với thiên nhiên

trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, đất đai khô cằn,....nhân dân Nghệ An đã cùng với

nhân dân cả nước đã xây dựng nên một nền văn minh nông nghiệp của riêng mình. Nền

văn minh đó không chỉ ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống con người trong suốt thời kỳ dài

của lịch sử dân tộc, mà còn góp phần hình thành nên lối sống tiểu nông.

Lối sống tiểu nông là lối sống của người nông dân sản xuất nhỏ, manh mún, lạc

hậu, tự phát, tự cung tự cấp trong cộng đồng làng xã.

Nghệ An là tỉnh thuần nông với thành phần nông dân chiếm trên 80% dân số của

tỉnh. Do vậy, lối sống tiểu nông có ảnh hưởng rất lớn đến suy nghĩ, tình cảm, thái độ,

hành vi của con người trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Trong lịch sử đấu tranh xây dựng và bảo vệ quê hương, lối sống tiểu nông thể

hiện bản tính cần cù, chịu đựng gian khổ bền bỉ, trọng sự yên ổn, ghét chiến tranh, yêu

chuộng hoà bình, khinh thường bạo lực, ý thức cộng đồng mạnh mẽ, mối quan hệ cá

nhân- gia đình- làng- nước chặt chẽ, trọng tình nghĩa đạo lý, đề cao tinh thần hy sinh vì

cộng đồng,....Trên cơ sở lối sống tiểu nông, nhân dân Nghệ An đã cùng nhân dân cả

nước đoàn kết cùng nhau vượt qua những khó khăn,thử thách của thiên tai, của lửa đạn

chiến tranh, giữ vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

Bên cạnh những giá trị nhất định trong lịch sử, thì tâm lý, lối sống tiểu nông cũng

là những “lực cản”, những trở ngại lớn đối với việc xây dựng lối sống mới cho sinh

viên.

Trước hết là lối tư duy manh mún- đây là kết quả của quá trình gắn bó lâu

dài của người dân xứ Nghệ với nền nông nghiệp dựa trên chế độ tư hữu ruộng đất,

nền sản xuất nhỏ làng xã. Cuộc sống của người nông dân thường gắn với những

thửa ruộng, mảnh vườn nhỏ. Khi dân số ngày một tăng lên, tình trạng phân chia, sở

hữu ruộng đất ngày càng manh mún. Do vậy, dẫn họ tới việc sản xuất trong hoàn

ảnh phân tán nhỏ lẻ. Xã hội ngày càng phát triển thì lối tư duy manh mún đó ngày

càng trở thành một lực cản của tiến bộ xã hội. Chẳng hạn, chúng ta phát triển kinh

tế thị trường, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi mỗi cá

nhân cần phải có tầm nhìn, đầu tư đúng mức vào các công trình trọng điểm, nhưng

thực tế là chúng ta đã đầu tư một cách chắp vá, nhỏ lẻ, dẫn tới hiệu quả thấp. Một

số cơ sở được nâng cấp thì thực hiện một cách thủ công, tạm bợ, chắp vá, không

đáp ứng yêu cầu của xã hội, gây thất thoát cho nhà nước, địa phương và nhân dân.

Đối với tầng lớp sinh viên, lối tư duy manh mún đã dẫn tới hiện tượng suy nghĩ

và hành động một cách tự phát, học tập ngẫu hứng, không có tính định hướng trong học

tập và rèn luyện, rơi vào suy nghĩ “được chăng hay chớ”, “đến đâu hay đó”, mong chờ,ỷ

lại.... Điều này không chỉ ảnh hưởng tới kết quả học tập, rèn luyện mà còn ảnh hưởng

tới việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên.

Cùng với tư duy manh mún, lối sống tiểu nông còn dẫn tới tác phong tuỳ tiện,

tính kỷ luật kém. Đây là hệ quả của thói quen làm ăn theo kiểu ngẫu hứng của người

nông dân trên mảnh ruộng nhà mình mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện và các

mối quan hệ khác. Người nông dân thích thì đi làm, không thì để hôm khác, không sợ bị

thiệt hại về kinh tế, thời gian hay sức lực.

Nhìn chung sinh viên Nghệ An đều xuất thân từ nông thôn. Đa số họ được sinh

ra và lớn lên ở những vùng quê còn nhiều khó khăn, còn lam lũ. Do đó, ít nhiều họ còn

mang tư tưởng của xã hội cũ, nếp sống cũ, lối sống cũ. Điều này dẫn tới các hiện tượng

xem thường nội quy, quy chế nhà trường, bỏ học, trốn học, gian lận trong thi cử, thái

độ, cách ứng xử tuỳ tiện, vi phạm nếp sống văn hoá trong sinh viên. Bên cạnh tính thiếu

kỷ luật, một số sinh viên còn mang nặng tính thụ động, cầu may. Điều đáng nói là trong

xã hội công nghiệp, tư tưởng chủ động vượt lên hoàn cảnh, mạnh dạn thay đổi mô hình

hoạt động nếu thấy nó là một trở ngại là điều cần thiết nhưng tư tưởng thụ động, ngại

xáo trộn vẫn được duy trì. Trong quá trình xây dựng lối sống mới cho nhân dân nói

chung và cho tầng lớp sinh viên nói riêng cần phải tìm cách hạn chế mức độ ảnh hưởng

từ những tư tưởng cũ, lối sống cũ vốn đã gắn bó lâu đời với cuộc sống của nhân dân.

Bên cạnh những tác động tiêu cực của lối sống tiểu nông, quá trình xây dựng lôi

sống mới cho sinh viên ở nước ta còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức phong kiến.

Với sự tồn tại qua hàng nghìn năm, đạo đức phong kiến đã từng giữ vai trò nhất

định đối với sự phát triển của dân tộc ta. Nó có ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống tinh

thần và lối sống của nhân dân. Tuy nhiên, “Những đóng góp của tư tưởng đạo đức

phong kiến vào sự phát triển của tư tưởng dân tộc dù to lớn đến đâu đi nữa thì về cơ bản

vẫn là sự đóng góp có ý nghĩa tích cực trong quá khứ” [46, tr.27]. Còn hiện tại, một số

giá trị, nhất là giá trị đạo đức, tuy còn ít nhiều giá trị nhất định đòi hỏi chúng ta phải kế

thừa, tiếp biến nhưng nhìn chung khó đáp ứng yêu cầu của cuộc sống hiện đại đầy sôi

động

Sinh viên là thế hệ được xác định là chủ nhân tương lai của nước nhà, họ cần

và phải mang trong mình sự năng động, sáng tạo, nhạy bén, bản lĩnh, tiếp thu và

chiếm lĩnh cái mới, vận dụng nó vào quá trình phát triển trên mọi lĩnh vực của đất

nước một cách phù hợp. Do vậy, sự tồn tại của tư tưởng phong kiến bảo thủ, trì trệ,

phân biệt đẳng cấp, trọng nam khinh nữ.... dù ở mức độ nào cũng có ảnh hưởng

không tốt tới việc hình thành lối sống mới cho sinh viên.

* ảnh hưởng của truyền thống văn hoá dân tộc

Lối sống không những bị quy định bởi phương thức sản xuất mà còn chịu sự quy

định bởi truyền thống văn hoá của các cộng đồng, dân tộc. Đặc biệt là văn hoá đạo đức,

văn hoá sinh hoạt. Bởi vì lối sống và đạo đức là những yếu tố cơ bản, gắn liền với mọi

mặt hoạt động của con người, là một trong những tiêu chí quan trọng để phân biệt sự

khác nhau giữa các nhân cách.

Văn hoá là khái niệm dùng chỉ tổng thể những năng lực bản chất người trong tất

cả các dạng hoạt động của họ, là tổng thể các hệ thống giá trị- cả giá trị vật chất và giá

trị tinh thần do caon người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn và lịch sử xã hội của

mình.

Nói đến văn hoá là nói đến con người. Lịch sử văn hoá là lịch sử của con người

và loài người. Con người tạo ra văn hoá và văn hoá làm cho con người ngày càng trở

thành người hơn. Có thể nói, văn hoá là sự phát triển lực lượng vật chất và tinh thần, là

sự thể hiện những lực lượng đó trong lĩnh vực sản xuất vật chất vật chất và lĩnh vực sản

xuất tinh thần của con người. Như vậy, văn hoá là yếu tố vật chất vừa là yếu tố phi vật

chất. Văn hoá là toàn bộ những năng lực sáng tạo, là thái độ, phương thức sống,

phương thức hoạt động, tính nhân đạo của con người trong quá trình sản xuất, đấu

tranh làm nên các giá trị vật chất, tinh thần, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của xã

hội loài người.

Văn hoá thường được chia làm hai lĩnh vực cơ bản: văn hoá vật chất và văn hoá

tinh thần. Ngoài ra, người ta còn chia văn hoá thành những hình thức cụ thể hơn như:

Văn hoá giao tiếp, văn hoá ẩm thực, văn hoá mặc, cho đến âm nhạc, nghệ thuật tạo

hình, múa, lễ hội, phong tục, tín ngưỡng – tâm linh.... Nhìn chung các hình thức văn hoá

đều ít nhiều có ảnh hưởng đến lối sống của cộng đồng, của mỗi tập thể và của từng cá

nhân. Mỗi một thành viên cũng như cả cộng đồng phải luôn tuân thủ những chuẩn mực,

giá trị văn hóa do cộng đồng sáng tạo nên và được lưu giữ từ thế hệ này qua thế hệ

khác. Văn hoá đạo đức, văn hoá sinh hoạt khi thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi

con người sẽ tạo nên một sự đồng thuận trong sinh hoạt, tạo nên một phong cách, một

lối sống đặc trưng cho cộng đồng xã hội.

2.1.3. Thực trạng của việc phát huy giá trị đạo đức truyền thống đối với

việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên ở Nghệ An hiện nay

Việc kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống để xây dựng lối sống

mới cho sinh viên là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong mục tiêu giáo dục đào tạo của

các trường cao đẳng, đại học ở Nghệ An. Trong nhiều năm qua, Ban giám hiệu các

trường đã dành nhiều sự quan tâm tới việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của

quê hương xứ Nghệ cũng như của dân tộc vào quá trình hình thành, xây dựng nhân

cách, lối sống cho sinh viên. Có thể thấy rõ hơn về vấn đề này qua một số biểu hiện sau:

1. Truyền thống đoàn kết: Nghệ An là vùng quê nghèo, khó nhưng lại giàu

truyền thống cách mạng. là mảnh đất đã bồi đắp nên các giá trị văn hoá, đạo đức truyền

thống phong phú, sâu sắc. Con người xứ Nghệ chân chất, mộc mạc nhưng thấm đẫm

tình người, sống cần cù, đoàn kết. Tiếp nối truyền thống ấy, sinh viên Nghệ An đang

chung sức học tập, lao động để sớm đưa Nghệ An trở thành một tỉnh khá như Bác Hồ

từng mong muốn. Trong công tác Đoàn và công tác chính trị cho học sinh, sinh viên;

các trường cao đẳng, đại học ở Nghệ An đã dành nhiều sự quan tâm tới việc phát huy

truyền thống đoàn kết của dân tộc, xem đây là yếu tố cần thiết trong mục tiêu đào tạo

con người phát triển toàn diện trên quê hương của chủ tịch Hồ Chí Minh. Tinh thần

đoàn kết của sinh viên xứ Nghệ không chỉ được thể hiện trong các hoạt động học tập,

các Câu lạc bộ “Bạn giúp bạn”, chia sẻ với các bạn sinh viên nghèo, có hoàn cảnh khó

khăn, mà trong các hoạt động xã hội vì cộng đồng, sinh viên cũng đã nâng cao tình đoàn

kết gắn bó không chỉ dừng lại ở các khoa trong mỗi trường mà còn giữa các trường với

nhau. Đây được xem là yếu tố góp phần hình thành lối sống mới trong sinh viên Nghệ

An

2. Yêu nước là một trong những giá trị đạo đức truyền thống nổi bật, là bậc thang

cao nhất trong hệ giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam. Truyền thống quý báu này đã

và đang được sinh viên Nghệ An kế thừa và phát huy trong hoàn cảnh lịch sử mới. Bác

Hồ từng nói: các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta hãy cùng nhau giữ nước.

Nếu như hôm qua các thế hệ cha anh đã có công lao to lớn trong sự nghiệp giải phóng

dân tộc thì thế hệ trẻ hôm nay nói chung, tầng lớp sinh viên nói riêng phải biến chủ

nghĩa anh hùng tring chiến đấu thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong xây dựng

bảo vệ Tổ quốc. Đối với sinh viên, đó là “ học tập- sáng tạo – hội nhập – phát triển”. Kế

thừa truyền thống Xô Viết quê hương anh hùng, trong nhiều năm qua, sinh viên Nghệ

An đã và đang xung kích trên nhiều lĩnh vực, họ không những nối tiếp truyền thống quê

hương bằng sự chăm chỉ, cần cù, miệt mài trên giảng đường mà trên mọi nẻo đường

tình nguyện, ở đâu sinh viên xứ Nghệ cũng thể hiện được nét bản lĩnh, sự nhiệt huyết

của truyền thống cha anh. Các hoạt động tình nguyện tại chỗ được sinh viên các trường

quan tâm tham gia với nhiều công việc cụ thể gắn với nhiệm vụ học tập, rèn luyện của

sinh viên. Hoạt động này đã và đang có xu hướng chuyển dần sang hoạt động tình

nguyện thường xuyên, góp phần xây dựng môi trường giáo dục và môi trường sống lành

mạnh như: các hoạt bảo vệ môi trường sống xanh – sạch - đẹp thông qua các ngày thứ

bảy tình nguyện, Ngày chủ nhật xanh, tổ chức các cuộc thi “Văn minh giảng

đường”...Các trường Đại học Vinh, cao đẳng Sư phạm, Cao đẳng y tế thường xuyên có

các đội an ninh xung kích với hàng nghìn sinh viên tình nguyện tham gia. Các hoạt

động này giúp cho sinh viên ý thức hơn trách nhiệm của họ đối với môi trường và

những người sống xung quanh, có ý chí tự hình thành lối sống trong sáng cho bản thân

và giúp đỡ những bạn bè xây dựng lối sống mới. Đây cũng là yếu tố làm phong phú

thêm về việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng lối sống mới cho

sinh viên tỉnh nhà.

3. Cần cù trong lao động, lạc quan trong cuộc sống là một trong những giá trị đạo

đức truyền thống đang được sinh viên Nghệ An kế thừa và phát huy trong hoàn cảnh

lịch sử mới, qua đó họ tự hoàn thiện nhân cách của riêng mình, hình thành lối sống tốt

đẹp: lối sống xã hội chủ nghĩa.

Cha ông đã kiến tạo nên cuộc sống của mình và để lại cho thế hệ trẻ những thành

quả đáng tự hào bằng chính đức tính cần cù, chịu khó. Trải qua bao nhiêu gian khổ, khó

khăn dân tộc Việt Nam vẫn bước đi lên bằng chính sức lao động của mình. Và dù lịch

sử có phát triển đến đâu thì, cuộc sống con người có những đổi thay như thế nào thì con

người cũng phải kế thừa và phát huy tính cần cù, chịu khó, kiên trì trong công việc, học

tập và sinh hoạt... Tuy nhiên, trong giai đoạn mới, chúng ta cũng không đề cao thái quá

đức tính “cần cù bù thông minh”, “năng nhặt chặt bị”...., thế hệ trẻ và sinh viên ngày

nay cần phải biết cách duy trì sự cần cù đi đôi với khả năng sáng tạo, linh hoạt, nhạy

bén. Có như vậy, sinh viên mới có thể đạt kết quả cao trong rèn luyện, học tập và

nghiên cứu khoa học.

Phát huy truyền thống ấy, sinh viên các trường cao đẳng, đại học Nghệ An đã và

đang có những thành tựu học tập đáng tự hào bằng chính sự cần cù, chăm chỉ trong học

tập và nghiên cứu khoa học của mình. Chẳng có gì ngạc nhiên khi bắt gặp hình ảnh các

sinh viên miệt mài trên giảng đường hay trên thư viện. Dù không phải mùa thi thì sinh

viên xứ Nghệ vẫn hằng ngày tìm kiếm và tích luỹ những hành trang cần thiết để có

những bước đi tự tin hơn sau khi ra trường. Đây là nét nổi bật, cũng là điểm tự hào của

sinh viên Nghệ An.

Cùng với các truyền thống đạo đức khác, đức tính cần cù được xem là phẩm chất

đạo đức cơ bản thiết yếu đối với thanh niên, sinh viên. Nó không chỉ giúp họ có được

những thành công trong cuộc sống mà còn giúp cho sinh viên hình thành được lối sống

tích cực, giúp họ tìm ra những giá trị chân chính bằng chính sự cần cù chịu khó của

mình.

4. Phát huy truyền thống nhân ái, đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn của

quê hương, sinh viên các trường đã tổ chức nhiều hoạt động mới, thiết thực: các hoạt

động tình nguyện chăm sóc thương, bệnh binh ở các trung tâm điều dưỡng trong tỉnh,

trung tâm giáo dục và dạy nghề cho người tàn tật của tỉnh, trẻ em khuyết tật, trẻ em có

hoàn cảnh khó khăn ở làng trẻ SOS, các hoạt động thăm hỏi các gia đình thương binh,

liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, giúp đỡ người già cô đơn.... Hoạt động hiến

máu nhân đạo và vận động hiến máu nhân đạo được phát triển sâu rộng. Số lượng sinh

viên tình nguyện hiến máu nhân đạo ngày càng tăng. Tính từ năm 2007 đến nay đã có

hơn 500 đơn vị máu do sinh viên tình nguyện hiến đã cứu giúp những bệnh nhân nghèo

về với cuộc sống. Cùng với đó, các hoạt động ứng cứu, giúp đỡ đồng bào bị thiên tai, lũ

lụt được sinh viên các trường trong tỉnh tình nguyện chủ động tham gia kịp thời đã nên

cao tinh thần tương thân, tương ái, khắc hoạ về một thế hệ sinh viên Nghệ An giàu lòng

nhân ái và biết hy sinh vì nghĩa.

Chiến dịch sinh viên tình nguyện hè hàng năm cũng được sinh viên Nghệ An tổ

chức có quy mô và chất lượng. Sinh viên các trường cao đẳng, đại học là lực lượng

nòng cốt trong phong trào thanh niên tình nguyện của tỉnh nhà. Đặc biệt sinh viên các

trường Đại học Vinh, Cao đẳng Sư phạm Nghệ An, Cao đẳng nghệ thuật, Cao đẳng y...

luôn có mặt ở các vùng sâu vùng xa của các tỉnh Bắc trung bộ mỗi khi hè về. Nét

chuyển biến trong chiến dịch này là sự phát triển của các đội hình chuyên nhằm phát

huy chuyên môn và kỹ năng riêng của mỗi trường. Có thể nói, chiến dịch sinh viên hè

hàng năm không những đem lại hiệu quả thiết thực mà đã trở thành môi trường rèn

luyện tự nguyện, quan trọng đối với sinh viên. Hoạt động này đã tạo môi trường để sinh

viên cống hiến và trưởng thành, am hiểu thực tiễn và trên hết là hướng sinh viên đến với

những giá trị làm người cao đẹp, hình thành nơi họ lối sống nhân văn, lòng nhân ái vì

cộng đồng

Bảng 2.3: Số liệu sinh viên tình nguyện hàng năm

Trường 2005- 2006 2006 - 2007 2007 -2008 2008 -2009

Đại học Vinh 7.000 9200 9.035 8.600

Đại học Sư phạm kỹ thuật 320 300 470 420

Cao đẳng Sư phạm 902 862 850 790

Cao đẳng y 335 298 390 410

Cao đảng văn hoá nghệ 234 210 300 274 thuật

Nguồn: Báo cáo tổng kết năm học của tỉnh đoàn Nghệ An.

5. Mục tiêu mà Hội sinh viên tỉnh Nghệ An đã đặt ra trong nhiệm kỳ 2007 –

2012 là: Tích cực giáo dục bồi đắp, trang bị cho sinh viên những phẩm chất tốt đẹp, vốn

tri thức cần thiết để lập thân, lập nghiệp, đấu tranh phòng chống các biểu hiện và

những tiêu cực trong sinh viên, nhằm xây dựng môi trường học tập, sinh hoạt lành

mạnh, đồng thời phát huy tính tích cực chủ động và khả năng tự bảo vệ trước những tác

động tiêu cực của xã hội, hình thành lớp sinh viên có kiến thức vững vàng, phong phú,

có kỹ năng tiếp cận nghề nghiệp, có lý tưởng, ước mơ, hoài bão, có lối sống đẹp, yêu

quê hương đất nước, yêu chủ nghĩa xã hội ....Để thực hiện mục tiêu trên, Hội sinh viên

tỉnh cũng như Hội sinh viên các trường đã đẩy mạnh các phong trào hoạt động, trong đó

dành nhiều quan tâm cho các hoạt động hướng về nguồn, các hoạt động đền ơn đáp

nghĩa nhằm phát huy tình yêu thương con người, lòng nhân ái trong sinh viên và gợi lại

những giá trị đạo đức cao đẹp của dân tộc. Theo đó, trong thời gian qua, sinh viên các

trường trong tỉnh đã tham gia tích cực cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh”, trong đó, chú trọng tới khâu tuyên truyền giáo dục các phẩm

chất đạo đức cao đẹp của Bác Hồ. Các tấm gương đạo đức cao đẹp của các thế hệ cha

ông đi trước cũng được sinh viên ôn lại qua nội san thường kỳ của các trường, qua các

buổi sinh hoạt “Câu lạc bộ Báo cáo viên” (Trường Đại học Vinh), các diễn đàn “Tuổi

trẻ học tập” (Trường Cao đẳng sư phạm). Đặc biệt sinh viên các trường Đại học Vinh,

Đại học Sư phạm kỹ thuật đã nhiệt tình tham gia các cuộc thi kể chuyện, các hoạt động

tìm hiểu tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đồng thời bước đầu xây dựng tiêu chí sinh

viên học tập và làm theo gương đạo đức của Bác. Bên cạnh đó, công tác giáo dục truyền

thống cũng được triển khai sâu rộng trong các trường với nhiều nội dung phong phú.

Đây là điểm nổi bật trong công tác Hội và Đoàn thanh niên ở các trường trong thời gian

vừa qua, đánh dấu sự năng động nhạy bén của các tổ chức Hội sinh viên các trường

trong việc tìm ra các phương thức và hình thức hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh

viên. Nội dung hoạt động vừa có tính bao quát, vừa cụ thể thiết thực với hình thức đa

dạng, linh hoạt và đổi mới với các đợt sinh hoạt tạo thành sự kiện thu hút đông đảo sinh

viên tham gia, như: “Tiếp lửa truyền thống – Mãi mãi tuổi hai mươi”; các diễn đàn

“Sống để yêu thương và dâng hiến, “Ký ức một thời hoa lửa”, “Viết tiếp hành trình tuổi

hai mươi”. Các trường cũng thường xuyên tổ chức các ngày lễ lớn: ngày quốc khánh

2/9, ngày nhà giáo Việt Nam 20/11, ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và

ngày quốc phòng toàn dân 22/12, ngày truyền thống Học sinh, sinh viên Việt Nam và

ngày Hội sinh viên Việt Nam 9/1, ngày thành lập Đảng 3/2, ngày thành lập Đoàn 26/3,

ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh 19/5....Những hoạt động này đã có ảnh hưởng tới sự

hình thành nhân cách, lối sống của thế hệ sinh viên mới, gợi lại trong họ lòng biết ơn

các thế hệ đi trước, để họ nâng cao hơn lòng tự tôn dân tộc, từ đó có khát vọng được

đống góp công sức, cống hiến khả năng của bản thân cho sự phát triển của đất nước

.Trong ba năm qua kể từ năm 2007, các đợt sinh hoạt chính trị truyền thống trong tỉnh

đã thu hút hàng nghìn lượt sinh viên tham gia.

Bảng 2.4: Hoạt động sinh hoạt chính trị của sinh viên

năm học 2008-2009

Trường Số buổi sinh hoạt Số sinh viên tham gia

Đại học Vinh 10 1900

Đại học Sư phạm kỹ thuật 4 756

Cao đẳng Sư phạm 5 1100

Cao đẳng y 3 480

Cao đẳng văn hoá nghệ thuật 3 634

Nguồn: Số liệu công tác đoàn và phong trào thanh niên khối các trường đại học,

cao đẳng của Tỉnh đoàn Nghệ An.

Có thể nói, với những hoạt động phong phú nhằm gợi lại các truyền thống đạo

đức mà thế hệ đi trước để lại đã trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tới việc hình thành lối

sống mới trong sinh viên. Song hành cùng các hoạt động trên đây, công tác giáo dục

đạo đức lối sống, nếp sống văn hoá cho sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học trong

tỉnh cũng được đầu tư và có nhiều chuyển biến tích cực. Từ những hoạt động tổng kết lý

luận đến các hoạt động thực tiễn với các công trình, các đề tài nghiên cứu như: định

hướng giá trị trong sinh viên, hỗ trợ học tập và chăm lo đời sống sinh viên, tập hợp đoàn

kết sinh viên trong và ngoài ký túc xá, tìm các giải pháp đẩy mạnh công tác sinh viên

nữ... Đoàn thanh niên, Hội sinh viên các trường đã phối hợp với nhau để tổ chức cho

sinh viên tham gia các cuộc vận động, các diễn đàn kết hợp với câu lạc bộ sống đẹp, các

đợt học tập gương các anh hùng liệt sĩ trẻ tuổi, các hoạt động biểu dương các tấm gương

sáng trong sinh viên đã tạo môi trường tốt và định hướng lối sống cho sinh viên.

Bên cạnh những biểu hiện tích cực như đã trình bày trên đây, việc phát huy các

giá trị đạo đức truyền thống vào quá trình xây dựng lối sống mới cho sinh viên Nghệ An

vẫn còn nhiều vấn đề cần lưu tâm. Không phải trường nào trong tỉnh cũng quan tâm

đúng mức tới việc xây dựng nhân cách lối sống hay phát huy các giá trị đạo đức truyền

thống cho sinh viên trường mình một cách đúng mức. Một số trường vẫn chưa xác định

rõ các hình thức cụ thể và xuyên suốt trong việc khơi gợi lại các giá trị đạo đức tuyền

thống cho sinh viên, hoặc nếu có thì chưa đều và không linh hoạt. Dẫn tới các biểu hiện

tiêu cực trong lối sống sinh viên còn nhiều như phần thực trạng về lối sống sinh viên

Nghệ An đã nêu. Một số trường có dành sự quan tâm cho xây dựng lối sống lành mạnh

cho sinh viên nhưng chưa chú ý tới việc kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền

thống nên lối sống sinh viên còn mất cân đối, lệch lạc, lãng quên quá khứ, phủ nhận các

đóng góp của cha ông.

Có những hạn chế trên đây là vì các trường, các tổ chức Đoàn, Hội chưa đặt vai

trò của việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống vào xây dựng lối sống mới của

sinh viên một cách đúng mức, việc tổ chức tiến hành các hoạt động đoàn, hội còn thiếu

sáng tạo, linh hoạt, công tác kiểm tra , hướng dẫn chưa kịp thời và thường xuyên, các

điều kiện vật chất không đáp ứng được yêu cầu các hoạt động...

Trước thực trạng nêu trên, để việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống tới

quá trình xây dựng lối sống mới cho sinh viên Nghệ An được hiệu quả cần thiết phải có

những định hướng và một hệ thống các giải pháp đồng bộ, phù hợp với thực tiễn địa

phương và các trường.

2.2. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị đạo

đức truyền thống trong việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện

nay

2.2.1. Phương hướng

* Đảm bảo sự thống nhất giữa kế thừa và đổi mới trong giáo dục giá trị đạo

đức truyền thống cho sinh viên

Khi chúng ta khẳng định các giá trị đạo đức truyền thống là cơ sở, là một trong

những yếu tố làm nền tảng cho quá trình xây dựng lối sống mới ở sinh viên thì việc coi

trọng việc phát huy các giá trị đạo đức mới trên cơ sở kế thừa có chọn lọc là một yêu

cầu cơ bản. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã chỉ rõ không có sự phát triển nào là hư vô,

tự phát, ngẫu nhiên, mà bao giờ cũng phải là sự kế thừa, tiếp nối. Vì kế thừa là quy luật

phát triển của ý thức xã hội nói chung, ý thức đạo đức nói riêng, nó là nhân tố, là vòng

khâu của sự phát triển, là cầu nối giữa cái cũ với cái mới.

Tính kế thừa của các giá trị đạo đức phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế xã hội,

vào lợi ích giai cấp, vào đặc điểm dân tộc và cả yếu tố thời đại. Do vậy, khi kế thừa các

giá trị đạo đức truyền thống cần phải có sự bổ sung, đổi mới cho phù hợp với những đòi

hỏi của xã hội hiện đại. Thực tế đã chứng minh, khi xã hội phát triển ngày càng cao sẽ

có nhiều giá trị đạo đức truyền thống không còn phù hợp với thực tiễn sinh động, do đó,

cần có sự đổi mới trên sơ cở kế thừa để các giá trị đạo đức ấy để đảm bảo sự tác động

tích cực của nó trong đời sống.Trong quá trình phát huy các giá trị đạo đức truyền thống

cho sinh viên cũng cần phải đảm bảo sự thống nhất giữa kế thừa và đổi mới nhằm nâng

các giá trị ấy lên một tầm cao mới. Chẳng hạn:

Truyền thống yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ giá trị đạo đức truyền

thống Việt Nam. Nó đã được thực tiễn lịch sử thử thách, chứng minh. Với tư cách là

một yếu tố của kiến trúc thượng tầng, truyền thống yêu nước cũng biến đổi cho phù hợp

với những biến cố của lịch sử, nếu không truyền thống ấy sẽ trở thành rào cản trong quá

trình phát triển đất nước. Trong chiến tranh, tinh thần yêu nước là ra trận, tất cả cho tiền

tuyến, tất cả để đánh thắng kẻ thù xâm lược, giành độc lập dân tộc, tự do, hoà bình cho

nhân dân. Trong bối cảnh hiện nay, yêu nước là phải nâng cao ý chí tự lực tự cường,

thực hiện tốt các mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, khơi dậy trong

mỗi con người, mỗi tập thể tính tích cực chủ động, sáng tạo, tinh thần dũng cảm, sáng

tạo, quyết đoán, giám nghĩ dám làm. Tinh thần yêu nước được hiện thực hoá trong công

việc mà mỗi cá nhân đảm nhận. Yêu nước hiện nay là biết khắc phục những yếu kém,

đẩy lùi các nguy cơ, vượt qua những thử thách, khó khăn, từ đó làm xuất hiện những

tấm gương người tốt, việc tốt. Điều này đã và đang đưa lại những thành tựu quan trọng

trong công cuộc xây dựng đất nước, cũng như góp phần hình thành lối sống mới cho

con người Việt Nam nói chung, trong đó có lối sống cho sinh viên.

Lòng nhân ái yêu thương con người là yếu tố thuận lợi cho việc tiếp thu các giá

trị đạo đức của các dân tộc khác, xây dựng nhân cách đạo đức phù hợp với sự phát triển

của nhân loại. Tuy nhiên, nó cũng có những hạn chế về mặt giai cấp và lịch sử: lòng

thương người đôi khi chỉ chú ý tới những khía cạnh thiếu hụt của cá nhân so với cộng

đồng (thường là về kinh tế hay những bất công), chứ chưa chú ý tới con người với tư

cách là nhân cách độc lập cần được phát triển một cách hài hoà, phong phú cả về thể

chất lẫn tinh thần. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, lòng thương yêu con người không chỉ

bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, một dân tộc mà cần được mở rộng, kết hợp với các

quốc gia, dân tộc khác để giải quyết những vấn đề chung (môi trường, bệnh tật, tệ nạn

xã hội,...).

Với tinh thần đoàn kết, dân tộc Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi trước

các kẻ thù, vượt qua được nhiều khó khăn để giữ và phát triển chính quyền xã hội

mới. Trong giai đoạn hiện nay, nếu chúng ta tuyệt đối hoá truyền thống đoàn kết sẽ

dễ dẫn tới tư tưởng bình quân chủ nghĩa, cào bằng. Chính điều này sẽ gây trở ngại

cho sự phát triển của đất nước, bởi trong nhiều trường hợp, người ta không dám chịu

trách nhiệm cá nhân, con người cũng kém năng động, trông chờ, ỷ lại...Trong cuộc

sống, sinh hoạt và học tập của sinh viên không thể thiếu đi tinh thần đoàn kết, nhưng

cần phải lưu tâm để nó không bị lạm dụng, để ở sinh viên không có hiện tượng bao

che khuyết điểm cho nhau, bao che những hành vi thiếu đúng đắn, những hành vi

không văn hoá của nhau...

Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy, những giá trị đạo đức truyền

thống, nếu không được củng cố, bổ sung trong sự đổi mới, không được phát triển và

nâng lên ở một tầm cao mới để đáp ứng những đòi hỏi của lịch sử, sẽ gây cản trở, tạo

nên sự xung đột giữa sức nặng, uy lực của truyền thống với yêu cầu đổi mới của xã hội

hiện tại; giữa khuôn thức, mẫu mực mà quá khứ trao lại với khả năng sáng tạo, thích

nghi, hướng tới tương lai.

Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, sự tác động của toàn cầu hoá

đã làm nảy sinh nguy cơ tự đánh mất mình, tự huỷ hoại nền tảng bên trong của sự phát

triển bền vững và lâu dài, đó là đạo đức truyền thống dân tộc. Do đó, việc định hướng

để sinh viên tiếp thu được cái hay, cái đẹp, cái trong sáng, lành mạnh của nền đạo đức

cũng như lối sống mới của các dân tộc khác trên thế giới cũng như việc giúp họ biết

cảnh giác loại trừ và chống lại cái dở, cái xấu, cái bất lương trong giai đoạn hiện nay là

điều cần thiết. Để có thể đạt được mục tiêu vừa kế thừa vừa đổi mới trong đạo đức, lối

sống thì sinh viên Việt Nam ngày nay cần chú ý một số vấn đề sau:

Thứ nhất, nâng cao trình độ mọi mặt cho sinh viên, đặc biệt là trình độ học vấn,

giúp họ hiểu và nắm vững các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, từ đó hình thành

niềm tin khoa học và lòng tự hào về lịch sử hào hùng của dân tộc, tự tin bước vào hội

nhập mà không bị “hoà tan” trước văn hoá và đạo đức của các nước khác.

Thứ hai, nâng cao tinh thần cảnh giác trước mọi âm mưu “diễn biến hoà bình”

trong lĩnh vực đời sống tinh thần của sinh viên. Vì thanh niên, sinh viên là đối tượng

“ưu tiên” của chiến lược này.

Thứ ba, trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, định

hướng các giá trị, trong đó có giá trị đạo đức cho sinh viên giữ một vai trò hết sức quan

trọng. Điều này giúp cho sinh viên kế thừa, phát huy và đổi mới những giá trị đạo đức

của dân tộc trong hoàn cảnh lịch sử mới, đồng thời biết tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn

hoá nhân loại để làm giàu thêm các giá trị đạo đức của dân tộc mình.

Như vậy, trong giai đoạn mới, để có thể tồn tại và phát triển, tất yếu chúng ta

phải thống nhất giữa kế thừa và đổi mới trong quá trình phát huy các giá trị đạo đức dân

tộc trong xây dựng lối sống mới cho sinh viên. Trong xây dựng lối sống cho sinh viên,

chúng ta, một mặt phải kế thừa được các giá trị truyền thống dân tộc; mặt khác, lại phải

tiếp thu được cái hiện đại, nhân văn, phản ánh được sức sống, bản lĩnh, cốt cách của con

người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây cũng đồng

thời là phương hướng để nâng cao hiệu quả của việc phát huy các giá trị đạo đức trong

đời sống của sinh viên Việt Nam.

* Gắn xây dựng lối sống mới với xây dựng nền văn hóa mới và con người mới

Việt Nam

Tại Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định:

Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động

lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hoá, văn nghệ

phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân

tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, lối sống, xây dựng

môi trường văn hoá lành mạnh cho sự phát triển của xã hội [16, tr.110-111].

Nền văn hóa tiên tiến, theo quan điểm của Đảng ta, đó là yêu nước và tiến bộ.

Nội dung cốt lõi của nó là lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, tất cả vì mục tiêu con

người, vì hạnh phúc, tự do và sự phát triển toàn diện con người.

Nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là nền văn hoá được kết hợp hài

hoà giữa cái truyền thống với cái hiện đại, dân tộc và quốc tế, cá nhân và cộng đồng.

Những giá trị truyền thống chỉ có ý nghĩa tích cực khi nó tạo cơ sở cho việc xây dựng

và phát triển các giá trị mới, giá trị hiện đại. Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại

hoá, nền văn hoá tiên tiến chứa đựng tính chất hiện đaị, không dung nạp yếu tố lỗi thời,

lạc hậu. Cũng cần phải chú ý rằng, tính hiện đại trong văn hoá không đồng nghĩa với cái

mới một cách hoàn toàn. Bởi lẽ, không phải cái mới nào cũng lành mạnh, cũng tiến bộ.

Việc đón nhận cái mới, cái lạ từ bên ngoài một cách xô bồ, mù quáng không chỉ làm suy

thoái lối sống và đạo đức xã hội mà còn gây rối loạn trật tự an toàn xã hội. Do vậy, xây

dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một mặt phải tiếp tục truyền thống,

mặt khác, phải chấp nhận vượt cái truyền thống.

Cùng với mục tiêu xây dựng nền văn hoá mới, Đảng ta trong thời gian qua

cũng đã dành nhiều sự quan tâm và đầu tư cho các mục tiêu về con người. Mà mục

tiêu cao nhất là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Theo Đảng ta, đó là thế

hệ những con người vừa “hồng”, vừa “chuyên”, những con người phát triển một cách

toàn diện về đức, trí, thể và mĩ. Cho nên, xây dựng lối sống mới cũng để tiến tới xây

dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Có thể nói giữa văn hoá với việc hình thành lối sống con người có tính biện

chứng, tác động, quy định lẫn nhau. Văn hoá làm nên nhân cách, lối sống con người.

Cho nên, với nhu cầu tiếp thu và đổi mới các giá trị truyền thống, trong đó có văn hoá

thì cần thiết phải gắn việc xây dựng nền văn hoá tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc và xây

dựng con người mới với xây dựng lối sống mới. Như vậy, gắn việc xây dựng lối sống

mới với việc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới là định hướng cơ bản để tìm ra

những giải pháp phù hợp nhằm phát huy giá trị đạo đức, giá trị văn hoá trong xây dựng

lối sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay.

2.2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả tác động của các

giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam

trong giai đoạn hiện nay

* Xây dựng môi trường kinh tế xã hội, môi trường văn hoá lành mạnh tạo

điều kiện phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình xây dựng lối sống

mới cho sinh viên.

Thực tiễn cho thấy, để phát huy các giá trị đạo đức truyền thống vào quá trình

xây dựng lối sống mới cho sinh viên chúng ta cần xây dựng một môi trường kinh tế- xã

hội trong sạch, lành mạnh, tạo điều kiện cho việc hình thành các giá trị mới trong lối

sống của sinh viên. Môi trường sống, điều kiện kinh tế – xã hội có ảnh hưởng rất lớn tới

nhận thức, tình cảm, thái độ sống, sự hình thành nhân cách, lối sống của con người.

C.Mác và Ph.Ăngghen từng khẳng định: “Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì

hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy” (Hệ tư tưởng Đức).

Bàn về môi trường kinh tế- xã hội là chúng ta nói tới các yếu tố kinh tế và yếu tố xã

hội có quan hệ mật thiết với nhau bao quanh con người, ảnh hưởng một cách trực tiếp hoặc

gián tiếp tới sự tồn tại và phát triển của con người.

Môi trường kinh tế- xã hội được coi là trong sạch, lành mạnh khi ở đó, sự tăng

trưởng và phát triển của kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển về mọi mặt của

đời sống xã hội và ngược lại, chính sự phát triển các mặt đời sống xã hội sẽ tạo động

lực và định hướng cho sự phát triển và tăng trưởng kinh tế.

Sự phát triển của lịch sử xã hội đã chứng tỏ rằng, khi chúng ta tạo dựng được

một môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho mục tiêu phát

huy các giá trị đạo đức truyền thống vào xây dựng lối sống cho sinh viên trong giai

đoạn hiện nay. Đây chính là chất xúc tác giúp sinh viên vươn lên làm chủ bản thân,

khẳng định năng lực, nhân cách sau khi ra trường. Cùng với môi trường kinh tế – xã

hội, cần phải tạo dựng một môi trường văn hoá trong các trường cao đẳng, đại học trong

sáng, phát triển mạnh mẽ các phong trào thanh niên, sinh viên thi đua học tập, nghiên

cứu khoa học, phát triển tài năng....Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động giáo dục lý tưởng

cách mạng xã hội chủ nghĩa, lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, bản lĩnh chính trị,

nếp sống văn hoá, nhân văn, nhân ái....tạo môi trường thuận lợi để cá nhân phát triển

nhân cách, hình thành lối sống mới.

Từ những phân tích trên đây, chúng ta thấy đội ngũ thầy cô giáo ở các trường cao

đẳng, đại học không chỉ là người góp phần làm giàu vốn tri thức, hiểu biết cho các thế

hệ sinh viên bằng hoạt động dạy học và nghiên cứu khoa học, mà điều quan trọng trọng

hơn là thông qua các bài giảng của mình giáo viên đã hình thành ở sinh viên những hoài

bão, ước mơ, lý tưởng, tình cảm đạo đức, hun đúc trong họ lòng tự hào dân tộc, bản sắc

văn hoá dân tộc, ý chí vươn lên trong học tập và cuộc sống.

Chúng ta có thể thấy rõ rằng, việc tạo môi trường kinh tế- xã hội lành mạnh,

trong sạch sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong

xây dựng lối sống mới cho sinh viên. Ngược lại, nếu môi trường ấy không tốt sẽ gây cản

trở, thậm chí còn gây ra sự lệch chuẩn đạo đức, làm lu mờ các giá trị đạo đức của dân

tộc, xa rời lối sống nhân văn, nhân ái giữa con người với con người.

Muốn có môi trường kinh tế – xã hội lành mạnh, trong sáng trong nhà trường,

thiết nghĩ, trước hết chúng ta phải ngăn chặn và đẩy lùi tiêu cực trong giáo dục như gian

lận trong thi cử, mua bán bằng cấp, chạy điểm.....Đây là những yếu tố tác động trực tiếp

tới tinh thần phấn đấu, niềm tin trong sinh viên, vào sự công bằng, bình đẳng trong học

đường.

Môi trường học tập, sinh hoạt của sinh viên càng lành mạnh bao nhiêu thì môi

trường nhăn văn của nhà trường càng được thể hiện rõ bấy nhiêu. Hiện nay, có rất nhiều

tệ nạn xã hội đang xâm nhập học đường như cờ bạc, trộm cắp, ma tuý, mại dâm. Điều

này đặt ra nhu cầu phải dành nhiều sự quan tâm hơn cho môi trường giáo dục đại học

cao đẳng, đại học nói riêng và giáo dục quốc dân nói chung. Đây là nhiệm vụ hết sức

phức tạp, khó khăn, đòi hỏi phải có sự kết hợp của nhiều tổ chức như gia đình, nhà

trường, khu dân cư mà sinh viên tạm trú, cả tổ chức Đoàn thanh niên, Hội sinh viên nhà

trường....Có như vậy mới tạo sức mạnh tổng thể của toàn xã hội, tác động tích cực tới

quá trình hình thành lối sống mới cho sinh viên.

Như vậy, vấn đề xây dựng lối sống mới cho sinh viên chỉ có thể đạt kết quả khi

chúng ta quán triệt quan điểm đồng bộ trong quá trình tạo ra môi trường kinh tế- xã hội,

môi trường văn hoá lành mạnh- làm được điều này sẽ có ý nghĩa rất lớn tới mục tiêu

hình thành lối sống mới trong sinh viên. Tuy nhiên, để có một lối sống trong sáng, nhân

ái, mẫu mực, đòi hỏi mỗi sinh viên phải cố gắng tự phấn đấu, tự rèn luyện để đáp ứng

được yêu cầu của nền giáo dục hiện đại cũng như nhu cầu nguồn nhân lực của sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

* Đổi mới nội dung và hình thức giáo dục giá trị đạo đức truyền thống góp

phần xây dựng lối sống mới cho sinh viên.

Trong bối cảnh hiện nay, để đạt được mục tiêu mà giáo dục đạo đức đề ra cũng

như phát huy được các giá trị đạo đức truyền thống vào quá trình xây dựng lối sống cho

sinh viên thì một trong những giải pháp mang tính chiến lược là tiến hành đổi mới nội

dung và hình thức giáo dục đạo đức cho sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học.

Chúng ta có thể xem hình thức và nội dung giáo dục là những yếu tố có ý nghĩa quyết

định hiệu quả và chất lượng của quá trình giáo dục đạo đức cho sinh viên.

Về nội dung, đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, thực hiện chức

năng phản ánh tồn tại xã hội về lĩnh vực đạo đức. Bản chất của đạo đức là phản ánh mối

quan hệ giữa con người với con người về lợi ích trên bình diện thiện - ác để nhận xét và

điều chỉnh hành vi của con người cho phù hợp với tiến bộ của lịch sử. Do vậy, việc đổi

mới nội dung giáo dục đạo đức là một tất yếu khách quan, cần thiết và mang tính chiến

lược.

Sinh viên các trường cao đẳng, đại học được lĩnh hội các giá trị đạo đức truyền

thống qua nhiều kênh khác nhau, trong đó, cơ bản là qua các bài giảng về đạo đức học,

các bài giảng của các môn khoa học xã hội và nhân văn, các môn khoa học của chủ

nghĩa Mác – Lênin. Cùng với các buổi lên lớp, thì các hoạt động đoàn và hội sinh viên

cũng là điều kiện để sinh viên có thể gợi nhớ và phát huy các giá trị đạo đức truyền

thống làm hành trang trong cuộc sống của mình. Do vậy, các bài giảng có nội dung liên

quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đạo đức và định hướng các giá trị đạo đức cho sinh

viên cần phải được bổ sung, đổi mới không ngừng. Cùng với đó, tổ chức Đoàn và Hội

cũng phải đổi mới không ngừng nội dung giáo dục của mình, cần phải tập trung vào

những vấn đề như giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức, lối sống, truyền thống,

pháp luật. Trong đó, tổ chức Đoàn ở các trường học cũng cần chú trọng việc giáo dục

chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương đường lối của Đảng...Từ

đó, xác định cụ thể những đức tính, những phẩm chất cần thiết của sinh viên trong thời

kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Về phương pháp, hình thức : đạo đức có nội dung khác với các khoa học khác ở

chỗ nó là các chuẩn mực giá trị, là cái được các chủ thể lựa chọn, đánh giá như là việc

làm có ý nghĩa tích cực, được lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương.

Báo cáo Hội nghị lần thứ mười, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX có

nhận định: Cụ thể hoá các chuẩn mực đạo đức, lối sống cho từng đối tượng cụ

thể......Việc xây dựng các chuẩn mực đạo đức, lối sống cụ thể cho các đối tượng là cần

thiết và có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ mới, bởi vì, các giai cấp, tầng lớp, giới và

nhóm xã hội có vị trí xã hội khác nhau, các chuẩn mực và thang bậc giá trị có sự thể

hiện khác nhau.

Sinh viên là đối tượng đặc biệt, với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi và tính chất

môi trường sinh hoạt, học tập cho nên việc đa dạng hoá các hình thức giáo dục cho phù

hợp là điều cần thiết, tránh tình trạng giáo dục tuyên truyền một chiều theo kiểu lý luận

suông, nội dung sáo rỗng, xa rời thực tế. Cần gắn nội dung các giá trị đạo đức vào các

phong trào, các hoạt động cụ thể của sinh viên, như: phong trào tình nguyện, phong trào

đền ơn đáp nghĩa, phong trào lá lành đùm lá rách, phong trào hiến máu nhân

đạo,....Cùng với các phong trào, có thể đan xen các hình thức tuyên truyền, tổ chức các

cuộc thi về nguồn...Với những hình thức phong phú như vậy, tin rằng sẽ lôi cuốn được

sinh viên tham gia một cách tích cực, chủ động góp phần phát huy các giá trị đạo đức

truyền thống trong việc hình thành lối sống mới cho sinh viên.

Nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục đạo đức cho sinh viên trong giai

đoạn hiện nay có rất nhiều song cần chú ý một số vấn đề sau:

Thứ nhất, đưa môn đạo đức học thành môn học bắt buộc và cơ bản trong tất cả

các trường cao đẳng, đại học. Thực tế hiện nay cho thấy, môn Đạo đức học chỉ được

giảng dạy ở một số ít trường, chủ yếu là các trường sư phạm hoặc các trường thuộc khối

xã hội mà không đưa vào các trường thuộc khối kinh tế, kỹ thuật. Dẫn tới sinh viên ở

các trường này cho rằng chỉ cần trang bị kiến thức chuyên môn là đủ, hoặc khi giảng

dạy môn đạo đức ở các trường này chỉ cho đó là môn phụ, mà không nhìn thấy được ý

nghĩa và tầm quan trọng của nó. Do đó, thiết nghĩ vấn đề đặt ra hiện nay là phải đưa

môn Đạo đức học vào chương trình học bắt buộc của sinh viên, để “Đạo đức học phải là

một ngành khoa học xã hội và những người có trách nhiệm phải đi sâu nghiên cứu

chuyên cần hơn nữa, phải trở thành một môn khoa học không thể thiếu được trong các

trường đại học và phổ thông” [26, tr.27].

Cần khẳng định rằng, tri thức đạo đức là một trong những thành tố quan trọng

nhất của ý thức đạo đức và nó được hình thành, phát triển trong quá trình hoạt động của

con người, nó được thiết lập trực tiếp và cụ thể nhất qua con đường truyền đạt, giảng

dạy. Tri thức đạo đức còn là cơ sở tình cảm, niềm tin, thái độ sống của mỗi cá nhân- từ

đó hình thành nhân cách, lối sống của mỗi người.

Để đạt được chất lượng tốt trong việc truyền thụ tri thức đạo đức, không những

chỉ đưa môn đạo đức học vào giảng dạy trong các trường cao đẳng, đại học mà còn đổi

mới cả nội dung và chương trình của môn học này cho phù hợp với thực tiễn biến động

hiện nay của đất nước. Tài liệu giảng dạy môn Đạo đức học trong các trường hiện nay

được các nhà khoa học biên soạn nhiều và có ý nghĩa thiết thực đối với việc giáo dục,

bồi dưỡng kiến thức lý luận về đạo đức song vẫn còn những bất cập. Đó là, lượng thông

tin chưa nhiều, chưa bổ sung kịp thời với những biến động của cuộc sống, nhiều khái

niệm vẫn chưa rõ ràng, tính hiện đại chưa cao...Bên cạnh đó, phương pháp giáo dục

môn Đạo đức còn nặng về thuyết trình, chưa có sự kết hợp với các phương pháp mang

tính hiện đại. Bởi vậy, trong giảng dạy đạo đức cần loại bỏ dần những hình thức tuyên

truyền một chiều, nội dung chung chung, trừu tượng, cần phải có sự linh hoạt, mềm dẻo,

tránh giáo điều. Cần chú ý kết hợp phương pháp giáo dục truyền thống như: nêu gương

người tốt, việc tốt, thiết lập các thói quen ứng xử... Với các phương pháp giáo dục hiện

đại, như: tổ chức các hoạt động xã hội, tích luỹ kinh nghiệm ứng xử qua việc tạo ra các

tình huống đạo đức để rèn luyện kỹ năng nhận thức và thực hành đạo đức, hình thành ý

thức đạo đức cá nhân thông qua diễn giảng, đàm thoại tranh luận, kích thích hoạt động

và khả năng tự điều chỉnh đạo đức của cá nhân qua các cuộc thi tìm hiểu truyền thống

tốt đẹp của dân tộc... Dù học tập trung ở các thành phố, thị xã, của các tỉnh nhưng hầu

hết sinh viên lại đến từ nhiều vùng quê với nhiều phong tục tập quán, truyền thống khác

nhau, sinh viên cũng khác nhau về điều kiện kinh tế, văn hoá, giáo dục của gia đình, họ

cũng có sự khác nhau bởi đặc trưng của mỗi trường, mỗi ngành học nên cần phải có

những nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục đạo đức khác nhau. Thiết nghĩ, để

tạo nên sự hứng thú và lôi cuốn sinh viên tham gia vào các hoạt động giáo dục đạo đức

cần phải kết hợp đạo đức với hoạt động thực tiễn, trong giáo dục đạo đức cần gắn lý

luận với thực tiễn đạo đức, nội dung phải mang hơi thở của cuộc sống hiện đại. Chỉ có

qua thực tiễn đạo đức mới bộc lộ một cách sâu sắc các giá trị đạo đức.

Thứ hai, lồng ghép các nội dung đạo đức trong mọi hoạt động của nhà trường, từ

các hoạt động văn hoá, văn nghệ, các hoạt động giải trí đến các cuộc thi, các phong trào

hoạt động của sinh viên.

Đặc điểm lớn của sinh viên là lứa tuổi có xu hướng chọn cho mình một mô hình

nhân cách, một mẫu người lý tưởng để noi theo. Do vậy, nếu chúng ta giáo dục đạo đức

thông qua những tấm gương sáng sẽ để lại những ấn tượng mạnh trong họ, dễ lôi

cuốn sinh viên tự rèn luyện theo những hành vi, lối sống có đạo đức từ những tấm

gương tốt, hoặc thông qua các phong trào sinh viên tình nguyện, các hoạt động từ

thiện để sinh viên hoà mình vào cuộc sống đời thường, chứng kiến và thấu hiểu

những mất mát, khó khăn, thiếu thốn, vất vả của những người cần được hỗ trợ về

nhiều mặt từ những tấm lòng, sự sẻ chia của cộng đồng xã hội. Tin chắc rằng, bằng

những nhận thức, tình cảm và lương tâm, mỗi sinh viên sẽ tự thiết lập những giá trị

đạo đức sâu sắc trong họ, góp phần định hình một lối sống đẹp từ những tác động của

các giá trị đạo đức ấy.

Tại các trường đại học, cao đẳng sinh viên không chỉ thực hiện đơn thuần các

nhiệm vụ học tập, họ còn tham gia các hoạt động tập thể như văn hoá, văn nghệ, thể dục

thể thao, các hoạt động xã hội, các phong trào giành riêng cho sinh viên. Hầu hết sinh viên

các trường đều có nhu cầu tham gia các phong trào này. Do vậy, việc lồng ghép nội dung

đạo đức trong các phong trào bề nổi của sinh viên sẽ không chỉ giúp họ hiểu hơn về truyền

thống đạo đức của dân tộc mình mà còn giúp sinh viên phát huy các giá trị đạo đức truyền

thống ấy trong quá trình hính thành và phát triển nhân cách, lối sống mới của mình.

Cần chú ý rằng, việc lồng ghép nội dung đạo đức vào các phong trào của sinh

viên cần phải phù hợp, tránh lồng ghép một cách cứng nhắc. Do đó phải chú ý tới tính

chất của mỗi phong trào cũng như thời gian tổ chức các phong trào đó.

* Gắn giáo dục ý thức pháp luật với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên

Để xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, cần

phải có sự tác động tích cực từ nhiều phía. Đạo đức, như đã phân tích ở trên là cơ sở,

tiền đề, là điểm xuất phát để trên đó các tiêu chuẩn của lối sống mới được định hình rõ

hơn, nhưng sức mạnh của đạo đức chỉ dừng lại ở lương tâm, tự ý thức của mỗi cá nhân,

trong khi đó, lối sống mà chúng ta hướng tới có lúc, có nới phải đấu tranh với các mặt

trái, tức là cần tới sức mạnh của sự cưỡng chế. Do vậy, để có thể xây dựng thành công

lối sống mới cho sinh viên, cần phải đi đôi với giáo dục ý thức pháp luật cho họ, điều đó

cũng có nghĩa là cần gắn việc nâng cao ý thức pháp luật với xây dựng lối sống mới

trong sinh viên.

Cũng giống đạo đức, pháp luật là một phương thức điều chỉnh hành vi con người.

Nếu đạo đức được hình thành ngay trong những giai đoạn đầu tiên của loài người, thì

pháp luật chỉ được ra đời khi xã hội đã phát triển đến giai đoạn xuất hiện giai cấp, nhà

nước. Sự điều chỉnh của pháp luật được thông qua các chuẩn mực, các quy phạm pháp

luật được nhà nước ban hành và bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế nhằm xác định

những giới hạn mà hành vi con người phải theo và mức độ trừng phạt những vi phạm

khi con người mắc phải.

Bandzeladze từng nhận xét: “Xưa nay, pháp luật bao giờ cũng là một biện pháp

để khẳng định một chuẩn mức đạo đức và biến nó thành thói quen. Chuẩn mực càng

khó bao nhiêu thì vai trò của pháp luật càng lớn bấy nhiêu. Vì vậy, không thể buông

lỏng pháp luật nếu việc này chưa được chuẩn bị bằng sự tiến bộ của đạo đức xã hội” [2,

tr.51]. Thật vậy, ý thức pháp luật là sản phẩm của quá trình phát triển xã hội, nó gắn với

việc hình thành và phát triển văn hoá của mỗi quốc gia. Bản thân nó không chỉ là công

cụ răn đe, năn ngừa phạm tội mà còn có tác động đến việc xây dựng lối sống và nhân

cách đạo đức cho mỗi người, đặc biệt là sinh viên. Cho nên, các hành vi vi phạm đạo

đức có thể chưa dẫn đến vi phạm pháp luật, nhưng các hành vi vi phạm pháp luật thì

đều có nguồn gốc vi phạm các giá trị đạo đức. Khi pháp luật nơi lỏng thì hiện tượng vi

phạm pháp luật diễn ra với tốc độ nhanh chóng. Hay đúng hơn, lúc đó các hiện tượng

phản đạo đức sẽ xuất hiện. Bởi pháp luật là một trong những phương thức củng cố các

giá trị đạo đức. Vì vậy, để phát huy được các giá trị đạo đức truyền thống vào quá trình

xây dựng lối sống cho sinh viên cần thiết phải chú ý tới giáo dục ý thức luật pháp. Và để

làm được điều đó, trước hết cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, từng bước hiện thực

hoá hệ thống pháp luật trong đời sống của nhân dân, trong đó có tầng lớp sinh viên.

Về bản chất, giáo dục pháp luật là một hoạt động có tính định hướng tổ chức, có

chủ định của chủ thể giáo dục nhằm tác động đến đối tượng để hình thành trong họ

những tri thức pháp luật, tình cảm, hành vi phù hợp với đòi hỏi của pháp luật hiện hành.

Đồng thời giáo dục pháp luật tạo ra khả năng thiết lập những nguyên tắc sống, thái độ

ứng xử của mỗi người trong các tình huống phong phú, phức tạp của cuộc sống.

Để hình thành, duy trì và nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên, chúng ta

không chỉ trông chờ vào sự tác động của xã hội, các tổ chức bên ngoài. Mà ngay trong

các trường cao đẳng, đại học cũng cần có sự chủ động trong việc thực hiện các hoạt

động nhằm giáo dục ý thức luật pháp cho sinh viên trường mình. Tuỳ vào điều kiện và

đặc điểm của mỗi trường mà phương thức giáo dục pháp luật có thể khác nhau, chẳng

hạn: tổ chức các lớp học chính trị, phổ biến pháp luật định kỳ, hưởng ứng tham gia hoặc

tổ chức các cuộc thi tìm hiểu hệ thống các ngành luật, tổ chức cho sinh viên tham gia

tuyên truyền hệ thống pháp luật cho các đối tượng khác, phối hợp với các cơ quan chức

năng để triển khai các điều luật mới......Tất cả các hoạt động này có thể tác động một

cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào ý thức của sinh viên với mối quan hệ với cộng đồng xã

hội. Từ đó, hướng sinh viên học tập, rèn luyện theo những chuẩn mực mà luật đề ra,

tránh được các hành vi tiêu cực, đồng thời giúp sinh viên ý thức được trách nhiệm của

họ trước những người khác, biết sống và đem lại hạnh phúc cho những người xung

quanh., sống vì người khác. Đây là điều kiện thuận lợi để chúng ta tiến hành xây dựng

lối sống đẹp trong sinh viên.

* Nâng cao vai trò của gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội trong xây

dựng lối sống mới cho sinh viên

C.Mác đã từng khẳng định: trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là

tổng hoà các quan hệ xã hội. Điều đó chứng tỏ, sự phát triển về nhân cách, lối sống của

mỗi con người luôn chịu sự chi phối trực tiếp của môi trường sống, môi trường xã hội,

trong đó có gia đình, nhà trường, các tổ chức chính trị xã hội và cộng đồng xã hội xung

quanh.

Tại Hội nghị Trung ương năm, khoá VIII, Đảng ta đã đánh giá: nhìn chung “gia

đình và các tập thể, cộng đồng xã hội chưa phát huy vai trò quan trọng trong giáo dục,

chưa phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong giáo dục thế hệ trẻ, nhất là về chính trị đạo

đức, đấu tranh ngăn chặn các tệ nạn xã hội và văn hoá phẩm đồi truỵ” [18, tr.19]. Do đó,

hơn lúc nào hết, sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội để hình thành lối sống

mới cho sinh viên, để phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng lối sống

cho sinh viên là một nhu cầu cấp thiết.

Khác với học sinh, học viên ở các cấp học khác, đa số sinh viên là những người

phải sống xa nhà, không có sự quản lý, giáo dục một cách trực tiếp của gia đình. Theo

số liệu thống kê của Tỉnh đoàn Nghệ An, hiện nay ký túc xá ở các trường cao đẳng, đại

học ở Nghệ An chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu của sinh viên, số còn lại sinh

viên phải tự thuê mướn nhà hoặc ở nhờ nhà người thân để ở trong điều kiện kinh tế còn

khó khăn, môi trường kinh tế xã hội còn nhiều phức tạp. Nhiều sinh viên vừa đi học lại

vừa đi làm để kiếm thêm tiền sinh sống, trang trải học hành, họ làm đủ mọi nghề, thậm

chí có những “nghề” bị pháp luật nghiêm cấm. Trong khi đó, một bộ phận sinh viên có

điều kiện kinh tế lại muốn đua đòi, muốn được thể nghiệm mình trước cuộc sống nhiều

khi đến mạo hiểm. Điều này thực sự là một trở ngại lớn trong công tác quản lý sinh viên

cũng trong công tác xây dựng nhân cách, lối sống mới cho họ.

Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường và

các tổ chức xã hội trong xây dựng lối sống cho sinh viên, trước mắt cần giải quyết một

số vấn đề sau:

Thứ nhất, giữa gia đình, nhà trường và xã hội phải có sự thống nhất về quan

điểm, chủ trương và mục đích trong xây dựng lối sống cho sinh viên. Một mặt, gia đình

và xã hội phải có những hiểu biết nhất định về các yêu cầu của nhà trường trong mục

tiêu xây dựng lối sống mới, tạo điều kiện để con em mình tham gia chủ động, tích cực

các phong trào, hoạt động mà nhà trường đề ra.. Mặt khác nhà trường, mà cụ thể là Ban

giám hiệu, phòng quản lý học sinh, sinh viên, tổ chức Đoàn trường, tổ chức Hội sinh

viên....cần dành nhiều sự quan tâm và thực hiện các giải pháp (như đã nêu ở các giải

pháp khác) một cách đồng bộ, có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ nhau. Có như vậy thì

việc xây lối sống cho sinh viên mới nhiều thuận lợi, quá trình phát huy các giá trị đạo

đức truyền thống trong xây dựng lối sống mới cho sinh viên mới có những chuyển biến

tích cực.

Thứ hai, kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục đạo

đức, giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên, từ đó hình thành thái độ sống phù hợp, lối

sống nhân văn. Đây là vấn đề có ý nghĩa then chốt. Thực tiễn công tác giáo dục- đào tạo

những năm qua cho phép chúng ta khẳng định rằng ở đâu và lúc nào Đảng uỷ, Ban giám

hiệu các trường quan tâm đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống,

đến quyền lợi chính đáng của sinh viên, thường xuyên phối hợp với các chính quyền địa

phương trong công tác quản lý, giáo dục sinh viên, thì ở đó, lúc đó, sinh viên ít vi phạm

kỷ luật, định hướng chính trị được giữ vững, phong trào học tập, nghiên cứu khoa học

được đảy mạnh, mọi hoạt động sẽ đi vào nề nếp ổn định, tạo điều kiện cho sự phát triển

của nhà trường. Mọi sự hạ thấp hay buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý

của Ban giám hiệu và các tổ chức đoàn thể khác như Đoàn thanh niên, Hội sinh viên

nhà trường sẽ dẫn đến nguy cơ chệch hướng trong giáo dục, xa rời mục tiêu giáo dục đã

đề ra.

Ngoài sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội, ngay bản thân các phòng,

khoa, bộ môn, tổ chức Liên chi đoàn, Liên chi hội, các chi bộ sinh viên, các cán bộ

giảng dạy cũng cần có sự kết hợp chặt chẽ trong công tác giáo dục đạo đức, định hướng

chính trị, lối sống cho sinh viên. Trên thực tế, sự kết hợp này đã có ở một vài trường

nhưng chưa đưa lại hiệu quả, tư tưởng phó thác cho các đơn vị chức năng như: khoa

Mác – Lênin, phòng công tác chính trị học sinh, sinh viên...Do vậy, việc làm cho các tổ

chức trong trường, các cán bộ giảng viên ý thức được trách nhiệm của mình trong công

tác giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên là vô cùng cần thiết.

Tóm lại, kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường với các tổ chức xã hội trong

phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng lối sống cho sinh viên là một

giải pháp hết sức căn bản, nó còn là một nguyên tắc cơ bản của xây dựng lối sống xã hội

chủ nghĩa.

* Nâng cao ý thức tự rèn luyện, tự giáo dục ý thức đạo đức và lối sống trong

sinh viên

Con người với tư cách là chủ thể của quá trình nhận thức, quá trình cải tạo

thế giới, là chủ thể của mọi quan hệ xã hội. Thông qua các hoạt động giáo dục

(trong đó có tự giáo dục), con người có khả năng tự biến đổi nhân cách, lối sống

của mình một cách có ý thức. Sinh viên là lớp người được giáo dục bởi gia đình,

nhà trường và xã hội- cùng với quá trình được giáo dục này thì họ cũng đồng thời

phải tự hoàn thiện nhân cách, lối sống, tri thức, kinh nghiệm sao cho phù hợp với

yêu cầu của cuộc sống. Để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự phát triển

xã hội, của thị trường sức lao động, đòi hỏi mỗi sinh viên phải phát huy cao độ tính

tự giác, chủ động, sáng tạo trong học tập, nghiên cứu khoa học, trong việc giữ gìn

truyền thống.

Việc xây dựng lối sống mới cũng như phát huy các giá trị đạo đức truyền thống

để xây dựng lối sống mới trong sinh viên không chỉ đơn thuần chỉ tiếp thu các giá trị

đạo đức, những chuẩn mực đaọ đức đã có, mà đòi hỏi phải có quá trình rèn luyện, phấn

đấu của bản thân mỗi sinh viên, phải có quá trình tự giáo dục, tự đúc kết từ thực tiễn

cuộc sống của từng cá nhân con người tạo thành. Sinh viên với những đặc thù về tâm

sinh lý lứa tuổi, với một trình độ nhận thức và năng lực tư duy nhất định, quá trình giáo

dục và tự giáo dục sẽ giúp cho sinh viên không chỉ nắm vững được những kiến thức cơ

bản, mà còn nắm vững được các tri thức đạo đức, lối sống nhân cách đã được trang bị,

cùng với giao tiếp xã hội, sinh viên có khả năng chuyển những kiến thức xã hội đã được

học thành niềm tin cá nhân, thành tình cảm đạo đức được hình thành ngay trong hành vi

ứng xử hàng ngày của sinh viên. Những phẩm chất đạo đức một khi được hình thành,

được củng cố sẽ trở thành nét tính cách ổn định, bền vững, thể hiện sự trưởng thành của

con người xã hội, là nền tảng phát triển và góp phần trực tiếp hình thành lối sống tích

cực ở sinh viên. Có thể nói, nếu không có quá trình tự giác, tự rèn luyện đạo đức của

bản thân sinh viên, thì mọi nỗ lực tác động từ bên ngoài dù tốt đến đâu cũng trở nên vô

ích. Do vậy, sự hoàn thiện của cá nhân đóng vai trò quyết định trực tiếp.

Lối sống là nội dung cơ bản thể hiện văn hoá của con người, là mặt giá trị của

con người, nó hướng con người vươn tới những giá trị đích thực của cuộc sống. Lối

sống của mỗi con người không phải tự nhiên mà có- đó là kết quả của quá trình phấn

đấu, rèn luyện vô cùng khó khăn, gian khổ. Người có lối sống tích cực phải là người

được giáo dục, qua giáo dục và tự giáo dục. Trong đó, quá trình tự giáo dục là một quá

trình tự thân vận động, đòi hỏi sinh viên phải có nghị lực, ý chí và quyết tâm cao để

chiến thắng bản thân mình. Nếu không tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, nhân cách,

lối sống thì sinh viên rất dễ bị gục ngã trước những cám dỗ của đồng tiền, của nhu cầu,

ham muốn vật chất. Thông qua hoạt động và giao lưu, con người ý thức hơn về giá trị

của lối sống trong quan hệ với cá nhân khác và với cộng đồng xã hội.

Để nâng cao hiệu quả của việc tự rèn luyện đạo đức, lối sống của sinh viên, cần

có sự quan tâm, đầu tư tích cực về cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhà trường, tạo ra

những điều kiện thuận lợi giúp cho sinh viên có khả năng học tập, nghiên cứu và tham

gia các hoạt động bổ ích khác như hiện đại hoá hệ thống thư viện, tăng các đầu sách,

báo và các tài liệu tham khảo, xây dựng các sân chơi thể thao cho sinh viên. Bên cạnh

đó, nhà trường cũng cần tăng cường hơn nữa công tác tự quản của các tổ chức sinh viên,

như: Đội an ninh xung kích, Đội tự quản, Đội thanh tra trong sinh viên....Mặt khác, nhà

trường cũng cần có các hình thức khen thưởng và biểu dương những tấm gương sinh

viên có quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện tốt, lấy đó làm nhân tố điển hình định hướng

cho các sinh viên khác phấn đấu theo.

Những yếu tố được trình bày trên không chỉ là môi trường mà còn là chất xúc tác

kích thích sinh viên tự giác rèn luyện trong học tập, nghiên cứu khoa học cũng như trong

cuộc sống, từng bước hình thành lối sống mới trong họ.

Kết Luận

Việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc để xây dựng lối sống mới

cho sinh viên Việt Nam hiện nay là một tất yếu khách quan. Thái độ phủ định vai trò

của các giá trị đạo đức truyền thống hoặc đặt vị trí của nó không đúng chỗ trong quá

trình xây dựng lối sống mới đều là sai lầm, kìm hãm tính hiệu quả trong xây dựng lối

sống.

Từ đại hội VI (1986), Đảng ta đã chủ trương đổi mới không phải là một quá trình

cắt đứt lịch sử mà là một sự phủ định biện chứng để tạo nên bước phát triển về chất và

tạo ra cơ sở kinh tế cho việc xây dựng lối sống mới phù hợp với yêu cầu phát triển của

thời đại.

Vấn đề xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh đất nước

mở cửa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện sự

nghiệp công nghiệp hoá luôn thu hút sự quan tâm không chỉ của các nhà quản lý giáo

dục, các trường cao đẳng, đại học mà còn của toàn xã hội. Bên cạnh những thời cơ,

thuận lợi vấn đề xây dựng lối sống cho sinh viên hiện nay cũng đang đứng trước nhiều

khó khăn thách thức, tình trạng suy thoái về lối sống vẫn tiếp tục gia tăng mà chưa có

giải pháp hữu hiện để ngăn chặn, tiêu cực và tệ nạn xã hội trong sinh viên ngày càng

nghiêm trọng, các giá trị đạo đức truyền thống nơi này hay nơi khác vẫn bị xem nhẹ, coi

thường. Những hiện tượng này thể hiện sự “xuống cấp” của lối sống, sự xa rời các giá

trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trước tình hình đó, việc phát huy các giá

trị đạo đức của dân tộc để xây dựng lối sống mới cho sinh viên không chỉ là nhu cầu

khách quan của việc phát huy nhân tố con người ở sinh viên mà còn là nhu cầu nội tại

của các quốc gia, dân tộc.

Quá trình phát huy các giá trị đạo đức truyền thống để xây dựng lối sống của sinh

viên Việt Nam hiện nay phải được xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung của việc

xây dựng lối sống cho con người Việt Nam nói chung mà Đảng ta đã xác định và lựa

chọn. Các giá trị đạo đức truyền thống mà chúng ta phải tiếp tục phát huy chính là chủ

nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, tình yêu thương, cởi mở, khoan dung, cần cù,

hiếu học, lạc quan... Đây chính là điểm tựa để chúng ta hình thành lối sống mới – vừa

có những giá trị truyền thống vừa có những giá trị hiện đại.

Lối sống là một trong những phẩm chất tiêu biểu làm nên nhân cách con người.

Vì vậy, việc xây dựng con người mới nói chung và việc xây dựng các thế hệ sinh viên

mới nói riêng nhằm đáp ứng các yêu cầu đòi hỏi của công cuộc xây dựng đất nước hiện

nay phải gắn liền với việc xây dựng nhân cách, lối sống của họ.

Có thể khẳng định lối sống của sinh viên được hình thành và phát triển chịu tác

động bởi các yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần của xã hội và cũng bị quy định bởi

chính đặc điểm nội tại của bản thân mỗi sinh viên. Đó là các đặc điểm về tâm sinh lý

lứa tuổi, đặc điểm của hệ thống các nhu cầu, lợi ích...

Trong thời gian tới, khi môi trường sống của sinh viên có nhiều biến đổi, có cả

những thuận lợi nhưng cũng tiềm ẩn những khó khăn, thử thách thì việc tiếp tục phát

huy các giá trị đạo đức truyền thống để xây dựng lối sống mới cho sinh viên càng trở

nên cấp thiết, đòi hỏi chúng ta phải tìm cách phát huy các mặt thuận lợi, kiên quyết khắc

phục những khó khăn. Để hình thành lối sống tốt đẹp ở sinh viên đồng thời một lần nữa

khẳng định vai trò của giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong giai đoạn mới.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Lê Thị Tuyết Ba (1999), "Vấn đề bảo vệ các giá trị đạo đức truyền thống trong nền

kinh tế thị trường ở Việt Nam", Tạp chí Triết học, (1).

2. Bandzelaze (1985), Đạo đức học, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

3. Ban Chấp hành Hội sinh viên Việt Nam (2009), Báo cáo tổng kết tại Đại hội Đại biểu

toàn quốc Hội sinh viên Việt Nam lần thứ VIII, Hà Nội.

4. Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương (2004), Tài liệu nghiên cứu văn kiện Hội nghị

lần thứ mười Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Nxb Chính trị quốc

gia Hà Nội.

