
Hình thức của hợp đồng kinh doanh - yếu
tố không nên xem nhẹ!
Bill Gates, trong một lần phỏng vấn các ứng viên thi tuyển vào Microsoft,
đã đặt câu hỏi: “Theo các bạn, đâu là yếu tố duy trì sự ổn định và thành công của
các hoạt động kinh doanh ngày nay?”. Một ứng viên đã trả lời: “Đó là tính chặt
chẽ của hợp đồng”. Nhiều người khi đó đã nghi ngờ sự nghiêm túc trong câu trả
lời của ứng viên này, chỉ duy nhất Bill Gates là không nghĩ như vậy. Ông đã cho
ứng viên này điểm tối đa.
Trên thương trường, bất kể hoạt động kinh doanh nào của bạn với đối tác
bên ngoài cũng đều được thể hiện thông qua hợp đồng. Đây chính là ràng buộc
pháp lý về nghĩa vụ của các bên trong kinh doanh. Khá nhiều các tranh chấp kinh
doanh ngày nay đều xuất phát từ những bất cập của hợp đồng. Nhiều công ty, tập
đoàn lớn trên toàn thế giới đã tổ chức bộ phận pháp lý riêng để xem xét, đánh giá
và tư vấn cho mình trước khi ký kết các hợp đồng. Nhiều chuyên gia kinh tế từng

đặt câu hỏi: Đâu là yếu tố quan trọng nhất của một thương vụ làm ăn? Phần lớn
câu trả lời nhận được là: tính chặt chẽ và hình thức của hợp đồng.
Tại Ford, một trong những hãng sản xuất xe hơi lớn nhất thế giới, bên cạnh
hàng nghìn các hợp đồng mua bán xe hơi mỗi ngày, hãng còn tham gia vào rất
nhiều giao dịch kinh doanh khác như đầu tư, phân phối, mua nguyên vật liệu…
John Mene, cố vấn pháp luật của Ford, cho biết: “Trung bình mỗi ngày, các giám
đốc, trưởng phòng ban của hãng chúng tôi phải ký kết gần 3000 hợp đồng khác
nhau. Và chỉ cần một hợp đồng có sai sót thôi cũng đủ để chúng tôi mất đi hàng
triệu USD. Do vậy, quá trình soạn thảo và ký kết hợp đồng luôn được thực hiện rất
chặt chẽ, có nhiều chữ ký của các nhân viên tham gia vào việc soạn thảo hợp
đồng”.
Hợp đồng kinh doanh, dù được soạn thảo bằng văn bản hay chỉ là những
thỏa thuận bằng lời, đều đóng vai trò là “hòn đá tảng” cho các hoạt động đầu tư và
phần lớn các hoạt động kinh doanh khác của công ty. Mỗi hợp đồng sẽ là cơ sở tạo
thành các yếu tố liên quan, từ đó thiết lập các quan hệ kinh doanh giữa các đối tác
như nhân lực, khách hàng, nhà thầu, chi phí, quyền lợi và trách nhiệm…Xây dựng
được mẫu hợp đồng chuẩn sẽ giúp công ty tập trung quản lý vào các vấn đề thiết
yếu. Muốn vậy, trước tiên, các công ty phải xác định rõ mối quan hệ làm ăn, sau
đó là xác định những điều khoản và nội dung thiết yếu của mối quan hệ kinh
doanh đó, chẳng hạn như quyền và trách nhiệm của các bên, bồi thường như thế
nào khi có thiệt hại xảy ra… Những bản dự thảo hợp đồng tạm trong quá trình lên
kế hoạch kinh doanh sẽ đảm bảo cho công ty sớm nhận diện và xử lý kịp thời các
vấn đề thiết yếu có thể bị bỏ qua.
