
LUẬN VĂN:
Giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho người
sau cai nghiện ma túy ở nước ta hiện nay

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tệ nạn ma tuý là một hiểm hoạ lớn của toàn nhân loại. Không một quốc gia, một dân
tộc nào không phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng do buôn lậu ma tuý và nghiện
ma tuý gây ra cho đời sống kinh tế - xã hội. Tình hình tệ nạn ma tuý diễn biến rất phức tạp,
tiềm ẩn, khó lường, có xu hướng gia tăng về số người nghiện và các tội phạm về ma tuý,
tính chất hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt, manh động hơn. Ma tuý làm suy thoái
nhân cách, phẩm giá, tàn phá cuộc sống gia đình, gây xói mòn đạo lý, làm gia tăng tội
phạm, bạo lực, tham nhũng, vắt cạn kiệt nguồn nhân lực, tài chính, huỷ hoại những tiềm
năng quý báu khác mà lẽ ra phải được huy động cho việc phát triển kinh tế xã hội, đem lại
ấm no hạnh phúc cho mọi người. Nghiêm trọng hơn, ma tuý là nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến lây nhiễm đại dịch thế kỷ HIV/AIDS trên toàn cầu.
Do siêu lợi nhuận và lợi dụng tự do hoá thương mại, chính sách mở cửa thu hút đầu
tư của các nước đang phát triển, trong đó có Việt nam, bọn tội phạm ma túy tiến hành mở
rộng phạm vi hoạt động sản xuất, buôn bán ma tuý kết hợp với rửa tiền thông qua buôn bán
ma tuý. Các nhóm vũ trang móc nối với bọn buôn lậu ma túy và khủng bố quốc tế để sản
xuất ma tuý làm nguồn tài chính phục vụ ý đồ chính trị và khủng bố quốc tế.
Năm 2006, Hiệp định AFTA về tự do hoá thương mại giữa các nước ASEAN có hiệu
lực, Việt Nam gia nhập WTO, đặc biệt là từ năm 2010, khi Cộng đồng ASEAN xây dựng
nhiều thiết chế trong quan hệ kinh tế, thương mại, du lịch… con đường xuyên á, hành lang
kinh tế Đông Tây mở, việc đầu tư, liên doanh, liên kết sản xuất, buôn bán, dịch vụ giữa các
nước Đông Nam á cùng các nước trên thế giới sẽ diễn ra rất sôi động. Đây là thời cơ thuận
lợi để tội phạm ma tuý lợi dụng hoạt động, làm gia tăng tình hình buôn bán và sử dụng ma
tuý ở trong nước.
Với diễn biến phức tạp của tệ nạn ma tuý ở các nước trong khu vực nói chung, ở Việt
Nam nói riêng, hàng năm số người nghiện ma tuý ở nước ta vẫn tăng bình quân 11%. Tính
đến hết tháng 12/2005, toàn quốc có khoảng 160.000 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý,
tăng hơn 50% so với năm 2000. Song song với những biện pháp quyết liệt chống tội phạm
buôn bán ma tuý, Nhà nước ta cũng đồng thời quan tâm đến việc tổ chức cai nghiện, giúp

cho những người sa vào con đường nghiện ngập có thể cắt cơn, phục hồi sức khoẻ, hành vi
và nhân cách để có thể tái hoà nhập cộng đồng. Công tác cai nghiện phục hồi tuy đạt được
một số kết quả bước đầu, nhưng về cơ bản tính hiệu quả và bền vững chưa cao, tỷ lệ tái
nghiện còn cao, có những nơi lên tới 80-90%. Trình độ văn hoá thấp, không có nghề nghiệp,
không có việc làm là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng nghiện ma
tuý trong thanh thiếu niên.
Tạo việc làm cho người nghiện ma tuý sau khi được chữa trị, phục hồi là một trong
những biện pháp quan trọng có ý nghĩa cả về kinh tế và xã hội, nhằm giúp đối tượng trở về
cuộc sống bình thường, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tệ nạn ma tuý. Chủ
trương này thể hiện rõ trong các văn bản chỉ đạo của Đảng và Chính phủ như Chỉ thị 33-
CT/TƯ, Chỉ thị 52-CT/TƯ, Nghị quyết 06/CP của Chính phủ và gần đây nhất là Chỉ thị 21/CT-
TƯ...
Tuy nhiên, trên thực tế kết quả giải quyết việc làm cho người nghiện ma tuý sau khi
được chữa trị, phục hồi còn nhiều hạn chế. Hàng năm, số đối tượng được tạo việc làm ở
cộng đồng chỉ chiếm khoảng 10% số đối tượng được chữa trị, phục hồi. Nguyên nhân của
tình trạng này ngoài những khó khăn khách quan của nền kinh tế thị trường còn do nhận
thức, trách nhiệm của chính quyền, đoàn thể ở các cấp chưa cao, đặc biệt là chính quyền cấp
xã, cộng đồng, khu phố, thôn xóm ít quan tâm. Về phía bản thân đối tượng và gia đình họ
còn ỷ lại xã hội, không nỗ lực tìm kiếm việc làm. Mặt khác, Nhà nước ta cũng chưa có cơ
chế chính sách phù hợp để khuyến khích, huy động nhiều thành phần kinh tế - xã hội tham
gia giải quyết việc làm cho đối tượng.
Do vậy, dạy nghề, tổ chức lao động sản xuất, tạo việc làm, có thu nhập ổn định
không những là một nội dung quan trọng của quy trình cai nghiện mà còn là yêu cầu thiết
yếu, tạo điều kiện cho đối tượng tái hoà nhập cộng đồng, phòng chống tái nghiện có hiệu
quả. Điều đó đã đặt ra một yêu cầu cấp thiết ở nước ta hiện nay là cần có sự nghiên cứu một
cách cơ bản, có hệ thống vấn đề tạo việc làm cho những người sau cai nghiện ma tuý để
giúp họ thực sự tái hoà nhập cộng đồng và có cuộc sống yên ổn, trở thành người có ích cho
xã hội.