5. Doãn Thị Chín (2004), Vấn đề giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt

Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

6. Nguyễn Trọng Chuẩn (1998), “Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục

tiêu phát triển”, Tạp chí Triết học, (2).

7. Nguyễn Trọng Chuẩn – Nguyễn Văn Phúc (2003), “Mấy vấn đề đạo đức trong

điều kiện kinh tế thị trường”, Tạp chí triết học, (1).

8. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (2002), Giá trị truyền thống trước

những thách thức của toàn cầu hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Chủ nghĩa xã hội và nhân cách (1993), (sách dịch), Nxb Sách giáo khoa Mác –

Lênin, Hà Nội.

10. Nguyễn Viết Chức (chủ biên) (2001), Xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống và đời

sống văn hoá ở thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước, Viện Văn hoá và Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

11. Con người – những ý kiến mới về một đề tài cũ (1987), Sách dịch, Nxb Sự thật, Hà Nội.

12. Đoàn Minh Duệ (chủ biên) (2004), Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo

dục truyền thống cho thanh thiếu niên tỉnh Nghệ An, Nxb Nghệ An.

13. Vũ Đảm (2003), “Từ tư tưởng Hồ Chí Minh xác định lý tưởng của thanh niên hiện

nay”, Tạp chí Thanh niên, (13).

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

năm, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành

Trung ương khoá VII, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành

Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban chấp hành

Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam ( ), Nghị quyết Trung ương năm khoá VIII, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Báo cáo Hội nghị lần thứ mười, Ban chấp hành

Trung ương Đảng khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết của Bộ chính trị về một số định

hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay, Nxb CTQG, HN

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 53, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

25. Phạm Ngọc Định (1999), “Giáo dục đạo đức rèn luyện nếp sống văn hoá cho sinh

viên”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, (11).

26. Phạm Văn Đồng (1998), Chủ tịch Hồ Chí Minh - tinh hoa dân tộc, trí tuệ thời đại,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Giá trị thẩm mỹ và xây dựng con người mới Việt Nam (1982), Nxb Sự thật, Hà Nội.

28. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

29. Trần Văn Giàu (1983), Dòng chủ lưu của văn hóa Việt Nam: tư tưởng yêu nước,

Nxb TP Hồ Chí Minh.

30. Phạm Mạnh Hà (2002), “Những nguyên nhân chủ quan chủ yếu của tình trạng suy

thoái đạo đức ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (3).

31. Nguyễn Thị Thanh Hà (2007), Giáo dục đạo đức truyền thống với việc xây dựng nhân

cách mới của sinh viên Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

32. Lê Như Hoa (2003), Bản sắc dân tộc trong lối sống hiện đại, Nxb Văn hoá Thông

tin, Hà Nội.

33. Lê Như Hoa (1998), Bản lĩnh văn hoá Việt Nam – một hướng tiếp cận, Nxb Văn

hoá Thông tin, Hà Nội.

34. Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trường văn hoá ở nước ta hiện nay nhìn từ góc độ giá trị

học, Viện Văn hóa và Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

35. Đỗ Huy (2002), “Cơ chế chuẩn mực đạo đức xã hội và những hành vi đạo đức cá

nhân”, Tạp chí Triết học, (2).

36. Bùi Quang Huy (2004), “Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho thanh niên”, Tạp chí

Thanh niên, (11).

37. Nguyễn Văn Huyên (1998), Giá trị truyền thống – nhân lõi và sức sống của sự

phát triển đất nước, dân tộc, Báo cáo tại Hội thảo truyền thống, giá trị về sự

phát triển, Hà Nội.

38. Nguyễn Văn Huyên (2003), “Lối sống người Việt Nam dưới tác động của toàn cầu

hoá”, Tạp chí Triết học, (12).

39. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2007), “Toàn cầu hoá và nguy cơ suy thoái đạo đức, lối

sống con người Việt Nam hiện nay”, Tạp chí triết học, (2).

40. Vũ Khiêu (1975), Lao động, nguồn lao động của mọi giá trị, Nxb Thanh niên, Hà

Nội.

41. Vũ Khiêu (1996), Bàn về văn hoá Việt Nam, Tập 3, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

42. Vũ Khiêu (chủ biên) (2000), Văn hóa Việt Nam, xã hội và con người, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

43. Vũ Khiêu (2003), “Sự suy thoái đạo đức và những giải pháp của chúng ta”, Tạp

chí Tâm lý học, (9).

44. Nguyễn Thế Kiệt (1996), “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định hướng

các giá trị đạo đức hiện nay”, Tạp chí triết học, (6).

45. Nguyễn Thế Kiệt (1996), “Công cuộc đổi mới và định hướng giá trị đạo đức cho sinh

viên hiện nay”, Tạp chí khoa học và giáo dục an ninh, (6).

46. Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên) (2001), ảnh hưởng của đạo đức phong kiến trong cán

bộ quản lý ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. La Quốc Kiệt (2003), Tu dưỡng đạo đức tư tưởng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

48. Thanh Lê (chủ biên) (2001), "Lối sống xã hội chủ nghĩa và xu thế toàn cầu hoá",

Tạp chí Triết học, (12).

49. Thanh Lê (2004), Giáo dục lối sống nếp sống mới, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ

Chí Minh.

50. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (1996), Các giá trị truyền thống và con người Việt

Nam hiện nay, Tập 1, Chương trình khoa học và công nghệ cấp nhà nước, Đề

tài KX.07 -02, Hà Nội.

51. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

52. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 31, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

53. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva

54. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva

55. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

56. Phan Ngọc Liên (2006), Giáo dục và thi cử Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám

1945, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

57. Mai Xuân Lợi (2001), “Giá trị đạo đức và biểu hiện của nó trong đời sống xã hội”,

Tạp chí triết học, (3).

58. Nguyễn Ngọc Long (chủ biên) (2001), Giáo trình đạo đức học, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

59. Trường Lưu (1999), Văn hoá - một số vấn đề lý luận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

60. C.Mác, Ph. Ăngghen ( ), Tuyển tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

61. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

62. C.Mác, Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

63. C.Mác, Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. C.Mác, Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 16, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

65. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

66. Hồ Chí Minh (1945), Thư gửi học sinh cả nước.

67. Hồ Chí Minh, Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.

68. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

69. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

70. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

71. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

72. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

73. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

74. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

75. Đỗ Mười (1996), Lý tưởng của thanh niên trong thời kỳ mới, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

76. Nguyễn Chí Mỳ, Nguyễn Thế Kiệt (1998), “Sự biến đổi thang giá trị đạo đức trong

xã hội ta hiện nay và việc nâng cao phẩm chất của cán bội”, Tạp chí Cộng

sản, (15).

77. Phạm Đình Nghiệp (2002), Giáo dục lý tưởng cho thanh niên hiện nay, Nxb

Thanh niên, Hà Nội.

78. Trần Sỹ Phán (1999), Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân

cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

79. Trần Sỹ Phán (2007), Bàn về lối sống thực dụng và lối sống xã hội chủ nghĩa, Hội

thảo quốc tế: "Những vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX", Nxb Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

80. Lê Du Phong, Nguyễn Văn ánh, Hoàng Văn Hoa (2002), ảnh hưởng của đô thị

hóa đến nông thôn ngoại thành Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

81. Nguyễn Văn Phúc (2007), “Về tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn

mực đạo đức mới”, Tạp chí Triết học, (3).

82. Trần Đình Sử (1996), “Truyền thống dân tộc và tính hiện đại của truyền thống”,

Tạp chí Cộng sản, (15).

83. Tạ Ngọc Tấn (1998), Tác động của báo chí đối với việc xây dựng lối sống tích cực

của thanh niên, sinh viên hiện nay, Đề tài cấp bộ, Phân viện Báo chí và tuyên

truyền.

84. Võ Văn Thắng (2004), "Về khái niệm lối sống", Tạp chí Lý luận chính trị, (12),

tr.85-86.

85. Võ Văn Thắng (2005), Kế thừa và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống dân

tộc trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ triết

học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

86. Võ Văn Thắng (2006), “Nhân ái – một giá trị truyền thống cần kế thừa và phát huy

trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (7).

87. Lưu Thu Thuỷ (2000), Thực trạng tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của học

sinh, sinh viên qua kết quả khảo cứu tư liệu, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia về

“Thực trạng và giải pháp giáo đức, tư tưởng chính trị, lối sống cho học sinh,

sinh viên Việt Nam”.

88. Đặng Hữu Toàn ( 2001), Hướng các giá trị đạo đức truyền thống theo hệ giá trị

chân – thiện – mỹ trong bối cảnh toàn cầu hóa, phát triển kinh tế thị trường,

Báo cáo tại Hội thảo quốc tế “Giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu

hoá”, Hà Nội.

89. Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam (2009), Tổng quan tình hình sinh viên, công tác

hội và phong trào sinh viên Việt Nam nhiệm kỳ (2004 – 2009).

90. Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam (2009), Báo cáo của Ban chấp hành Trung

ương Hội sinh viên Việt Nam khoá VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc Hội

sinh viên Việt Nam lần thứ VIII.

91. Thái Duy Tuyên (1995), “Sự biến đổi giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều

kiện kinh tế thị trường”, Tạp chí Triết học, (5).

92. Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang (1995), Giá trị - định hướng

giá trị nhân cách và giáo dục giá trị, Hà Nội.

93. Mạc Văn Tranh (chủ biên) (1995), Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những

phương hướng biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên, Đề tài nghiên cứu

khoa học, Bộ Giáo dục Đào tạo.

94. Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (1996) Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

95. Về giá trị truyền thống (1993), Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.

96. Viện Mác – Lênin, Viện chủ nghĩa xã hội khoa học (1993), Về giá trị văn hoá tinh

thần Việt Nam, Tập 1,2, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.

97. Huỳnh Khái Vinh (1999), “Xây dựng đạo đức, lối sống và chuẩn giá trị xã hội để phát

triển toàn diện con người”, Tạp chí thông tin lý luận, (3).

98. Huỳnh Khái Vinh – Nguyễn Thanh Tuấn (1997), Bàn về khoan dung trong văn

hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

99. Huỳnh Khái Vinh (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

100. Visnhiôp xki (1982), Lối sống xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.

101. Mục lục

102.

Trang

1 Mở đầu

Chương 1: Giá trị đạo đức truyền thống và sự ảnh hưởng của nó tới

8 việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay

1.1. Giá trị đạo đức truyền thống 8

1.2. ảnh của giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối sống mới

cho sinh viên Việt Nam hiện nay 21

Chương 2: Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng lối sống mới

44 cho sinh viên ở Nghệ An hiện nay- Thực trạng và giải pháp

2.1. ảnh hưởng của giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng lối

sống mới cho sinh viên Nghệ An hiện nay 44

2.2. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giá trị đạo

đức truyền thống trong việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt

Nam hiện nay 70

89 Kết luận

91 Danh mục tài liệu tham khảo

99 Phụ lục