Thực tế cho thấy đã có nhiều trường hợp các bên giao kết hợp đồng với
nhau và tiến hành các hoạt động kinh doanh, nhưng rồi khi một tranh chấp nhỏ xảy
ra, một trong hai bên đối tác lại lợi dụng sự thiếu chặt chẽ trong hợp đồng để thu
lợi riêng cho mình. Chẳng hạn, nếu đối tác ký kết hợp đồng với bạn chưa có giấy

phép đăng ký kinh doanh và quá trình thực hiện hợp đồng kinh doanh có phát sinh
tranh chấp, mà đến trước thời điểm phát sinh tranh chấp họ vẫn chưa hoàn tất thủ
tục pháp lý đó để thực hiện phần việc đã thoả thuận trong hợp đồng, thì hợp đồng
kinh doanh này bị coi là vô hiệu toàn bộ. Lúc này, người thiệt hại sẽ là bạn bởi bạn
là người kinh doanh hợp pháp, nhưng trong trường hợp này bạn sẽ không có căn
cứ để yêu cầu bên đối tác kinh doanh thực hiện các nghĩa vụ đã ký kết.
Tự do thoả thuận là một trong những nguyên tắc quan trọng trong giao kết
hợp đồng kinh doanh. Điều này có nghĩa là các bên được phép lựa chọn hình thức
thích hợp khi ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, để bảo đảm an toàn pháp luật trong các
giao dịch hợp đồng giữa các bên, cũng như để bảo vệ trật tự pháp luật và lợi ích
kinh doanh đối với một số loại hợp đồng pháp luật đòi hỏi người chịu trách nhiệm
ở công ty giao kết hợp đồng phải tuân theo những hình thức nhất định, ngược lại,
hợp đồng đó sẽ không có hiệu lực. Vì thế, yếu tố hình thức hợp đồng kinh doanh
và ảnh hưởng của nó đến hiệu lực của hợp đồng sẽ rất quan trọng trong các hoạt
động kinh doanh.
Hình thức của hợp đồng là cách thức thể hiện ý chí ra bên ngoài dưới hình
thức nhất định của các chủ thể hợp đồng. Thông qua cách thức biểu hiện này,
người ta có thể biết được nội dung của giao dịch kinh doanh đã xác lập. Hình thức
của hợp đồng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng, bởi đó là chứng cứ xác
nhận các quan hệ kinh doanh đã và đang tồn tại giữa các bên, từ đó xác định trách
nhiệm khi có vi phạm xảy ra. Hình thức của hợp đồng có thể là lời nói, văn bản
hoặc các hành vi cụ thể. Trong trường hợp pháp luật có quy định giao dịch kinh
doanh phải được thể hiện bằng hình thức văn bản hoặc phải được công chứng,
chứng thực, đăng ký hay xin phép thì các bên phải tuân thủ quy định về hình thức
khi ký kết hợp đồng.

Có thể nói, hình thức hợp đồng được hiểu là sự thể hiện nội dung của hợp
đồng và những thủ tục mà pháp luật quy định bắt buộc các bên giao kết hợp đồng
phải tuân thủ khi ký kết một số loại hợp đồng nhất định.
Việc đưa ra hình thức bắt buộc đối với một số loại giao dịch là nhằm mục
đích lưu ý các bên cần thận trọng hơn khi giao kết kinh doanh và nhằm đảm bảo
tính rõ ràng của việc tồn tại các giao dịch kinh doanh, quyền và nghĩa vụ cũng như
đặc điểm của quan hệ pháp luật kinh doanh.
Một trong các vấn đề mà các chuyên gia về pháp luật kinh doanh quan tâm
là hình thức hợp đồng có ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng như thế nào. Về
vấn đề này, pháp luật của các nước có những quan điểm và cách tiếp cận khác
nhau.