Để góp phần vào những nghiên cứu chung đó, tôi chọn đề tài “Giải pháp hỗ trợ tạo
việc làm cho người sau cai nghiện ma túy ở nước ta hiện nay” làm luận văn thạc sĩ,
chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liờn quan đến đề tài
Trong thời gian qua, ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan tới vấn
đề này, dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể nêu một số đề tài sau:
Nhóm việc làm và giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường:
- Đề tài cấp nhà nước 70A.02.02 “Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở Việt
Nam”, Trần Đình Hoan, Lê Mạnh Khoa, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.
- Đề tài cấp nhà nước KX-04-04: “Luận cứ khoa học cho chính sách giải quyết việc
làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần”, của Bộ Lao động
TB và XH, Hà Nội, 1994.
- Đề tài cấp Nhà nước KX-07-05-05: “Những đặc trưng và xu hướng biến đổi của cơ
cấu xã hội nghề nghiệp nước ta trong giai đoạn hiện nay, dự báo và kiến nghị”, do Tiến sỹ
Nguyễn Đình Tấn - Giám đốc Trung tâm Xã hội học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh làm chủ nhiệm, 1995.
- Đề tài “Quản lý nhà nước về việc làm ở Hà Nội”, Luận án tiến sĩ kinh tế Trần Văn
Tuấn, Hà Nội, 1995.
- “Thị trường sức lao động thực trạng và giải pháp” của Phó Tiến sỹ Nguyễn Quang
Hiển, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1995.
- “Chiến lược việc làm và đào tạo nghề thời kỳ 2001 -2010” của Tiến sỹ Nguyễn Hữu
Dũng, Tạp chí Lao động xã hội, 2001.
- Đề tài “Phát triển thị trường sức lao động, giải quyết việc làm qua thực tế ở Hà Nội”,
Luận án tiến sĩ kinh tế Đỗ Thị Xuân Phương, Hà Nội, 2005.
Nhóm tổ chức cai nghiện, quản lý sau cai nghiện và tạo việc làm cho người sau cai
nghiện ma tuý:
- “Kế hoạch tổng thể cai nghiện phục hồi, giai đoạn 2001 - 2010”, Uỷ ban Quốc gia
phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm, Hà Nội, 2002.

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố “Nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý cai nghiện ma túy và sau cai” 02-X07 của Tiến sỹ Nguyễn Thành
Công, Hà Nội, 2003.
- Báo cáo “Sơ kết 3 năm thực hiện quyết định 151 của Thủ tướng Chính phủ về cai nghiện
- phục hồi”, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Hà Nội, 2004.
- Báo cáo “Tổng kết công tác cai nghiện phục hồi, giai đoạn 2001 - 2005, phương
hướng nhiệm vụ thời kỳ 2006 - 2010”, Uỷ ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng,
chống tệ nạn ma tuý, mại dâm, Hà Nội, 2006.
- Tài liệu “Giới thiệu và hướng dẫn áp dụng mô hình cai nghiện có hiệu quả”, Cục
Phòng chống tệ nạn xã hội, Hà Nội, 2007.
Ngoài ra còn nhiều bài viết đăng trên các tạp chí về vấn đề này với những cách tiếp
cận khác nhau.
Có thể thấy rằng, các tài liệu mới chỉ đề cập rất ít tới vấn đề việc làm và giải quyết
việc làm cho người sau cai nghiện, chưa có công trình khoa học nào đã công bố, tập trung
nghiên cứu vấn đề tạo việc làm cho những người sau cai nghiện ma tuý trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay.
Tuy vậy, nghiên cứu các công trình đã công bố đó, tôi cũng tham khảo được nhiều
vấn đề lý luận và thực tiễn rất có giá trị đối với đề tài của mình. Trên cơ sở tiếp thu có chọn
lọc những vấn đề đã được nghiên cứu trong các công trình khoa học đó, kết hợp với khảo
sát thực tế ở một số địa phương, tôi có thể rút ra một số giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho
những người sau cai nghiện ma tuý ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về tác động
tiêu cực của tệ nạn ma tuý tới đời sống kinh tế - xã hội, sự cần thiết phải tổ chức và quản lý
sau cai nghiện ma tuý và đề xuất giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho những người sau cai
nghiện ma túy ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:

