
BÀI 8:
THUẾ XUẤT KHẨU - THUẾ NHẬP KHẨU
I. KHÁI NIỆM THUẾ XUẤT KHẨU - THUẾ NHẬP KHẨU
1. Khái niệm
2. Tính chất của thuế xuất khẩu - thuế nhập khẩu
3. Mã số thuế
II. ĐỐI TƯỢNG CHỊU THUẾ VÀ NỘP THUẾ XUẤT KHẨU -
NHẬP KHẨU
1. Định nghĩa đối tượng chịu thuế
2. Những đối tượng chịu thuế theo luật hiện hành
3. Đối tượng không chịu thuế
4. Đối tượng nộp thuế
III. CĂN CỨ VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH THUẾ
1. Căn cứ tính thuế
2. Phương pháp tính thuế
IV. CHẾ ĐỘ MIỄN GIẢM THUẾ
1. Miễn thuế
2. Giảm thuế
V. ĐĂNG KÝ KÊ KHAI - NỘP THUẾ - HOÀN THUẾ - TRUY
THU THUẾ
1. Đăng ký kê khai thuế
2. Nộp thuế
3. Hoàn thuế
4. Truy thu thuế
5. Quản lý nhà nước về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

I. KHÁI NIỆM THUẾ XUẤT KHẨU - THUẾ NHẬP KHẨU
1. Khái niệm:
Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển dẫn đến các quan hệ mua bán trao
đổi hàng hoá giữa các quốc gia diễn ra ngày càng tăng. Mỗi một quốc gia
độc lập có chủ quyền đều sử dụng một loại thuế thu vào hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới nước mình. Thuế này được gọi chung là
thuế quan (Custom duty).
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới phát triển theo xu hướng quốc tế hóa
thì pháp luật của các nước về thuế quan ngày càng có xu thế hội nhập với
các quốc gia trong khu vực và trên phạm vi toàn thế giới.
Thuế quan ở Việt Nam có tên gọi là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại thuế đánh vào các hàng hoá
mậu dịch, phi mậu dịch được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới Việt
Nam.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được nhà nước ta ban hành vào năm
1951, thời điểm này thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ để nhà nước
thực hiện chức năng quản lý việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá giữa vùng
tự do và vùng bị tạm chiếm, bảo vệ và phát triễn kinh tế vùng tự do, xúc tiến
việc giao lưu các loại hàng hoá là nhu yếu phẩm cần thiết cho quân đội và
nhân dân. Phương châm đấu tranh kinh tế với địch là đẩy mạnh xuất khẩu,
tranh thủ nhập khẩu các loại hàng hoá cần thiết cho kháng chiến, sản xuất và
đời sống nhân dân. Do đó, nhà nước miễn thuế xuất khẩu cho tất cả các loại
hàng hoá của vùng tự do. Mặt khác, hạn chế nhập khẩu hàng hoá từ vùng
địch. Thuế suất áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu là từ 30 % trở lên.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch được Quốc hội nước
ta ban hành ngày 29 -12 -1987. Ðạo luật này chỉ điều chỉnh quan hệ thu nộp
thuế phát sinh từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng mậu dịch. Do đó có
sự phân biệt trong áp dụng chế độ thu thuế giữa hàng hoá mậu dịch với các
loại hàng hoá phi mậu dịch khác.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã được Quốc hội thông qua
ngày 26 -12 -1991 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu đã được Quốc hội thông qua ngày 5 -7- 1993. Luật

này được Quốc hội thông qua ngày 20 -5 1998 và có hiệu lực thi hành từ
ngày 1 -1- 1999.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành có phạm vi điều chỉnh
rộng hơn so với Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng hoá mậu dịch ban
hành năm 1987. Theo đó, Nhà nước thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
không phân biệt tính chất hàng hoá là xuất khẩu, nhập khẩu mậu dịch hay
phi mậu dịch.
Ðối tượng điều chỉnh của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu là quan hệ thu
nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu giữa nhà nước với các tổ chức và cá
nhân có hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới
Việt Nam, kể cả hàng hoá từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất và
từ khu chế xuất đưa ra thị trường trong nước.
Theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu thì thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu đối với hàng hoá mậu dịch mang tính chất gián thu. Còn đối
với các loại hàng hoá khác thì tùy theo từng trường hợp mà thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu có tính chất gián thu hoặc tính chất trực thu.
2. Tính chất của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ rất quan trọng để nhà nước
thực hiện chính sách kinh tế của mình, quản lý các hoạt động xuất khẩu,
nhập khẩu; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại; nâng cao hiệu quả của hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu. Căn cứ vào từng giai đoạn lịch sử và điều kiện
kinh tế - xã hội của mỗi nước mà thuế quan được sử dụng với nhiều mục tiêu
khác nhau. Tuy nhiên, ở góc độ chung nhất có thể nhận thấy rằng tính chất
của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là nguồn thu quan trọng cho ngân
sách nhà nước. Mục tiêu chung của các quốc gia là sử dụng thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà
nước. Ðồng thời thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là loại thuế dễ thu
nhất, ít bị phản ứng từ phía trong nước, thậm chí có khi còn được
sự ủng hộ của nhiều người.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cấu thành trong giá cả hàng hoá,
làm tăng giá hàng hoá, do đó có tác dụng điều tiết xuất khẩu, nhập
khẩu và hướng dẫn tiêu dùng; bởi vì lượng hàng hoá xuất khẩu
hay nhập khẩu phụ thuộc vào sức tiêu thụ hàng hoá, yếu tố này lại
phụ thuộc vào giá cả. Giá cả hàng hoá cao hay thấp sẽ quyết định

việc giảm hoặc tăng sức cạnh tranh của hàng hoá đó trên thị
trường. Thông qua thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhà nước điều
tiết việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá . Hơn nữa, thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu sẽ hạn chế việc tiêu dùng hàng hoá xa xỉ hoặc các
loại hàng hoá không được khuyến khích sử dụng như thuốc lá,
rượu, bia...
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có tác dụng bảo hộ nền sản xuất
trong nước. Việc đánh thuế cao vào hàng hoá nhập khẩu sẽ giúp
các nhà sản xuất trong nước có thể cạnh tranh được với hàng hoá
nhập khẩu. Ðặc biệt thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu giúp cho các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các ngành còn non trẻ trong
nước có thời gian trưởng thành và sinh lời để từ đó có thể cạnh
tranh với hàng hoá nhập khẩu.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có tác dụng giảm bớt nạn thất
nghiệp vì việc đánh thuế nhập khẩu cao thì hàng hoá nhập khẩu sẽ
giảm; để bù vào lượng hàng hoá nhập khẩu đó nhà nước ta phải mở
rộng đầu tư, phát triển sản xuất, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho
người lao động từ đó góp phần giải quyết nạn thất nghiệp trong
nước.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ để nhà nước thực hiện
chính sách phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại đối với các
nước. Chẳng hạn Mỹ đòi EU phải giảm từ 30 - 50% trợ cấp cho
nông nghiệp, nếu không Mỹ sẽ tăng mức thuế đánh vào hàng hoá
nông sản của EU nhập khẩu vào thị trường Mỹ.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu góp phần mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngọai giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế
giới.
Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu là công cụ quan trọng để Nhà
nước thực hiện chức năng quản lý và nâng cao hiệu qủa hoạt động
xuất nhập khẩu trong cả nước.
3. Mã số thuế:
Danh mục mặt hàng chịu thuế cuả biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế
nhập khẩu hiện hành, về cơ bản được xây dựng dựa trên cơ sở bảng
danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu cuả Hội đồng hợp tác hải quan
thế giới (Hamorid System), đồng thời có biến đổi một số phần cụ thể cho
phù hợp với hoạt động xuất, nhập khẩu cuả Việt Nam. Hàng hoá trong bảng
danh mục biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu hiện hành được chia
thành 21 phần, 97 chương ( trừ chương 77 được để trống để dự phòng).

Trong mỗi chương cuả biểu thuế chia ra các nhóm hàng (cấp độ 4 chử số),
trong mỗi nhóm hàng có thể phân chia thành các phân nhóm hàng ( cấp độ 6
chử số), và trong mỗi phân nhóm hàng có thể phân chia thành các mặt hàng (
cấp độ 8 chử số) .Tuỳ theo đặc điểm, tính chất cấu tạo cuả từng chương,
nhóm, phân nhóm và mặt hàng mà một chương có thể được chia thành một
hay nhiều nhóm hàng, một nhóm hàng có thể không chia hoặc được chia
thành nhiều phân nhóm hàng, một phân nhóm hàng có thể không chia hoặc
chia thành nhiều mặt hàng khác nhau.
Ðể thuận tiện trong việc tra cứu biểu thuế và làm thủ tục hải quan đối với
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, về cơ bản tất cả các nhóm hàng, phân nhóm
hàng, mặt hàng đều được mã hoá theo số thứ tự cuả mặt hàng đó trong
chương, nhóm và phân nhóm. Trong đó:
Mỗi nhóm hàng trong chương được xác định bằng 4 chử số. Ví dụ
nhóm trâu, bò sống được mã hoá bằng mã hiệu 0102, trong đó 2
chử số đầu (01) là mã hiệu cuả chương (chương 1), hai chử số sau
(02) là mã hiệu xác định vị trí cuả nhóm đó trong chương (nhóm
thứ 2 cuả chương).
Mỗi phân nhóm hàng trong nhóm được xác định bằng 6 chử số. Có
hai cách phân loại và mã hiệu cho các phân nhóm hàng, gọi l;à
phân nhóm cấp 1 và phân nhóm cấp 2.
Một số nhóm hàng không được phân chia thành nhiều phân nhóm
hàng khác nhau thì sẽ được thêm hai chử số 00 vào sau cùng.
Một số phân nhóm hàng trong biểu thuế được phân chia tiếp thành
nhiều mặt hàng khác nhau. Mỗi mặt hàng trong phân nhóm được
xác định bằng 8 chử số.
Tuy nhiên cũng có một số trường hợp các phân nhóm hàng được
phân chia tiếp thành nhiều mặt hàng khác nhau nhưng không xác
định mã số cho chúng.
Theo cách sắp xếp danh mục và mã số cuả nhóm hàng, phân nhóm hàng,
mặt hàng nói trên thì biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành được
phân thành 3 cột, trong đó:
Cột thứ nhất là cột mã số của nhóm hàng, phân nhóm hàng và mặt
hàng.
Cột thứ hai là cột mô tả tên nhóm hàng, phân nhóm hàng và mặt
hàng.