Ở nhiều nước trên thế giới, pháp luật có những điều khoản cụ thể đối với
một số hợp đồng, bắt buộc từng loại phải được thể hiện bằng hình thức nhất định,
nếu vi phạm quy định này, hợp đồng đã ký kết sẽ không có giá trị pháp lý. Vi
phạm các quy định bắt buộc về hình thức sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến pháp luật và
trật tự công. Vì vậy, chừng nào sự thống nhất của các bên chưa được thể hiện bằng
những hình thức nhất định theo đòi hỏi của pháp luật thì chừng đó chưa có hợp
đồng. Pháp luật một số nước coi sự vi phạm về hình thức là vi phạm lợi ích công
cộng nên hợp đồng vô hiệu tuyệt đối. Ví dụ, pháp luật của Đức đã đưa ra các đòi
hỏi đầu tiên là phải tuân thủ nghiêm ngặt điều kiện về hình thức để nhằm bảo vệ
những người không có kinh nghiệm đối mặt với những tình huống bất ngờ, cũng
như để hạn chế phương pháp chứng cứ. Tuy nhiên, việc pháp luật quy định hợp
đồng phải được thiết lập bởi những hình thức nhất định sẽ vô tình tạo nên khoảng
cách nhất định giữa sự thỏa thuận mong muốn của các bên với hiệu lực của hợp
đồng. Hay ở một số nước theo hệ thống luật Anh - Mỹ (common law), người ta
quan niệm hình thức văn bản là bắt buộc đối với các hợp đồng có giá trị. Đơn cử
Anh và Úc, hợp đồng bắt buộc phải được lập thành văn bản khi giá trị của nó lớn

hơn 10 bảng Anh. Quy định này xuất phát từ hệ thống luật án lệ coi các văn bản
hợp đồng có giá trị bắt buộc và có tính chất như luật đối với các bên và đó chính là
căn cứ cơ bản để cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết tranh chấp. Nhờ đó,
hợp đồng ở các nước này được soạn thảo rất chặt chẽ.
Một số nước theo hệ thống luật lục địa (continental law) như Pháp, Thụy
Sỹ... thì coi tự do ký kết hợp đồng là nguyên tắc cơ bản. Ở các nước này, sự thoả
thuận thể hiện ý chí chung của các bên đã là điều kiện đủ để hình thành nên hợp
đồng, cho dù chúng được thể hiện dưới bất cứ hình thức nào. Nguyên tắc này coi
trọng “chữ tín”, nghĩa là khi đã cam kết điều gì thì các bên phải tự giác thực hiện.
Thực tế này đã giúp loại bỏ các trường hợp hợp đồng bị vô hiệu vì có vi phạm về
hình thức.
Có lẽ do không coi hình thức là điều kiện xác định tính hợp pháp của hợp
đồng mà luật của nước Pháp có sự phân biệt giữa giao dịch kinh doanh không có
hiệu lực với giao dịch kinh doanh do không tuân thủ theo thủ tục nhất định (mà
trên thực tế dù hợp đồng có hiệu lực song lại không thể chứng minh được, hoặc
không đủ chứng cứ để chứng minh trước toà án về sự tồn tại của hợp đồng khi có
tranh chấp). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa giao dịch kinh doanh không có hiệu lực
và giao dịch kinh doanh có hiệu lực nhưng không thể chứng minh được trên thực
tế là không lớn, bởi nếu giao dịch có hiệu lực nhưng không thể chứng minh được
một cách dễ dàng thì rất khó khăn để xác định sự tồn tại của nó, mà chỉ có thể
được xác định khi có sự thừa nhận của các chủ công ty mà thôi. Vì vậy, để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các chủ công ty Pháp thường ký kết hợp đồng
bằng văn bản cho dù pháp luật có đòi hỏi hay không.
Hệ thống pháp luật của Đức lại hoàn toàn khác. Mặc dù, hình thức của giao
dịch kinh doanh không có chức năng chứng cứ, nhưng vi phạm điều kiện về hình
thức sẽ đưa đến sự vô hiệu của hợp đồng. Sự giải thích duy nhất đối với việc trói
buộc một chế tài mạnh như vậy là do nhà làm luật quan tâm tới việc bảo vệ các