
Khả năng của truyện ngắn trong
việc thể hiện con người

Truyện ngắn có nhiều khả năng trong việc thể hiện quan niệm về con
người. Do dung lượng nhỏ, nắm bắt những nét bản chất nhất của cuộc
sống,... truyện ngắn có khả năng chuyển tải những vấn đề của thời đại,
con người, một cách chính xác nhạy bén. Cũng chính điều này đã khiến
truyện ngắn trở thành thể loại cho phép nhà văn thử nghiệm và triển khai
những khía cạnh mới mẻ, linh hoạt trong quan niệm nghệ thuật về con
người.
Những day dứt của kiếp người nhiều khi lại thể hiện trong một anh
kéo xe, trong một con điếm muốn tìm một khách làng chơi trong những
phút giây cuối cùng của một năm (Ngựa người, người ngựa - Nguyễn
Công Hoan); những ám ảnh về cuộc sống tù đọng nhiều khi không phải
chỉ thể hiện ở những trí thức, mà nó trở thành nhức nhối trong những
kiếp người bé nhỏ (Hai đứa trẻ - Thạch Lam)... Truyện ngắn đề cập đến
nhiều loại người trong xã hội, gắn với mỗi loại người ấy là một vấn đề cần
trăn trở, cần lưu tâm của cuộc sống nhân sinh. Anh trí thức có những vấn
đề của anh trí thức; người nông dân có những vấn đề của người nông
dân, kẻ lang thang có những vấn đề của kẻ lang thang... Truyện ngắn
thường chớp lấy những khoảnh khắc của kiếp người, lại có thể chú trọng
đến nhiều loại người, cho nên, những vấn đề thời sự, nổi cộm nhất của
cuộc sống được nó nắm bắt một cách nhanh chóng, nhạy bén. Sự nhanh
chóng nhạy bén này không chỉ thể hiện ở việc nắm bắt vấn đề, mà chỉ tính
riêng đến thời gian để ra đời một truyện ngắn cũng có thể nói lên điều đó.
Nhà tiểu thuyết phát hiện ra một vấn đề, nhưng để viết được một tiểu
thuyết có dung lượng vừa phải, ít nhất nghệ sĩ phải mất một năm. Những
vấn đề nóng hổi của thời đại, những cách nhìn nhận mới về con người loé
lên trong đầu nhà văn, có thể nói, thời gian để quan niệm ấy hoá thân
thành thế giới nghệ thuật sẽ không cần nhiều như tiểu thuyết. Đây là một
đặc điểm gắn liền với báo chí của thể loại cỡ nhỏ này. Cùng thể hiện quan

niệm con người khó mà hoà hợp được khi bước từ thời chiến vào thời
bình, Bảo Ninh đã sử dụng đến dung lượng hàng trăm trang trong tiểu
thuyết Thân phận tình yêu, còn Nguyễn Huy Thiệp chỉ cần dùng một
truyện ngắn với dung lượng vài chục trang mà cũng không kém phần ấn
tượng (Tướng về hưu)...
Truyện ngắn không chỉ nắm bắt một cách nhanh nhạy, mà còn thể
hiện một cách ấn tượng và linh hoạt những khía cạnh trong quan niệm
nghệ thuật về con người. Không phải là trong tiểu thuyết không xuất hiện
những kiểu người như trong truyện ngắn, chỉ có điều những nhân vật đó
xuất hiện với tư cách nhân vật phụ nên thường không gây được sự chú ý
của người đọc, nhà văn không tập trung làm sáng tỏ những quan niệm mà
loại nhân vật này có khả năng thể hiện. Những nhân vật phụ trong tiểu
thuyết trở nên ấn tượng hơn, những quan niệm về con người được thể
hiện trong những nhân vật đó trở nên sắc nét hơn khi đi vào truyện ngắn,
bởi vì trong truyện ngắn, những nhân vật đó trở thành nhân vật chính, mọi
chi tiết, sự kiện, ngôn từ chỉ tập trung làm sáng tỏ nhân vật đó, con người
đó.
Truyện ngắn không chỉ tạo điều kiện cho nhà văn thể nghiệm và triển
khai những khía cạnh mới mẻ, linh hoạt trong quan niệm nghệ thuật về
con người mà còn tạo điều kiện khai thác khả năng đồng sáng tạo của độc
giả. Đặt con người vào trong "tổng hoà các mối quan hệ xã hội", bên cạnh
ý thức, nhân vật còn hiện diện cả phần nội tâm, tiềm thức và vô thức, các
tác giả truyện ngắn đã khêu gợi ở người đọc cách lý giải, nhìn nhận con
người. Truyện ngắn thường nêu ra các vấn đề của nhân sinh để người
đọc tự suy ngẫm, lí giải theo quan niệm của riêng mình. Phương thức tồn
tại đầy đủ nhất của tác phẩm văn học chính là tồn tại trong chủ quan tác
giả, trong văn bản và trong sự tiếp nhận của độc giả. Khai thác sự đồng

sáng tạo từ phía người tiếp nhận không chỉ tạo nên tính dân chủ trong
tiếp nhận mà còn tăng sức nặng của những vấn đề được đặt ra. Những
vấn đề nhà văn chỉ nêu lên sẽ lớn dần trong sự tiếp nhận. Người đọc
không đơn giản là người tiếp nhận một cách thụ động mà còn là người
tích cực chủ động tham gia cùng nhà văn vào việc nhìn nhận về con
người, bổ sung những quan niệm của mình. Chính vì thế hình tượng nghệ
thuật nói chung và quan niệm nghệ thuật về con người nói riêng trong
truyện ngắn trở nên phong phú và sâu sắc hơn. Vấn đề đặt ra đối với sáng
tác văn học nói chung không đơn giản là chuyện nhà văn viết cái gì, mà là
chuyện nhà văn đã gợi lên được điều gì trong lòng độc giả sau khi đọc
xong truyện đó. Truyện ngắn đã làm được điều này nhờ sức gợi của mình.
Để tạo nên sức gợi, bên cạnh việc lựa chọn cách trần thuật, tác giả truyện
ngắn cũng rất chú trọng đến lựa chọn những sự kiện, chi tiết thể hiện các
khả năng có thể có của cuộc đời con người. Những số phận, những con
người, những sự kiện phức tạp tự nó đã cho phép nhiều cách hiểu khác
nhau. Truyện ngắn thường sử dụng cách trần thuật đầy ẩn ý, thường sử
dụng các biểu tượng đa nghĩa. Chính điều này đã tạo nên tính hàm súc, cô
đọng, chất thơ của thể loại, đồng thời phát huy khả năng đồng sáng tạo
của độc giả trong việc đưa ra những quan niệm về con người, về cuộc
sống nhân sinh. Người đọc sẽ luôn trăn trở về cách nhìn nhận con người
cùng Nam Cao khi đọc Lão Hạc, Chí Phèo, Tư cách mõ...; sẽ luôn bị ám
ảnh, và cùng Nguyễn Huy Thiệp suy nghĩ về con người khi đọc những
truyện ngắn của ông như: Sang sông, Tướng về hưu, Không có vua...
Nếu đem so sánh một tác phẩm với một tác phẩm thì rõ ràng, khả
năng phản ánh hiện thực đời sống, khả năng thể hiện quan niệm nghệ
thuật về con người của truyện ngắn không thể bằng tiểu thuyết. Nhưng
xét trên phương diện thể loại (bao gồm nhiều tác phẩm) thì truyện ngắn
không hề thua kém tiểu thuyết trong lĩnh vực này. Như ta biết, mỗi truyện
ngắn thường chỉ thể hiện một quan niệm nghệ thuật về con người; chẳng

hạn, truyện Sang sông của Nguyễn Huy Thiệp yêu cầu chúng ta phải có
cái nhìn khác về con người hiện nay, nhiều khi phải "đập tan bình cổ" để
tiến đến một tương lai tươi sáng hơn, truyện Bức tranh của Nguyễn Minh
Châu lại cho thấy bên trong con người luôn có cả rắn rết lẫn rồng
phượng; truyện Đường Tăng của Hoà Vang quan niệm rằng, được làm
người là ước mơ cao nhất của muôn loài, hạnh phúc của con người nơi
trần thế mới là hạnh phúc đích thực; truyện Biến dạng (Hoá thân) của F.
Kafka lại cho thấy sự bất lực của con người trong cuộc sống hiện tại...
Như vậy, nhiều tác phẩm gộp lại, ta lại thấy truyện ngắn có khả năng thể
hiện một cách khá toàn diện những cách nhìn nhận về con người. Cho
nên, xét trên bình diện thể loại, khả năng thể hiện phong phú, đa dạng
quan niệm nghệ thuật về con người của truyện ngắn là một thực tế.
Cũng cần phải khẳng định rằng, truyện ngắn tạo thuận lợi cho việc
đưa ra những quan niệm nghệ thuật có tầm khái quát cao. Sở dĩ như vậy
vì truyện ngắn thường "chớp lấy cái thần thái" của nhân vật. ẩn sau mỗi
sự kiện, chi tiết, nhân vật của truyện ngắn, bao giờ cũng là những ý tưởng
hết sức sâu sắc. Người đọc có cảm giác như người viết truyện ngắn có
sẵn trong đầu những quan niệm (tất nhiên, những quan niệm này cũng
được rút ra từ sự quan sát thực tế), rồi tìm những cảnh đời phù hợp với
quan niệm ấy. Đọc truyện ngắn, người đọc phải đi ngược lại tiến trình
sáng tạo để tìm đến những quan niệm sâu sắc được nhà văn gửi gắm kín
đáo. Nhiều triết lí được đưa ra trong truyện ngắn (nhất là truyện rất ngắn),
ta có cảm giác như nó gần gũi với những bài học được rút ra từ truyện
ngụ ngôn. Chẳng hạn truyện Bé yêu của L. Corxinxki (Nga), truyện Lời nói
tình yêu của B. Laxkin, Sự biến hoá kì diệu của R. Kazkova... Nhà văn càng
ít miêu tả, thuyết minh cụ thể, chi tiết, thì sức khái quát càng cao. ở một
mức độ nào đó, truyện ngắn gần với thơ trữ tình. Đó chính là tính cô đúc,
hàm súc, nói ít gợi nhiều. Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ
và truyện ngắn đều đạt tính khái quát xã hội cao nhưng truyện ngắn và

