
Hình ảnh cây bần trong ca dao

Ca dao Nam bộ là một bộ phận có ý nghĩa quan trọng trong ca dao người Việt nói
riêng và Văn học dân gian nói chung. Ca dao thấm nhuần trong tâm hồn con người
bằng cái tình quê dung dị, hiền hòa. Với ngôn ngữ dân gian của xứ sở “muỗi kêu
như sáo thổi, đĩa lềnh tựa bánh canh”, người dân Nam bộ đã góp nhặt những tiếng
nói ân tình cho tâm hồn người Việt bằng những hình ảnh quen thuộc mang tính
biểu trưng của vùng sông nước Cửu Long.
N
ổi bật ở vùng đồng bằng châu thổ Cửu Long là sự có mặt của hình ảnh cây bần,
một loại cây rất gần gũi với bà con Nam bộ. Cây bần là loại cây đặc thù ở vùng đất
bồi lắng phù sa này. Cây bần còn gọi là cây thủy liễu, thường mọc ven các kênh
rạch hay xen lẫn trong những đám lá dừa nước. Là loại cây sống trong môi trường
bùn nước, bần có rễ phụ mọc nhô lên khỏi mặt bùn. Cây bần có chức năng giữ đất
rất tốt, gỗ chủ yếu dùng làm chất đốt. Hoa bần màu trắng pha chút hồng phấn, rất
đẹp, cho trái. Trái bần có vị chua của phần thịt, chát của phần hạt rất thú vị. Đây
cũng là món ăn “độc quyền” của bà con Nam bộ:
Muốn ăn mắm sặc bần chua
Chờ mùa nước nổi ăn cho đã thèm
Bà con Nam bộ đã dành cho cây bần một tâm tình ưu ái. Trong các câu ca dao, họ
mượn hình ảnh cây bần để thổ lộ tấm lòng của mình với nhiều cung bậc cảm xúc

khác nhau, từ đó tạo nên nhận thức thẩm mỹ khá mới lạ về loài cây này.
Xuất phát từ cái tên nghe quá đói khổ- “bần” mà người Nam bộ đã đặt câu đố về
nó:
Giống chi toàn là giống đực
Thiếu tứ bề cam cực chung thân ?
Từ kiếp bình sinh “thiếu tứ bề” ấy mà tác giả bình dân đã mượn trái bần để nói lên
số phận hẩm hiu của người phụ nữ:
Thân em như trái bần trôi
Sóng dập gió dồi biết tắp vào đâu?
Hình ảnh “sóng dập gió dồi” thật hay vì cây bần cho trái chín vào mùa nước nổi.
Vì vậy nước tràn ngập lung bàu làm cho trái bần trôi dạt theo dòng nước m
à không
biết sẽ về đâu.
Là thế đấy, cây bần mang số kiếp thật hẩm hiu, bị phũ phàng:
Cây bần kia hỡi cây bần
Lá xanh bông trắng lại gần không thơm
Nhi
ều lúc cây bần trở nên mạt hạn, tầm thường trong thể hiện của người bình dân:

Cảm thương ô dước, bời lời
Cha sao mẹ sến, dựa nơi gốc bần
Cây bần còn là cái để người ta so sánh sự sang hèn:
Không thương em hổng có cần
Trầm hương khó kiếm chớ đước bần thiếu chi
Tuy nhiên, người Nam bộ không chỉ nhìn cây bần dưới con mắt bi quan như thế.
Bằng cái nhìn hào sảng và lối sống phóng khoáng, lạc quan, cây bần còn là điểm
tựa cho tình yêu đôi lứa:
Làm thơ anh dán đọt bần
Dán cho hai họ Nguyễn Trần gặp nhau
Hy vọng để rồi khi tình duyên bị ngăn trở, bần lại là nơi cha mẹ phạt vạ con cái:
Phụ mẫu đánh anh quặt quà quặt quại,
Đem anh treo tại nhánh bần.
Rũi đứt dây mà rớt xuống,
Anh cũng lần mò kiếm em.
Cái tình của người dân Nam bộ là thế, yêu “xả láng”, đánh chết cũng thương. Cây

bần còn là biểu vật của sự nhớ thương, là mật hiệu của tình yêu:
Chiều chiều xuống bến ba lần
Trông em không thấy thấy bần xơ rơ
Hay
Lẻ đôi em chịu lẻ đôi
Hoa tàn em cũng đợi, bần trôi em cũng chờ
Nhưng nhi
ều lúc những cô Hai, anh Sáu lại nghi ngại, đặt vấn đề về chuyện cưới
xin:
Neo ghe vô dựa gốc bần
Em thương anh nói vậy chớ biết mình đặng gần hay không
Hay khi đã không thành duyên nợ thì:
Bần gie, bần liệt, diệc đau chờ mồi
Anh với em duyên nợ hết rồi
Đi tìm chỗ khác đừng ngồi kế em
Không chỉ vu vơ trách móc thế thôi, với cách nói như tát nước, người Nam bộ
cũng mắng nhiếc:

